ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN ANH MINH
LUẬT SƯ VÀ TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2010
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN ANH MINH
LUẬT SƯ VÀ TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số : 60 38 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Văn Huyên
HÀ NỘI - 2010
Mục lục
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
Danh mục các biểu đò
Mở đầu
1
Chương 1: Những vấn đề chung về luật sư và tổ chức hành nghề luật sư
6
1.1.
Luật sư và hoạt động hành nghề luật sư
6
1.1.1.
Khái niệm về luật sư
6
1.1.2.
Hoạt động hành nghề của luật sư
14
1.2.
Hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư
17
1.2.1.
Hình thức của tổ chức hành nghề luật sư
17
1.2.2.
Hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư
20
Chương 2: quy định của pháp luật hiện hành về luật sư, tổ chức hành
nghề luật sư và thực trạng
23
2.1.
Quy định của pháp luật về luật sư
23
2.2.
Thực trạng về đội ngũ luật sư
27
2.3.
Quy định của pháp luật về tổ chức hành nghề luật sư
40
2.4.
Thực trạng về tổ chức hành nghề luật sư
45
2.5.
Quy định của pháp luật về quản lý luật sư, tổ chức hành nghề
luật sư
50
2.5.1.
Quản lý nhà nước
50
2.5.2.
Quản lý của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư
52
2.6.
Thực trạng về quản lý luật sư, tổ chức hành nghề luật sư
58
2.6.1.
Quản lý nhà nước
58
2.6.2.
Công tác quản lý của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư
62
2.7.
Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập
65
2.7.1.
Công tác đào tạo đội ngũ luật sư
65
2.7.2.
Quy định của pháp luật hiện hành về luật sư, tổ chức hành
nghề luật sư còn nhiều bất cập
67
2.7.3.
Cơ quan quản lý nhà nước và tổ chức xã hội nghề nghiệp của
luật sư quản lý chưa chặt chẽ
68
2.7.4.
Việc tuân thủ đạo đức nghề nghiệp và kỷ luật hành nghề của
luật sư chưa nghiêm
69
2.7.5.
Nguyên nhân khác
70
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng luật
sư và tổ chức hành nghề luật sư
72
3.1.
Phương hướng nâng cao chất lượng đội ngũ luật sư và tổ chức
hành nghề luật sư tại địa phương
72
3.2.
Các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ luật sư và tổ
chức hành nghề luật sư tại địa phương
73
Kết luận
85
Danh mục tài liệu tham khảo
88
Danh mục các bảng
Số hiệu
bảng
Tên bảng
Trang
2.1
Sự phát triển của luật sư qua các năm
28
Danh mục các biểu đồ
Số hiệu
biểu đồ
Tên biểu đồ
Trang
2.1
Sự phân bổ luật sư trên các vùng miền
29
2.2
Trình độ của đội ngũ luật sư
30
2.3
Kinh nghiệm nghề nghiệp của luật sư
31
2.4
Việc tuân theo quy tắc đạo đức nghề nghiệp luật sư
39
2.5
Tỷ lệ phân bổ các tổ chức hành nghề luật sư ở các vùng
miền
46
2.6
Quy mô của tổ chức hành nghề luật sư
48
1
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thể chế hóa Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02-01-2002 của Bộ Chính
trị "về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới"; Nghị
quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách
tư pháp đến năm 2020, trong đó nêu rõ:
Đào tạo, phát triển đội ngũ luật sư đủ về số lượng, có phẩm
chất chính trị, đạo đức, có trình độ chuyên môn. Hoàn thiện cơ chế
bảo đảm để luật sư thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên tòa, đồng
thời xác định rõ chế độ trách nhiệm đối với luật sư. Nhà nước tạo
điều kiện về pháp lý để phát huy chế độ tự quản của tổ chức luật sư;
đề cao trách nhiệm của các tổ chức luật sư đối với thành viên của
mình [22].
Với mục đích phát triển đội ngũ luật sư đủ về số lượng, giỏi về
chuyên môn, nghiệp vụ, vững vàng về bản lĩnh chính trị, trong sáng về đạo
đức nghề nghiệp, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội đối với chất
lượng dịch vụ pháp lý và hội nhập kinh tế quốc tế; kế thừa những quy định
của Pháp lệnh Luật sư năm 2001, đồng thời khắc phục những hạn chế, bất cập
trong tổ chức và hoạt động của luật sư, Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 9 thông
qua Luật Luật sư ngày 29 tháng 6 năm 2006, có hiệu lực thi hành từ ngày 01
tháng 01 năm 2007.
Sau hơn ba năm thi hành luật sư và các văn bản hướng dẫn không những
đáp ứng kịp thời nhu cầu giúp đỡ pháp lý ngày càng cao của cá nhân, tổ chức,
góp phần quan trọng trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị can, bị
cáo và các đương sự khác, phục vụ tích cực cho công cuộc cải cách tư pháp,
mà còn góp phần tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi và tin cậy cho các hoạt
động đầu tư, kinh doanh, thương mại trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
2
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, cũng phải thấy rằng
nhận thức về vị trí, vai trò của luật sư chưa thống nhất, hiệu quả hoạt động
của tổ chức hành nghề luật sư chưa cao; chất lượng đội ngũ luật sư chưa đáp
ứng yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế quốc tế; đạo đức nghề
nghiệp và kỷ luật hành nghề luật sư vẫn chưa được nhận thức đầy đủ, chưa
trở thành ý thức tự giác đối với mỗi cá nhân luật sư trong hành nghề và trong
cuộc sống
Mặc dù đã có một số bài viết và công trình nghiên cứu về luật sư nhưng
các bài viết, công trình nghiên cứu chủ yếu bàn về địa vị pháp lý của người
bào chữa, người bảo vệ quyền lợi cho đương sự… chưa có công trình nào đi sâu
nghiên cứu về hoạt động hành nghề của luật sư và tổ chức hành nghề luật sư.
Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu một cách toàn diện về lý luận cũng
như thực tiễn tổ chức và hoạt động của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư hiện
nay trong bối cảnh nước ta đang xây dựng nhà nước pháp quyền, phát triển
nền kinh tế thị trường ngày một hội nhập sâu, rộng trên thế giới, có ý nghĩa cả
về lý luận và thực tiễn, nên tác giả chọn đề tài: "Luật sư và tổ chức hành nghề
luật sư ở Việt Nam hiện nay" làm đề tài của luận văn cao học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm qua, có ít đề tài, sách chuyên khảo, bài viết trên tạp
chí và các cuộc hội thảo khoa học về đội ngũ luật sư và pháp luật luật sư, chủ
yếu chỉ tập trung vào tác giả Phan Trung Hoài, cụ thể: Luận án Tiến sĩ của
Luật sư Phan Trung Hoài: "Cơ sở lý luận của việc hoàn thiện pháp luật về
luật sư ở Việt Nam hiện nay"; cuốn sách: "Hoàn thiện pháp luật về Luật sư ở
Việt Nam"; Nguyễn Văn Bốn: "Một số vấn đề về quản lý luật sư theo Luật
Luật sư", Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 10, 2006 Tuy nhiên, việc nghiên
cứu chuyên sâu về tổ chức và hoạt động của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư
trong thực tiễn theo quy định của pháp luật hiện hành chưa có một công trình
nghiên cứu nào mang tính hệ thống và toàn diện về vấn đề này.
3
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề thực
tiễn của việc thi hành luật luật sư, các văn bản hướng dẫn thi hành; trên cơ sở
đó đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật vê luật sư,
nâng cao chất lượng của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư cũng như nâng cao
hiệu quả quản lý nhà nước về luật sư và tổ chức hành nghề luật sư.
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về luật sư và các văn bản hướng
dẫn thi hành.
- Nghiên cứu thực trạng về luật sư và tổ chức hành nghề luật sư qua
đó đánh giá các mặt đạt và chưa đạt.
- Đưa ra giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về luật sư, tổ chức
hành nghề luật sư trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là khái niệm luật sư, hoạt động hành
nghề của luật sư, hình thức tổ chức và hoạt động của tổ chức hành nghề luật
sư theo các văn bản pháp luật hiện hành, luận văn không nghiên cứu địa vị
pháp lý của luật sư; tư cách tố tụng của luật sư…
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là Luật Luật sư, các văn bản pháp
luật về luật sư, thực tiễn hoạt động của đội ngũ luật sư và các tổ chức hành
nghề luật sư ở trong nước.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luật của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật trong việc nghiên cứu và một số
phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp phân tích nhằm làm rõ những vấn đề lý luận và thực
tiễn về luật sư và hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư.
4
- Phương pháp so sánh để đối chiếu, so sánh với pháp luật của một số
nước trên thế giới nhằm tham khảo, tiếp thu kinh nghiệm.
- Phương pháp tổng hợp để tổng hợp các vấn đề đã được nghiên cứu
nhằm đưa ra những nhận định và kết luận.
- Phương pháp thống kê để thống kê các số liệu trong thực tiễn hoạt
động hành nghề của luật sư và tổ chức hành nghề luật sư làm cơ sở cho việc
đưa ra những nhận xét, kết luận và kiến nghị hoàn thiện các quy định về thể
chế luật sư và hoạt động hành nghề luật sư.
6. Điểm mới của luận văn
Việc nghiên cứu đề tài đạt được những điểm mới sau:
- Luận văn làm rõ cơ sở quy định về luật sư và tổ chức hành nghề luật sư.
- Trên cơ sở nghiên cứu của các quy định của pháp luật về luật sư,
luận văn làm rõ các quy định của Luật Luật sư, thực trạng công tác quản lý
luật sư, tổ chức hành nghề luật sư hiện nay, chỉ rõ các nguyên nhân của những
hạn chế, bất cập trong quá trình áp dụng.
- Luận văn đưa ra phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về
luật sư, phát triển đội ngũ luật sư, phát huy vai trò của các tổ chức xã hội, nghề
nghiệp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của luật sư và tổ chức hành nghề
luật sư.
7. ý nghĩa khoa học
- Luận văn là công trình khoa học nghiên cứu chuyên sâu về luật sư và
tổ chức hành nghề luật sư. Do đó, luận văn sẽ là tài liệu tham khảo cho các
nhà nghiên cứu, học viên, sinh viên.
- Luận văn đưa ra những đề xuất, kiến nghị để hoàn thiện hệ thống pháp
luật về luật sư. Do đó, luận văn sẽ là tài liệu tham khảo cho các nhà lập pháp.
5
- Với những kết quả và luận văn đưa ra, tác giả hy vọng góp một phần
nhỏ vào việc nâng cao chất lượng, hiệu quả về công tác tổ chức và hoạt động
của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về luật sư và tổ chức hành nghề luật sư.
Chương 2: quy định của pháp luật hiện hành về luật sư, tổ chức hành
nghề luật sư và thực trạng
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng luật
sư và tổ chức hành nghề luật sư.
6
Chương 1
Những vấn đề chung về luật sư
và tổ chức hành nghề luật sư
1.1. Luật sư và hoạt động hành nghề luật sư
1.1.1. Khái niệm về luật sư
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo đã có từ lâu. Theo nhận xét của
một số nhà cổ học thì quyền bào chữa xuất hiện sớm nhất ở Châu Âu cùng với
sự xuất hiện của Tòa án và người biện hộ xuất hiện cùng thẩm phán. Trong
nhà nước Hy Lạp cổ, lúc mà tổ chức Tòa án đã hình thành, nguyên cáo hoặc
bị cáo được nhờ người thân thuộc của mình bào chữa trước Tòa án. Vào giai
đoạn cuối cùng của nền cộng hòa thứ IV trước Công nguyên, chế độ bào chữa
đã bắt đầu phát triển, người đi kiện đã biết nhờ người thân mà mình tín nhiệm
bào chữa hộ mình. Việc bào chữa xuất phát tự nhiên nhằm minh oan cho bạn
bè hoặc người thân bị giai cấp thống trị bắt giam vô cớ và trừng phạt một cách
độc đoán. Nó xuất phát từ quyền lợi của nhân dân bị áp bức nên được nhân
dân đồng tình ủng hộ và dần dần thu hút nhiều người tham gia bào chữa trước
tòa [37, tr. 5-6].
Từ thế kỷ I trước Công Nguyên đến thế kỷ II sau Công nguyên, tại Hy
Lạp (Grèce) và La Mã (Rome) đã xuất hiện một loại hiệp sĩ đặc biệt. Loại
hiệp sĩ này không dùng khí giới hay bắp thịt (sức mạnh về thể lực) để chiến
thắng kẻ địch, mà chỉ dùng thiên tài ngôn ngữ và sự hiểu biết rộng rãi về cổ luật
để đứng ra bênh vực cho những kẻ nghèo, yếu thế, thấp cổ bé họng hoặc phụ nữ
bị ngược đãi trước các thế lực đương thời. Họ được gọi tên là "Advocatus"
(người biện hộ). Các hiệp sĩ này ngày càng đông và đến thế kỷ IV sau Công
nguyên, họ tập hợp tại Rome thành một đoàn thể được độc quyền biện hộ trước
Hoàng đế. Đến cuối thế kỷ VIII mới có danh xưng "Advocatus" cho 17 vị và
7
được vua công nhận có quyền biện hộ trước các tòa án. Định chế luật sư đã
trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm, khi thì phát triển rạng rỡ, khi bị tiêu diệt
rồi sinh thành [23, tr. 14].
Ngày nay, tất cả các nước trên thế giới đều có sự quan tâm đặc biệt
đến sự hình thành và phát triển của đội ngũ luật sư. Trên thế giới nhiều quốc
gia đã có đạo luật riêng điều chỉnh về tổ chức và hành nghề luật sư với tên gọi
gắn với thuật ngữ "luật sư" hoặc "hành nghề luật sư", ví dụ: Đạo luật về hành
nghề luật sư năm 1994 (sửa đổi) của Singapore; Đạo luật về luật sư (B.E
2528) năm 1995 của Thái Lan; Luật về luật sư năm 1996 của Công hòa nhân
dân Trung Hoa; Luật về hành nghề luật sư số 205 năm 1949 của Nhật Bản
(sửa đổi); Luật Hành nghề luật sư số 3594 năm 1982 của Hàn Quốc; Bộ luật
về hành nghề của Đoàn Luật sư Vương quốc Anh và xứ Wales; Luật về cải
cách hành nghề luật sư năm 1991 của Cộng hòa Pháp… Theo quy định của
pháp luật về luật sư của nhiều nước thì luật sư là người được một cơ quan, tổ
chức có thẩm quyền cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư hoặc công nhận tư cách
luật sư. Cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cấp chứng chỉ hành nghề luật sư
hoặc công nhận tư cách luật sư có thể là cơ quan tư pháp (Bộ Tư pháp, Sở Tư
pháp), Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án tiểu bang, Tòa án liên bang, Liên đoàn
Luật sư hoặc Hiệp hội luật sư. Luật sư ở Singapore, Pháp và Hoa Kỳ có mối
liên hệ chặt chẽ với cơ quan Tòa án, tồn tại song song hoặc trực thuộc các Tòa
án. Luật sư ở Singapore thuộc Tòa án tối cao Singapore; các luật sư Pháp thành
lập mỗi Đoàn Luật sư bên cạnh mỗi tòa án thẩm quyền rộng. Luật sư ở Hoa
Kỳ, ở Australia được công nhận và cho phép hành nghề theo lãnh thổ từng
bang, trong phạm vi thẩm quyền tài phán của Tòa án từng bang hoặc liên
bang. Một luật sư có thể được phép hành nghề tại nhiều bang và phải tuân
theo quy chế của từng bang đặt ra. Luật sư hành nghề tại Tòa án tiểu bang
cũng có thể xin công nhận và được cấp phép hành nghề tại các Tòa án tối cao
của liên bang.
8
Tuy nhiên, trong pháp luật thực định ở mỗi quốc gia tên gọi và cách
hiểu về luật sư cũng rất khác nhau; sự đa dạng này xuất phát đặc thù lịch sử,
văn hóa, hệ thống pháp luật và trình độ phát triển kinh tế - xã hội của mỗi
quốc gia. Theo Điều 2 của luật về Luật sư năm 1996 của nước Cộng hòa nhân
dân Trung Hoa, thuật ngữ "luật sư" là "người hành nghề luật có chứng chỉ
hành nghề luật sư theo quy định của luật và cung cấp các dịch vụ pháp lý cho
xã hội"; theo quy định Luật số 71 năm 1971 được sửa đổi bởi Luật số 90 ngày
31/12/1990 và Sắc lệnh số 91/1197 ngày 27/12/1991 về tổ chức hành nghề
luật sư của Cộng hòa Pháp thì luật sư là người Pháp và các trường hợp khác
theo quy định; có ít nhất một bằng cao học luật hoặc những bằng cấp tương
đương được thừa nhận; được cấp chứng chỉ đủ khả năng hành nghề luật sư;
không bị kỷ luật như cách chức, xóa tên hoặc xóa giấy phép; không bị vỡ nợ
hoặc một hình thức chế tài khác.
ở Việt Nam, ngay sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 46/SL ngày 10/10/1945 về tổ chức
các đoàn thể luật sư, Sắc lệnh này đã quy định việc duy trì tổ chức luật sư đã
có với sự vận dụng linh hoạt các quy định pháp luật của chế độ cũ về luật sư
nhưng không trái với nguyên tắc độc lập và chính thể dân chủ cộng hòa. Hiến
pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1946 đã khẳng định quyền bào
chữa là một trong những quyền cơ bản của công dân.
Tuy nhiên, trong điều kiện toàn Đảng, toàn dân ta phải tập trung sức
người, sức của cho cuộc kháng chiến cứu nước. Trong điều kiện đó, tổ chức
luật sư không thể tiếp tục duy trì. Hưởng ứng lời kêu gọi toàn dân kháng
chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhiều luật sư, luật gia đã ra mặt trận, lên
chiến khu hoặc tham gia vào hoạt động tư pháp tại các vùng do chính quyền
ta kiểm soát. Nhiều luật sư đã giữ cương vị quan trọng trong chính quyền,
trong các cơ quan tư pháp, Tòa án như luật sư Phan Anh, luật sư Phan Văn
Trường, luật sư Vũ Văn Hưởng, luật sư Vũ Trọng Khánh, luật sư Phan Văn
Bạch, luật sư Vũ Đình Hòe, luật sư Trần Công Tường, luật sư Nguyễn Thành
9
Vĩnh, luật sư Đỗ Xuân Sảng, luật sư Hoàng Văn Kế và nhiều luật sư khác.
Mặc dù tổ chức hành nghề luật sư không được duy trì nhưng Đảng và Nhà
nước ta vẫn luôn quan tâm đến việc đảm bảo quyền bào chữa trước Tòa án
của bị cáo, một trong những quyền cơ bản của công dân đã được ghi nhận
trong Hiến pháp. Sắc lệnh số 69/SL ngày 18/6/1949 quy định nguyên cáo, bị
cáo có thể nhờ một công dân không phải là luật sư bênh vực cho mình. Cụ thể
hóa sắc lệnh số 69/SL ngày 18/6/1949, Bộ Tư pháp đã ban hành Nghị định số
1/NĐ-VY ngày 12/01/1950 quy định về Bào chữa viên. Chế định bào chữa
viên được hình thành là một chế định phù hợp với điều kiện của nước ta khi
đó, thể hiện sự coi trọng, quan tâm của Đảng và Nhà nước ta đến việc thực thi
quyền bào chữa và việc xây dựng một nền tư pháp công bằng, dân chủ của
chế độ mới. Thực hiện quy định của pháp luật về bào chữa viên, trong suốt
thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và xây dựng miền Bắc xã hội chủ
nghĩa, đội ngũ bào chữa viên đã được hình thành và ngày càng phát triển. Đặc
biệt sau khi miền Bắc được giải phóng, bên cạnh các luật sư, luật gia tham gia
công tác bào chữa tại các Tòa án của chính quyền kháng chiến, nhiều luật sư,
luật gia đã làm việc trong bộ máy tư pháp của chế độ cũ cũng hăng hái gia
nhập đội ngũ bào chữa viên của chế độ mới. ở miền Nam cùng với nhân dân
miền Nam, các luật sư đã hăng hái tham gia kháng chiến. Nhiều luật sư đã có
những đóng góp to lớn cho sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất
nước, điển hình là luật sư - Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ, luật sư Trịnh Đình
Thảo, luật sư Ngô Bá Thành…
Tiếp tục khẳng định quan điểm của Đảng, Nhà nước về quyền bào
chữa và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, Điều 101 Hiến pháp
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1959 đã quy định "Quyền bào chữa
của người bị cáo được bảo đảm"; Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam năm 1980 ngoài việc khẳng định bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo,
còn quy định việc thành lập tổ chức luật sư để giúp cá nhân, tổ chức bảo vệ
10
quyền, lợi ích hợp pháp của mình, đồng thời bảo vệ pháp chế xã hội chủ
nghĩa.
Ngày 31/10/1983 Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 691/QLTPK
về công tác bào chữa, trong đó quy định cụ thể tiêu chuẩn, điều kiện làm bào
chữa viên, quy định ở mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành lập
một Đoàn bào chữa viên, riêng ở hai thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí
Minh thì thành lập Đoàn Luật sư, bào chữa viên, tập hợp các luật sư đã được
công nhận trước đây và các bào chữa viên. Tính đến cuối năm 1987, trên cả
nước đã có 30 đoàn bào chữa viên với gần 400 bào chữa viên.
Đến Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI năm 1986 đã mở
đầu một thời kỳ lịch sử mới xây dựng đất nước, thời kỳ đổi mới. Đường lối
đổi mới do Đại hội vạch ra đã tác động sâu rộng đến mọi mặt hoạt động trong
xã hội, trong đó có hoạt động tư pháp. Các đạo luật về tố tụng được ban hành
theo hướng mở rộng dân chủ trong tố tụng, trong đó có việc tăng cường bảo
đảm quyền bào chữa, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức
trước Tòa án và các cơ quan tố tụng khác. Trong bối cảnh đó, ngày 18/12/1987,
Pháp lệnh Tổ chức luật sư được ban hành, Pháp lệnh Tổ chức luật sư tạo cơ sở
pháp lý quan trọng cho việc phát triển tổ chức và hoạt động luật sư, là văn bản
pháp luật có ý nghĩa lịch sử trong việc khôi phục nghề luật sư và mở đầu cho
quá trình phát triển nghề luật sư ở nước ta trong thời kỳ mới. Pháp lệnh quy
định rõ tiêu chuẩn được công nhận là luật sư, theo đó những người là công
dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất, đạo đức tốt; tốt
nghiệp đại học pháp lý hoặc có trình độ pháp lý tương đương; gia nhập Đoàn
Luật sư và phải qua một thời gian tập sự từ sáu tháng đến hai năm và phải qua
một kỳ kiểm tra mới được công nhận là luật sư.
Pháp lệnh Luật sư năm 1987 đã chính thức dùng từ "luật sư" để chỉ những
người hoạt động tư vấn pháp luật và bào chữa trước tòa án, tuy nhiên hoạt
động bào chữa trước tòa không chỉ có luật sư mà bao gồm cả người đại diện
11
hợp pháp của bị can, bị cáo, đương sự và bào chữa viên nhân dân và họ đều
được gọi chung là "người bào chữa".
Sau hơn mười năm kể từ Đại hội Đảng lần thứ VI, công cuộc đổi mới
ở đất nước ta đã thu được những thành tựu to lớn và quan trọng. Từ nửa cuối
thập niên 90, đất nước ta bước vào giai đoạn quan trọng của quá trình đổi
mới, trong đó nhu cầu đẩy mạnh quá trình xây dựng cơ chế thị trường, yêu
cầu xây dựng nhà nước pháp quyền, mở rộng dân chủ, hội nhập quốc tế ngày
càng trở nên sâu sắc, ở mức độ cao hơn. Cùng với những chủ trương đổi mới
mạnh mẽ về kinh tế, Đảng và Nhà nước ta đã đồng thời đề ra và thực thi
những chủ trương, biện pháp cải cách mạnh mẽ về tổ chức, hoạt động của các
thiết chế trong hệ thống chính trị, trong đó có đổi mới tổ chức, hoạt động lập
pháp, cải cách tổ chức, hoạt động của bộ máy hành chính, cải cách tư pháp
nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền, thúc đẩy quá trình hội
nhập của đất nước. Để đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, Pháp lệnh Luật sư
năm 2001 đã được ban hành. Nội dung của pháp lệnh thể hiện quan điểm cải
cách mạnh mẽ tổ chức và hoạt động luật sư ở nước ta theo hướng chính quy
hóa, chuyên nghiệp hóa đội ngũ luật sư, nghề luật sư, tăng cường vai trò tự
quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư, tạo cơ sở pháp lý cho quá
trình hội nhập quốc tế của nghề luật sư ở Việt Nam.
Tại khoản 1 Điều 1 Pháp lệnh Luật sư năm 2001 quy định:
Luật sư là người có đủ điều kiện hành nghề theo quy định
của pháp lệnh này và tham gia hoạt động tố tụng, thực hiện tư vấn
pháp luật, các dịch vụ pháp lý khác theo yêu cầu của các cá nhân, tổ
chức nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của
pháp luật [40].
Định nghĩa này tuy phản ánh tương đối đầy đủ phạm vi hành nghề chủ
yếu của luật sư, nhưng chưa làm rõ được về mặt lý luận địa vị pháp lý của luật
12
sư trong hệ thống cơ quan tư pháp và vị trí, vai trò của nó trong đời sống xã
hội. Điều này thể hiện ở các khía cạnh:
Thứ nhất: Xét về mặt chủ thể trong hoạt động tư pháp, do quan niệm
luật sư chỉ là người tham gia tố tụng và phạm vi hoạt động luật sư thuộc lĩnh
vực "bổ trợ tư pháp", nên thực chất luật sư chỉ được coi là người trợ giúp
pháp lý mang tính bị động, không có cơ sở pháp lý cho việc hành nghề một
cách bình đẳng và độc lập.
Thứ hai: Về mặt xã hội, do chưa được thừa nhận là một chức danh tư
pháp độc lập nên vai trò của luật sư trong tiến trình xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, trong cải cách tư pháp còn hạn chế. Thực tiễn cho
thấy, địa vị pháp lý của luật sư chưa được xác định một cách rõ ràng, cũng
như chưa làm rõ ranh giới giữa phạm vi hành nghề dịch vụ pháp lý cho xã
hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân, bảo vệ công
bằng và chính nghĩa, với phục vụ lợi ích công.
Thứ ba: Khái niệm luật sư nêu trên mới chỉ nhận diện một loại hình
luật sư hoạt động tranh tụng và tư vấn, chưa bao quát được các loại hình hoạt
động khác do thực tiễn đòi hỏi như luật sư trợ giúp pháp lý miễn phí cho
người nghèo và đối tượng chính sách…
Trước yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là cải cách tư pháp
và hội nhập kinh tế quốc tế trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, Bộ Chính trị đã có Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về một
số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới, Nghị quyết số
48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và Nghị quyết
số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020,
trong đó đưa ra những định hướng quan trọng nhằm phát triển đội ngũ luật sư
có phẩm chất chính trị, đạo đức, trình độ chuyên môn, đồng thời đề cao trách
13
nhiệm của các tổ chức hành nghề luật sư, phát huy hơn nữa vai trò tự quản
của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư.
Thể chế hóa các chủ trương của Đảng, ngày 29/6/2006, Quốc hội khóa XI
thông qua Luật Luật sư, Luật Luật sư có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01
năm 2007 và thay thế Pháp lệnh Luật sư năm 2001. Tại Điều 2 Luật Luật sư
quy định: "Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy
định của luật này, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ
quan, tổ chức (sau đây gọi chung là khách hàng)" [29]. Quy định về tiêu
chuẩn luật sư là điểm mới của Luật Luật sư so với Pháp lệnh Luật sư năm
2001, để có thể trở thành luật sư người đó phải là công dân Việt Nam trung
thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức
tốt, có bằng cử nhân luật, đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập
sự hành nghề luật sư, có sức khỏe bảo đảm hành nghề luật sư. Về cơ bản, tiêu
chuẩn luật sư tương tự như tiêu chuẩn đối với điều tra viên, kiểm sát viên và
thẩm phán. Quy định này của Luật Luật sư không những đảm bảo sự thống
nhất về tiêu chuẩn đối với các chức danh tư pháp, mà còn tạo cơ sở để gắn kết
quá trình đào tạo nghề và hoạt động nghề nghiệp của luật sư với các chức
danh tư pháp khác. Việc quy định cụ thể tiêu chuẩn luật sư góp phần tạo điều
kiện thuận lợi cho việc xem xét cấp, thu hồi chứng chỉ hành nghề luật sư,
đăng ký gia nhập Đoàn Luật sư. Mặt khác, quy định cụ thể về tiêu chuẩn luật
sư cũng nhằm mục tiêu nâng cao chất lượng của đội ngũ luật sư, tiếp tục phát
triển hoạt động luật sư theo hướng chuyên nghiệp hóa thành một nghề.
Người có đủ điều kiện trở thành luật sư chỉ được gọi là luật sư và
được phép hành nghề khi hội đủ hai điều kiện: được cấp chứng chỉ hành nghề
luật sư và đã gia nhập một Đoàn Luật sư do mình lựa chọn. Như vậy, điều
kiện hành nghề luật sư khác với quy định của Pháp lệnh Luật sư năm 2001 đó
là người muốn hành nghề luật sư phải gia nhập đoàn luật sư và có chứng chỉ
14
hành nghề luật sư. Quy định điều kiện hành nghề luật sư theo pháp lệnh luật
sư năm 2001 không phù hợp với tính chất của nghề luật sư là một người muốn
hành nghề luật sư thì trước hết phải được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền
công nhận có đủ khả năng chuyên môn thông qua việc được cấp chứng chỉ
hành nghề luật sư. Mặt khác, trong trường hợp luật sư tập sự không đạt yêu
cầu của kỳ kiểm tra hết tập sự, vì thế không được cấp chứng chỉ hành nghề
luật sư, thì địa vị pháp lý của họ không thực sự rõ ràng. Điều kiện hành nghề
theo Luật Luật sư đảm bảo tính chuyên nghiệp của nghề luật sư, phòng ngừa
tình trạng những người không có đủ tiêu chuẩn, điều kiện vẫn thực hiện dịch
vụ pháp lý như luật sư, góp phần bảo vệ lợi ích của cá nhân, tổ chức và xã
hội, tăng cường quản lý về hành nghề luật sư.
Dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn nêu trên, theo tác giả khái niệm về
luật sư được hiểu như sau: Luật sư là công dân Việt Nam trung thành với Tổ
quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng cử
nhân luật, đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề
luật sư, có sức khỏe bảo đảm hành nghề luật sư, đã được cấp Chứng chỉ hành
nghề luật sư và gia nhập một Đoàn Luật sư, thực hiện dịch vụ pháp lý tham
gia tố tụng, tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng và các
dịch vụ pháp lý khác theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức.
1.1.2. Hoạt động hành nghề của luật sư
Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa việc
bảo đảm quyền tự do dân chủ của công dân là một trong những nhiệm vụ chủ
yếu trong đường lối lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ta. Hiện nay, luật sư
được xác định là một chức danh tư pháp độc lập tham gia vào tiến trình mang
tính định hướng này không thể tách rời với nhiệm vụ quan trọng mà Đảng,
Nhà nước đã đề ra. Hoạt động hành nghề của luật sư trước hết phải thể hiện ở
việc tuân thủ pháp luật của người hành nghề luật sư, dựa vào pháp luật để bảo
15
vệ quyền và lợi ích cho cá nhân, cơ quan, tổ chức bảo đảm sự thật khách quan
và công lý.
Hoạt động hành nghề luật sư được thể hiện ở uy tín nghề nghiệp, đây
là thuộc tính quan trọng thể hiện bản chất của hoạt động hành nghề luật sư.
Khách hàng có quyền lựa chọn luật sư cho mình, không phụ thuộc vào chỉ
định bắt buộc hay can thiệp của bất cứ cơ quan, cá nhân nào và luật sư hành
nghề bằng lời nói, soạn thảo văn bản tư vấn hay tranh tụng tại phiên tòa đều
nhân danh cá nhân; thuộc tính này phân biệt hoạt động hành nghề của luật sư
với hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng mang tính tập thể, dưới danh
nghĩa cơ quan, tổ chức.
Xuất phát từ nhu cầu nội tại của xã hội, nước ta trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, hoạt động hành nghề của luật sư mang đến cho xã hội
nói chung và tố tụng tư pháp nói riêng những giá trị của dân chủ, thông qua
sự bình đẳng trong tranh tụng, đề xuất yêu cầu, đại diện hoặc bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức trước những hành vi xâm
phạm, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động của nền kinh tế thị trường phát triển ổn
định, vững chắc. Việc phát triển nghề luật sư ở một quốc gia được xem là một
trong những điều kiện đánh giá sự phát triển của nền dân chủ và của việc xây
dựng nhà nước pháp quyền.
Hoạt động hành nghề của luật sư được thể hiện ở tính độc lập, tính
độc lập của hoạt động hành nghề ở đây là làm sáng tỏ phương thức hoạt động
đối trọng với các chủ thể tư pháp khác trong một chỉnh thể thống nhất của nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, tính độc lập là điều kiện tất yếu cho hoạt
động hành nghề luật sư. Ví dụ như trong hoạt động tham gia tố tụng, luật sư
đóng vai trò là người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho cá nhân, cơ quan, tổ
chức do đó điểm xuất phát và quan điểm giải quyết của luật sư không bao giờ
đồng nhất hoàn toàn với các cơ quan tiến hành tố tụng. Nếu đưa hoạt động
của luật sư và các cơ quan tiến hành tố tụng vào chung một thể chế quản lý sẽ
16
tạo ra sự hoài nghi của một bộ phận nhân dân, làm mất đi tính phản biện xã
hội hoặc bị xuyên tạc.
Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta ngày càng sâu,
rộng thì vị trí, vai trò của luật sư trong xã hội ngày càng được nhận thức đầy
đủ và toàn diện hơn. Hoạt động hành nghề của luật sư không những phục vụ
đắc lực yêu cầu của hoạt động tư pháp nói chung, của hoạt động xét xử nói
riêng mà còn là nhân tố quan trọng hỗ trợ các quan hệ kinh tế thị trường phát
triển và chúng ta không thể tách rời hoạt động hành nghề của luật sư với các
điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, cũng như không thể nói đến
thực hiện dân chủ và công bằng xã hội mà không có sự tham gia của đội ngũ
luật sư.
Luật sư hành nghề không chỉ quan tâm đến thù lao của khách hàng và
những lợi ích vật chất, tinh thần, mà còn phải quan tâm đến yếu tố phi vật chất,
phi dịch vụ như trong hoạt động trợ giúp pháp lý miễn phí, bào chữa theo chỉ
định của cơ quan tiến hành tố tụng…
Thông qua hoạt động trợ giúp pháp lý, tuyên truyền và phổ biến, giáo
dục luật sư đã đáp ứng nhu cầu pháp lý của người dân một cách minh bạch,
tạo cho người dân nhận biết chân thực và công bằng các nhu cầu chính đáng
ấy. Người dân không chỉ tin tưởng vào kiến thức pháp lý, kỹ năng hành nghề
mà cả tính liêm chính, chuẩn mực trong hành vi của cá nhân luật sư và tổ
chức hành nghề luật sư.
Hoạt động tư vấn pháp luật và dịch vụ pháp lý khác góp phần quan
trọng trong việc tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh minh bạch, lành mạnh
theo đúng pháp luật, đồng thời hỗ trợ tích cực việc chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, phát triển thị trường dịch vụ, tăng thu ngân sách, giải quyết việc làm; góp
phần bảo vệ quyền lợi cho doanh nghiệp cả ở nước ngoài. Không những vậy,
luật sư còn tham gia hoạch định chính sách kinh doanh cho doanh nghiệp,
giúp doanh nghiệp tìm kiếm cơ hội kinh doanh trên thị trường trong và ngoài
17
nước, đặc biệt là giúp doanh nghiệp phòng ngừa những rủi ro trong kinh
doanh và đại diện cho doanh nghiệp trong giải quyết tranh chấp phát sinh, luật
sư đóng vai trò là "cố vấn pháp luật" cho doanh nghiệp trong sản xuất, kinh
doanh. Sự tham gia tích cực của luật sư trong dự án đầu tư, các giao dịch kinh
doanh, thương mại không chỉ góp phần phát huy nội lực mà còn thu hút ngoại
lực, thúc đẩy hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Với cơ chế thực thi pháp luật "Nhà nước chỉ làm những gì pháp luật
cho phép, công dân được làm tất cả những gì pháp luật không cấm", việc
tuân thủ pháp luật trở thành ý thức tự giác trong từng hành vi ứng xử của mỗi
công dân là nền tảng vững chắc để xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh, để đáp ứng trong điều kiện phát triển ngày nay, đội ngũ luật sư phải là
người có văn hóa và nhận thức ngang tầm với sự phát triển của xã hội dựa
trên một nền tảng lý luận và tinh thông nghề nghiệp pháp lý sâu sắc, có kinh
nghiệm thực tiễn phong phú và phương pháp làm việc linh hoạt; vừa biết được
giới hạn các chuẩn mực của pháp luật và đạo đức nghề nghiệp, vừa biết vận
dụng sáng tạo tinh thần thượng tôn pháp luật vào việc xử lý các sự kiện trong
đời sống thực tiễn.
Với thành quả lao động trí óc mang đậm dấu ấn cá nhân của mình,
luật sư đã khẳng định được "thương hiệu" của mình, đặc biệt trong điều kiện
hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay nó là tiêu chí khẳng định sự phát triển của
nghề luật sư trong mỗi quốc gia. Uy tín cá nhân của luật sư phải là yêu cầu
nội tại chủ yếu của sự phát triển đội ngũ luật sư và xuyên suốt trong toàn bộ
quá trình và hoạt động hành nghề.
1.2. Hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư
1.2.1. Hình thức của tổ chức hành nghề luật sư
Pháp lệnh Tổ chức Luật sư đầu tiên của nước ta ra đời năm 1987 trong
thời kỳ đầu của quá trình đổi mới có ý nghĩa lịch sử trong việc khôi phục
nghề luật sư và mở đầu cho quá trình phát triển nghề luật sư ở nước ta. Tuy
18
nhiên, ra đời trong chặng đường đầu của thời kỳ đổi mới, trước những bước
chuyển biết tích cực trong đời sống kinh tế xã hội, Pháp lệnh Tổ chức luật sư
năm 1987 đã nhanh chóng trở nên lạc hậu, không đáp ứng với nhu cầu của đời
sống, xã hội. Một trong những bất cập của pháp lệnh tổ chức luật sư năm
1987 đó là hình thức hành nghề, hình thức tổ chức hành nghề luật sư chưa
được quy định. Pháp lệnh đã không phân biệt tổ chức và hoạt động của Hội
nghề nghiệp luật sư với tổ chức hành nghề luật sư. Tại Điều 1 Pháp lệnh Tổ
chức luật sư năm 1987 quy định: "Tổ chức luật sư ở nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là các Đoàn Luật sư được thành lập ở các tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương và đơn vị hành chính tương đương để giúp công dân và
các tổ chức về mặt pháp lý" [39].
Đến Pháp lệnh Luật sư năm 2001 đã có sự phân biệt hình thức tổ chức
hành nghề của luật sư và tổ chức xã hội nghề nghiệp của luật sư, tại Điều 3
của pháp lệnh quy định: "Hình thức tổ chức hành nghề luật sư là văn phòng
luật sư và công ty luật hợp danh". Như vậy, Pháp lệnh quy định hai hình thức
tổ chức hành nghề luật sư là văn phòng luật sư và công ty luật hợp danh.
Văn phòng luật sư có thể do một hoặc một số luật sư thành lập, chịu
trách nhiệm cá nhân hoặc liên đới bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi nghĩa
vụ của văn phòng; được thực hiện dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực tố tụng, tư
vấn pháp luật và dịch vụ pháp lý khác.
Công ty luật hợp danh là tổ chức hành nghề luật sư do ít nhất 02 luật
sư thành lập và chịu trách nhiệm liên đới bằng toàn bộ tài sản của mình về
mọi nghĩa vụ của công ty. Công ty luật hợp danh được thực hiện dịch vụ pháp
lý trong lĩnh vực tư vấn pháp luật, dịch vụ pháp lý khác và không được thực
hiện dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực tố tụng. Phạm vi hoạt động của công ty
luật hợp danh hẹp hơn so với Văn phòng luật sư. Công ty luât hợp danh chỉ
được thực hiện dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực tư vấn pháp luật và dịch vụ
pháp lý khác. Như vậy, khi Pháp lệnh Luật sư ra đời, một thực tế tồn tại song
19
song hai loại hình đó là công ty có chức năng kinh doanh dịch vụ pháp lý theo
Luật Doanh nghiệp năm 1999 với cng ty luật hợp danh theo Pháp lệnh Luật
sư năm 2001, nguyên nhân của sự tồn tại này đó là vẫn chưa có sự thống nhất
thế nào là hành nghề dịch vụ pháp lý và thế nào là hành nghề luật sư.
Kế thừa những thành tựu của Pháp lệnh Luật sư năm 2001 và khắc
phục những hạn chế còn tồn tại nêu trên, Luật Luật sư năm 2006 quy định tổ
chức hành nghề luật sư bao gồm: Văn phòng luật sư do một luật sư thành lập,
công ty luật trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, công ty luật trách
nhiệm hữu hạn một thành viên và công ty luật hợp danh. Khác với Pháp lệnh
Luật sư năm 2001, Luật Luật sư năm 2006 đã cho phép tổ chức hành nghề
hoạt động dưới dạng công ty luật trách nhiệm hữu hạn. Quy định này nhằm
bảo đảm sự phù hợp giữa quy định của pháp luật về luật sư với pháp luật về
doanh nghiệp. Theo quy định của luật doanh nghiệp, thì kinh doanh dịch vụ
pháp lý là một ngành, nghề và cá nhân đáp ứng đủ điều kiện luật định được
phép lựa chọn thành lập các loại hình doanh nghiệp trong lĩnh vực dịch vụ
pháp lý bao gồm công ty luật hợp danh và công ty trách nhiệm hữu hạn. Hơn
nữa, việc mở rộng hình thức tổ chức hành nghề luật sư cũng nhằm tạo điều kiện
thuận lợi cho luật sư lựa chọn hình thức tổ chức hành nghề phù hợp với khả năng
thực tế của mình.
Đáp ứng nhu cầu phát triển và mở rộng thị trường, Luật Luật sư cho
phép tổ chức hành nghề luật sư được thành lập chi nhánh, văn phòng giao
dịch trong nước, điều này cũng phù hợp với quy định của Luật Doanh nghiệp.
Chi nhánh của tổ chức hành nghề luật sư là đơn vị phụ thuộc của tổ
chức hành nghề luật sư, hoạt động theo sự ủy quyền của tổ chức hành nghề
luật sư phù hợp với lĩnh vực hành nghề ghi trong giấy đăng ký hoạt động.
Văn phòng giao dịch của tổ chức hành nghề luật sư được thành lập
trong phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi tổ chức hành nghề
20
luật sư đăng ký hoạt động. Văn phòng giao dịch là nơi tiếp nhận vụ, việc, yêu
cầu của khách hàng.
Trên thế giới, hình thức của tổ chức hành nghề phổ biến là văn phòng
luật sư cá nhân (sole practitioner/principal); và công ty luật hợp danh (partnership)
ví dụ như: Hy Lạp, Arhentina, Italia, Mexico, Thụy Sỹ, Nhật Bản… ở các
quốc gia này hình thức công ty luật trách nhiệm hữu hạn không được chấp
nhận vì không phù hợp với chế độ trách nhiệm vô hạn đối với luật sư trong
hoạt động nghề nghiệp. Các quốc gia Mỹ, Pháp, Canada, Bỉ, Singapore, Thái
Lan, Đức không bắt buộc luật sư phải hành nghề dưới những hình thức tổ
chức hành nghề nhất định. ở các nước này, hình thức tổ chức hành nghề luật
sư tương đối đa dạng, bên cạnh hình thức công ty luật hợp danh, luật sư có thể
hành nghề dưới tất cả các hình thức của các công ty kinh doanh thông thường
như: Công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty liên doanh. Hiện
nay, nhiều quốc gia đã và đang có xu hướng đa dạng hóa hình thức tổ chức
hành nghề luật sư để đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế (như Mỹ,
Australia, Anh, Nhật Bản, Singapore, Thái Lan…). Do đó, ngoài hình thức
công ty luật hợp danh mang tính truyền thống, pháp luật của các nước này còn
quy định về loại hình công ty luật trách nhiệm hữu hạn. Giải pháp để bảo đảm
quyền lợi cho khách hàng đó là công ty luật có nghĩa vụ mua bảo hiểm trách
nhiệm nghề nghiệp cho luật sư của mình để bồi thường thiệt hại gây ra cho
khách hàng.
1.2.2. Hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư
Luật Luật sư năm 2006 đã mở rộng và có nhiều đổi mới về hình thức
hành nghề, đưa các tổ chức hành nghề luật sư xích lại gần với các loại hình
doanh nghiệp hoạt động theo Luật Doanh nghiệp.
Văn phòng luật sư là hình thức phổ biến trên thế giới, văn phòng được
coi là một doanh nghiệp. Luật Luật sư năm 2006 quy định "Văn phòng luật sư