Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Nghi lễ chu kỳ đời người của người Chăm ở Trung Bộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (66.13 KB, 11 trang )

Nghi lễ chu kỳ đời người của người Chăm ở Trung Bộ:
Nghi lễ chu kỳ đời người là các nghi thức thực hiện trong vòng đời mỗi
vòng người, từ khi sinh ra cho đến khi kết thúc cuộc đời mỗi con người. Đó đều
là những nghi lễ quan trọng không thể thiếu và có đặc điểm chung là các tộc
người đều có những nghi lễ đó, về bản chất thì giống nhau, chỉ là khác nhau ở
nghi thức thực hiện, và khác nhau về quan niệm về nghi lễ đó giữa những tộc
người khác nhau, là do mặt tâm linh quyết định.
Trong xã hội người Chăm ở Trung Bộ cũng vậy, dù là một tộc người sống tại
vùng đất miền Trung, có các nghi lễ vòng đời người tương tự nhau, nhưng
phương thức thực hiện, quan niệm về ý nghĩa của các nghi lễ vòng đời người có
sự khác nhau rõ nét. Để thấy rõ được điều đó, chúng ta sẽ tiếp cận họ với tư cách
là các cộng đồng theo các tôn giáo khác nhau, chứ không phải là một cộng đồng
tộc người.
1. Trong sinh đẻ và đặt tên con
Có lẽ ít tìm thấy một cộng đồng tộc người thiểu số nào ở Việt Nam hay đất nước
khác mà lại theo nhiều tôn giáo như cộng đồng người Chăm, đó là Blamôn;
Islam; Bà Ni. Mặc dù vậy nhưng rõ rằng sự qua sự giao thoa ấy có sự tiếp biến,
biến đổi rất mạnh mẽ giữa tôn giáo ở nơi hình thành và vùng đất tiếp thu. Chính
vì vậy đã cho ra một bức tranh về tôn giáo, khiến chúng ta phải thực sự tiếp cận
chứ không thể áp dụng, quan niệm một cách dập khuôn.
Điều đó được thể hiện ở nhiều mặt trong đó về khía cạnh sinh đẻ cũng có
sự khác nhau, đó là: Trong lễ vòng đời người Chăm theo Blamôn nơi đây không
có những lễ thức như trong giáo lý Blamôn Ấn Độ cổ đại, có thể theo thời gian
nó đã phai mờ đi, vì ở nơi đây người theo đạo Blamôn những kiêng kị trong sinh
đẻ mang nặng truyền thống bản địa, một số nghi thức sinh đẻ có thể là do nền
văn hóa bản địa Chăm, một số khác có thể là ảnh hưởng của tộc người khác như;
Lễ cúng mụ, tục nằm lửa, lễ trình tổ tiên, sản phụ sinh riêng ở chòi riêng… các
nghi thức này đều phổ biến các dân tộc ở Đông Nam Á.


Vậy khác với Blamôn nguyên thủy về nghi lễ này đó là một đời đã có tới


3 lễ thức; lễ thức cho thụ thai được thuận lợi; lễ thức làm cho sinh đẻ được thuận
lợi; lễ thức giữ tai trong bụng được đủ tháng. Lễ thức sinh lần thứ thứ hai, mà
theo Blamôn Ấn Độ chỉ có 3 đẳng cấp trên được làm , trong đó đứa trẻ thưoọc
đẳng cấp Blamôn được làm khi 8 tuổi, đẳng cấp Kristrya được làm khi 11 tuổi;
Vaissia được làm khi 12 tuổi, sau lễ thức này đứa trẻ được trở thành thành viên
xã hội và được đeo dây thiêng.
Chăm Bani: hay còn gọi là Chăm Hồi Giáo bị bản địa hóa, nghi thức sinh đẻ và
kiêng kị trong thời kỳ thụ thai cho tới khi sinh đều mang tính chất bản địa, tuy
nhiên so với Chăm Blamon thì Hồi giáo trong quan niệm về sinh đẻ có nhiều nét
đậm hơn, họ quan niệm thánh Âu Lóa ở trên người đứa trẻ do vậy người ta
kiêng sờ đầu của đứa trẻ, Âu lóa chính là thánh Alla của Hồi giáo.
Trong nghi thức đặt tên con gồm có tên cha mẹ đặt và tên thánh, tên cha
mẹ đặt được tiến hành sau 6 ngày đứa trẻ được sinh ra, tức là vào ngày thứ 7,
kèm theo là lễ cắt tóc cho đứa trẻ, việc cắt tóc chỉ mang tính tượng trưng, chứ
không phải theo quan niệm của Hồi Giáo là cắt tóc đem đi cân để biết số tiền sau
này nó kiếm được. Khi đứa trẻ đầy 15 tuổi, ngoài tên gọi thường họ đặt thêm tên
thánh theo một nghi thức đạo giáo, đánh dấu sự trươngt hành của đứa trẻ, xác
nhận tư cách tín đồ chính thức của đạo, tên ngoài đời cha mẹ gọi chỉ là tên khai
sinh, tên gọi chính thức. Còn tên thánh với họ là quan trọng nhất, đó là tên gọi ở
thế gới sau khi chết, ngày nay có sự tiếp xúc văn hóa nên đặt tên thánh cũng có
đổi thay, đặc biệt là thanh niên.
Chăm Islam: họ quý trọng con trai hơn con gái, do chịu sự chi phối mạnh
mẽ của luật tục, đó là quan hệ huyết thống tính theo dòng Cha, nên vị trí của phụ
nữ Chăm Islam trong gia đình bị xem nhẹ. Vì vậy họ ưu sinh con trai, sinh được
con trai là vật hên của gia đình, chỉ có con trai mới được vào thánh đường ăn cỗ
trong các ngày lễ lớn hàng năm. Cũng như các nhóm khác, phụ nữ có thai không
những phải lo cho mình mà còn có bổn phận tính mạng đối với đứa con trong
bụng. Trong thời kỳ thụ thai phải kiêng nhiều thứ để khi con chào đời được khỏe



mạnh, cũng như sợ hậu sản. Trong khi sinh, họ vẫn theo phương thức truyền
thống đó là được bà mụ săn sóc theo phương pháp cổ truyền.
Đặt tên con: Người Chăm Islam chỉ đặt tên không đặt họ, nhiều tên thánh trùng
nhau do chọn được những tên có giới hạn. Nếu đứa bé được sinh ra vào ban
ngày, tùy nhằm theo ngày mà đặt tên các thánh như, nếu sinh vào ban đêm thì
người ta thường đặt những tên tùy theo ngày trong tuần.
2.Lễ trưởng thành của người Chăm
Chăm Blamon: Không có lễ thức đánh dấu giai đoạn chuyển tiếp của đời
người từ vị thành niên sang tuổi thành niên. Chỉ khi con gái hay trai sắp sửa cưới
thì họ cần tới nhà trưởng tộc để báo cho thần Onproh. Vì họ cho rằng mỗi thành
viên trong cộng đồng họ, từ khi sinh ra thần này đã biết qua các lễ cúng đầy
tháng vì vậy khi người đó đến tuổi lấy cợ lấy chồng cũng phải báo cho vị thần
đó biết.
Chăm Bàni: Có tập tục cắt bao quy đầu cho người con trai, nhưng chỉ mang
hình thức tượng trưng, gọi là lễ Katắt, tổ chức khi đứa trẻ lên 15 tuổi, thường thì
họ tổ chức cho nhiều đứa trẻ cùng lúc cho tiện. Một cái rạp nhỏ được dựng lên
để từng em vào trong cho thầy Char làm lễ, ông ta đọc kinh để con dao đưa đi
đưa lại trên đầu dương vật của đứa trẻ, chứ không cắt thực sự. Lễ này vừa là lễ
thành đinh, vừa mang ý nghĩa đứa trẻ đã nhập đạo của tín đồ Bàni, qua nghi lễ
này, người con trai có quyền được lập gia đình, cũng đã trở thành tín đồ chính
cống của Hồi giáo. Vì vậy đây là dịp để người ta đặt tên thánh cho đứa trẻ, khác
với khác với Chăm Islam đã đặt từ rất sớm. Tên thánh của chăm Bàni không
dùng trong sinh hoạt xã hội, do đó nếu có người quên tên thánh phải đến xin
thầy Char đặt lại cho mình.
Đối với con trai chăm Bàni, lúc lên 18 tuổi còn thực hiện một lễ khác, gọi là
lễ Ắkrắc, ý nghĩa của lễ là xác nhận người được làm lễ đã thuộc kinh kệ của
người thanh niên sau khi đã học 20 bài kinh cơ bản của đạo. Phải qua lễ này thì
khi tảo mộ người thanh niên mới được mặc áo trắng như char, khi mẹ mất mới
được đọc kinh, ai chưa qua lễ này thì thấy xấu hổ với bạn bè, họ hàng.



Đối với các cô gái Chăm Bàni; khi đến tuổi trưởng thành được chuẩn bị kỹ
để thực hành một nghi lễ lớn hơn, lễ được tổ chức khi người con gái lên 15 tuổi
gọi là lễ Karơh, người con gái nào chưa ua lễ này thì coi như chưa đủ tư cách để
kết hôn. Đây đồng thời cũng là lễ ban tên thánh cho các cô gái, xác nhận tư cách
tín đồ Hồi giáo, nhân lễ này các cô gái cũng được cha mẹ, họ hàng, bạn bè,
khách đến tặng nhiều quà, trong đó có những món quà rất lớn, như ruộng đất,
tiền bạc. Sau lễ này cô gái có quyền làm người lớn, họ thường tổ chức lễ cưới
cho các cô gái từ rất sớm, thậm chí ngay sau lễ Karơh.
Chăm Islam: Tập tục cắt bao qui đầu không mang tính tượng trưng như
người Chăm Bàni, mà là cắt thật, đối với con gái thì cấm cung. Lễ cắt bao qui
đầu thực hiện cho con trai khi lên 13, 14 tuổi, họ xem đây là một nghĩa vụ bắt
buộc của một tín đồ Hồi giáo và nên tổ chức cùng lúc với lễ cắt tóc đặt tên cho
đứa trẻ, nhưng do lúc đó đứa trẻ còn trẻ nên đợi khi lên 13, 14 tuổi mới thực
hiện, họ thực hiện lễ này cho nhiều đứa trẻ cùng lúc. Khi thực hiện, chọn một
đứa trẻ bạo dạn để làm thí điểm cắt trước, khi cắt xong đứa trẻ được rít thuốc sát
trùng. Xưa kia do chưa có thuốc nên cắt xong nhiều trẻ bị mủ, chảy máu nhiều.
Ngày nay đã có nhiều thuốc có công hiệu, sẽ sớm lành lại nếu giữ gìn cho sạch
sẽ.
Đối với người con gái, tuy không làm lễ thức gì đánh dấu sự trưởng thành,
nhưng tập tục cổ truyền mặc nhiên quy định đến tuổi dậy thì thì con gái phải
sống một cuộc đời cấm cung “ Khuê môn bất xuất” không được tự do tiếp
chuyện con trai, dù người con trai đó ở trong làng.
Để ra ngoài, thường chỉ diễn ra ban đêm và họ phải đi cùng các bà già, phải đội
một chiếc khăn chùm đầu, che mặt, vì họ cho rằng những người đàn bà đi ra
ngoài đầu trần là những người hư hỏng.
3.Hôn nhân:
Hôn nhân đồng tôn giáo là nguyên tắc cơ bản trong chế độ hôn nhân của
người Chăm, đó là 3 tôn giáo: Bàni, Blamôn, Islam, theo họ nếu hôn nhân diễn
ra giữa những người khác dân tộc và khác tôn giáo là không đảm bảo tính thuần



khiết về dòng giống, khi chết con cái của họ sẽ không được chính thức hóa thân.
Blamôn không được vào “Kút” chính;Bàni không được trôn ở hàng chính trong
nghĩa địa, vì muốn bảo tồn tôn giáo hơn nữa vì theo chế độ mẫu hệ nên họ
không muốn có quan hệ hôn nhân với người tôn giáo khác, cư trú bên vợ sau
hôn nhân nên họ không muốn cho con mình đi lấy tộc người khác. Nguyên tắc
này cũng được phản ánh rõ nét trong lịch sử người Chàm, như trong trường ca
Chăm Bàni.
Bên cạnh hôn nhân đồng tôn giáo, hôn nhân đồng dân tộc cũng được đề cao,
khuyến khích ngoại hôn dòng họ, hiện nay vẫn được tuân theo một cách nghiêm
ngặt trong xã hội Chăm, hôn nhân anh em chồng, chị em vợ ngày nay đã không
còn nữa. Độ tuổi kết hôn tương đối sớm thôn thường con gái 16, con trai 18 là
đã xây dựng gia đình, trong hôn nhân mặc dù trai gái được tự do tìm hiểu nhưng
phần quyết định lại do cha mẹ xét duyệt. Việc kết hôn giữa các thế hệ bị cấm kị,
chế độ một vợ một chồng đã được thiết lập từ lâu đời, người đàn ông nào muốn
lấy vợ hai phải có lí do chính đáng, được vợ cả đồng ý. Vì theo chế độ mẫu hệ
nên cư trú bên vợ vẫn được tuân thủ nghiêm ngặt, người đàn ông cư trú bên vợ
nhưng không có quyền làm chủ, nếu li dị thì ra đi với tay không, phải để lại cho
vợ.
Đôi nét về sự giống và khác nhau trong hôn nhân của các nhóm Chăm.
Chăm Blamôn và Chăm Bà Ni có nhiều nét giống nhau và cũng có nhiều nét
giống nhau và cũng có nhiều nét khác nhau, đó là: lễ cưới của người Chăm Bàni
phức tạp hơn của người Chăm Blamôn vì duy trì lễ thức dân gian và tuân thủ lễ
thức của Hồi giáo . Người Chăm Bàni hiện nay vẫn còn duy trì nhiều nghi lễ cổ
truyền như người Chăm Blamôn, còn lại đa số đều theo hình thức Hồi giáo, điể
khác nhau cơ bản nhất trong lễ cưới của hai nhóm này đó là; ở Chăm Bàni chủ
lễ phải là người có chức sắc tôn giáo, phải là thầy cả đối với lễ cưới cho chức
sắc, phải tuyên thệ trước thượng đế Ala , gáo chủ Môhamat và hai vị thần Hô
Thanh – Hô Thai. Còn trong lễ cưới Blamôn các tang lữ không hiện diện và

không được làm chủ lễ.


Trong đám cưới người Chăm Bàni, có tục thầy cả vờ bắt được đôi trai gái ăn
nằm với nhau, đôi trai gái phải chịu hình phạt đánh roi, cầu xin thầy làm phép để
rửa tội, sau đó cha mẹ cô gái đến xin thầy Cả tha tội cho hai người đem về nuôi
dạy và chuẩn bị làm lễ cưới. Có thể thấy chế độ xã hội mẫu hệ chi phối trong
hôn nhân là điểm tương đồng, như các qui định về hôn nhân đồng tôn giáo, đồng
dân tộc.
Mặc dù bị tôn giáo chi phối, nhưng người Chăm Bàni cũng như Chăm
Blamôn đều là người con gái cưới rể, bên nhà trai đưa rể sang nhà gái, người
con trai cư trú bên nhà vợ, khi li dị người đàn ông ra đi với bàn tay trắng, khi
chết mới được nhập vào nghĩa địa dòng họ mẹ. Trong ba ngày cưới đôi tân hôn
cũng phải trải qua ba đêm cấm động phòng.
Nghi lễ cưới xin của người Chăm Islam bị chi phối sâu sắc của tôn giáo và
khác biệt với nghi lễ cưới xin của người Chăm Blamôn và Bàni, ở đó chế độ
mẫu hệ bị xóa nhòa, vai trò người phụ nữ bị coi nhẹ, bởi vì bị giàng buộc bởi
giáo luật Islam, vị trí người phụ nữ không bị coi trọng, tiếp xúc Nam, Nữ bị hạn
chế vì việc đó được coi là nguồn gốc của tội lỗi, do vậy vai trò hôn nhân do gia
đình quyết định. Trong khi lễ cưới của nhóm Blamôn và Bàni không có tục
thách cưới thì Chăm Islam lại có tiền dẫn cưới đó là tiền Đồng, tức tiền cưới
mang tính tượng trưng; tiền chợ, tức tiền nhà trai cho nhà gái để lo sửa soạn lễ
cưới, số tiền này rất lớn bao gồm cả tiền mua trang phục, lễ trang..
Như vậy, lễ cưới của người Chăm khác tôn giáo cũng có sự khác nhau rõ rệt,
trong khi hai nhóm Blamôn và Bàni lưu giữ nhiều nét truyền thống thì Islam bị
chi phối theo giáo luật, rời xa nếp văn hóa truyền thống. Bên cạnh đó, cũng thấy
rõ Chăm Bàni lễ cưới còn nhiều nét truyền thống nhưng bị chi phối nhiều bởi
nghi thức tôn giáo, mà cổ truyền nhất vẫn là Chăm Blamôn. Mà đặc điểm có
nhiều nghi vấn với tôi chưa thể lí giải đó là vì sao người Chăm Blamôn lại cấm
kị sự xuất hiện của chức sắc tôn giáo trong nghi lễ cưới xin.

2. Tang lễ:


Là việc người sống làm ma cho người chết, tiễn người chết về thế giới tâm linh,
ở người Chăm tôn giáo chi phối gần như mọi hoạt động tín ngưỡng trong đó có
tang lễ.
a.Tang lễ của Chăm Blamôn: Do ảnh hưởng của chế độ đẳng cấp trong xã hội,
mà trong đó có 4 đẳng cấp; Tu sĩ; Quí tộc; Thường dân; người ở, nô lệ. Nên tang
lễ đối với từng đẳng cấp trên đây cũng có sự khác nhau:
Những người thuộc đẳng cấp đầu tiên là tu sĩ được cử hành đám tang lớn, có
bốn thầy lễ, còn gọi là lễ 4 thầy.
Những người thuộc dòng quí tộc, trí thức lớn được cử hành đám tang lớn, có
4 thầy.
Những người thuộc hạng nghèo khổ, lao động chân tay được cử hành đám
tang nhỏ, có hai thầy lễ.Ngày nay xã hội Chăm Blamon chia làm 3 hạng: thứ
nhất, những người thuộc dòng tu sĩ; thứ hai, những người thuộc dòng thiêu, gồm
quí tộc, trí thức và cả những người lao động chân tay; thứ 3, những người thuộc
dòng chôn, là những người có dòng dõi thấp kém trong xã hội, cũng có ý kiến
cho rằng đây là những người nghèo khổ trong xã hội, không đủ điều kiện để
thực hiện hỏa thiêu.Đám tang của họ như vậy có thiêu và chôn, trẻ em sơ sinh và
dưới 15 tuổi, nếu chết đều đem đi chôn để trở về với cát bụi.
Quan niệm về cái chết: nếu khi chết trong nhà, có người thân bên cạnh thì
được coi là chết lành, nếu không thì sẽ là chết dữ,và có những điều không tốt
lành về sau. Lễ rửa tội; nếu là người chết thường thì làm tại ngay địa điểm tắt
thở, còn nếu chết vào ngày đại kỵ và chết bất đắc kỳ tử, thì phải mang ra ngoài
láng ruộng và tất cả thân tộc, nội ngoại đều tập trung bên cạnh người chết để cho
thầy làm lễ tống ma và yêu quái, không được quàn trong nhà và không được đưa
xác ra ngoài theo ngõ cổng thường lệ, mà phải phá rào phía tây để mang xác ra
ngoài.
Sau khi làm lễ rửa tội, xác người chết được quàn lại lâu hay nhanh là tùy

thuộc việc chôn cất sớm hay muộn. Sau đó mời thầy về làm lễ tiểu liệm, đó là
việc tắm rửa và mặc quần áo cho xác chết. Sau đó làm lễ đại liệm, đó là việc


mặc áo, trao áo, quần cho người chết, tùy thuộc vào tầng lớp đẳng cấp hay người
có tuổi mà được nhiều áo, quần hơn tầng lớp khác. Tiếp sau đó là buộc chỉ vào
hai ngón tay và hai ngón chân, rồi dùng chăn trắng để bó lại, 11 lớp nếu là dòng
quí tộc, 3 đến 5 lớp với người dân lao động.
Đám tang của họ phải được tiến hành trọng thể, đúng nghi thức cổ truyền, vì
họ quan niêmj, nếu không như vậy linh hồn người chết sẽ không được tiễn đi và
vấn vương nơi trần thế, sẽ ảnh hưởng đến người có vía yếu và người thân. Đám
tang dù là lớn hay nhỏ thì đều chỉ tiến hành trong 4 ngày là; 1 ngày cho ăn, một
ngày nghỉ, một ngày chém cây và một ngày hỏa táng. Theo quan niệm của họ,
xác người đã được làm phép, không thể thối được.
Đám tang nhỏ dành cho trẻ em thì rất đơn giản, chỉ tiến hành thường từ 1 đến
3 ngày, được chôn tại nghĩa địa gia tộc, đầu chôn hướng tây, nấm mả đắp theo
hình chữ nhật và không cao lắm.
Họ cho người chết ăn trước khi đem chôn, vì họ quan niệm ở thế giới bên kia
hồn vẫn có nhu cầu như ở đời sống cõi người, nên họ có lễ cho ăn gồm cả việc
làm phép tạo hình hài cho sự sống bên kia thế giới. Trong bữa ăn của người
sống khi thầy pasêh làm lễ cũng có phần của người chết. Sau bữa cơm là việc
đọc kinh siêu thoát cho linh hồn người chết.
Lễ chém cây, thực hiện vào ngày thứ 3 , do thầy Ragay thực hiện, lễ được kết
thúc vào buổi chiều trong ngày, trong đám tang của họ đối với thức ăn chủ yếu
làm từ các loài vật đẻ như gà, vịt, cá… không dùng thịt vật đẻ như he, trâu, bò..
Cuối cùng là lễ hỏa táng: thực hiện khi ban nhạc chấm dứt, gia chủ dọn cơm,
bánh cho các thầy cúng và họ hàng ăn uống sau đó chuẩn bị đưa người quá cố
đến hỏa thiêu. Việc khiêng người chết được tiến hành bởi 4 người, đồng phục
màu trắng, họ phải được tắm rửa sạch sẽ. Đi được nửa đường thì thầy làm phép
đưa linh hồn người chết lên thiên đàng.

Sau khi thiêu họ nhập Kút: sau khi thiêu mặc dù tro xương cốt đã rắc xuống
biển, biểu hiện của thần Siva nhưng họ muốn con cháu được tưởng nhớ, nên họ
để lại 9 mảnh xương trán thân nhân mang về thờ phượng. Kut là mộ chí của


Chăm Blamôn, tượng Kut được làm bằng đá, thương lấy từ giữa Sông, hay bờ
biển, có nhiều hình dạng khác nhau, biến đổi theo thời gian. 9 mảnh xương trán
được họ để vào hộp Klong được giáu rất kín trong rừng hoặc bụi dậm, vì nếu
mất nó là điều bất hạnh. Tuy nhiên không phải ai chết cũng được vào Kút, họ
phải là những người chết bình thường, thể xác toàn vẹn, không bị lai dân tộc và
tôn giáo, không chết bụi, chết đuối..họ có nghĩa trang chung của dòng họ ( mẹ)
để lập Kut. Khi nhập phải có lễ mở cửa, để đem chôn xương người chết mới.
a.Tang lễ của Chăm Bàni:
Đơn giản hơn tang lễ của Chăm Blamôn, có điểm chung là đều có mặt tang
chế ở chỗ nghĩa địa có tinh thần rất lớn, đối với sinh hoạt gia đình và tộc họ.
Đây là điểm chung cho việc tượng trưng thống nhất tư tưởng giữa những người
cùng huyết thống bên tộc mẹ, chỉ có những người thân thuộc tính theo hệ mẹ
mới được đem ăn táng ở nghĩa địa, nghi lễ của Chăm Bàni cũng đạm lên sự ảnh
hưởng của tôn giáo như Chăm Blamôn.
Khác với Chăm Blamôn, Chăm Bàni có quan niệm chung của người Hồi giáo
là chôn người chết càng sớm càng tốt, không để xác chết lâu trong nhà. Việc
khiêng người chết được tiến hành bởi 8 người, dẫn đầu là ông thầy đã cho xác
chết uống nước,đi được nửa đường, thầy Char làm phép trở đầu xác chết chứ
không thực sự mở đầu quan tài như trong đám tang Chăm Blamôn. Đi được
đoạn nữa 4 thầy Char leo lên giàn khiêng ngồi 4 góc để đọc kinh gọi linh hồn
dắt hồn người chết. Ki đến nghĩa địa bắt đầu đào huyệt, trong chôn người chết là
người thường họ không dùng tấm Ván như Chăm Islam, mà họ chỉ dùng ván cho
thầy cả khi mất, hai bên hai tâm và bên trên một tấm.
Mộ không được đắp cao và cũng không xây cất, dù là nhà giàu có thì cũng
chỉ để hai đầu mộ hai hòn đá. Họ là nhóm Chăm có tục chôn tạm và làm lễ cải

táng sau một vài năm. Người chết phải chôn tạm là những người chết xấu, chết
bất đắc kỳ tử như người đàn bà chết lúc mang thai, chết lúc sinh đẻ. Thì không
được chôn ngay trong nghĩa trang, mà phải nằm lẻ một thời gian, chờ khi xác
tan hết thịt thì đào lên đem chôn nghĩa địa của dòng họ. Việc cải táng được thực


hiện như đám tang bình thường khác, họ qui định số thầy trong từng loại đám
tang, trong nghĩa địa chia thành từng dãy; cao, trung bình, thấp, người nào có
địa vị xã hội nào thì chôn vào dãy tương ứng, số thầy Char thì chia thành 4
trường hợp: đám có 2 thầy char, dành cho trẻ em chết vào lúc dưới 10 tuổi. Đám
6 thầy Char; dành cho những người chết chưa trải qua lễ rửa tội; đám có 13 thầy
Char dành cho những người chết đã chịu lễ rửa tội; đám có 17 thầy Char dành
cho thầy cả của đạo Bani.
Lễ rửa tộilà một thánh lễ của Chăm Bàni, mục đích là tẩy rửa cho mọi tội
lỗi của người lớn tuổi để khi chết không còn mang thêm những tội lỗi mà người
ấy đã phạm ở tế gian, lễ tuy đơn giản nhưng mang ý nghĩa lớn về tôn giáo, quyết
định số thầy sẽ làm ma cho mình sau này.
Sau lễ tang, người Chăm Bàni có các nghi lễ làm tuần, hiện nay đã được đơn
giản hóa nhiều, hầu hết chỉ còn làm một lần, được thực hiện một, hai ngày sau
khi chôn, sau lễ này không còn lễ nào cho người vừa mới chết nữa. hàng năm
đến ngày tảo mộ họ cũng chung cho người chết chứ không cúng riêng nữa. Lễ
tảo mộ hàng năm vào tháng chay tịnh của đạo Hồi. Sau khi tảo mộ, mọi nhà làm
lễ cúng ông bà, tổ tiên, cúng chung cho những người đã qua đời. Trong từng
dòng họ, họ tổ chức cũng tại nhà người lớn tuổi nhất, sau đó tuần tự đến những
người kế, thời gian cùgs ông bà là hai ngày.
a.Tang lễ của người Chăm theo đạo Islam:
Được thực hiện đúng như theo luật đạo quy định, khi gia đình thấy người
bệnh giây phút hấp hối thì họ đặt quay đầu người hấp hối về hướng Tây, nơi tọa
lạc thánh địa của người Hồi giáo. Họ đọc kinh cho người hấp hối nghe, vì họ tin
rằng như vậy trí óc của bệnh nhân sẽ được sáng suốt và trút linh hồn với đầy đue

đức tin của người Hồi giáo.
Họ không muốn thân nhân khóc khi có người ra đi, kể cả trong lúca đám
tang, họ cũng như Chăm Bàni không đi xác người chết lâu trong nhà, cũng chôn
cất sơ sài, theo họ xác chết càng sớm tiêu càng tốt vì vậy không để hòm. Sau khi
khâm liệm họ đưa người chết đi chôn, tử thi đặt trên một tấm ván do nhiều thanh


niên khiêng.Việc đám tang cũng như đưa tang được tiến hành một cách lạng lẽ,
không kèn trống, tiếng khóc, đoàn người đưa tang thi thoảng dừng lại vì họ quan
niệm để cho linh hồn người quá cố tâm tình với cỏ cây.
Mộ nhà giàu và nhà nghèo đều được đắp như nhau, không xây mộ, mộ được
đắp hoàn toàn bằng với mặt đất, hai đầu có hai hòn đá như Chăm Bàni. Đắp
xong mộ thân nhân ngồi xung quanh để đọc kinh, sau đó họ về. Trong tối hôm
chôn cất người thân và người làng cùng tập trung trong nhà người có tang để
đọc kinh cho người đã chết. Người Chăm đạo Islam cũng làm tuần cho người
chết, trong các buổi lễ này họ không lạy vì việc lạy chỉ để dành cho thượng đế
Ala thôi.
d.Tiểu kết:Như vậy nhìn chung các nhóm Chăm có nghi lễ tang ma và quan
niệm cõi chết khác nhau cơ bản, đó là sự ảnh hưởng của tôn giáo, chẳng hặn một
bên chết thì thổ tháng, một bên chết thì hỏa táng. Cũng có những điểm chung là
bị chi phối bởi chế độ mẫu hệ, nghĩa địa là nơi cư trú tổ tiên dòng họ mẹ. Lễ
tang của Chăm Islam được thực hiện đúng như giáo luật qui định, điểm khác
biệt nhất đó là người Chăm Islam không tin rằng vong hồn người chết có thể che
trở hay phù hộ cho người sống nên không có việc giỗ kỵ, thờ cúng tổ tiên như ở
Chăm Blamôn và Bàni.
3.Kết luận.
Như vậy, trong ba tôn giáo ở miền Trung nước ta, người Chăm Islam đã
thay đổi cơ bản những nét cơ bản văn hóa truyền thống Chăm: đó là những quy
định của hồi giáo mẫu hệ đã nhường chỗ cho chế độ phụ quyền. Người Chăm
Bàni một kiểu Hồi giáo đã bị Chăm hóa, tuy đã bị bản địa hóa nhưng những

nghi lễ vòng đời người cũng như các phong tục tập quán vẫn chịu sự chi phối
của tôn giáo. Ở người Chăm Blamôn, phong tục tập quán cũng như các nghi lễ
vòng đời người vẫn còn giữ được nhiều nét bản địa.



×