Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

khảo sát việc thực hiện luật bảo vệ, giáo dục, chăm sóc trẻ em.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.53 KB, 10 trang )

QUỐC HỘI KHÓA XIII
ỦY BAN VĂN HÓA, GIÁO DỤC,
THANH NIÊN, THIẾU NIÊN VÀ NHI ĐỒNG

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

Hà Nội, ngày 20 tháng 10 năm 2015

Số: 1728/BC-UBVHGDTTN13

BÁO CÁO KẾT QUẢ KHẢO SÁT
Việc thực hiện Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
giai đoạn (2004-2014)
I. KẾT QUẢ THỰC HIỆN LUẬT BẢO VỆ, CHĂM SÓC VÀ GIÁO DỤC TRẺ EM

1. Thực hiện nhiệm vụ quản lý Nhà nước về trẻ em
1.1. Việc ban hành văn bản pháp luật và chính sách về trẻ em
Tuy nhiên, việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật để cụ thể hóa các quy
định của Luật BVCSGDTE còn chậm và chưa đầy đủ: Sau khi Luật ban hành được
một năm, Chính phủ mới ban hành Nghị định số 36/2005/NĐ-CP ngày 17/03/2005
quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật; sau hai năm Chính phủ mới ban
hành Nghị định số 114/2006/NĐ-CP ngày 03/10/2006 quy định về xử phạt vi phạm
hành chính về dân số và trẻ em. Về trách nhiệm bảo đảm thực hiện quyền tiếp cận
thông tin, bày tỏ ý kiến, tham gia các hoạt động xã hội (Điều 20, Luật
BVCSGDTE) đến năm 2011 mới được Chính phủ quy định chi tiết tại Nghị định
số 71. Năm 2008, giải thể Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em, chức năng quản lý
nhà nước (QLNN) về bảo vệ, chăm sóc trẻ em được giao cho Bộ Lao động,
Thương binh và Xã hội, Nghị định 36/2005/NĐ-CP không còn phù hợp, nhưng đến
năm 2011 mới có Nghị định số 71/2011/NĐ-CP thay thế. Đồng thời, từ sau khi


giải thể UBDSGĐTE đến nay, Chính phủ vẫn chưa ban hành văn bản nào giao cơ
chế điều phối liên ngành cho Bộ trưởng Bộ LĐTBXH (cơ quan QLNN về trẻ em)
để cơ quan này thực hiện nhiệm vụ giao ban định kỳ nhằm truyền tải và thu nhận
thông tin hai chiều với các bộ, ngành Trung ương trong công tác BVCSGDTE.
1.2. Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về BVCSGDTE
Tuy nhiên, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật của các ngành,
các cấp về BVCSGDTE chưa sâu rộng, chủ yếu được tổ chức theo đợt, chưa có
tính thường xuyên, liên tục, hình thức chưa linh hoạt; thông tin một chiều, phổ biến
là chính và không có kênh nhận phản hồi. Đối tượng tuyên truyền chủ yếu là cán
bộ, công chức các ngành, các cấp, chưa tập trung, chú trọng vào những nhóm đối
tượng cần tuyên truyền nhất là gia đình và bản thân trẻ em thuộc nhóm trẻ em có
HCĐB, trẻ em có nguy cơ rơi vào HCĐB; trẻ em vùng sâu, vùng xa, miền núi,
biên giới, hải đảo. Các kênh truyền thông đại chúng chưa duy trì được chuyên mục
riêng về phổ biến pháp luật BVCSGDTE, giờ và thời lượng phát sóng truyền hình
về nội dung này chưa phù hợp để các gia đình tiếp cận. Do thiếu cơ chế điều phối
liên ngành nên công tác tuyên truyền liên quan đến trẻ em chưa phát huy nguồn lực
1


để bám sát các mục tiêu đặt ra, do đó chưa khắc phục được tình trạng lãng phí
trong sử dụng nguồn lực cho công tác này.
Nhiều ban, ngành, đoàn thể cùng tham gia công tác tuyên truyền nhưng thiếu
kế hoạch tổng thể, không có cơ quan làm đầu mối chịu trách nhiệm hướng dẫn,
kiểm tra, giám sát, dẫn đến tình trạng chồng chéo hoặc bỏ sót nội dung, bỏ sót địa
bàn, đối tượng… nên chưa đem lại hiệu quả cao theo mong muốn.
Mặt khác, đa số các dự thảo luật đã ban hành có nội dung liên quan đến trẻ
em đều chưa được chuyển thể theo ngôn ngữ của trẻ em để truyên truyền, phổ
biến, giáo dục pháp luật cho trẻ em; chương trình, giáo trình, thiết bị, tài liệu phục
vụ công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật chưa có sự đổi mới nên chưa
thu hút được sự quan tâm của trẻ em.

1.3. Công tác phối hợp liên ngành
Tuy nhiên, sau khi Ủy ban dân số, gia đình và trẻ em (UBDSGĐTE) giải thể,
mô hình tổ chức liên ngành không còn tồn tại, chỉ một số tỉnh, thành phố có điều
kiện mới duy trì được hình thức Ban chỉ đạo hoặc nhóm công tác liên ngành về bảo
vệ, chăm sóc trẻ em cấp tỉnh, cấp huyện1. Hầu hết các cấp, các địa phương, công
tác phối hợp liên ngành trong BVCSGDTE gặp nhiều khó khăn do chưa có cơ chế
điều phối cụ thể. Vì công tác BVCSGD trẻ em liên quan đến nhiều bộ, ngành, đơn
vị nhưng sự phối hợp lại chỉ mang tính vụ việc dựa trên trách nhiệm được phân
công tại từng chương trình, đề án, chưa đủ cơ chế điều phối để yêu cầu các ngành
cung cấp thông tin, số liệu, báo cáo việc thực hiện trách nhiệm của ngành mình
một cách thường xuyên và toàn diện. Số liệu báo cáo của các bộ, ngành trung
ương; các sở, ngành địa phương về trẻ em thường thiếu thống nhất, thiếu cập nhật
để chuyển về cơ quan QLNN về trẻ em nhằm kịp thời điều chỉnh, bám sát mục tiêu
đặt ra...
Do thiếu cơ chế điều phối liên ngành, thiếu vai trò “nhạc trưởng” nên việc
lồng ghép các vấn đề về trẻ em vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 5
năm và hằng năm ở các địa phương chưa được bàn bạc để thống nhất thực hiện.
Các chương trình, đề án trong lĩnh vực trẻ em hiện nay còn phân tán ở nhiều
ngành, theo tiêu chí của từng ngành, chưa có sự liên kết với các ngành liên quan để
xác định mục tiêu chung, chọn địa bàn đầu tư chương trình cho phù hợp và sử
dụng những kết quả đã có từ các nghiên cứu, mô hình thí điểm, các cuộc điều tra,
khảo sát làm cơ sở dữ liệu nguồn chung của các ngành,…Vì vậy, đã xảy ra tình
trạng có những nội dung nhiều ngành cùng thực hiện; nhiều cơ sở triển khai trùng
lặp hoạt động của các ngành, gây lãng phí nguồn lực, nhưng có nơi lại không có
hoặc có rất ít hoạt động liên quan đến trẻ em, tình trạng công tác BVCSGDTE bị
bỏ ngỏ hoặc thiếu sự quan tâm chăm lo không hiếm gặp ở một số địa phương….

1

2



1.4. Nguồn lực dành cho công tác BVCSGDTE
1.4.1. Đội ngũ cán bộ làm công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em (BVCSTE)
Tuy nhiên, việc giải thể Ủy ban DSGĐTE đã làm phân tách đội ngũ cán bộ
làm công tác BVCSTE các cấp về các ngành khác nhau, gây nên sự thiếu hụt cán
bộ, đặc biệt là cán bộ chuyên trách cấp huyện, cấp xã và cộng tác viên thôn, ấp,
bản, khu dân cư. Hiện nay, cán bộ BVCSTE cấp huyện và cấp xã chủ yếu kiêm
nhiệm và hầu hết cấp xã đều không có cán bộ làm công tác trẻ em (UBND cấp xã
chỉ giao thêm lĩnh vực trẻ em cho cán bộ LĐTBXH phải kiêm nhiệm thêm trong
khi họ đang phải cáng đáng quá nhiều nhiệm vụ) 2, vì vậy họ khó có thể hoàn thành
nhiệm vụ được giao. Mặt khác, toàn bộ mạng lưới CTV thôn, ấp, bản, khu dân cư
đều chuyển sang làm công tác DS-KHHGĐ, không có người theo dõi về trẻ em.
Tình trạng thiếu cán bộ này đã kéo dài nhiều năm 3 nhưng cho đến nay vẫn chưa có
văn bản hướng dẫn từ trung ương, chưa có phương án kiện toàn đội ngũ này từ
Chính phủ, nên nhiều địa phương chưa chủ động tìm giải pháp khắc phục. Bên
cạnh đó, việc bố trí QLNN về trẻ em và gia đình tách về trực thuộc 2 bộ ngành
khác nhau cũng tạo ra nhiều bất cập. Ủy ban VHGDTTN đã chính thức kiến nghị
về nội dung này nhưng đến nay vẫn chưa được Chính phủ quan tâm thỏa đáng.
1.4.2. Ngân sách cho BVCSGDTE
Tuy nhiên, việc phân bổ ngân sách cho công tác BVCSGDTE hiện nay còn
nhiều bất cập, chưa có dòng ngân sách riêng cho sự nghiệp bảo vệ trẻ em và
BVCSGDTE có HCĐB. Về tổng thể, sự đầu tư ngân sách nhà nước cho sự nghiệp
BVCSGDTE chưa tương xứng giữa ba lĩnh vực giáo dục, chăm sóc và bảo vệ trẻ
em (ngân sách chi cho sự nghiệp giáo dục chiếm tới 94,54%). Ngân sách chi cho
bảo vệ trẻ em hiện không có mục chi riêng mà chỉ được bố trí một phần nhỏ trong
mục chi đảm bảo xã hội (bằng 8,44% tổng chi đảm bảo xã hội), chỉ chiếm 0,07%
tổng chi NSNN cho BVCSGDTE4 (chủ yếu để trợ cấp trực tiếp cho trẻ em có
HCĐB). Trong mục chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp BVCSGDTE, cơ quan
hữu quan đã không xem xét tới tỷ lệ trẻ em có HCĐB và không dựa vào từng loại

trẻ em có HCĐB khác nhau để làm căn cứ phân bổ cho phù hợp với từng địa
phương, vùng miền...
2. Đảm bảo thực hiện các quyền của trẻ em
2.1. Về bảo vệ trẻ em
Tuy nhiên, công tác bảo vệ trẻ em còn nhiều bất cập. Đối tượng trẻ em có
nguy cơ rơi vào HCĐB đang ngày một tăng cao. Tính đến năm 2014, số trẻ này
chiếm 8,36% tổng số trẻ em, lớn hơn tỷ lệ trẻ em có HCĐB 5. Việc bảo vệ sự công
bằng trong thụ hưởng NSNN với một số nhóm trẻ em có HCĐB chưa được Chính
phủ đặt ra dựa trên cách tiếp cận quyền của trẻ em, đặc biệt là việc bảo vệ trẻ em

2
3

4
5

3


trước sự phân biệt đối xử, sự hòa nhập cộng đồng của nhóm trẻ em khuyết tật, tàn
tật, trẻ em bị nhiễm HIV/AIDS…
Mặt khác, công tác bảo vệ trẻ em trước tệ nạn rượu chè, trước sự xuống cấp về
đạo đức của một bộ phận người lớn đang đe dọa sự an toàn của trẻ ngay tại gia
đình của mình chưa được cơ quan hữu quan đặt ra. Tình trạng bạo lực, xâm hại trẻ
em không chỉ diễn ra trong cộng đồng hay tại nơi làm việc mà còn diễn ra ngay tại
gia đình, nhà trường và các cơ sở chăm sóc trẻ em tập trung đang gây bức xúc dư
luận. Đối tượng bạo lực, xâm hại trẻ em thuộc nhiều thành phần, lứa tuổi: người
quen, người lạ, người thân trong gia đình, thầy cô giáo, bạn bè trong và ngoài nhà
trường... Các loại bạo lực, xâm hại trẻ em thường gặp bao gồm: xâm hại tính
mạng, sức khỏe; xâm hại tình dục trẻ em; bạo lực tinh thần; buôn bán, bắt cóc trẻ

em; dụ dỗ, chứa chấp trẻ em phạm pháp. Mặc dù cơ quan quản lý nhà nước về trẻ
em đã có sự đánh giá về nguy cơ rơi vào hoàn cảnh đặc biệt của các đối tượng trẻ
em nêu trên, nhưng vẫn chưa có biện pháp tổng thể để kịp thời can thiệp. Việc trợ
giúp cho trẻ em có nguy cơ rơi vào hoàn cảnh đặc biệt hiện vẫn còn quy định phân
tán tại nhiều văn bản, chương trình, kế hoạch hành động. Hơn nữa, đối tượng này
chưa được điều chỉnh trong Luật nên chưa có cơ sở để xây dựng chính sách hỗ trợ.
Hệ thống cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em được xây dựng và thực hiện trong
khuôn khổ Chương trình bảo vệ trẻ em giai đoạn 2011-2015, chưa được quy định
trong Luật, tính ràng buộc pháp lý chưa cao nên việc thành lập các ban điều hành
và nhóm công tác liên ngành từ cấp tỉnh đến xã, phường, cụm dân cư tại một số địa
phương chỉ là biện pháp tạm thời, không bền vững. Nhiều địa phương chưa thể xây
dựng và kiện toàn được các tổ chức phối hợp liên ngành và dịch vụ bảo vệ trẻ em ở
cả ba cấp chính quyền địa phương. Thêm vào đó, việc vận hành hệ thống bảo vệ
trẻ em để triển khai công tác phòng ngừa, can thiệp, giảm thiểu nguy cơ trẻ em rơi
vào HCĐB hiện gặp nhiều khó khăn do thiếu sự phân công cụ thể về trách nhiệm
cung cấp dịch vụ theo chức năng của các ngành, các tổ chức trong hệ thống.
Việc sử dụng một số khái niệm liên quan đến bảo vệ trẻ em thiếu thống nhất
và không rõ ràng6. Việc sử dụng các thuật ngữ thiếu thống nhất và không quy định
rõ ràng đã gây trở ngại cho quá trình xác định hành vi vi phạm quyền trẻ em và
đánh giá mức độ vi phạm của chủ thể7. Các biện pháp bảo vệ trẻ em tham gia trong quá
trình tố tụng dân sự, hình sự và xử lý vi phạm hành chính chưa được quy định tại
các văn bản quy phạm pháp luật. Trẻ em là đối tượng dễ bị tổn thương tinh thần và
thường thiệt thòi về quyền lợi, nhưng chưa có quy trình thân thiện áp dụng riêng
cho trẻ em trong quá trình tố tụng và xử lý vi phạm. Đối tượng này không chỉ có ở
trẻ em bị vi phạm pháp luật mà còn có ở cả trẻ em là người bị hại, là nhân chứng
của vụ án.
2.2. Về chăm sóc trẻ em
Tuy nhiên, công tác chăm sóc trẻ em còn nhiều khó khăn, thách thức: Nhiều
cơ sở y tế cấp xã, đặc biệt ở khu vực vùng sâu, vùng xa, miền núi, biên giới, hải
6

7

4


đảo chưa được đầu tư đầy đủ để cung cấp các dịch vụ chăm sóc y tế cơ bản cho trẻ
sơ sinh và bà mẹ, gần 70% các ca tử vong ở trẻ dưới 1 tuổi xảy ra ở tháng đầu tiên
và 52% các ca tử vong ở trẻ dưới 5 tuổi thuộc các địa phương khó khăn. Tỷ lệ tử
vong trẻ em ở các khu vực nông thôn miền núi cao gấp 2 đến 2,5 lần khu vực nông
thôn và thành thị.
Tiêm chủng mở rộng cho trẻ em còn nhiều thách thức: hiện còn khoảng 5% số
huyện tỉ lệ tiêm chủng đầy đủ cho trẻ dưới 1 tuổi chưa đạt tỉ lệ 90%. Tại một số
tỉnh miền núi khó thực hiện việc tiêm vắc xin viêm gan B liều sơ sinh trong vòng
24 giờ do tình trạng sinh con tại nhà còn phổ biến. Việc xử lý các trường hợp trẻ tử
vong sau tiêm chưa kịp thời, gây bức xúc trong dư luận xã hội. Ngoài ra, còn xảy
ra tình trạng thiếu, khan hiếm vắcxin dịch vụ 8; một số bệnh truyền nhiễm hiện nay
chưa có vắc xin đặc trị gây hoang mang, lo lắng cho nhân dân. Tỷ lệ suy dinh
dưỡng trẻ em tuy đã giảm, nhưng vẫn cao hơn các nước trong khu vực và có sự
khác biệt rất rõ giữa các vùng miền, tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em ở khu vực miền
núi còn khá cao, đặc biệt khu vực Tây Nguyên, Tây Bắc cao hơn rất nhiều so với
khu vực đồng bằng, đô thị. Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng thể thấp còi giảm chậm (tỷ
lệ suy dinh dưỡng thể thấp còi năm 2004 là 30,7%, năm 2014 là 24,9%); đã xuất
hiện và gia tăng nhanh tình trạng thừa cân, béo phì ở trẻ dưới 5 tuổi, tập trung
nhiều ở các thành phố.
Cơ sở vật chất, thiết bị y tế nhiều nơi còn lạc hậu; hạn chế về nhân lực, đặc
biệt thiếu bác sĩ chuyên khoa nhi; bộ máy y tế chưa được đổi mới về phương thức
hoạt động, các dịch vụ y tế chưa đáp ứng được nhu cầu người dân trong bối cảnh
các bệnh truyền nhiễm tăng nhanh, dịch bệnh diễn biến phức tạp…
2.3. Về giáo dục trẻ em
Tuy nhiên, giáo dục mầm non và phổ thông còn nhiều khó khăn, bất cập: Đầu

tư cho giáo dục mầm non chưa đáp ứng yêu cầu, chủ yếu phụ thuộc vào nguồn
ngân sách của Nhà nước và mới tập trung cho các cơ sở giáo dục công lập là chủ
yếu; cơ chế tài chính chậm đổi mới, thiếu công bằng cho đối tượng thụ hưởng,
chưa tháo gỡ cơ chế đầu tư cho các cơ sở giáo dục ngoài công lập chất lượng cao
dựa trên cơ sở công bằng trong thụ hưởng NSNN. Công tác xã hội hoá trong đầu tư
cho giáo dục còn rất hạn chế, tỉ lệ trường ngoài công lập còn thấp, đa số các địa
phương chưa có chính sách mạnh để thu hút nhà đầu tư,... Ngành hữu quan chưa
tích cực phối hợp với chính quyền địa phương tìm giải pháp giảm sĩ số học sinh
trong các trường công, mục tiêu vì lợi ích tốt nhất cho trẻ em đang bị hiểu lệch lạc.
Việc phát triển hệ thống trường, lớp mầm non ở miền núi, vùng sâu, vùng xa
gặp nhiều khó khăn do địa bàn dân cư thưa thớt, không tập trung, giao thông trở
ngại9, thiếu quy hoạch bền vững. Loại hình trường mầm non ngoài công lập mới
chỉ phát triển ở các thành phố lớn và một số địa phương có nhiều khu công nghiệp,
khu chế xuất; loại trường này có xu thế giảm do thiếu cơ chế hỗ trợ nguồn lực của
Nhà nước trên cơ sở đảm bảo công bằng trong thụ hưởng NSNN nên các địa
phương phần lớn đã chuyển đổi các trường mầm non bán công, dân lập sang công
8
9

5


lập10. Nhiều địa phương khi phê duyệt khu công nghiệp, khu chế xuất nhưng chưa
đặt ra yêu cầu nhà đầu tư phải có quy hoạch xây dựng trường, lớp mầm non phục
vụ nhu cầu gửi trẻ của công nhân, dẫn đến tình trạng công nhân phải gửi con ở các
nhà trẻ tư, nhóm trẻ gia đình không đảm bảo an toàn.
2.4. Thực hiện quyền vui chơi giải trí của trẻ em
Hoạt động vui chơi, giải trí giữ vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát
triển toàn diện về thể lực, trí tuệ và khả năng giao tiếp xã hội của trẻ em. Quyền
vui chơi, giải trí là một trong những quyền cơ bản của trẻ em đã được Luật định:

“trẻ em có quyền vui chơi, giải trí lành mạnh, được hoạt động văn hoá, nghệ thuật,
thể dục, thể thao, du lịch phù hợp với lứa tuổi ” (Điều 17, Luật BVCSGDTE).
Theo đó, gia đình, nhà trường và xã hội đều có trách nhiệm trong việc bảo đảm
thực hiện quyền vui chơi, giải trí của trẻ em (Điều 29). Các văn bản quy phạm
pháp luật hướng dẫn thực hiện Luật đã quy định cụ thể trách nhiệm của các bộ,
ngành trong việc đảm bảo thực hiện quyền vui chơi, giải trí của trẻ em. Đến nay,
đã có các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến lĩnh vực này như Chiến lược
phát triển văn hóa đến năm 2020; Chương trình hành động của Chính phủ về phát
triển dịch vụ giai đoạn 2009-2011; quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống thiết chế
văn hóa, thể thao cơ sở giai đoạn 2013-2020, định hướng đến năm 2030. Ngoài các
văn bản quy phạm pháp luật nêu trên, Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh đã
chủ động ban hành các văn bản chỉ đạo và phối hợp với một số bộ, ngành hữu quan
hướng dẫn việc tổ chức và hoạt động của hệ thống Cung, nhà thiếu nhi, trung tâm
hoạt động thanh thiếu niên. Đây cũng là cơ sở để các tỉnh, thành đoàn đề xuất với
UBND cấp tỉnh, cấp huyện có giải pháp phát triển hệ thống này tại địa phương.
Cơ sở vật chất để đảm bảo thực hiện quyền vui chơi, giải trí của trẻ em trên
toàn quốc hiện có 6.901 điểm vui chơi cho trẻ em, trong đó 140 điểm ở cấp tỉnh,
607 điểm ở cấp huyện và 6.154 ở cấp xã. Bên cạnh đó là hệ thống Cung, nhà thiếu
nhi do Đoàn TNCSHCM quản lý, bao gồm: 70 Cung, nhà thiếu nhi, trung tâm hoạt
động thanh thiếu nhi cấp tỉnh, thành phố; 192 Nhà thiếu nhi cấp quận, huyện và
các ngành; 01 Trung tâm hướng dẫn hoạt động thiếu nhi Trung ương11.
Mặc dù trách nhiệm của cơ quan Nhà nước và tổ chức Đoàn thể đối với việc
đảm bảo quyền vui chơi, giải trí cho trẻ em đã được quy định rõ trong các văn bản
hướng dẫn thực hiện Luật BVCSGDTE12, nhưng công tác chỉ đạo, triển khai thực
hiện các quy định của pháp luật vẫn còn chậm và chưa đầy đủ: Năm 2005, Bộ
VHTTDL đã được giao trách nhiệm chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành có liên
quan xây dựng và chỉ đạo thực hiện quy hoạch, kế hoạch và khuyến khích đầu tư
10

Lu t Giáo d c n m 1998 quy n h 4 lo i hình tr n g m m non (công l p, bán công, dân l p, t th c), Năm 2005

cả nước có 4.669 trường mầm non bán công, nhưng Lu t Giáo d c n m 2005 ch quy n h 3 lo i hình tr n g
(công l p, dân l p, t th c) nên s tr n g bán công ph i chuy n sang lo i hình qu n lý khác.
11
Theo: Báo cáo Kết quả thực hiện Luật BVCSGDTE giai đoạn 2004-2014 ngày 04/05/2015 của Ban chấp hành
Trung ương Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh (phục vụ Đoàn khảo sát của UBVHGDTTN)
12
Điều 30, Nghị định 36/2005/NĐ-CP ngày 17/03/2005 của Chính phủ hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
BVCSGDTE; Điều 34, Nghị định 71/2011/NĐ-CP ngày 22/08/2011 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn
thi hành một số điều của Luật BVCSGDTE.

6


các cơ sở vui chơi, giải trí cho trẻ em, nhưng đến năm 2013 Quy hoạch tổng thể
phát triển hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở giai đoạn 2013-2020, định
hướng đến năm 2030 mới được phê duyệt và ban hành.
Việc đầu tư cho các cơ sở vui chơi, giải trí cho trẻ em ở các địa phương còn
nhiều hạn chế cả về số lượng và chất lượng. Về số lượng, hiện nay, số điểm vui
chơi, giải trí cho trẻ em chỉ đáp ứng 55% so với nhu cầu thực tế (6.154 điểm vui
chơi cấp xã so với 11.161 đơn vị hành chính cấp xã, phường, thị trấn) 13, thiếu trầm
trọng cả ở thành thị và nông thôn, nhất là ở thành phố lớn (TP Hà Nội có những địa
bàn như Phường Trung Phụng, quận Đống Đa, có 17.000 dân nhưng chỉ có 30 m2
diện tích dành cho các hoạt động công cộng, vui chơi). Hầu hết các điểm vui chơi,
giải trí chỉ tập trung ở các trung tâm huyện, thị xã, thị trấn nên không đáp ứng
được nhu cầu vui chơi, giải trí cho các em ở vùng sâu, vùng xa.
Về chất lượng, theo khảo sát thực tế tại các địa phương cho thấy có rất ít điểm
vui chơi đảm bảo các tiêu chí để phục vụ cho trẻ em, đa số tận dụng tạo không gian
vui chơi cho trẻ em tại các nhà văn hóa thôn, tổ dân phố. Các thiết chế văn hóa ở
cơ sở đa phần không có đồ chơi hoặc chỗ chơi cho trẻ em. Nhiều khu vui chơi giải
trí đã xuống cấp, hư hỏng, không có kinh phí để sửa chữa14.

2.5. Thực hiện quyền tham gia của trẻ em
Tuy nhiên, sau 10 năm thi hành Luật (2004-2014), vẫn tồn tại khoảng trống
pháp luật về quyền tham gia của trẻ em, chưa có một văn bản chính thức nào
hướng dẫn cụ thể việc thực hiện Quyền được tiếp cận thông tin, bày tỏ ý kiến và
tham gia hoạt động xã hội của trẻ em.
Các hoạt động tham gia của trẻ em hiện tại còn mang nặng tính sự kiện, chưa
có cơ chế, quy định về sự tham gia thường xuyên của trẻ em, chưa chỉ rõ cơ quan
đại diện tiếng nói trẻ em và thực hiện nhiệm vụ tiếp nhận, gửi ý kiến, kiến nghị của
trẻ em đến các cơ quan chức năng đề nghị giải quyết và giám sát việc thực hiện đó
đứng từ góc độ trẻ em để đảm bảo nguyên tắc vì lợi ích tốt nhất cho mọi trẻ em.
Diễn đàn trẻ em là hoạt động chính thức cho trẻ em tham gia nhưng tiêu chí bình
chọn đại diện trẻ em tham dự diễn đàn còn chưa rõ ràng, khoa học, hợp lý, trẻ em ở
các khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, trẻ em có HCĐB ít có cơ hội
được tiếp cận và tham dự diễn đàn; trẻ em tham gia diễn đàn bị hạn chế về số
lượng và số lần tham dự15. Chỉ có một số lượng nhỏ trẻ em biết đến diễn đàn, chủ
yếu là trẻ em ở thành thị và các vùng dự án của các tổ chức quốc tế. Việc lắng
nghe, phản hồi ý kiến, nguyện vọng của trẻ em tại các diễn đàn vẫn còn nặng tính
hình thức, báo cáo, trình diễn và được chuẩn bị sẵn thay vì đối thoại trực tiếp. Việc
tham gia của trẻ em qua hình thức thăm dò ý kiến của trẻ em, câu lạc bộ quyền trẻ
em hay hội nghị, hội thảo có sự tham gia của trẻ em hiện chưa phổ biến. Luật chưa
13

Nguồn: Niên giám thống kê tóm tắt năm 2014 , Nhà xuất bản Thống kê
Báo cáo số 06/BC-UBND ngày 16/01/2015 của Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình về tình hình thực hiện Luật Bảo
vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em; Báo cáo 34/BC-UBND ngày 02/03/2015 của UBND tỉnh Bình Phước về kết quả
10 năm thi hành Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
15
Diễn đàn trẻ em cấp Quốc gia được tổ chức 2 năm một lần với chỉ từ 160 đến180 em đại diện cho khoảng 30/63
tỉnh, TP; Diễn đàn trẻ em các cấp (tỉnh, huyện, xã) đã được một số địa phương tổ chức nhưng không thường xuyên
và phụ thuộc vào nguồn kinh phí.

14

7


phân công rõ cơ quan nào đại diện tiếng nói trẻ em và có trách nhiệm đứng về phía
trẻ em để lên tiếng, bảo vệ lợi ích tốt nhất cho mọi trẻ em khi trẻ em không thực
hiện được quyền của mình theo luật định…
II. ĐÁNH GIÁ CHUNG

2. Những tồn tại hạn chế
Các quy định của pháp luật về trẻ em còn thiếu tính hệ thống, đồng bộ do
được vận hành bởi rất nhiều luật 16 và văn bản dưới luật do Chính phủ, các bộ,
ngành ban hành. Các quy định liên quan đến trẻ em nằm tản mạn trong các văn
bản, các khái niệm, thuật ngữ khác nhau17 nên không đảm bảo sự thống nhất, khó
phân định; dễ xảy ra xung đột pháp luật; không thuận tiện cho việc tập hợp, hệ
thống hoá pháp luật, gây khó khăn trong thực hiện.
Một số quy định của pháp luật về BVCSGDTE còn mang nặng tính tuyên
ngôn (như quyền tham gia của trẻ em) hoặc thiếu tính dự báo (như quy định về các
nhóm đối tượng trẻ em có HCĐB); các chế tài chưa đủ mạnh hoặc khó xử lí 18 nên
hiệu quả áp dụng không cao. Trong bối cảnh đất nước hội nhập và phát triển theo
quy luật của nền kinh tế thị trường, các quan hệ xã hội liên quan đến trẻ em phát
sinh ngày càng nhiều, hình thức, tính chất đa dạng, phức tạp. Luật BVCSGDE và
các chính sách về trẻ em đã bộc lộ nhiều hạn chế, lỗi thời, không còn phù hợp
nhưng việc sửa đổi, bổ sung, ban hành văn bản mới chưa kịp thời, ảnh hưởng đến
việc bảo đảm quyền trẻ em19.
Còn nhiều hạn chế về các điều kiện đảm bảo thực hiện Luật: Chưa có cơ chế
điều phối liên ngành để chỉ đạo thường xuyên giữa các bộ, ngành, cơ quan hữu
quan trong tất cả mọi hoạt động liên quan đến trẻ em; trách nhiệm của các bộ,
ngành hiện mới chỉ được quy định trong các chương trình, đề án, dự án cụ thể,

chưa phân công rõ vai trò “nhạc trưởng” cho người đứng đầu cơ quan QLNN về
trẻ em để chủ trì, phối hợp điều hành mọi hoạt động BVCSTE. Đội ngũ cán bộ làm
công tác trẻ em bị phân tán, thiếu cán bộ chuyên trách cấp huyện, cấp xã; mạng
lưới cộng tác viên thôn, ấp, bản, khu dân cư để theo dõi, nắm bắt tình hình và trực
tiếp triển khai các công việc về trẻ em chưa được khôi phục. Ngân sách Nhà nước
dành cho công tác bảo vệ trẻ em còn ở mức thấp so với các lĩnh vực khác và so với
nhu cầu thực tế.
Còn những hạn chế nhất định về kết quả thực hiện các quyền của trẻ em, nhất
là đối tượng trẻ em cần sự bảo vệ, chăm sóc, giáo dục đặc biệt. Theo kết quả tổng
kết việc thực hiện Chương trình hành động vì trẻ em Việt Nam giai đoạn 20012010, có 15/37 chỉ tiêu không đạt, chủ yếu là các chỉ tiêu về bảo vệ trẻ em, vui
chơi giải trí cho trẻ em và các chỉ tiêu liên quan đến môi trường 20. Nhiều vụ việc vi
phạm quyền trẻ em tại cộng đồng chưa được phát hiện và xử lý kịp thời, gây bức
xúc trong xã hội. Số trẻ em chưa có điều kiện để hoàn thành phổ cập giáo dục chưa
16
17
18
19
20

8


được các ngành hữu quan phối hợp đề xuất chính sách thỏa đáng, đa số đối tượng
này thuộc các hộ nghèo hoặc có hoàn cảnh éo le. Quyền tham gia của trẻ em chưa
được quan tâm đúng mức; còn nhiều hạn chế trong việc thực hiện; các hoạt động
thúc đẩy quyền tham gia của trẻ em còn nhỏ lẻ, phân tán, mang nặng tính hình
thức. Việc cập nhật tình hình, thông tin, số liệu về trẻ em từ cơ sở chưa kịp thời,
chưa đầy đủ, chưa có cơ sở dữ liệu quốc gia về trẻ em để làm căn cứ xây dựng
chính sách và cung cấp cho các cơ quan hữu quan.
3. Nguyên nhân của tồn tại, hạn chế

3.1. Nguyên nhân khách quan
Do điều kiện về kinh tế - xã hội nước ta chưa phát triển mạnh, mới chỉ đạt
mức thu nhập trung bình thấp, đồng thời bị tác động mạnh của suy thoái kinh tế
toàn cầu trong những năm gần đây nên nguồn lực đầu tư cho BVCSGDTE nhìn
chung còn thấp, chưa bảo đảm yêu cầu phát triển.
Trong giai đoạn hội nhập toàn cầu và phát triển nền kinh tế thị trường hiện
nay, ngoài những thành tựu và thuận lợi đã phát sinh những hệ quả tiêu cực như:
gia tăng bất bình đẳng xã hội; gia tăng khoảng cách về cơ hội phát triển, mức sống,
thu nhập và cơ hội tiếp cận với các dịch vụ xã hội (y tế, giáo dục,…) giữa các vùng
miền, nhóm dân cư trong xã hội; sự tác động tiêu cực đến trẻ em của Internet và
các mạng xã hội,… dẫn tới hệ lụy làm gia tăng số trẻ em sống trong gia đình
nghèo, trẻ em bỏ học đi làm kinh tế; trẻ em bị bỏ mặc, bị bạo lực, xâm hại; trẻ em
mắc TNXH, vi phạm pháp luật, lệch lạc về lối sống…
3.2. Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, Luật BVCSGDTE chưa tiếp cận trên cơ sở quyền trẻ em theo công
ước của Liên hợp quốc, nhiều quy định trong Công ước chưa được cụ thể hóa
trong Luật. Luật BVCSGDTE xác định chỉ có 10 nhóm trẻ em được coi là có
HCĐB, đã bỏ sót một số nhóm đối tượng cần được hỗ trợ, trợ giúp 21; không quy
định về việc bắt buộc tố giác tội phạm vi phạm quyền trẻ em. Luật chưa chỉ rõ sự
cần thiết phải quy định một cơ quan đại diện tiếng nói của trẻ em và phân công rõ
trách nhiệm của cơ quan này phải đứng về phía trẻ em để lên tiếng bảo vệ trẻ em,
giám sát các vụ việc vi phạm quyền trẻ em và giải quyết các kiến nghị của trẻ em
nhằm bảo vệ lợi ích tốt nhất cho mọi trẻ em.
Thứ hai, việc giao thẩm quyền, trách nhiệm cho các cơ quan dân cử, các bộ,
ngành và chính quyền địa phương chưa đầy đủ và cụ thể, chưa bao quát hết nhiệm
vụ bảo vệ quyền trẻ em và chưa khuyến khích để trẻ em thực hiện quyền. Từ khi
giải thể UBDSGĐTE, cơ chế điều phối liên ngành chưa được Chính phủ coi trọng
để làm rõ vai trò “nhạc trưởng” trong chỉ đạo, phối hợp điều hành toàn bộ hoạt
động liên quan đến trẻ em, bám sát mục tiêu đề ra.
Thứ ba, việc bố trí cán bộ và đào tạo cán bộ là công tác trẻ em cấp huyện, cấp

xã chưa được coi trọng. Việc giải quyết chính sách cho cán bộ phong trào làm
công tác trẻ em ở các Cung thiếu nhi, Nhà thiếu nhi, đội ngũ CTV bảo vệ trẻ em
21

9


cấp thôn bản chưa thỏa đáng nên chưa thu hút và phát huy được đội ngũ này trong
việc tổ chức các hoạt động vui chơi, giải trí, bồi dưỡng năng khiếu, rèn luyện kĩ
năng sống cho trẻ em. Ngân sách dành cho các hoạt động chăm sóc trẻ em dưới 36
tháng tuổi còn thấp so với nhu cầu thực tế và chưa phù hợp; một số chương trình
còn phụ thuộc vào nguồn viện trợ từ nước ngoài (như chương trình điều trị, phòng
chống lây nhiễm HIV cho trẻ em). Chưa có chính sách và sự quan tâm thỏa đáng
của các cơ quan hữu quan đối với việc chăm sóc sức khỏe bà mẹ trước và sau khi
sinh (đảm bảo dinh dưỡng, các biện pháp chăm sóc khoa học trong một ngàn ngày
đầu đời của trẻ).
Thứ tư, công tác phân bổ ngân sách Nhà nước trong lĩnh vực trẻ em chưa coi
trọng công tác bảo vệ trẻ em và chưa dựa trên số trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt và
từng loại trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khác nhau để làm căn cứ phân bổ ngân sách
Nhà nước cho từng địa phương.
Thứ năm, Nhà nước chưa có cơ chế, chính sách cụ thể về xã hội hóa công tác
BVCSTE, chưa có cơ chế hỗ trợ NSNN để phát triển các cơ sở giáo dục, y tế ngoài
công lập chất lượng cao nhằm bảo đảm công bằng trong thụ hưởng NSNN cho mọi
trẻ em và để các cơ sở này cạnh tranh lành mạnh với các cơ sở công lập.
Thứ sáu, Nhà nước chưa có cơ chế để phát huy sức mạnh về nguồn lực của các
tổ chức xã hội trong công tác BVCSGDTE, luật chưa có quy định cụ thể để nhà
nước chia sẻ, chuyển giao một số nhiệm vụ cụ thể của mình cho các tổ chức này.
Thứ bảy, lãnh đạo một số ngành, đoàn thể; cấp ủy, chính quyền một số địa
phương, cơ sở nhận thức chưa đẩy đủ về quyền trẻ em; chưa quan tâm chỉ đạo, tạo
điều kiện để công tác BVCSTE đạt hiệu quả theo mong muốn.


10



×