Tải bản đầy đủ (.doc) (121 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ LUẬT học GIÁO dục PHÁP LUẬT CHO cán bộ, CÔNG CHỨC TRÊN địa bàn TỈNH BÌNH ĐỊNH THỰC TRẠNG và GIẢI PHÁP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (763.8 KB, 121 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản
Việt Nam ở mục 1 phần IX của Báo cáo Chính trị đã ghi: "Nhà nước là công
cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là Nhà nước pháp
quyền của dân, do dân, vì dân", "Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật.
Mọi cơ quan tổ chức, cán bộ, công chức, mọi công dân có nghĩa vụ chấp hành
Hiến pháp và pháp luật".
Để có được "Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân" ở nước ta
hiện nay, điều quan trọng hàng đầu là phải xây dựng được một đội ngũ cán
bộ, công chức vừa có đức vừa có tài. Đó là những con người có bản lĩnh
chính trị vững vàng trên cơ sở lập trường của giai cấp công nhân, tuyệt đối
trung thành với lý tưởng cách mạng, với chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh. Đó là những con người có ý thức và năng lực đấu tranh bảo vệ
quan điểm, đường lối của Đảng, nắm vững chính sách và pháp luật của Nhà
nước.
Để quản lý được Nhà nước và xã hội bằng pháp luật theo tiêu chí
của một nhà nước pháp quyền, cán bộ, công chức phải được trang bị những
kiến thức về nhà nước và pháp luật một cách đầy đủ và kịp thời. Nhưng
hiện nay, qua các phương tiện thông tin đại chúng cho thấy: ở nhiều địa
phương, việc vi phạm pháp luật, làm trái pháp luật của cán bộ, công chức
không phải là ít. Trong nhiều nguyên nhân dẫn đến sự vi phạm đó, có một
nguyên nhân cơ bản, đó là cán bộ, công chức chưa nắm vững kiến thức về
nhà nước và pháp luật.
Ở Bình Định, những năm gần đây, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức nói chung, đào tạo, bồi dưỡng, giáo dục pháp luật nói riêng
đã được cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương quan tâm hơn. Việc mở



2

các lớp đào tạo cán bộ, công chức tại tỉnh và tham gia thi tuyển, cử tuyển
cán bộ, công chức đi học ở các cơ sở đào tạo chuyên ngành về nhà nước và
pháp luật ngày càng nhiều hơn. Tuy vậy, việc đào tạo, bồi dưỡng, giáo dục
pháp luật để đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý nhà nước và quản lý xã
hội cho đội ngũ cán bộ, công chức ở các địa phương trong tỉnh hiện nay
đang còn là vấn đề bức xúc.
Là một giảng viên, công tác nhiều năm ở Trường Chính trị tỉnh
Bình Định, tôi đã tham gia nhiều đợt nghiên cứu thực tế ở các địa phương
trên địa bàn tỉnh. Qua tiếp xúc, trao đổi, khảo sát và làm việc với nhiều cán
bộ, công chức ở các huyện, thành phố trong tỉnh, nhất là với đội ngũ cán
bộ, công chức ở các xã, phường, thị trấn, đã cho thấy: Còn một bộ phận
khá lớn cán bộ, công chức hiểu biết pháp luật rất sơ sài, hời hợt. Nhiều cán
bộ, công chức chưa phân biệt được giữa các loại vi phạm pháp luật hành
chính, dân sự, hình sự... Có trường hợp vi phạm pháp luật hình sự nghiêm
trọng, nhưng chính quyền địa phương chỉ xử lý nhẹ nhàng, đơn giản trong
nội bộ thôn ấp. Ngược lại, có vụ việc đơn giản thì quan niệm là nghiêm
trọng và xử lý khá nặng nề.
Làm thế nào để tất cả cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị ở các
địa phương trong tỉnh, khi đã tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội phải
nắm bắt, am hiểu pháp luật một cách chặt chẽ, áp dụng pháp luật một cách
đúng đắn, trước hết là trong lĩnh vực mà mình thực hiện chức năng quản lý.
Qua hai năm học tập, nghiên cứu tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh, kết hợp giữa lý luận đã học và thực tiễn địa phương Bình Định
cũng như thực tiễn giảng dạy bộ môn Nhà nước và pháp luật ở Trường Chính
trị tỉnh Bình Định; được sự hướng dẫn khoa học của GS.TS Hoàng Văn Hảo,
tôi chọn đề tài: "Giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức trên địa bàn tỉnh
Bình Định - Thực trạng và giải pháp" làm đề tài luận văn tốt nghiệp. Tôi hy



3

vọng sẽ góp phần nhỏ bé vào công tác giáo dục pháp luật nói chung và giáo
dục pháp luật cho cán bộ, công chức ở Bình Định nói riêng.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Giáo dục pháp luật là một vấn đề mang tính cấp thiết ở nước ta trong
giai đoạn hiện nay. Đây là vấn đề đã và đang được các nhà khoa học pháp lý
quan tâm. Nhiều công trình nghiên cứu về lĩnh vực này đã được công bố, như:
"Nâng cao ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ quản lý hành chính nhà nước
hiện nay", Luận án tiến sĩ của Lê Đình Khiên, 1993; "Xây dựng ý thức và lối
sống theo pháp luật", Đào Trí Úc chủ biên, Hà Nội, 1995; "Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn về giáo dục pháp luật trong công cuộc đổi mới", của Viện
Nghiên cứu Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, Hà Nội, 1995; "Một số vấn đề
giáo dục pháp luật ở miền núi và vùng dân tộc thiểu số", Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 1996; "Giáo dục pháp luật trong các trường đại học, trung học
chuyên nghiệp và dạy nghề (không chuyên luật) ở nước ta hiện nay", Luận án
tiến sĩ Luật học của Đinh Xuân Thảo, 1996; "Giáo dục pháp luật qua hoạt
động tư pháp - hình thức đặc thù của giáo dục pháp luật", Luận án tiến sĩ của
Dương Thanh Mai, 1996; "Công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật ở nước ta Thực trạng và giải pháp", Luận văn thạc sĩ của Hồ Quốc Dũng, 1997; "Một
số vấn đề về giáo dục pháp luật trong giai đoạn hiện nay", của Vụ Phổ biến
giáo dục pháp luật, Bộ Tư pháp, Nxb Thanh niên, 1997; "Đổi mới giáo dục
pháp luật trong hệ thống các trường Chính trị ở nước ta hiện nay", Đề tài
khoa học cấp Bộ, Khoa Nhà nước pháp luật, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh, 1999; "Đổi mới giáo dục pháp luật hệ đào tạo trung học chính trị
ở nước ta hiện nay", Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Ngọc Hoàng, 2000.
Các công trình nói trên đã nêu ra nhiều vấn đề rất cơ bản cả về lý luận
và thực tiễn trong hoạt động giáo dục pháp luật trên nhiều góc độ. Tuy nhiên,
có thể nói rằng, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách đầy



4

đủ và có hệ thống về giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức nói chung và
Bình Định nói riêng. Vì vậy, đây là đề tài đầu tiên nghiên cứu có hệ thống vấn
đề này trên địa bàn Bình Định.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi của luận văn
* Mục đích:
Đánh giá đúng thực trạng và xác định được phương hướng, giải pháp
nhằm bổ sung, hoàn thiện việc giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức
trong hệ thống chính trị ở Bình Định.
* Nhiệm vụ:
- Hệ thống hóa lý luận chung về giáo dục pháp luật;
- Đánh giá thực trạng của công tác giáo dục pháp luật cho cán bộ,
công chức ở Bình Định;
- Từ thực trạng đó, đề xuất các phương hướng, giải pháp nhằm tăng
cường hiệu quả công tác giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức
trong hệ thống chính trị ở Bình Định hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu của luận văn:
Trên địa bàn tỉnh Bình định, ngoài cán bộ, công chức trong hệ thống
chính trị ở địa phương còn có các cơ quan trung ương đóng trên địa bàn. Luận
văn này chỉ tập trung chủ yếu nghiên cứu thực trạng và giải pháp nhằm tăng
cường giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức trong hệ thống chính
trị của Bình Định.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được xây dựng trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Quan điểm, đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp



5

quyền XHCN Việt Nam. Phương pháp luận trong nghiên cứu là phương pháp
duy vật biện chứng của triết học Mác - Lênin.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương
pháp xã hội học pháp luật; phương pháp lịch sử cụ thể; phương pháp phân
tích, tổng hợp, so sánh; phương pháp khảo sát thực tế; phương pháp thống kê.
5. Những đóng góp mới của luận văn
- Luận văn là công trình nghiên cứu có hệ thống về giáo dục pháp luật
cho cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị ở Bình Định.
- Luận văn đề xuất phương hướng và các giải pháp cơ bản về giáo dục
pháp luật cho cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị các cấp ở Bình Định.
6. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ tính đặc thù của công tác giáo dục pháp
luật cho cán bộ, công chức ở Bình Định và các địa phương có cùng đặc điểm
về lịch sử, kinh tế, văn hóa - xã hội... Trên cơ sở đó góp phần nâng cao chất
lượng công tác giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức ở Bình
Định.
- Các giải pháp mà luận văn nêu ra có thể sử dụng trong công tác giáo
dục pháp luật cho riêng từng tổ chức trong hệ thống chính trị ở địa phương.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong công tác giáo dục pháp
luật cho Trường Chính trị tỉnh Bình Định; các Trung tâm giáo dục chính trị
các huyện và thành phố Quy Nhơn thuộc tỉnh Bình Định; các cơ sở giáo dục
khác và Hội đồng giáo dục pháp luật các cấp ở Bình Định.
- Luận văn cũng có thể làm tài liệu tham khảo trong công tác giáo dục
pháp luật ở các trường Chính trị, các cơ quan giáo dục pháp luật thuộc các
tỉnh trong khu vực duyên hải miền Trung (khu V).
7. Kết cấu của luận văn



6

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 7 tiết.


7

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
CHO CÁN BỘ, CÔNG CHỨC

1.1. TỔNG QUAN VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT

1.1.1. Khái niệm giáo dục pháp luật
Đến nay, khái niệm về giáo dục pháp luật ở nước ta vẫn chưa được
nghiên cứu một cách đầy đủ và có hệ thống. Có nhiều quan niệm khác nhau
về khái niệm giáo dục pháp luật. Về cơ bản có các quan niệm sau đây:
- Trước hết, quan niệm cho rằng, pháp luật là qui tắc xử sự có tính bắt
buộc chung. Mọi công dân đều phải có nghĩa vụ tuân thủ pháp luật, do đó
không cần đặt vấn đề giáo dục pháp luật. Pháp luật không thể là cái thuộc tính
tuyên truyền vận động, ngược lại, bản thân pháp luật sẽ tự thực hiện chức
năng của mình bằng các quy định về quyền và nghĩa vụ thông qua các chế tài
đối với những người tham gia vào các quan hệ xã hội do pháp luật điều chỉnh.
- Quan niệm thứ hai, đồng nhất hoặc coi giáo dục pháp luật là một
bộ phận của giáo dục chính trị, tư tưởng, giáo dục đạo đức. Chỉ cần thực
hiện tốt quá trình giáo dục chính trị tư tưởng, giáo dục đạo đức là mọi
người đã có ý thức pháp luật cao, có sự tôn trọng và tuân thủ pháp luật.
Quan niệm này đã từng tồn tại trong một thời gian khá dài ở nước ta. Vì
vậy, việc đào tạo chuyên ngành luật không được Nhà nước chú ý, dẫn đến

hậu quả là các cơ sở đào tạo của ngành luật hầu như không có. Mãi đến
năm 1979 mới có cơ sở chuyên ngành đào tạo các luật gia ở bậc đại học và
đến những năm 1987-1988, việc giáo dục pháp luật mới bắt đầu đưa vào
chương trình giáo dục ở bậc phổ thông.
- Quan niệm thứ ba, coi giáo dục pháp luật đồng nhất với việc tuyên
truyền, giới thiệu, phổ biến các văn bản pháp luật. Theo quan niệm này, việc
giáo dục pháp luật thực chất chỉ là các đợt tuyên truyền, cổ động khi có văn bản


8

pháp luật quan trọng mới ban hành như: Hiến pháp, Bộ luật Hình sự, Bộ luật
Dân sự hoặc trước các kỳ bầu cử Quốc hội, bầu cử Hội đồng nhân dân các
cấp.
Các quan niệm nói trên đều mang tính phiến diện, một chiều, chưa
thấy hết đặc thù, sự tác động của giáo dục pháp luật, nên đã vô tình hoặc cố ý
hạ thấp vai trò, giá trị xã hội của giáo dục pháp luật. Bởi vì, bản thân pháp
luật mới chỉ là văn bản qui phạm pháp luật, là mô hình ở dạng "tiềm năng". Pháp
luật chỉ thực sự đi vào cuộc sống thông qua cơ chế điều chỉnh bao gồm các giai
đoạn: Ban hành, tuyên truyền giáo dục, tổ chức thực hiện, kiểm tra giám sát.
Trong cơ chế đó "yếu tố con người là cơ bản và là linh hồn của cơ chế" [21,
tr. 14]. Khi tham gia vào các quan hệ pháp luật, con người phải suy nghĩ, lựa
chọn cách xử sự thể hiện qua hành vi. Đây là một quá trình tâm lý phức tạp,
phụ thuộc vào nhiều yếu tố chủ quan và khách quan. Ở giai đoạn này, qui
phạm pháp luật có khả năng tác động lên ý thức của cá nhân như khuyến
khích hành vi hợp pháp hoặc kìm chế hành vi bất hợp pháp. Do đó, việc phổ
biến văn bản pháp luật mới chỉ là điều kiện cần nhưng chưa đủ để cá nhân
hành động phù hợp theo yêu cầu của pháp luật. Điều kiện đủ ở đây là cá nhân
phải có ý thức pháp luật đúng đắn, ý thức đó phải được hình thành dưới sự tác
động liên tục, thường xuyên của các điều kiện khách quan và nhân tố chủ

quan dẫn đến hành vi hợp pháp của cá nhân "cho nên công bố đạo luật này
chưa phải đã là mọi việc đều xong, mà còn phải tuyên truyền, giáo dục lâu dài
mới thực hiện được tốt" [32, tr. 244].
Để xác định đúng đắn khái niệm giáo dục pháp luật, trước hết cần xuất
phát từ khái niệm giáo dục của khoa học sư phạm. Trong khoa học sư phạm,
giáo dục được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Theo nghĩa rộng, giáo dục là quá trình ảnh hưởng của nhiều điều
kiện khách quan như: Môi trường sống, chế độ xã hội, trình độ phát triển
kinh tế, văn hóa, phong tục tập quán... và sự tác động của nhân tố chủ quan


9

như: Sự tác động có ý thức, có mục đích, có kế hoạch và định hướng của
con người lên việc hình thành những phẩm chất, kỹ năng nhất định của đối
tượng giáo dục.
Theo nghĩa hẹp, giáo dục là hoạt động có ý thức, có mục đích, có kế
hoạch của chủ thể giáo dục tác động lên khách thể giáo dục, nhằm đạt được
các mục tiêu nhất định như: Truyền bá những kinh nghiệm trong sản xuất,
trong đấu tranh; những tri thức về tự nhiên, xã hội và tư duy để khách thể
(hay đối tượng) có đủ khả năng tham gia vào đời sống xã hội.
Trong thực tiễn, tuy thừa nhận ảnh hưởng của các điều kiện khách
quan là to lớn đối với việc hình thành ý thức cá nhân con người, các nhà lý
luận, các nhà khoa học sư phạm vẫn nhấn mạnh đến yếu tố tác động hàng đầu,
cực kỳ quan trọng, thậm chí mang yếu tố quyết định của nhân tố chủ quan
trong giáo dục. Vì thế, khái niệm giáo dục hiện nay thường được hiểu theo
nghĩa hẹp.
Từ những quan niệm trên, giáo dục pháp luật trước hết là một hoạt
động mang đầy đủ tính chất chung của giáo dục, nhưng nó cũng có những nét
đặc thù riêng, phạm vi riêng để tác động lên ý thức con người. Theo cả nghĩa

rộng và nghĩa hẹp của giáo dục, giáo dục pháp luật được hiểu là: Con người
nói chung là khách thể (hay đối tượng) chịu ảnh hưởng và tác động của các
điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan để hình thành nên ý thức, tình cảm
và hành vi pháp luật.
Giáo dục pháp luật trong thực tiễn hiện nay theo quan niệm chung của
nhiều nhà khoa học đều tán thành theo nghĩa hẹp của giáo dục, "cần vận dụng
khái niệm giáo dục theo nghĩa hẹp để hình thành khái niệm giáo dục pháp
luật" [19, tr. 8]. Cơ sở của việc xây dựng khái niệm giáo dục pháp luật xuất
phát từ nghĩa hẹp của giáo dục còn được xác định qua các yếu tố sau đây:
- Mặc dù, sự hình thành ý thức con người là quá trình ảnh hưởng tác
động thống nhất của các điều kiện khách quan và các nhân tố chủ quan,


10

những nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin và cả những nhà lý luận giáo
dục đều phân biệt hai mặt của quá trình ấy. Tuy vậy, trong sự tác động, nhân
tố của các điều kiện khách quan chỉ là những nhân tố ảnh hưởng còn nhân tố
chủ quan là nhân tố tích cực mang tính tác động. Nhân tố ảnh hưởng có thể
tác động theo chiều này hay chiều khác, còn nhân tố "tác động" bao giờ cũng
là tự giác, có ý thức, có định hướng rõ ràng, cụ thể "mà hoạt động giáo dục
định hướng, có tổ chức, có chủ định của các cơ quan Đảng, Nhà nước, các tổ
chức xã hội là yếu tố hàng đầu" [16, tr. 9].
- Khái niệm giáo dục pháp luật theo nghĩa hẹp còn có ý nghĩa trong
việc phân biệt phạm trù giáo dục pháp luật với phạm trù ý thức pháp luật. Hai
phạm trù này có quan hệ mật thiết với nhau nhưng không phải là một. Hoạt
động giáo dục pháp luật, đó chính là sự tác động của nhân tố chủ quan mà
trước hết là hoạt động có định hướng, có tổ chức, có chủ định thành một hệ
thống của nhiều chủ thể. Còn sự hình thành ý thức pháp luật là sản phẩm của
điều kiện khách quan. Sự phân biệt hai phạm trù này có ý nghĩa quan trọng ở

chỗ tạo ra khả năng giải quyết các vấn đề thực tiễn của hoạt động giáo dục
pháp luật. Thực tiễn đã chỉ ra rằng nếu buông trôi, thả lỏng việc giáo dục pháp
luật thì các nhân tố tiêu cực như: hiện tượng vi phạm pháp luật, phạm tội chưa
được xử lý nghiêm minh; hiện tượng nhận hối lộ, tham nhũng trong đội ngũ
cán bộ, công chức sẽ có điều kiện tác động phản giáo dục rất mạnh lên nhận
thức, tình cảm, lòng tin vào pháp luật của công dân. Từ đó, có thể hình thành
loại ý thức pháp luật ngược với mục tiêu của nền pháp chế và là cơ sở cho các
hành vi vi phạm pháp luật tăng lên. Ngược lại, nếu xác định đúng đắn các yếu
tố của giáo dục pháp luật như nội dung, hình thức, phương pháp... và định
hướng chúng ngay trong các hoạt động của thực tiễn pháp luật phù hợp với yêu
cầu từng giai đoạn, từng thời kỳ thì sẽ giảm bớt được tác động của các tiêu
cực, giúp cho đối tượng được giáo dục có ý thức pháp luật vững vàng, có khả


11

năng phân tích, phê phán một cách đúng đắn về hiện thực pháp luật trong quá
trình vận động của nó. Từ đó có thái độ và hành động phù hợp với pháp luật.
- Xuất phát từ nghĩa hẹp của khái niệm giáo dục theo khoa học sư
phạm, để xây dựng khái niệm giáo dục pháp luật. Từ đó cho ta thấy rõ hơn
mối quan hệ giữa cái riêng, cái đặc thù của giáo dục pháp luật với cái chung,
cái phổ biến của giáo dục. Giáo dục pháp luật vừa mang những đặc điểm
chung của giáo dục, sử dụng các hình thức phương pháp của giáo dục nói
chung, vừa thể hiện những nét đặc thù riêng có của mình trong mối liên hệ
chặt chẽ với các loại hình giáo dục khác như giáo dục chính trị, đạo đức...
Tính đặc thù của giáo dục pháp luật thể hiện ở cả mục đích, nội dung và ở cả
hình thức, phương pháp.
Nét đặc thù của giáo dục pháp luật khác tương đối với các dạng giáo
dục khác ở chỗ:
+ Giáo dục pháp luật có mục đích riêng của mình, đó là hoạt động nhằm

hình thành tri thức, tình cảm và thói quen xử sự phù hợp với quy định của
pháp luật.
+ Giáo dục pháp luật có nội dung riêng, đó là sự tác động định hướng
với nội dung cơ bản là chuyển tải tri thức của nhân loại nói chung, của một
nhà nước nói riêng về hai hiện tượng nhà nước và pháp luật. Trong đó, pháp
luật thực định hiện hành của Nhà nước là bộ phận vô cùng quan trọng.
+ Xét trên các yếu tố chủ thể, khách thể, đối tượng, hình thức và
phương pháp giáo dục cũng có thể chỉ ra các nét đặc thù của giáo dục pháp
luật. Chẳng hạn, giáo dục pháp luật so với các dạng giáo dục khác, đó là quá
trình tác động liên tục, thường xuyên, lâu dài chứ không phải là sự tác động
một lần của chủ thể lên đối tượng giáo dục. Vì thế, giáo dục pháp luật trở
thành sợi chỉ đỏ xuyên nối qua gia đình, nhà trường, các tập thể lao động, các
tổ chức Đảng, Nhà nước, các đoàn thể xã hội. Nhân tố con người với hành vi


12

hợp pháp đóng vai trò chủ đạo trong quá trình tác động qua lại giữa người
giáo dục (chủ thể) với người được giáo dục (đối tượng). Người được giáo dục
là người chịu sự tác động có tổ chức, có định hướng các thông tin pháp luật.
Vì vậy, sự hiểu biết về trình độ, đặc điểm nhân thân của người được giáo dục
là đòi hỏi hàng đầu đối với người giáo dục. Đồng thời, người giáo dục pháp
luật cần phải nắm vững tri thức pháp luật, biết cách chuyển tải nó và hơn thế
nữa phải là tấm gương, phải là hình mẫu trong việc tuân theo pháp luật. Bởi
vì, trong giáo dục pháp luật thì nguyên tắc "làm gương", "làm mẫu", "anh hãy
làm như tôi làm" có ảnh hưởng to lớn đối với người được giáo dục.
Tóm lại: Khái niệm giáo dục pháp luật được xây dựng xuất phát từ
nghĩa hẹp của giáo dục và theo đó, giáo dục pháp luật được hiểu: là hoạt
động có định hướng, có tổ chức, có chủ định của chủ thể giáo dục, tác động
lên đối tượng giáo dục nhằm hình thành ở họ tri thức pháp luật, tình cảm và

hành vi phù hợp với các đòi hỏi của hệ thống pháp luật hiện hành.
Với khái niệm giáo dục pháp luật như đã nêu trên, trong điều kiện
hiện nay ở nước ta, việc trang bị tri thức pháp luật, xây dựng tình cảm và thói
quen pháp luật cho mọi công dân là trách nhiệm của cơ quan nhà nước, tổ
chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội. Trong đó trước hết thuộc về hệ thống
các cơ quan có chức năng giáo dục đào tạo nói chung và các cơ quan có chức
năng giáo dục pháp luật của Nhà nước nói riêng.
Giáo dục pháp luật là một trong những mắt xích quan trọng, có ý
nghĩa đặc biệt trong việc tăng cường pháp chế XHCN. Bởi vì, giáo dục pháp
luật là nhằm hình thành ý thức tôn trọng, tuân thủ pháp luật cho mọi công
dân, nhằm phát huy vai trò và hiệu lực của pháp luật trong công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Hiện nay, như Văn kiện Đại hội lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ là, tiếp
tục "xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước" [15, tr. 131], chúng ta đang từng


13

bước phấn đấu nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý xã hội bằng pháp luật. Trong
phương hướng đó, giáo dục pháp luật giữ một vai trò đặc biệt quan trọng, vì
đó là khâu đầu tiên để tạo ra tiền đề ý thức cho phương hướng có khả năng trở
thành hiện thực trong đời sống xã hội.
Thực tế trong thời gian qua cho thấy, sự coi nhẹ và thiếu năng động
trong công tác giáo dục pháp luật là một trong những nguyên nhân dẫn đến
tình trạng ý thức pháp luật của cán bộ công chức và nhân dân còn thấp, "pháp
luật và kỷ cương của Nhà nước bị vi phạm ngày càng phổ biến" [48, tr. 14].
Điều đó đặt ra cho chúng ta sự cần thiết phải nhận thức ý nghĩa mang tầm
chiến lược của công tác giáo dục pháp luật trong suốt cả quá trình xây dựng
nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Nó là một bộ phận đặc biệt

quan trọng trong chiến lược con người của Đảng và Nhà nước ta hiện nay.
1.1.2. Mục đích của giáo dục pháp luật
Mục đích của giáo dục pháp luật là một trong những yếu tố tạo nên
cấu trúc bên trong của giáo dục pháp luật. Việc xác định đúng đắn các mục
đích xã hội cần phải đạt được trong quá trình giáo dục pháp luật, có vai trò
quan trọng trong lý luận và thực tiễn giáo dục pháp luật. Bởi vì, các phạm trù,
nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục pháp luật phần lớn phụ thuộc vào
việc xác định những mục đích xã hội nào được đặt ra trước quá trình giáo dục.
Mục đích của giáo dục pháp luật phải đáp ứng được các yêu cầu cụ thể của xã
hội đối với giáo dục pháp luật ở từng giai đoạn, trong các điều kiện lịch sử cụ
thể. Theo quan điểm chung của nhiều nhà khoa học, giáo dục pháp luật bao
gồm các mục đích cơ bản sau đây:
- Mục đích thứ nhất: Hình thành, làm sâu sắc và từng bước mở rộng
hệ thống tri thức pháp luật của công dân (mục đích nhận thức). Đây là mục
đích hàng đầu, bởi vì, chính sự am hiểu pháp luật, sự nhận thức đúng đắn về
giá trị xã hội và vai trò điều chỉnh của pháp luật sẽ là điều kiện cần thiết để
hình thành tình cảm và lòng tin vào pháp luật ở mỗi công dân. Hơn nữa, tri


14

thức pháp luật còn giúp cho con người tổ chức một cách có ý thức hoạt động
của mình và tự đánh giá kiểm tra, đối chiếu hành vi với các chuẩn mực pháp
luật. Mục đích này đặc biệt quan trọng trong điều kiện như nước ta hiện nay,
khi mà hiểu biết pháp luật của công dân còn thấp, còn chịu ảnh hưởng tư
tưởng và nếp sống của người sản xuất nhỏ, nhận thức về quyền và nghĩa vụ
của công dân chưa đầy đủ. Mặt khác, công tác giáo dục pháp luật chưa được
coi trọng dẫn đến tình trạng pháp chế bị buông lỏng, làm giảm hiệu lực của
pháp luật; dẫn đến giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Do
đó, từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay, Đảng và Nhà nước ta luôn

coi trọng công tác giáo dục pháp luật, "coi trọng công tác giáo dục, tuyên
truyền, giải thích pháp luật... Cán bộ quản lý các cấp từ Trung ương đến đơn
vị cơ sở phải có kiến thức về quản lý hành chính và hiểu biết về pháp luật.
Cần sử dụng nhiều hình thức và biện pháp để giáo dục, nâng cao ý thức pháp
luật và làm tư vấn pháp luật cho nhân dân" [10, tr. 121], "thường xuyên giáo
dục pháp luật, xây dựng ý thức sống và làm việc theo pháp luật" [11, tr. 92],
"phát huy dân chủ đi đôi với giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tăng cường pháp
chế, quản lý xã hội bằng pháp luật, tuyên truyền giáo dục toàn dân, nâng cao
ý thức chấp hành pháp luật" [15, tr. 135].
- Mục đích thứ hai: Hình thành tình cảm và lòng tin đối với pháp
luật (mục đích cảm xúc). Mục đích này rất quan trọng, vì nếu có tri thức
pháp luật mà không có tình cảm tôn trọng và lòng tin vào pháp luật cũng
như các cơ quan bảo vệ pháp luật thì con người rất dễ hành động chệch
khỏi các chuẩn mực pháp luật vì lợi ích riêng tư (các vụ án gần đây cho ta
thấy rõ điều đó, điển hình là vụ án Mai Văn Huy, vụ án Năm Cam). Nội
hàm của mục đích cảm xúc đạt được thông qua việc: Một là, giáo dục tình
cảm công bằng, biết xác định các tiêu chuẩn đánh giá tính công bằng của
pháp luật, biết đối xử với người khác và với chính mình bằng các tiêu
chuẩn công bằng thể hiện qua các qui phạm pháp luật. Hai là, giáo dục tình


15

cảm trách nhiệm, ý thức tuân thủ pháp luật ở mọi nơi mọi lúc. Phê phán,
lên án những biểu hiện coi thường pháp luật, các hành vi phạm pháp. Đồng
thời ủng hộ và tích cực tham gia bảo vệ sự nghiêm minh của pháp luật. Có
được tình cảm trên, con người sẽ có được lòng tin vững chắc vào sự cần
thiết tuân theo những qui phạm pháp luật. Khi đã có lòng tin vào pháp luật,
con người sẽ có những hành vi hợp pháp.
- Mục đích thứ ba: Hình thành động cơ, hành vi và thói quen xử sự

theo pháp luật (mục đích hành vi). Động cơ và hành vi hợp pháp là kết quả
cuối cùng của cả quá trình nhận thức pháp luật, đấu tranh nội tâm dưới tác
động của những yếu tố tâm lý, tình cảm, lòng tin... Thói quen xử sự hợp pháp
được hiểu là thói quen tuân thủ các quy phạm hướng dẫn của pháp luật, thói
quen thực hiện đúng đắn, tận tâm các quyền và nghĩa vụ pháp lý, thói quen sử
dụng và áp dụng các tri thức pháp luật và các quy phạm pháp luật cụ thể để
bảo vệ các quyền và nghĩa vụ hợp pháp của mình, của người khác, của Nhà
nước và của xã hội.
Việc phân chia các mục đích giáo dục pháp luật trên đây chỉ mang
tính tương đối, giữa chúng có mối quan hệ đan xem qua lại trong mối liên hệ
hữu cơ thống nhất. Từ tri thức pháp luật đến tính tự giác; từ tính tự giác đến
tính tích cực; từ tính tích cực đến thói quen xử sự theo pháp luật. Ngược lại,
khi có thói quen xử sự theo pháp luật thì lòng tin, tình cảm pháp luật lại được
củng cố. Do đó, khi tiến hành giáo dục pháp luật đều phải hướng hoạt động
vào cả ba mục đích của giáo dục pháp luật.
Việc xác định mục đích của giáo dục pháp luật trong quá trình giáo
dục pháp luật có ý nghĩa hết sức quan trọng cả trong lý luận lẫn thực tiễn giáo
dục pháp luật. Việc xác định đúng hay không đúng mục đích của giáo dục
pháp luật sẽ dẫn đến chất lượng tốt hay không tốt tới giáo dục pháp luật.


16

1.1.3. Nội dung và hình thức của giáo dục pháp luật
1.1.3.1. Nội dung của giáo dục pháp luật
Nội dung giáo dục pháp luật được xác định trên cơ sở ba mục đích của
giáo dục pháp luật nói trên, là sự hình thành ở đối tượng giáo dục hệ thống tri
thức pháp luật. Tình cảm, lòng tin và thói quen hành động phù hợp với yêu
cầu của pháp luật. Nội dung giáo dục pháp luật là một thành tố quan trọng của
quá trình giáo dục pháp luật, nó được xác định trên cơ sở mục đích, nhiệm vụ

và đồng thời xuất phát từ nhu cầu, đặc điểm của đối tượng giáo dục pháp luật.
Xác định đúng nội dung của giáo dục pháp luật sẽ bảo đảm cho chất lượng
của việc giáo dục pháp luật có hiệu quả cụ thể, thiết thực.
Trong lý luận về giáo dục pháp luật cần làm rõ một số vấn đề liên
quan tới nội dung giáo dục pháp luật như: phạm vi, đặc điểm, những yếu tố
chủ yếu của nội dung giáo dục pháp luật.
Phạm vi của nội dung giáo dục pháp luật theo quan điểm chung hiện
nay bao gồm:
- Các thông tin về pháp luật, gồm cả kiến thức cơ bản và văn bản pháp
luật thực định.
- Các thông tin về việc thực hiện pháp luật, về tình hình vi phạm pháp
luật và tội phạm, về việc điều tra xử lý các vi phạm pháp luật.
- Các thông tin về kết quả nghiên cứu, điều tra xã hội học về thực hiện
áp dụng pháp luật đối với đời sống kinh tế xã hội, đối với từng đối tượng, các
tầng lớp dân cư. Đồng thời phản ánh những nhu cầu, nguyện vọng, ý kiến, đề
xuất của nhân dân, của các chuyên gia pháp luật trong việc xây dựng và hoàn
thiện pháp luật.
- Các thông tin hướng dẫn hành vi pháp luật cụ thể của công dân (như
các quyền, các nghĩa vụ pháp luật, các quy trình thủ tục để bảo vệ các quyền
hợp pháp).


17

Từ phạm vi nội dung giáo dục pháp luật nêu trên, trong thực tiễn pháp
luật ở nước ta hiện nay cũng cần lưu ý tới những đặc điểm của nội dung giáo
dục pháp luật. Đó là trạng thái động của các thông tin trong nội dung giáo dục
pháp luật. Những đặc điểm này cần được nhận thức đầy đủ đối với những
người làm công tác giáo dục pháp luật. Trên cơ sở đó họ lựa chọn phương
pháp tiếp cận tới nội dung giáo dục pháp luật của từng đối tượng một cách

phù hợp, giúp cho đối tượng giáo dục có cách nhìn nhận đúng đắn, biện
chứng về quá trình hoàn thiện pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống, cũng
như những điểm mâu thuẫn và thống nhất của tiến trình đổi mới, phát triển
khoa học pháp lý và pháp luật thực định ở nước ta.
Những nội dung chủ yếu của giáo dục pháp luật, trên cơ sở lý luận và
thực tiễn, được xác định theo những mức độ, tầng cấp độ khác nhau tùy theo
từng loại đối tượng phù hợp với những nhu cầu, đặc điểm của đối tượng giáo
dục pháp luật. Căn cứ vào nhu cầu và đặc điểm của đối tượng giáo dục pháp
luật, người ta phân định nội dung giáo dục pháp luật thành ba mức, cấp độ
khác nhau sau đây:
Một là, mức độ tối thiểu về giáo dục pháp luật phổ cập cho mọi công
dân. Sống trong một xã hội được quản lý bằng pháp luật thì mỗi công dân
phải cơ những hiểu biết tối thiểu về pháp luật và có những kỹ năng tối thiểu
để sử dụng pháp luật nhằm thực hiện và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp và
thực hiện nghĩa vụ của mình.
Hai là, mức độ giáo dục pháp luật theo nhu cầu ngành nghề của các
công dân hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế kỹ thuật, văn hóa xã hội. Họ
cần những hiểu biết và kỹ năng sử dụng pháp luật ở mức độ cao hơn, mang
tính định hướng nghề nghiệp rõ hơn thì ngoài những khái niệm pháp lý cơ bản
thường gặp trong thực tiễn, nội dung giáo dục pháp luật theo ngành nghề còn
bao gồm một số luật thực định, liên quan trực tiếp đến lĩnh vực hoạt động của


18

đối tượng. Các quyền và nghĩa vụ công dân trong lĩnh vực hoạt động và các
trình tự giải quyết các tranh chấp phổ biến liên quan trong lĩnh vực nghề nghiệp.
Ba là, mức độ giáo dục chuyên luật, đây là mức độ cao nhất của nội
dung giáo dục pháp luật, nhằm mục đích đào tạo các luật gia cho bộ máy nhà
nước và các tổ chức mang tính nghề nghiệp về pháp luật. Sự hiểu biết của đối

tượng này bao gồm cả những quan điểm, những học thuyết về nhà nước và
pháp luật trong lịch sử và hiện tại. Những hiểu biết tương đối toàn diện về hệ
thống pháp luật trong nước và quốc tế trong lĩnh vực chuyên sâu của từng
người (về hình sự, về dân sự, về kinh tế, về hôn nhân gia đình, về luật quốc
tế,...). Kỹ năng của họ không chỉ dừng lại ở việc tuân thủ pháp luật mà chủ
yếu là vận dụng chính xác, linh hoạt các quan hệ pháp luật vào việc xử lý, giải
quyết các vấn đề liên quan đến pháp luật (hoặc tư vấn cho việc giải quyết các
vấn đề về pháp luật, như các tranh chấp, các vi phạm pháp luật...). Kỹ năng
quan trọng và đặc thù của đối tượng là sáng tạo pháp luật, là khả năng tham
gia vào việc hoàn thiện pháp luật.
Từ việc xác định phạm vi, đặc điểm và các mức độ yêu cầu về nội
dung giáo dục pháp luật có thể thấy rằng: Không thể có một hình thức hay
một chủ thể giáo dục pháp luật riêng biệt có thể đáp ứng được tất cả các yêu
cầu, nội dung để đạt tới mục tiêu giáo dục pháp luật đặt ra cho mọi đối tượng.
Do đó cần phải có sự phối hợp nhiều hình thức, phương tiện, chương trình,
mục tiêu giáo dục pháp luật của các chủ thể khác nhau để hỗ trợ, bổ sung cho
nhau nhằm đạt được mục đích của giáo dục pháp luật mà nội dung giáo dục
pháp luật đề ra.
1.1.3.2. Hình thức giáo dục pháp luật
Mục đích và nội dung của giáo dục pháp luật không thể tự thân đi
vào nhận thức, tình cảm của người được giáo dục pháp luật, mà phải qua
những kênh chuyển tải thông tin, là các dạng hoạt động cụ thể để tổ chức


19

quá trình giáo dục pháp luật, thể hiện nội dung giáo dục pháp luật. Các dạng
hoạt động cụ thể đó phải phù hợp với khả năng tiếp cận của đối tượng. Do
đó, hiệu quả của giáo dục pháp luật không chỉ phụ thuộc vào việc xác định
đúng mục đích và nội dung giáo dục pháp luật mà còn phụ thuộc vào việc

xác định đúng hình thức giáo dục pháp luật. Có nhiều quan niệm khác nhau
về hình thức giáo dục pháp luật. Xuất phát từ giáo dục học, khái niệm hình
thức giáo dục được hiểu là: Các hình thức tổ chức hoạt động phối hợp giữa
người giáo dục và người được giáo dục nhằm chiếm lĩnh nội dung giáo dục
và đạt mục đích giáo dục. Trên cơ sở của khái niệm này, hình thức giáo dục
pháp luật được coi là các dạng cụ thể, có tổ chức phối hợp giữa chủ thể
giáo dục pháp luật và đối tượng giáo dục pháp luật để thể hiện nội dung
giáo dục pháp luật và đạt mục đích giáo dục pháp luật. Từ khái niệm hình
thức giáo dục pháp luật, người ta còn phân chia hình thức giáo dục pháp luật
ra thành nhiều loại khác nhau. Qua thực tiễn cũng như qua nghiên cứu lý
luận về nguyên tắc, nội dung, chủ thể, đối tượng giáo dục pháp luật, hình
thức giáo dục pháp luật được chia làm hai loại:
- Các hình thức giáo dục pháp luật mang tính phổ biến, truyền thống
của giáo dục chính trị tư tưởng như: phổ biến, nói chuyện pháp luật tại các cơ
quan nhà nước, các tổ chức quần chúng, các địa bàn dân cư; các hội nghị, hội
thảo pháp luật; các câu lạc bộ pháp luật; các đội thông tin cổ động pháp luật;
các cuộc thi tìm hiểu pháp luật; tuyên truyền qua báo chí và các phương tiện
thông tin đại chúng khác; các hình thức văn học nghệ thuật; dạy và học pháp
luật trong các nhà trường.
- Các hình thức giáo dục pháp luật đặc thù như: Các hoạt động định
hướng giáo dục pháp luật trong các hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp
của các cơ quan nhà nước (Quốc hội, Chính phủ, Tòa án và Viện kiểm sát);
giáo dục pháp luật qua các hoạt động của các tổ chức xã hội, tổ chức nghề
nghiệp, tổ chức quần chúng (tổ hòa giải, tư vấn pháp lý...).


20

1.1.4. Chủ thể, khách thể, đối tượng giáo dục pháp luật
1.1.4.1. Chủ thể giáo dục pháp luật

Theo lý luận giáo dục học thì chủ thể giáo dục là thầy cô giáo và tất cả
những người làm công tác giáo dục khác. Vận dụng vào giáo dục pháp luật,
có thể hiểu: Chủ thể giáo dục pháp luật là tất cả những người mà theo chức
năng, nhiệm vụ hay trách nhiệm xã hội phải tham gia vào việc thực hiện các
mục đích giáo dục pháp luật. Các nghiên cứu lý luận và thực tiễn đã xác định
và thừa nhận có hai loại chủ thể giáo dục pháp luật: chủ thể chuyên nghiệp và
chủ thể không chuyên nghiệp với vị trí, nhiệm vụ, yêu cầu trình độ và kỹ năng
giáo dục pháp luật khác nhau. Từ đó, có các hình thức, phương thức và phương
pháp tiến hành hoạt động giáo dục pháp luật khác nhau.
Chủ thể chuyên nghiệp giáo dục pháp luật là những người mà chức
năng, nhiệm vụ chủ yếu, trực tiếp của họ là thực hiện các mục đích, nội dung
giáo dục pháp luật (giảng viên luật, các báo cáo viên, tuyên truyền viên về
pháp luật...).
Chủ thể không chuyên nghiệp giáo dục pháp luật là những người mà
chức năng chính không phải là giáo dục pháp luật, nhưng một trong các
nhiệm vụ của họ là thông qua hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ để thực hiện
mục đích giáo dục pháp luật (đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân,
cán bộ, công chức thuộc các cơ quan hành pháp, tư pháp...).
Tóm lại, chủ thể giáo dục pháp luật được hiểu là tất cả những người
mà theo chức năng hay theo trách nhiệm xã hội, đã tham gia góp phần vào
việc thực hiện mục tiêu giáo dục pháp luật.
1.1.4.2. Khách thể (đối tượng) giáo dục pháp luật
Khách thể theo quan niệm chung nhất là "đối tượng chịu sự tác động,
chi phối của hành động trong quan hệ đối lập với đối tượng gây ra hành động
gọi là chủ thể" [60, tr. 487]. Từ quan niệm chung đó có thể đồng nhất khách


21

thể với đối tượng chịu sự tác động. Trong lý luận giáo dục người ta cho rằng:

Khách thể (hay đối tượng) giáo dục là cá nhân hay tập thể học sinh.
Như đã đề cập ở phần trên, khái niệm giáo dục pháp luật được xây
dựng xuất phát từ nghĩa hẹp của khái niệm giáo dục trong khoa học sư phạm,
nó chỉ là một dạng đặc thù mang nét riêng, nằm trong cái chung của hoạt
động giáo dục. Mặt khác, khi xem xét đến khách thể, đối tượng giáo dục pháp
luật không thể không tính đến các mục đích của giáo dục nói chung và mục
đích của giáo dục pháp luật nói riêng.
Quá trình giáo dục pháp luật thực chất là quan hệ xã hội giữa một bên
là người giáo dục (chủ thể) và một bên là người được giáo dục (khách thể hay
đối tượng). Mối quan hệ này có sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các bên
tham gia trong mối quan hệ. Song chiều tác động chủ yếu vẫn là sự tác động,
chi phối của người giáo dục (chủ thể). Sự tác động giáo dục là những hoạt
động có ý thức, có định hướng, có kế hoạch, nhằm đạt tới những mục tiêu,
mục đích nhất định (bao gồm mục đích nhận thức, mục đích cảm xúc, mục
đích hành vi, thói quen xử sự theo pháp luật). Nói cách khác, chủ thể giáo dục
pháp luật tác động lên khách thể (đối tượng) giáo dục với những mong muốn
cụ thể là xây dựng được ý thức và những hành vi hợp pháp cho khách thể (đối
tượng) giáo dục pháp luật.
Như vậy, khách thể (đối tượng) giáo dục pháp luật ở đây không chỉ là
cá nhân, những nhóm cộng đồng xã hội mà còn bào hàm cả những yếu tố bên
trong của họ như: nhận thức, tình cảm, cảm xúc, hành vi cụ thể của họ phù
hợp với pháp luật.
Từ phân tích trên cho thấy, khách thể của giáo dục pháp luật cũng
giống như khách thể của giáo dục nói chung, nó mang tính đồng nhất với đối
tượng giáo dục pháp luật. Vậy khách thể của giáo dục pháp luật được hiểu là
những cá nhân, nhóm cộng đồng xã hội cùng với ý thức và hành vi pháp luật
của họ.


22


Việc xác định chủ thể, khách thể (đối tượng) giáo dục pháp luật có ý
nghĩa quan trọng trong lý luận và thực tiễn của hoạt động giáo dục pháp luật
trên cơ sở mối quan hệ, sự tác động qua lại lẫn nhau giữa chủ thể và khách thể
trong quá trình giáo dục pháp luật. Trong đó, chủ yếu là sự tác động có ý
thức, có mục đích, có kế hoạch của người giáo dục pháp luật lên người được
giáo dục pháp luật. Điều đó tạo cho chủ thể xác định các nội dung, hình thức,
phương tiện, biện pháp phù hợp để tiếp cận với khách thể (đối tượng) giáo
dục pháp luật một cách có hiệu quả nhất.
1.1.5. Mối quan hệ giữa giáo dục pháp luật với giáo dục chính trị
tư tưởng, giáo dục đạo đức và các dạng giáo dục khác
Giáo dục pháp luật tuy có những nét đặc thù riêng, nhưng phải được
đặt trong mối quan hệ chung được coi như một dạng giáo dục trong hệ thống
giáo dục. Giáo dục pháp luật khi đặt trong tổng thể của hệ thống giáo dục thì
giáo dục pháp luật có mối quan hệ khá mật thiết với các dạng giáo dục khác
như: giáo dục chính trị, đạo đức, lao động, kinh tế...
- Giáo dục pháp luật tác động tương hỗ một cách sâu sắc với giáo dục
chính trị tư tưởng. V.I. Lênin đã chỉ rõ rằng: "Luật là biện pháp chính trị, là
chính trị" [28, tr. 99]. Hiện nay, đường lối chính trị của Đảng ta - chỗ dựa của
đổi mới mọi mặt về chính trị, kinh tế, xã hội đã đi vào tất cả các mặt hoạt
động lập pháp, hành pháp và tư pháp. Có thể nói rằng, mỗi một quy phạm
pháp luật đều là phương tiện để củng cố, ghi nhận, một quy tắc mà xã hội cần,
xã hội ủng hộ nhằm bảo vệ không những lợi ích của Nhà nước mà còn là của
mỗi công dân. Bởi vậy, khi thực hiện giáo dục pháp luật sẽ tạo ra khả năng
cho việc giáo dục chính trị tư tưởng, góp phần hình thành ở đối tượng giáo
dục những quan hệ giá trị xác định với chính trị tư tưởng. Ngược lại, trong
giáo dục chính trị tư tưởng có chức năng đan xen trong nội dung của mình
những hiện tượng của pháp luật, củng cố những quan hệ tích cực đối với
những đòi hỏi của pháp luật, kích thích lợi ích điều chỉnh bằng pháp luật. Mối



23

quan hệ mật thiết qua lại chặt chẽ giữa giáo dục pháp luật và giáo dục chính
trị tư tưởng đòi hỏi các chủ thể giáo dục pháp luật phải biết kết hợp và bổ
sung cho nhau trong quá trình giáo dục.
- Giáo dục pháp luật có quan hệ chặt chẽ với giáo dục đạo đức, Đảng
ta đã nhận thức rõ điều đó, nên trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định: "Tăng cường pháp chế,
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quản lý xã hội
bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục nâng cao đạo đức" [14, tr. 45].
Giữa pháp luật và đạo đức không có sự đối lập nhau, pháp luật là chỗ dựa và
là cơ sở của việc hình thành đạo đức; các nguyên tắc căn bản của đạo đức
được thể chế hòa thành các quy phạm pháp luật. Do đó, pháp luật bảo vệ và
phát triển đạo đức, bảo vệ tính công bằng, nhân đạo, tự do, lòng tin và lương
tâm con người. Vì vậy, giáo dục đạo đức tạo nên những tiền đề cần thiết để
hình thành ở công dân sự tôn trọng sâu sắc đối với pháp luật. Ngược lại, giáo
dục pháp luật tạo ra khả năng thiết lập trên thực tế những nguyên tắc đạo đức
mới. Quy phạm pháp luật và quy phạm đạo đức đều hướng tới điều chỉnh
hành vi của con người, giữa chúng có một số điểm chung là cùng tác động lên
con người, những điểm chung đó là:
+ Tạo ra lòng tin và giá trị xã hội của pháp luật;
+ Tạo ra thói quen xử sự trong các hoàn cảnh cụ thể theo các chuẩn
mực đạo đức và pháp luật.
Như vậy, sự thống nhất giữa giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức
thể hiện ở hành vi của con người. Sự thống nhất đó đòi hỏi sự tác động tổng
hợp của cả hai dạng giáo dục. Do đó, trong hoạt động thực tiễn, các tổ chức
chính trị, các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội phải sử dụng
đồng bộ các hình thức, các biện pháp của cả hai dạng giáo dục để bổ sung cho
nhau, tác động lẫn nhau với mục đích hình thành các hành vi hợp pháp, hợp

đạo đức ở các đối tượng được giáo dục.


24

- Hiện nay, "Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và
lâu dài chính sách phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ
nghĩa" [15, tr. 23]. Để thực hiện đường lối kinh tế nói trên của Đảng và Nhà
nước, cần đẩy mạnh hoạt động giáo dục kinh tế trong mối quan hệ với sự
nghiệp đổi mới. Tất nhiên, giáo dục kinh tế trong giai đoạn hiện nay là những
tư duy và phương pháp của "cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa". Các quan hệ kinh tế ở nước ta ở mức độ này hay mức độ khác được
thể hiện thành các hình thức pháp lý. Thiếu các hình thức pháp lý thích hợp,
các quan hệ kinh tế khó lòng thực hiện. Điều đó có nghĩa rằng, bên cạnh giáo
dục kinh tế, cần phải tiến hành giáo dục pháp luật bao gồm việc giải thích,
phổ biến, học tập, nghiên cứu những văn kiện liên quan trực tiếp đến việc
điều chỉnh các quan hệ kinh tế.
Ngoài những dạng giáo dục có mối quan hệ mật thiết với giáo dục
pháp luật như đã nêu trên, còn nhiều dạng giáo dục khác. Trong điều kiện đổi
mới hiện nay, việc nghiên cứu mối quan hệ tổ hợp, đan xen giữa các dạng
giáo dục có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách. Việc giáo dục pháp luật chỉ
có thể đạt được mục đích và hiệu quả trong mối quan hệ thống nhất, tổ hợp
của cả hệ thống các hình thức giáo dục. Tất cả các dạng giáo dục phải được
phối hợp và tiến hành thường xuyên trong mối quan hệ tác động qua lại lẫn
nhau.
1.2. GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO CÁN BỘ, CÔNG CHỨC

1.2.1. Khái niệm cán bộ, công chức
1.2.1.1. Quá trình hình thành khái niệm công chức ở Việt Nam

Khái niệm công chức ở nước ta được đánh dấu từ Sắc lệnh 76/SL
ngày 20/5/1950 của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ban hành "Quy chế công chức của
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa". Sau đó, trong một thời gian dài do nhiều


25

nguyên nhân chúng ta ít sử dụng thuật ngữ "công chức" mà thường dùng cụm
từ "cán bộ công nhân viên chức" để chỉ toàn bộ những người làm việc trong
tất cả các cơ quan nhà nước, tổ chức Đảng, các đoàn thể quần chúng, cán bộ,
công nhân làm việc trong các nhà máy, xí nghiệp quốc doanh.
Đến cuối những năm 1980, thực hiện chủ trương đổi mới toàn diện
của Đảng và Nhà nước ta theo tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn
quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI (1986), khái niệm "công chức" lại
được dùng nhiều hơn trong các văn bản pháp luật của Nhà nước. Để phân
định ai là công chức, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ban hành
Nghị định 169/HĐBT ngày 25/5/1991. Theo Điều 1 của nghị định này thì:
"Công chức nhà nước là công dân Việt Nam được tuyển dụng và bổ nhiệm,
giữ một công vụ thường xuyên trong một công sở của Nhà nước ở trung ương
hay địa phương; ở trong nước hay ngoài nước; đã được xếp vào một ngạch;
hưởng lương do ngân sách nhà nước cấp gọi là công chức nhà nước".
Bước sang những năm 1990, sự nghiệp đổi mới đất nước được đẩy
mạnh và đã đạt được những thành tựu đáng kể, nhiều vấn đề lớn được đặt ra,
trong đó có vấn đề cán bộ, công chức. "Xây dựng và ban hành văn bản pháp
quy về chế độ công vụ và công chức. Định rõ nghĩa vụ, trách nhiệm, thẩm
quyền", "xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước vừa có trình độ
chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp" [14, tr. 132]. Theo tinh thần Nghị quyết
của Đại hội Đảng lần thứ VIII (1996) nói trên, Ủy ban Thường vụ Quốc hội
đã ban hành Pháp lệnh Cán bộ, công chức ngày 26/02/1998 và có hiệu lực vào
ngày 01/5/1998.

Pháp lệnh Cán bộ, công chức năm 1998 không đưa ra định nghĩa cho
từng khái niệm "cán bộ", "công chức", cũng không đưa ra định nghĩa chung
cho cụm từ "cán bộ, công chức", mà chỉ quy định ở Điều 1 của Pháp lệnh Cán
bộ, công chức:


×