Tải bản đầy đủ (.pdf) (44 trang)

KHÁI QUÁT VỀ CẢM THỤ VĂN HỌC VÀ VIỆC BỒI DƯỠNG NĂNG LỰC CẢM THỤ VĂN HỌC CHO HSTH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (454.02 KB, 44 trang )

CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ CẢM THỤ VĂN HỌC VÀ VIỆC
BỒI DƯỠNG NĂNG LỰC CẢM THỤ VĂN HỌC CHO HSTH
1.1. Khái quát về cảm thụ văn học
1.1.1. Khái niệm cảm thụ văn học
1.1.1.1. Cảm thụ văn học là gì?
“Cảm thụ văn học là một quá trình tiếp nhận, hiểu, cảm được văn chương, tính
hình tượng của văn chương, đặc trưng ngôn ngữ nghệ thuật, đặc trưng phản ánh nghệ
thuật của văn chương” (Phương pháp dạy học tiếng Việt ở Tiểu học, Nxb Đại học
Quốc gia, Hà Nội, 1999).
“Cảm thụ văn học là sự cảm nhận những giá trị nổi bật, những điều sâu sắc, tế
nhị và đẹp đẽ của văn học thể hiện trong tác phẩm (cuốn truyện, bài văn, bài thơ…)
hay một bộ phận của tác phẩm (đoạn văn, đoạn thơ… thậm chí một từ ngữ có giá trị
trong câu văn, câu thơ)” (Luyện tập về cảm thụ văn học, Nxb Giáo dục, 2003).
Cảm thụ văn học (CTVH) là hoạt động thâm nhập vào thế giới nghệ thuật của
tác phẩm văn học bằng nhiều năng lực tinh thần: tri giác, xúc cảm, liên tưởng, tưởng
tượng... nhằm phát hiện, khám phá, chiếm lĩnh bản chất thẩm mĩ của văn chương, tạo
được mối giao cảm đặc biệt giữa tác giả và bạn đọc.
- Cấu trúc của CTVH: Là sự đan xen phức tạp các yếu tố: tri giác, lí giải, xúc
cảm, liên tưởng, tưởng tượng...
- Mục đích của CTVH: Cảm nhận, phát hiện, khám phá và chiếm lĩnh bản chất
thẩm mĩ của văn chương, nhằm bồi dưỡng mĩ cảm phong phú, tinh tế cho độc giả.
- Yêu cầu của CTVH:
+ Phải có xúc cảm, suy ngẫm, tưởng tượng, thực sự gần gũi, "nhập thân" vào
thế giới nghệ thuật của tác phẩm văn học
+ Cảm nhận được những giá trị nổi bật, những điều sâu sắc, tế nhị và đẹp đẽ
nhất của văn học thể hiện trong tác phẩm hay một bộ phận của tác phẩm.
+ Phương thức chiếm lĩnh đối tượng chủ yếu là bằng tình cảm, những xúc động
mang tính trực quan, trực cảm, những liên tưởng, suy luận...
+ Cảm thụ đặc biệt cần đến sự tinh tế, nhạy cảm, sâu sắc của tâm hồn, cần đến
vốn sống, vốn văn hoá, sự trải nghiệm của con người.


1.1.1.2. Cảm thụ văn học và tiếp nhận văn học
1


- Tiếp nhận văn học là hoạt động “tiêu dùng”, “thưởng thức”, “phê bình” văn
học của độc giả. Nó góp phần làm thoả mãn nhu cầu tinh thần, nhu cầu thẩm mỹ của
con người trong cuộc sống. Nó giúp hoạt động sáng tạo nghệ thuật trở nên có ý nghĩa,
có mục đích và những giá trị chân chính của tác phẩm được bảo tồn, được phát triển
phong phú.
- CTVH là một hoạt động mang tính đặc thù trong tiếp nhận văn học.
1.1.1.3. Cảm thụ và đọc - hiểu tác phẩm văn học
- Phân biệt cảm thụ và đọc - hiểu tác phẩm văn học:
Đọc - hiểu

Cảm thụ

- Là đọc và nắm bắt thông tin, là - Là đọc-hiểu ở mức độ cao nhất, hiểu sâu
quá trình nhận thức để có khả năng sắc tác phẩm, khám phá, chiếm lĩnh bản
thông hiểu những gì được đọc.

chất thẩm mĩ của văn chương.

- Hiệu quả: hiểu được ý nghĩa của - Hiệu quả: đánh giá khả năng sử dụng
ngôn ngữ nghệ thuật; nắm bắt nội ngôn ngữ nghệ thuật, thẩm thấu thông tin,
dung thông tin của văn bản → thiên cảm nhận ý nghĩa sâu xa của tác phẩm, tạo
về tri giác.

mối giao cảm tác giả - bạn đọc → huy động
cả tri giác, xúc cảm, tưởng tượng…


- Đọc hiểu tất cả các loại văn bản.

- Cảm thụ văn bản nghệ thuật.

- Mối quan hệ giữa đọc - hiểu và cảm thụ văn học:
Đọc - hiểu và cảm thụ đều là những hoạt động thâm nhập vào tác phẩm văn
chương. Chúng có sự tác động qua lại, thống nhất nhưng không đồng nhất. Có thể nói
từ đọc - hiểu đến cảm thụ là một tiến trình chiếm lĩnh thế giới nghệ thuật. Nếu coi đọc
hiểu là bước khởi đầu, là nền móng thì cảm thụ văn học là bước cuối cùng hoàn thành
quá trình thâm nhập một văn bản nghệ thuật.
Đầu tiên là đọc để hiểu nội dung tác phẩm, nắm bắt các thông tin mà tác giả gửi
gắm, nhận diện các yếu tố nghệ thuật đã được sử dụng nhằm chuyển tải thông tin tới
người đọc một cách ấn tượng. Cảm thụ là quá trình người đọc nhập thân đầy cảm xúc
vào tác phẩm, suy tư về một số các câu chữ, hình ảnh, lập luận và sống cùng tâm
trạng, cảm xúc của nhân vật. Hiểu và cảm thụ văn bản nghệ thuật thuộc hai mức độ
nông sâu khác nhau: hiểu là việc chạm tới nội dung bề mặt của ngôn từ nghệ thuật,
còn cảm thụ là việc nhận thức được chiều sâu ý nghĩa của văn bản từ những gì mà
2


ngôn từ gợi ra.
Ví dụ: Văn bản Mùa xuân đến (Nguyễn Kiên, Tiếng Việt 2, tập 2).
Để hiểu bài văn này, người đọc chỉ cần quan tâm đến các thông tin: dấu hiệu của
mùa xuân, những thay đổi của bầu trời và mọi vật khi mùa xuân đến; hương vị của
mỗi loài hoa, vẻ riêng của mỗi loài chim... cuối cùng khái quát nội dung bài: mùa xuân
làm cho cảnh vật thêm đẹp đẽ và sinh động.
Nhưng để cảm thụ nó, người đọc phải có một thứ mẫn cảm riêng, có thể đó là sự
nhạy cảm của tâm hồn, là sự thành tâm chú ý, là chút thắc mắc mang tính thẩm mĩ...
miễn là không dễ dàng đi qua câu chữ của bài văn này. Người đọc có thể dừng lại ở
đâu đó. Chỗ khiến người ta dễ chú ý ở đây chính là câu văn đầu và câu văn cuối, bởi

nó đã thông báo những điều khác thường. Câu đầu cho biết hoa mận có một cách thức
rất khác lạ để báo hiệu mùa xuân: sự tàn lụi - hoa mận dùng cái chết của mình để báo
hiệu sự bừng nở của sức sống mới, vì vậy, nó trở thành loài hoa hiếm hoi không có
mặt trong mùa xuân. Câu cuối, miêu tả tâm trạng chú chim sâu (đây là loài chim duy
nhất trong bài được miêu tả tâm trạng). Một chữ "nhưng" đã đủ tạo ra sự khác biệt
giữa loài chim này với các loài chim bạn: nó không vô tư mà bị ám ảnh bởi hình ảnh
cánh hoa mận trắng biết nở cuối đông để báo trước mùa xuân tới. Nó biết nhớ tới một
vẻ đẹp đã tàn phai, biết đánh giá ý nghĩa của vẻ đẹp ấy, đã coi vẻ đẹp ấy là bất tử. Có
thể gọi chim sâu là tri âm của hoa mận. Tuy không được góp mặt với mùa xuân nhưng
hoa mận không phải buồn tủi. Màu trắng mong manh mà chứa đựng sức sống mãnh
liệt của nó sẽ được người ta trân trọng và tiếc nuối. Mấy chữ "còn mãi sáng ngời" có
sức lay động sâu sắc.
Tuy nhiên, ranh giới giữa hai cấp độ này đôi khi khó phân biệt. Hiểu một cách
sâu sắc thì chạm đến cảm thụ, cảm thụ xuất phát từ đọc-hiểu và bao hàm cả đọc-hiểu...
Mỗi người đều có thể rèn luyện, trau dồi cách đọc để từng bước nâng cao trình
độ cảm thụ văn học cho bản thân, từ đó có thể cảm nhận cuộc sống tốt hơn. Đọc có
suy ngẫm, tưởng tượng (hay liên tưởng) và rung cảm thực sự chính là người đọc biết
cảm thụ văn học. Đúng như nhà văn Anh Đức đã tâm sự: “ Khi đọc, tôi không chỉ thấy
dòng chữ mà còn thấy cảnh tượng ở sau dòng chữ, trí tưởng tượng nhiều khi dẫn tôi đi
rất xa, vẽ thêu ra lắm điều thú vị”.
1.1.2. Các cấp độ cảm thụ văn học
Có bốn cấp độ cảm thụ văn học:
1. Cảm thụ ngôn từ: cảm thụ về ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, các biện pháp tu từ...
3


2. Cảm thụ hình tượng: hình tượng nhân vật, hình tượng tác giả, chi tiết, hình
ảnh, kết cấu, không gian, thời gian...
3. Cảm thụ ý nghĩa tác phẩm: nghĩa đen, nghĩa bóng, nghĩa tường minh, nghĩa
hàm ẩn, ý nghĩa lịch sử - xã hội, ý nghĩa nhân văn - thẩm mĩ...

4. Cảm thụ tư tưởng của tác giả: tư tưởng, quan niệm, chính kiến của nhà văn về
con người, xã hội, đạo đức, nghệ thuật, thẩm mĩ
Ví dụ: Các cấp độ cảm thụ bài thơ Cây dừa của Trần Đăng Khoa:
- Cảm thụ ngôn từ:
+ Dùng nhiều động từ: dang tay, gật đầu, đón, gọi, múa reo, đánh nhịp...
+ So sánh: tàu dừa - chiếc lược, quả dừa - đàn lợn con...
+ Nhân hóa: cây dừa - con người...
→ Miêu tả cây dừa chân thực, sống động mà tinh tế, ấn tượng.
- Cảm thụ hình tượng: hình tượng cây dừa:
+ Gắn bó chan hòa với thiên nhiên (gió, trăng, mây, nắng, đàn cò)
+ Làm công việc có ích, cao cả: canh giữ đất trời
+ Phong thái: vui tươi, chan hòa, từng trải, ung dung.
→ Cây dừa vừa như một người bạn hào phóng, vừa như một người lính trang
nghiêm...
- Cảm thụ ý nghĩa tác phẩm:
+ Nghĩa đen: miêu tả cây dừa
+ Nghĩa bóng: hình ảnh thiên nhiên và con người Việt Nam.
+ Ý nghĩa nhân văn - thẩm mĩ: cây dừa - biểu tượng đẹp của đất nước và con
người Việt Nam, vừa trẻ trung, vừa thâm trầm, bình thản.
- Cảm thụ tư tưởng của tác giả:
Quan niệm về thiên nhiên: thân thương, bình dị, chan hòa, gần gũi với con người,
Bộc lộ cái nhìn vừa trẻ thơ, vừa già dặn về thế giới xung quanh.
1.1.3. Quá trình cảm thụ văn học
Quá trình CTVH là quá trình đi từ đọc - hiểu đến cảm thụ, thâm nhập vào thế
giới nghệ thuật, chiếm lĩnh bản chất thẩm mĩ của văn chương, đảm bảo mối quan hệ
giữa nhà văn - tác phẩm - bạn đọc.
Đặc điểm nổi bật của quá trình CTVH là đọc văn bản trong nhận biết và rung
động. Người đọc có thể tạo nên những liên tưởng thẩm mỹ giữa bản thân mình với văn
bản tác phẩm. Người đọc không chỉ lĩnh hội đầy đủ các thông tin được truyền đạt mà
4



còn sống đời sống của các nhân vật, của câu chữ, hình ảnh… Nghĩa là, nếu tác giả sử
dụng tư duy nghệ thuật để sáng tạo tác phẩm, thì người đọc cũng phải sử dụng cùng
loại tư duy ấy để lĩnh hội tác phẩm. Đó chính là tư duy hình tượng, loại tư duy dựa
trên cơ sở tiếp xúc cảm tính với đối tượng, làm sống dậy toàn vẹn đối tượng đó bằng
nghe, nhìn, tưởng tượng, không sao chép đối tượng một cách bàng quan mà còn bao
hàm thái độ của con người với chính đối tượng đó.
Để đảm bảo yêu cầu của CTVH, người đọc cũng phải thể nghiệm cùng với các
nhân vật, tức là phải nhập thân bằng tưởng tượng vào các nhân vật để hình dung các
biểu hiện của chúng, từ đó khái quát đặc điểm, tính cách… Người đọc cũng cần dùng
tưởng tượng, trực giác để cảm nhận ý nghĩa biểu cảm của ngôn từ, từ đó chia sẻ, đồng
sáng tạo với tác giả.
Quá trình CTVH chính là việc đảm bảo hiệu quả nhất mối quan hệ giữa nhà văn
- tác phẩm - bạn đọc. Đến với tác phẩm văn học, người đọc muốn được hưởng thụ và
bồi đắp những tình cảm thẩm mĩ, muốn được mở mang trí tuệ, bồi dưỡng thêm về tư
tưởng, đạo đức, lí tưởng, học hỏi kinh nghiệm sống hoặc nhận xét, đánh giá. Bằng việc
cảm thụ, người đọc đã chuyển hóa văn bản thứ nhất của tác giả thành văn bản thứ hai
của mình. Bởi vì, trong khi đọc tác phẩm văn học, người đọc vừa bám vào sự mô tả
trong văn bản, vừa liên tưởng tới các hiện tượng ngoài đời, đồng thời cũng dựa vào
cảm nghĩ và lí giải của mình, mà hình dung, tưởng tượng ra con người, sự vật, sự việc
được miêu tả. Khi mối quan hệ nhà văn - tác phẩm - bạn đọc được đảm bảo thì người
đọc sẽ có được sự đồng cảm với với tác giả, yêu ghét những gì mà chính tác giả yêu
ghét. Trên cơ sở của sự đồng cảm, nếu người đọc tiếp tục suy ngẫm, kết hợp với chân
lí của tác phẩm, liên hệ với thực tế, với bản thân, sẽ đưa đến những nhận thức mới.
Cảm thụ văn học là bước cuối cùng của chặng đường đọc hiểu, là đọc hiểu ở
mức độ cao nhất. Vì vậy, sau khi đã hiểu thấu đáo nội dung một tác phẩm văn học,
người đọc cần tiếp tục phát hiện các tín hiệu thẩm mĩ của văn bản nhằm tiếp cận tác
phẩm ở một mức độ cao hơn, tạo mối giao tiếp gần gũi hơn với tác giả. Các tín hiệu đó
có thể rất nhỏ bé, nhưng có sức khơi gợi sâu xa, đem lại những rung cảm thực sự cho

người đọc. Sau khi phát hiện, bước tiếp theo là phân tích, bình giảng làm nổi bật vẻ
đẹp đó để người khác có thể chia sẻ, thưởng thức.
1.1.4. Năng lực cảm thụ văn học
Năng lực CTVH là khả năng nắm bắt một cách nhanh, nhạy, chính xác các đặc
điểm, đặc trưng, bản chất của tác phẩm về nội dung và nghệ thuật; là khả năng hiểu,
5


rung cảm một cách sâu sắc, tinh tế với những điều tâm sự thầm kín nhất của tác giả gửi
gắm qua hình tượng; là khả năng đánh giá chính xác và sâu sắc tài năng cũng như sự
độc đáo trong phong cách nhà văn.
Năng lực cảm thụ văn học ở mỗi người không hoàn toàn giống nhau do nhiều
yếu tố qui định như: vốn sống và hiểu biết, năng lực và trình độ kiến thức, tình cảm và
thái độ, sự nhạy cảm khi tiếp xúc với tác phẩm văn học… Ngay cả ở một người, sự
cảm thụ một bài văn, bài thơ trong những thời điểm khác nhau cũng khác nhau.
1.2. Bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học cho học sinh tiểu học
1.2.1. Ý nghĩa của việc bồi dưỡng năng lực CTVH cho HSTH
- Việc rèn luyện để năng cao năng lực cảm thụ văn học là một nhiệm vụ rất cần
thiết đối với học sinh Tiểu học. Một học sinh có năng lực cảm thụ văn học tốt sẽ cảm
nhận được các giá trị nhân văn, thẩm mĩ của tác phẩm văn học, góp phần bồi dưỡng
tâm hồn, tình cảm của các em.
- Bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học nhằm giúp các em có những nhận thức
ban đầu về văn học và cuộc sống, biết cách đọc các tác phẩm nghệ thuật, nhận biết
nhanh nhạy và chính xác các tín hiệu nghệ thuật, hình thành một số kỷ năng đơn giản
trong phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
- Ngữ liệu dạy học các phân môn tiếng Việt đa phần là các văn bản có giá trị
nghệ thuật, cần được khám phá cả nội dung tư tưởng và vẻ đẹp ngôn từ. Việc rèn
luyện, trau dồi để nâng cao trình độ cảm thụ văn học không những giúp các em cảm
nhận được cái hay, cái đẹp của văn chương mà còn giúp các em học tốt môn Tiếng
Việt, nói và viết Tiếng Việt ngày càng trong sáng, sinh động hơn...

1.2.2. Đặc điểm cảm thụ văn học của học sinh tiểu học
Trẻ em rất say mê văn học, nghệ thuật; có những cảm nhận, suy nghĩ theo lối
riêng của mình, ngoài tính chất trẻ thơ, thơ ngây, ở từng mặt, từng khía cạnh cụ thể,
nhiều khi cũng rất sâu sắc và đầy chất trí tuệ. Đây là những nguyên nhân dẫn đến
những đặc trưng trong cảm thụ văn học ở lứa tuổi này:
- Dễ nhập thân vào tác phẩm, có khả năng liên tưởng, tưởng tượng sinh động về
thế giới trong tác phẩm.
- Có khả năng nhạy cảm, tinh tế trong cảm thụ cái đẹp: dễ rung động trước
những kích thích thẩm mỹ, dễ xúc động với những sự kiện, nhân vật, hình ảnh trong
tác phẩm.
6


- Cảm thụ thường mang tính trực tiếp, cảm tính, trong sáng, yêu cái thiện, ghét
cái ác...
- Cảm nhận mang tính hồn nhiên, ngây thơ, dễ tin những gì diễn ra trong tác
phẩm là có thực, chưa phân biệt thế giới trong tác phẩm và hiện thực ngoài đời.
- Hứng thú tiếp nhận thường thiên về những tác phẩm có cốt truyện rõ ràng, có
tình tiết li kì, lôi cuốn, các nhân vật không có sự nhập nhoà, pha trộn về tính cách...
- Một số nhược điểm:
+ Do tư duy logic chưa phát triển như người trưởng thành nên các em gặp khó
khăn trong việc phát hiện những nội dung trừu tượng, khái quát, thường sa vào những
chi tiết cụ thể, thiếu khả năng tổng hợp vấn đề; không biết lật trở vấn đề, sự khái quát
thường vội vã, thiếu chiều sâu đồng thời chưa thấy được hết các mối quan hệ giữa các
sự kiện diễn ra trong tác phẩm...
+ Ít cảm thụ bằng trải nghiệm cá nhân, chưa biết lí giải một cách tường tận,
thấu đáo các cung bậc, trạng thái tình cảm của mình.
+ Ít đánh giá với óc phê phán tác phẩm và nhà văn, thường chỉ nhận xét về nhân
vật, và những nhận xét này cũng dễ cực đoan, một chiều;
+ Không hiểu và không thích những nhân vật mâu thuẫn, phức tạp, giàu suy tư;

những truyện kết thúc theo lối để ngỏ cũng không được trẻ ưa thích...
1.2.3. Năng lực cần thiết của giáo viên tiểu học khi bồi dưỡng cảm thụ văn
học cho học sinh
1.2.3.1. Có sự hiểu biết sâu sắc về nội dung, nghệ thuật tác phẩm
Trước hết, giáo viên cần có sự hiểu biết sâu sắc về nội dung, nghệ thuật tác
phẩm. Đó là sự nhận thức đầy đủ và sâu sắc những thông tin cơ bản về tác phẩm, bao
gồm: tác giả, thời đại, hoàn cảnh sáng tác, nội dung tư tưởng, ý đồ nghệ thuật...
Để mở rộng hiểu biết và nâng cao nhận thức đối với tác phẩm, cần tìm hiểu
những thông tin bên ngoài tác phẩm: sự bình giá của xã hội đối với tác phẩm, sự phân
tích, đánh giá, khen, chê của bạn đọc và các nhà nghiên cứu, phê bình được đăng tải
trên sách báo. Các nguồn thông tin đó khơi gợi cho giáo viên nắm bắt nội dung tư
tưởng và giá trị nghệ thuật của tác phẩm một cách chính xác, rõ ràng hơn, giúp họ có
cái nhìn cập nhật, hiện đại về đời sống văn học, có cách đánh giá tác phẩm từ nhiều
góc độ trên tinh thần khách quan, khoa học.
Sự hiểu biết, nhận thức, cảm thụ của giáo viên về tác phẩm có ảnh hưởng sâu sắc
đến quá trình cảm thụ văn học của học sinh. Giáo viên có kiến thức và cảm nhận sâu
7


sắc mới có thể phân tích, bình giá hay, thuyết phục về tác phẩm, khiến các em đồng
cảm và "tái cảm thụ"; có cơ sở để điều chỉnh hoặc phát huy những phát hiện của học
sinh, đưa ra những định hướng cho các em cảm nhận được giá trị nội dung và nghệ
thuật của tác phẩm...
1.2.3.2. Có khả năng rung động trước vẻ đẹp tinh tế của hình tượng văn chương
Yêu cầu cao hơn đối với giáo viên trong việc bồi dưỡng năng lực CTVH cho học
sinh là phải có được khả năng rung cảm trước vẻ đẹp tinh tế của hình tượng văn học.
Mặc dù trong thực tế, sự rung cảm này là “muôn hình muôn vẻ”, nhưng nó vẫn có
những điểm chung, được cụ thể hoá thành hai năng lực cơ bản sau:
- Phát hiện ra những tín hiệu thẩm mỹ trong tác phẩm:
Giáo viên tiểu học phải là những độc giả có trình độ thẩm mỹ cao, để không chỉ

nhận thức đúng, mà còn biết rung động, phát hiện những tín hiệu thẩm mỹ một cách
chính xác và cảm thụ một cách hoàn hảo vẻ đẹp tinh tế của hình tượng văn chương.
Để phát hiện được những tín hiệu nghệ thuật của tác phẩm, giáo viên cần biết
lựa chọn những cái quan trọng, bỏ qua những cái thứ yếu, lựa chọn những gì tinh tế,
gạt bỏ những gì thô tục, tầm thường… Muốn vậy, giáo viên không có con đường nào
khác là phải nâng cao vốn văn hoá, văn học cho mình. Tích cực rèn luyện khả năng
cảm thụ văn học của bản thân để tâm hồn luôn nhạy cảm trước những tín hiệu thẩm
mỹ rất khó nắm bắt.
- Khả năng bình giá và chiêm nghiệm đối với các tín hiệu nghệ thuật:
Khi hướng dẫn học sinh CTVH, giáo viên cần phải biết thể hiện ý kiến của
mình về tác phẩm trên cả phương diện nội dung lẫn nghệ thuật; đồng thời phải biết
chiêm nghiệm, liên hệ với bản thân và đời sống để đồng cảm hay phản ứng. Đó là thái
độ tích cực và chủ động của người cảm thụ đối với hình tượng văn chương.
Bình văn là thể hiện một liên tưởng thẩm mỹ của người đọc đối với tác phẩm.
Một lời bình hay, đúng lúc, đúng chỗ có tác dụng rất lớn trong việc rèn luyện CTVH
cho học sinh. Trước hết, nó có khả năng đánh thức liên tưởng, dẫn các em thâm nhập
tự nhiên vào thế giới nghệ thuật, có những ấn tượng sâu sắc, khó phai về vẻ đẹp của
văn chương; sau đó, góp phần nâng cao khả năng thẩm định những điểm sáng thẩm
mỹ trong văn bản. Biện pháp này cho phép giáo viên phát huy phẩm chất nghệ sĩ của
mình; và cũng vì thế kích thích mầm sáng tạo của học sinh, tạo nên sự giao cảm trong
giờ văn.
8


Lời bình là sản phẩm của sự xúc động sâu sắc trước vẻ đẹp của tác phẩm,
nhưng giáo viên không được lạm dụng biện pháp này. Bởi lẽ, nhiệm vụ chính của giáo
viên là tổ chức để học sinh cảm thụ và lĩnh hội giá trị của văn bản chứ không phải là
trổ tài trình diễn để “thôi miên” các em. Do đó, giáo viên chỉ đưa ra lời bình khi học
sinh cảm nhận chưa tới, đánh giá chưa xác đáng và những lời bình lúc đó có tác dụng
hỗ trợ, tiến tới khắc sâu ấn tượng cho các em, tạo nên những khoái cảm thẩm mỹ. Giáo

viên phải chọn bình những chi tiết nào là điểm sáng nghệ thuật, và chọn được cách nói
ấn tượng, độc đáo, nhằm tác động mạnh đến cảm xúc của học sinh, giúp các em nắm
được thần thái, linh hồn của tác phẩm.
1.2.3.3. Am hiểu tâm lý tuổi thơ, biết tôn trọng cách nghĩ, cách cảm riêng của
học sinh
CTVH là hoạt động mang tính chủ động, tích cực nên trong việc bồi dưỡng năng
lực CTVH, giáo viên cần có năng lực quan sát tâm lý để hiểu được những suy nghĩ,
cảm xúc riêng tư của từng học sinh. Giáo viên cần tạo điều kiện để từng học sinh trở
thành những chủ thể đích thực của quá trình cảm thụ. “Thầy giáo phải biết chấp nhận
những ý kiến lạ, những cá tính khác, không lấy mình làm mẫu, không áp đặt…, vì mỗi
trẻ em cần trở thành chính mình, thành một cá nhân độc đáo” (Hoàng Hoà Bình - Dạy
văn cho học sinh tiểu học).
1.2.3.4. Có giọng đọc, giọng kể hấp dẫn
Giọng đọc và giọng kể là nhân tố quan trọng trong việc dẫn truyền tư tưởng,
tình cảm của tác giả đến người nghe. Toàn bộ nội dung và nghệ thuật của tác phẩm
đều phải thông qua giọng đọc và giọng kể của giáo viên để chuyển đến học sinh.
Đọc, kể diễn cảm hay, có hồn trước hết xuất phát từ sự am hiểu sâu sắc tác
phẩm, đồng điệu với tác giả, có xúc cảm thật sự với tình tiết, nhân vật, hình ảnh... Bên
cạnh đó cũng cần chất nghệ sĩ, năng khiếu và sự khổ công rèn luyện nhất định. Do
vậy, giáo viên cần rèn luyện về cách đọc, giọng đọc, cách biểu cảm của ánh mắt, điệu
bộ; khắc phục những âm thanh chưa chuẩn, hoặc thiếu sức hấp dẫn; đồng thời giúp
học sinh phát hiện những yếu kém của mình trong cách đọc, cách kể để từng bước
khắc phục. Đó cũng là một trong những yêu cầu để bồi dưỡng năng lực CTVH cho học
sinh.
1.2.3.5. Có khả năng diễn đạt mạch lạc, trong sáng, giản dị
Giáo viên cần phải có năng lực diễn đạt tốt. Năng lực diễn đạt nói chung là
năng lực ngôn ngữ - tư duy, thể hiện rõ nhất trong việc sử dụng từ ngữ trong sáng, giản
9



dị, giàu sức gợi cảm, gợi tả; biết khơi gợi ý tứ, và biết trình bày mạch lạc các ý, các
đoạn…
Lời diễn giảng của giáo viên phải xác đáng, trong sáng và trôi chảy, song sức
mạnh của lời nói còn phụ thuộc nhiều vào cảm xúc của người nói. Cảm xúc đó phải là
thứ cảm xúc chân thực xuất phát từ bài văn. Không có cảm xúc thực sự thì lời nói sẽ
giả tạo. Muốn tăng sức truyền cảm thì lời nói cũng cần sự hỗ trợ bằng cử chỉ, nét mặt
của giáo viên. Trong trường hợp này, hình ảnh người giáo viên lên lớp cũng là một
trực quan sinh động. Giáo viên nói không chỉ bằng giọng nói. Nét mặt, điệu bộ và cả
đôi tay cũng tham gia vào câu nói. Đôi khi một cánh tay giơ lên, một bàn tay nắm chặt
hay một cử chỉ tương tự khác lại có giá trị hơn cả một câu nói. Song cử chỉ, điệu bộ
phải phù hợp với ý nghĩa của lời nói và tình cảm của người nói.
Muốn có được năng lực này, giáo viên thường xuyên trao dồi ngôn ngữ, rèn
giũa tư duy, sao cho cách nói, cách viết đạt tới trình độ trong sáng, giản dị, phù hợp
với nhiệm vụ bồi dưỡng năng lực CTVH cho học sinh.
1.2.4. Đặc trưng cảm thụ văn học ở trường Tiểu học
Trong nhà trường nói chung, khái niệm CTVH được giới hạn ở cách hiểu trong
ý nghĩa sư phạm. Đó là cách cảm thụ mang tính phổ cập, phù hợp với nhiều loại đối
tượng chứ không chỉ dành riêng cho những cá nhân có năng khiếu. Đây là sự cảm thụ
bao hàm những đặc điểm cơ bản, dễ nhận thấy nhất. Đặc trưng CTVH ở trường tiểu
học bao gồm:
- Tác phẩm được cảm thụ là những tác phẩm đã được chọn lọc, có giá trị nhân
văn rõ rệt, tương đối ổn định về sự đánh giá của xã hội, có hình thức nghệ thuật độc
đáo nhưng không quá khó với bạn đọc lứa tuổi tiểu học.
- Nếp cảm, nếp nghĩ, phương pháp tư duy của nhà văn đa số mang tính truyền
thống, dân tộc và đại chúng, gần gũi, phù hợp với học sinh tiểu học. Có những giá trị
cách tân, hiện đại nhưng không đến mức quá xa lạ với các em, không mang màu sắc cá
tính đặc biệt đến mức quá khó để cảm thụ hoặc còn gây nhiều tranh cãi.
- Tất cả những giá trị nội dung và hình thức của tác phẩm đều có xu hướng “định
lượng” hoặc “mô phạm hoá”, tức có thể dùng sự phân tích lí tính là chủ yếu trong việc
khám phá cái hay, cái đẹp, nhằm tạo điều kiện thuận lợi tương đối cho quá trình nhận

thức và vận dụng.
- Do tính chất sư phạm nên cảm thụ trong nhà trường nói chung là hoạt động “tái
cảm thụ” và “ tập cảm thụ”. Trong quá trình dạy học, tất nhiên không nên bắt buộc học
10


sinh phải lệ thuộc vào kết quả cảm thụ của những người đi trước, mà trái lại cần
khuyến khích các em cảm thụ tự do. Tuy vậy, giáo viên đồng thời phải có những yêu
cầu khiến học sinh không cảm thụ sai, tản mạn và tiêu cực. Cho nên, tính chất “tái cảm
thụ” và “tập cảm thụ” trong trường là không thể tránh khỏi, đó là sự tất yếu và cần
thiết.
1.2.5. Nội dung bồi dưỡng năng lực CTVH ở trường tiểu học
CTVH ở bậc Tiểu học là cả một quá trình. Các em cảm nhận được sự sâu sắc,
tinh tế của tác phẩm thông qua việc đọc mẫu của giáo viên, thông qua việc rèn luyện
đọc và đặc biệt trong việc khai thác, tìm hiểu nội dung, nghệ thuật của tác phẩm.
1.2.5.1. Tìm hiểu đặc trưng thể loại của văn bản nghệ thuật
Cảm thụ văn học là nhu cầu đặt ra với văn bản nghệ thuật. Do đó, để đọc hiểu và
cảm thụ tốt các văn bản nghệ thuật thì trước hết cần tìm hiểu đặc trưng của nó.
“Văn bản nghệ thuật là một sản phẩm nghệ thuật sử dụng ngôn từ làm chất liệu
phản ánh, là một chỉnh thể nghĩa, một khối thống nhất có tổ chức của các thành tố hợp
thành, một thông báo mà tác giả gửi tới người đọc” (Dương Thị Hương, Giáo trình
Cảm thụ văn học). Văn bản nghệ thuật là sự sáng tạo độc đáo nên nghĩa của nó không
bó hẹp trong phạm vi nhất định mà còn có quan hệ với những thành tố khác ngoài văn
bản. Người đọc văn bản nghệ thuật dựa trên sự sáng tạo của người viết để khám phá ý
nghĩa của nó và đôi khi hiểu nó theo suy nghĩ của mình, từ đó sáng tạo thêm những
điều mới.
Cấu trúc của văn bản nghệ thuật không bó hẹp, đóng kín mà là một cấu trúc
mở, một thế giới nghệ thuật mà ở đó có sự sáng tạo của người viết và sự hình dung
riêng của mỗi người đọc. Thế giới nghệ thuật của văn học luôn có những quy luật,
những giá trị riêng của nó, vì vậy, việc đánh giá và lý giải tác phẩm không thuần tuý là

một sự đối chiếu đơn giản với thực tế đời sống mà phải là sự xem xét tính chân thực
của chủ thể tác phẩm so với chỉnh thể hiện thực.
Giá trị và phẩm chất của văn bản nghệ thuật được đo bằng chất văn chương.
Nhờ chất liệu ngôn từ mà chất nhân văn, tính hình tượng, tính biểu cảm độc đáo của
văn chương có những sắc thái riêng mà các nghệ thuật khác không có. Việc tìm hiểu
tác phẩm văn học phải bắt đầu từ việc khám phá văn bản ngôn từ của nó. Giúp học
sinh tiếp nhận được vẻ đẹp của ngôn từ, vẻ đẹp của cách nói văn chương, phát hiện
được tín hiệu nghệ thuật… Đó chính là những nội dung dạy cảm thụ văn học cho học
sinh tiểu học. Tùy vào từng thể loại mà trong đó chất văn chương có các yêu cầu và
11


bộc lộ khác nhau.
- Đối với tác phẩm tự sự: Tác phẩm tự sự thường là các câu chuyện, đôi khi chỉ là
những mẩu chuyện xoay quanh đời sống hằng ngày. Trong đó, nội dung thường do một
nhân vật nào đó kể lại, có thể là chính tác giả đóng vai người trần thuật, có thể là một
nhân vật “tôi” trong tác phẩm... Tác giả bằng sự khéo léo và óc sáng tạo nghệ thuật của
mình đã khiến tác phẩm trở thành câu chuyện được hình dung theo trí tượng tưởng và
cảm nhận riêng của từng người khi tiếp xúc với nó.
Để giúp học sinh cảm thụ tốt văn bản truyện thì không thể bỏ qua những yếu tố
như hoàn cảnh (hay còn gọi là tình huống truyện), hệ thống sự kiện (cốt truyện), nhân
vật... Tình huống truyện góp phần bộc lộ tính cách nhân vật và tư tưởng của tác giả,
các sự kiện vừa cho thấy diễn biến cuộc đời nhân vật, vừa đưa ra những vấn đề của
cuộc sống... Nếu người đọc không quan tâm đến hoàn cảnh, sự kiện, nhân vật... thì sẽ
không hiểu vấn đề tác giả muốn truyền tải cũng như ý nghĩa sâu xa của nó.
- Đối với văn bản thơ: Trong chương trình Tiểu học, thơ chiếm số lượng đáng kể
trong phân môn tập đọc. Thông qua ngôn ngữ hàm súc, giàu hình ảnh và nhạc điệu,
thơ luôn gây những cảm xúc mạnh ở người đọc. Xúc cảm trong thơ nảy sinh từ những
rung động trực tiếp của nhà thơ trước vẻ đẹp của con người, sự vật, hiện tượng trong
cuộc sống.

Sức mạnh của thơ kết tinh từ độ chân thật của cảm xúc cùng vẻ đẹp của ngôn từ,
hình ảnh, âm thanh, nhạc điệu, vần nhịp... Đó là những yếu tố mà giáo viên cần giúp
học sinh cảm thụ ở thể loại này.
1.2.5.2. Rèn kĩ năng phát hiện chất văn chương của văn bản nghệ thuật
Phẩm chất và giá trị của văn bản nghệ thuật nằm ở chất văn chương của nó. Vì
vậy, để cảm thụ văn học tốt cần giúp học sinh phát hiện và hiểu rõ chất văn chương
trong các tác phẩm nghệ thuật. Để làm được điều đó, đòi hỏi các em phải thể hiện sự
tích cực trong việc tiếp nhận nó.
Bước 1: Đọc có ý thức:
Người đọc cần nắm rõ và hiểu từng chi tiết, hình ảnh, hình thức ngôn từ, nội
dung, ý nghĩa của tác phẩm văn học. Quá trình CTVH chỉ diễn ra khi người đọc hiểu
được những gì tác phẩm mang đến. Người đọc đồng thời dùng khả năng liên tưởng và
tưởng tượng của mình để bổ sung những yếu tố chủ quan vào bức tranh của nhà văn,
nhờ vậy, những kinh nghiệm riêng của người đọc sẽ làm phong phú thêm hình tượng,
mở ra khả năng đồng sáng tạo trong quá trình tiếp nhận. Sự liên tưởng, tưởng tượng
12


giúp cho quá trình đọc trở nên chất lượng hơn, nó đóng vai trò như công cụ giúp cho
người đọc khám phá những chi tiết và hình ảnh giàu tính cảm xúc mà tác giả xây dựng
trong tác phẩm.
Ở mỗi thể loại văn bản nghệ thuật, sự liên tưởng, tưởng tượng lại xuất phát từ
những yếu tố khác nhau. Trong văn xuôi, nó xuất phát từ những chi tiết, những tình
huống gợi tả, gợi cảm có sức tác động tới tâm hồn và nhận thức. Trong thơ, sự liên
tưởng và tưởng tượng lại xuất phát từ việc cảm nhận nhân vật trữ tình trong tác phẩm
qua vẻ đẹp của ngôn từ.
Cảm hứng và những xúc cảm của người đọc khi thâm nhập vào thế giới nghệ
thuật của tác phẩm là điều kiện làm nảy sinh những liên tưởng và tưởng tượng sáng
tạo. Nếu không có những liên tưởng, tưởng tượng người đọc khó phát hiện hết được vẻ
đẹp của ngôn từ và chất văn chương trong mỗi tác phẩm và khó lòng cảm thụ văn học

được tốt.
Bước 2: Phát hiện các hình ảnh, chi tiết có giá trị thẩm mĩ rồi suy ngẫm tìm ra ý
nghĩa của chúng:
Những hình ảnh, chi tiết có giá trị thẩm mĩ trong tác phẩm là những hình ảnh, chi
tiết gây được những xúc động và sự liên tưởng, tưởng tượng cho người đọc. Những
hình ảnh, chi tiết đó được tạo nên bởi những từ ngữ chọn lọc, các hình thức kết hợp
độc đáo, thể hiện dụng công và tài năng sáng tạo của tác giả.
Ở mỗi thể loại tác phẩm nghệ thuật, những chi tiết, hình ảnh thẩm mĩ lại được thể
hiện ở những khía cạnh, những hình thức khác nhau.
Đối với một câu chuyện, chi tiết mang giá trị thẩm mĩ thường là những tình
huống kịch tính, cao trào hay bước ngoặc của câu chuyện; những hành động, phản ứng
của nhân vật trước một tình cảnh nào đó, thông thường là tình cảnh mà ở đó đòi hỏi
nhân vật phải có những quyết định làm bộc lộ được giá trị cao cả.
Ví dụ: trong bài Một vụ đắm tàu (Tiếng Việt 5, tập 2, trang 108) chi tiết gây xúc
động nhất là sự việc Ma-ri-ô ôm lấy Giu-li-ét-ta thả xuống xuồng cứu hộ, nhường cơ
hội sống duy nhất cho người bạn mới quen. Hành động này của cậu bé làm cho người
đọc thật sự xúc động. Khi đối mặt giữa sự sống và cái chết cậu đã có một quyết định
cao cả. Chi tiết này không chỉ gây xúc động mà còn giúp người đọc hiểu được ý nghĩa,
giá trị giáo dục ẩn bên trong tác phẩm. Nếu không có những chi tiết như vậy thì câu
chuyện khó gây được ấn tượng sâu đậm cho học sinh. Đây là chi tiết có giá trị thẩm mĩ
cao mà học sinh cần cảm thụ.
13


Với thể loại văn miêu tả, chi tiết, hình ảnh thẩm mĩ lại thường xuất hiện ở những
từ ngữ, cụm từ gây ấn tượng mạnh, gợi tả được hình ảnh, âm thanh. Để có thể cảm thụ
tốt các bài văn miêu tả thì nên tìm hiểu về đối tượng được miêu tả. Vì xác định được
đối tượng giúp cho việc hiểu các yếu tố như đặc điểm, sắc thái, ấn tượng... sẽ rõ ràng
và đầy đủ hơn.
Ví dụ: Quang cảnh làng mạc ngày mùa (Tiếng Việt 5, tập 1, trang 10)

Đoạn văn miêu tả vẻ đẹp của làng quê vào những ngày mùa. Một bức tranh thiên
nhiên tươi thắm với một sắc vàng bao trùm: lúa chín vàng xuộm, nắng nhạt vàng hoe,
quả xoan vàng lịm, chiếc lá mít vàng ối, tàu đu đủ vàng tươi, bụi mía vàng xọng...
Màu vàng càng nổi bật hơn khi có sự xuất hiện xen kẽ màu đỏ của những quả ớt chín,
của những chiếc lá ngả màu. Tất cả tạo nên một khung cảnh làng quê tuyệt đẹp với sắc
vàng được sử dụng làm gam màu chủ đạo. Đối tượng được miêu tả là những sự vật
quen thuộc của làng quê: đồng lúa, đống rơm, con gà, buồng chuối..., những thứ quen
thuộc với cuộc sống bình dị và luôn gợi nhớ đối với mỗi người khi nghĩ về quê hương.
Những từ ngữ giàu tính gợi tả như vàng lịm, vàng hoe, đỏ chói... giúp người đọc hình
dung sắc thái khác nhau của mỗi sự vật, từ đó cảm nhận được vẻ đẹp của bức tranh
quê.
Trong thể loại thơ, những tín hiệu thẩm mĩ lại được thể hiện chủ yếu ở hình ảnh,
nhạc điệu, tâm trạng nhân vật trữ tình... Nhạc điệu trong thơ góp phần quan trọng cho
việc cảm thụ văn học, vì nó được tạo thành từ nhiều yếu tố như vần thơ, nhịp điệu,
cách sử dụng ngữ âm, cấu trúc và cả sự ngân vang của tâm hồn.
Ví dụ: bài Tiếng võng kêu (Tiếng Việt 2, tập 1, trang 117).
Kẽo cà kẽo kẹt gợi âm thanh tiếng võng kêu mỗi trưa hè; thể thơ bốn tiếng, nhịp
nhàng như một khúc hát ru; việc sử dụng những từ láy gợi hình phơ phất, mênh mông,
vương vương, lặn lội cùng tình cảm dành cho em gái chất chứa trong mỗi câu thơ... tất
cả góp phần làm cho nhạc điệu trong bài thơ rõ ràng và nổi bật hơn.
Để hiểu và cảm thụ tốt một bài thơ cũng cần phải biết nhân vật trữ tình trong thơ
là ai? Bài thơ bộc lộ những tình cảm gì? Đối tượng mà bài thơ hướng đến? Hình thức
thể hiện như thế nào? Đây là những thao tác cần phải thực hiện để giúp hiểu rõ và
đúng về bài thơ, từ chỗ hiểu đúng mới cảm nhận hết cái hay, cái đẹp, ý nghĩa của nó.
Để phát hiện và khám phá các chi tiết và hình ảnh có giá trị thẩm mĩ, ngoài việc
đọc để hiểu và phát hiện ra nó thì còn phải hòa mình, đặt mình vào trong thế giới nghệ
thuật của tác phẩm để cảm nhận, từ đó, liên tưởng, tưởng tượng đến những giá trị cao
14



đẹp trong nó. Ngoài ra, còn phải nói đến độ nhạy cảm của người đọc trong việc cảm
nhận và sự tích cực trong việc muốn nhận thức và khám phá những tín hiệu thẩm mĩ
đó.
Bước 3: Xác lập mối quan hệ thẩm mĩ giữa chủ thể sáng tạo và chủ thể tiếp nhận
để tìm ra đích tác động của hàm ngôn:
Mỗi tác phẩm là sự kết tinh tình cảm, tâm huyết, nhận thức và chiêm nghiệm của
chính tác giả về cuộc sống, về nhân tâm, thế sự. Trong một văn bản nghệ thuật, ngoài ý
nghĩa trực tiếp thường được gọi là hiển ngôn (hay ý nghĩa tường minh), còn có ý nghĩa
khác (hàm ngôn, nghĩa hàm ẩn) mà người đọc, người nghe phải vận dụng kiến thức,
hiểu biết của mình để nhận thức mới nắm bắt được. Hàm ngôn thường chứa đựng tình
cảm, chủ đề, tư tưởng... mà tác giả gửi gắm trong tác phẩm. Vì vậy, nhiều khi nghĩa
tường minh không phải là mục đích chính của văn bản mà chỉ là phương tiện để tác giả
chuyển tải những suy nghĩ và nhận thức của mình về cuộc đời, con người một cách kín
đáo và truyền cảm, có sức thuyết phục.
Ví dụ: bài Tre Việt Nam của Nguyễn Duy, ngoài ý nghĩa miêu tả vẻ đẹp, những
đặc điểm nổi bật của cây tre như: sức sống mãnh liệt, bền vững..., bài thơ còn hàm
chứa một ý nghĩa to lớn. Ý nghĩa hàm ẩn mà tác giả muốn gửi gắm đến người đọc là
muốn ca ngợi hình ảnh con người Việt Nam với những phẩm chất tốt đẹp nhất như:
cần cù, siêng năng, luôn mạnh mẽ, kiên cường trong mọi hoàn cảnh... Ý nghĩa này tạo
nên giá trị thẩm mĩ của tác phẩm. Khám phá được nó, người đọc đã tạo được mối liên
hệ, đồng cảm với tác giả.
Ở các tác phẩm truyện, ngoài việc đọc để hiểu nội dung của câu chuyện thì việc
khái quát ý nghĩa của nó cũng rất quan trọng trong việc cảm thụ tác phẩm. Khi tìm
hiểu và cảm thụ các văn bản truyện thì cốt truyện, nhân vật, sự kiện… là những
phương tiện để nhà văn khái quát chủ đề tác phẩm, qua đó thể hiện tư tưởng và tình
cảm của mình, đây chính là ý nghĩa hàm ẩn chứa đựng trong tác phẩm.
Đối với thơ, do xuất phát từ nhu cầu đạt tới sự đồng càm trong tiếp nhận văn bản
mà cần phải đặt ra yêu cầu hiểu một số câu thơ mang ý nghĩa khái quát sâu xa. Bởi đây
là những câu thơ chủ chốt của bài, có hiểu được chúng, đọc giả mới thực sự hiểu được
bài thơ, mới đạt được sự đồng cảm với tác giả.

Người đọc khi đạt đến sự đồng cảm, rung động thực sự thì đã thành công khi tiếp
nhận các tác phẩm thơ, văn. Họ xúc động, đồng cảm với những tư tưởng, tình cảm và
cả những suy tư trăn trở của tác giả được biểu hiện qua nội dung của tác phẩm. Chính
15


điều này phần nào tạo ra mối liên hệ vô hình giữa người đọc và tác giả.
Nếu người đọc chỉ dừng lại ở mức hiểu nội dung trực tiếp của nó, thì sẽ giống
như chỉ mới nắm bắt được phần nổi của tảng băng trôi. Ý nghĩa của tác phẩm chính là
phần chìm của tảng băng đó, cần được khám phá. Chừng nào chưa khám phá được
thông điệp ngầm mà tác giả thể hiện trong văn ban thì quá trình cảm thụ vẫn chưa kết
thúc.
1.2.5.3. Rèn kĩ năng diễn đạt những điều cảm nhận được từ văn bản nghệ thuật
CTVH vốn là một quá trình hai chiều: thu nhận và phát tín hiệu. Thu nhận chính
là việc người đọc hiểu được và cảm nhận cái hay, cái đẹp trong mỗi tác phẩm nghệ
thuật. Phát tín hiệu chính là việc diễn đạt bằng lời của mình về những cảm nhận từ tác
phẩm ra bên ngoài. CTVH thực sự chỉ diễn ra khi đồng thời thực hiện đủ cả hai quá
trình nhận và phát. Nếu chỉ hiểu, chỉ biết cảm nhận cái hay, cái đẹp của tác phẩm mà
không thể đưa nó vượt ra khỏi sự cảm nhận của mình để đến với người khác thì sự
cảm thụ chưa đạt. Tuy nhiên, không phải ai cũng biết cách diễn đạt sao cho tốt, cho
trọn vẹn những gì mình đã cảm nhận. Chính điều này ảnh hưởng đến quá trình cảm thụ
văn học ở mỗi người.
Việc diễn đạt hay phát tín hiệu thường được thực hiện dưới hai cách thức: nói
hoặc viết và theo những mức độ thụ động và chủ động khác nhau. Ở mức độ thụ động
thường là diễn đạt theo yêu cầu của một bài tập được đưa ra.
Ví dụ: Sau khi học sinh học xong một tác phẩm nghệ thuật nào đó, giáo viên
thường đưa bài tập kèm theo yêu cầu học sinh viết một đoạn văn nói về cái hay, cái
đẹp mà mình cảm nhận hoặc viết về những điều gây cho mình những cảm xúc riêng từ
tác phẩm. Đó là diễn đạt ở mức độ thụ động.
Còn với mức độ chủ động, người đọc sau khi tiếp xúc và khám phá tác phẩm

nghệ thuật sẽ tự động mong muốn diễn đạt, chia sẽ cảm nhận của mình với mọi người
về tác phẩm. Sự chia sẻ này có thể là qua những bài nghị luận, phân tích hay bình
giảng.
Ở tiểu học, cảm thụ văn học thường diễn ra ở mức độ thụ động. Học sinh sau khi
được tiếp xúc với các văn bản nghệ thuật sẽ được giáo viên hướng dẫn để cảm thụ, tìm
hiểu những chi tiết và hình ảnh đẹp hay những giá trị giáo dục trong tác phẩm. Việc
diễn đạt hay kỹ năng diễn đạt ở người phát tín hiệu cũng cần có những mức độ tối
thiếu sau:
+ Tính logic trong diễn đạt: Điều này thể hiện qua việc trình bày bố cục của bài
16


nói hoặc trên văn bản (viết), trình bày phải theo thứ tự hợp lý, có sự liên kết giữa các
câu, đoạn khi diễn đạt.
+ Những lập luận phải chặt chẽ và có sức thuyết phục: Khi phân tích, hay bình
giảng về những chi tiết, hình ảnh trong tác phẩm đòi hỏi người diễn đạt cần phải đưa
ra những ý kiến đánh giá đúng, hợp lý và sức thuyết phục cao.
+ Sức hấp dẫn, truyền cảm trong diễn đạt: Để có khả năng diễn đạt tốt đòi hỏi
người trình bày cần có những cảm xúc và thái độ tích cực khi diễn đạt. Giọng nói, cử
chỉ, điệu bộ... cũng góp phần làm tăng sức hấp dẫn trong quá trình diễn đạt.
Khi cảm nhận và muốn thấu hiểu được ngôn từ, hình ảnh và các tình huống
trong tác phẩm thì người đọc cần đặt chúng trong thế giới nghệ thuật mà tác giả đã xây
dựng, trong chỉnh thể tác phẩm để lý giải thì mới hiểu hết được vẻ đẹp mà tác giả đã
cố công xây dựng, tránh việc hiểu sai, hiểu không chính xác về những gì mà tác phẩm
muốn bộc lộ.

HƯỚNG DẪN TÌM HIỂU BÀI
1. Trình bày khái niệm CTVH. Phân biệt CTVH vả tiếp nhận văn học, CTVH
và đọc - hiểu tác phẩm văn học.
2. Phân tích mối quan hệ giữa đọc - hiểu và cảm thụ tác phẩm văn học (có ví dụ

minh họa).
3. Trình bày các cấp độ CTVH. Làm rõ các cấp độ cảm thụ một tác phẩm văn
học trong chương trình tiểu học.
4. Năng lực CTVH là gì? Vì sao năng lực CTVH ở mỗi người không giống
nhau?
5. Trình bày ý nghĩa của việc bồi dưỡng năng lực CTVH cho HSTH.
6. Phân tích đặc điểm CTVH của HSTH.
7. Trình bày những năng lực cần thiết của giáo viên tiểu học khi bồi dưỡng
CTVH cho học sinh.
8. Phân tích đặc trưng CTVH ở trường Tiểu học.
9. Trình bày nội dung bồi dưỡng năng lực CTVH ở trường tiểu học.

17


CHƯƠNG 2
PHƯƠNG PHÁP, BIỆN PHÁP BỒI DƯỠNG
NĂNG LỰC CẢM THỤ VĂN HỌC CHO HỌC SINH TIỂU HỌC
2.1. Phương pháp bồi dưỡng năng lực CTVH cho HSTH
Các nhóm phương pháp chủ yếu được vận dụng trong việc bồi dưỡng năng lực
CTVH cho học sinh Tiểu học là:
2.1.1. Nhóm phương pháp trực quan
Phương pháp trực quan trong cảm thụ văn học bao gồm: xem tranh, ảnh, băng
hình, quan sát, nghe đọc - ngâm, nghe kể - diễn kịch… Do đặc điểm lứa tuổi, phương
pháp trực quan có vai trò rất quan trọng trong việc bồi dưỡng năng lực CTVH cho học
sinh tiểu học. Có thể chia nhóm phương pháp trực quan thành các loại:
- Trực quan hình ảnh, vật mẫu: xem tranh minh họa, xem phim…
- Trực quan âm thanh: nghe kể, đọc truyện, ngâm thơ…
- Trực quan tổng hợp: đi thực địa để được quan sát các đối tượng của tự nhiên,
xã hội, tiếp xúc trực tiếp với nhân vật, với nhà văn…

- Trực quan ngôn ngữ viết: đọc sách,vv…
Ngoài ra, giáo viên còn có thể đối chiếu văn bản với các loại hình nghệ thuật
khác. Một số nhà nghiên cứu khẳng định việc đối chiếu văn bản với các loại hình nghệ
thuật khác có tác dụng thúc đẩy học sinh hình thành những ấn tượng về văn bản.
Thông thường, một số giáo viên đối chiếu văn bản với nghệ thuật diễn xướng (kịch),
âm nhạc, hoặc điện ảnh. Tuy nhiên, giáo viên không nên lạm dụng cách này. Việc sử
dụng các hình ảnh này mang tính chất đối chiếu, so sánh về hai cách cảm thụ, hai cách
nhìn, và hướng tới khơi gợi cảm thụ chứ hoàn toàn không đồng nhất văn bản với các
tác phẩm nghệ thuật khác.
Một số tác phẩm trong chương trình đã được dựng thành phim thì giáo viên có
thể cho học sinh xem trong giờ ngoại khoá và có thể nêu ra một số vấn đề để các em
thảo luận. Đối với những bài thơ đã được phổ nhạc, giáo viên có thể cho học sinh
thưởng thức những ca khúc này, chúng sẽ có tác dụng rất lớn trong việc tạo nên những
xúc động mạnh mẽ của các em về tác phẩm. Học sinh sẽ thích thú khi nghe bài hát
được phổ từ bài thơ mình được học, xem một đoạn phim có liên quan đến đoạn trích,
hoặc các em sắm vai các nhân vật trong câu chuyện. Điều này giúp các em thâm nhập
và nhớ lâu hơn về tác phẩm.
18


2.1.2. Nhóm phương pháp thông tin - giải thích
Nhóm phương pháp này bao gồm:
- Chú giải nghĩa của từ.
- Thông tin bổ sung về tác giả, hoàn cảnh sáng tác.
- Thông tin hỗ trợ hướng dẫn phương pháp tìm hiểu những chi tiết nghệ thuật,
những hình tượng khó.
- Thông tin tham khảo về cách hiểu nội dung và nghệ thuật tác phẩm của một số
nhà nghiên cứu, phê bình hoặc các nhà giáo dục.
Để sử dụng có hiệu quả nhóm thông tin này, giáo viên cần phải:
+ Nắm chắc các nguồn thông tin.

+ Biết lựa chọn những thông tin cơ bản.
+ Diễn đạt được những thông tin ngắn gọn, chính xác, dễ hiểu và gây được cảm
hứng.
+ Không để thông tin lấn át sự suy nghĩ độc lập của học sinh.
+ Tuỳ thuộc đối tượng lứa tuổi để lựa chọn thông tin.
2.1.3. Nhóm phương pháp mô hình hoá
Đây là phương pháp dựa trên khuôn mẫu để rèn luyện kỹ năng, hình thành năng
lực cho học sinh. Bao gồm việc xây dựng và sử dụng các khuôn mẫu, mô hình hay
thiết kế quy trình hoạt động. Trong CTVH, nhóm phương pháp này thể hiện qua những
công việc cụ thể như sau:
- Đọc mẫu: Đọc mẫu là việc của giáo viên hay một số em học sinh đọc tốt (có
thể dùng băng ghi giọng đọc mẫu). Đọc mẫu có vai trò rất quan trọng trong việc
chuyển tải tư tưởng tình cảm của tác giả, hình thành ấn tượng, cảm xúc ban đầu về tác
phẩm.
- Kể mẫu: cách kể mẫu, giọng kể mẫu có thể giúp học sinh định hình cách cảm
thụ hình tượng trong truyện kể (có thể cho các em nghe, xem những băng ghi hình).
Người đọc mẫu và kể mẫu là người không chỉ có chất giọng tốt mà còn phải
có trình độ cảm thụ tốt. Việc đọc mẫu và kể mẩu là cách thể hiện cảm xúc một cách
trực tiếp, cũng là con đường truyền cảm rất hiệu quả. Điều quan trọng là tất cả những
rung động, xúc cảm trong đọc mẫu, kể mẫu có thể coi là đã được “chuẩn mực hoá” để
học sinh tham khảo, thậm chí bắt chước.
- Các dàn bài tập làm văn cũng là một kiểu khuôn mẫu. Đó chính là những
khung sườn giúp cho học sinh định hình lối tư duy, cảm thụ và diễn đạt. Các bài văn
19


mẫu cũng là những công cụ quen thuộc và cũng rất cần thiết trong dạy - học văn. Tuy
nhiên giáo viên cần phải biết soạn những bài văn mẫu một cách chu đáo và sử dụng
một cách đúng đắn, tránh lạm dụng thì nó sẽ trở thành một công cụ rất tốt cho dạy học.
Bởi các bài văn mẫu có thể giúp cho học sinh tiểu học tiếp thu được ở thầy, ở bạn cách

nghĩ, cách cảm, cách diễn đạt.
Để sử dụng nhóm phương pháp mô hình hoá có hiệu quả, giáo viên cần.
+ Xây dựng, lựa chọn tốt các khuôn mẫu.
+ Hướng dẫn thao tác thực hành theo mẫu sao cho có tính khoa học và tính sư
phạm.
+ Tránh gò ép, áp đặt.
2.1.4. Sử dụng hệ thống câu hỏi và bài tập
Để giúp học sinh cảm thụ được tác phẩm, giáo viên cần có hệ thống câu hỏi, bài
tập gợi được cảm xúc, gợi sự liên tưởng, phát huy trí tưởng tượng của học sinh. Giáo
viên nên thoát ly các câu hỏi tìm hiểu bài trong sách giáo khoa, phải chủ động sáng
tạo, tìm tòi để đặt những câu hỏi khơi gợi học sinh tìm hiểu về vần, nhịp, từ ngữ, hình
ảnh, nhân vật, ý nghĩa của tác phẩm... giúp học sinh hiểu mục đích thông báo của văn
bản, thái độ, tình cảm, tư tưởng của tác giả, đánh giá giá trị nghệ thuật.
Hệ thống câu hỏi gợi ý, hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài sẽ không chỉ là những
câu hỏi dành cho học tiếng, mà phải có những câu hỏi cho học văn. Những câu hỏi này
phải đề cập đến nội dung cơ bản của bài học, phải là những câu hỏi “chìa khóa” kích
thích học sinh tò mò, hứng thú suy nghĩ về tác phẩm. Nếu các câu hỏi chuẩn bị bài ở
nhà được in trong sách giáo khoa sau mỗi bài học chưa đáp ứng được yêu cầu này,
giáo viên cần phải “tái thiết kế” cho phù hợp.
Có nhiều loại câu hỏi và bài tập:
+ Câu hỏi (bài tập) nêu vấn đề; câu hỏi gợi mở, kích thích giải quyết vấn đề;
câu hỏi kiểm tra đánh giá…
+ Câu hỏi (bài tập) nhận biết; câu hỏi phát hiện; câu hỏi vận dụng; câu hỏi phân
tích, tổng hợp.
+ Câu hỏi (bài tập) trắc nghiệm; câu hỏi tự luận...
Bài tập và câu hỏi cũng có những đặc điểm và tính chất khác nhau: câu hỏi
thiên về mục đích kiểm tra tri thức, bài tập thiên về rèn kỷ năng. Hệ thống câu hỏi, bài
tập hoàn hảo giúp học sinh tự hình thành tri thức, rèn luyện kỹ năng, phát triển năng
lực.
20



Tuy nhiên, cần lưu ý, câu hỏi thật sự rất quan trọng trong việc thực hiện các nội
dung sau:
+ Tìm hiểu các từ ngữ khó
+ Tìm hiểu ý của đoạn, ý chính của bài
+ Tìm hiểu đặc điểm nghệ thuật
+ Tìm hiểu ý nghĩa xã hội, giá trị nhân văn của tác phẩm
+ Rèn các kỹ năng diễn đạt cảm xúc
Yêu cầu khi xây dựng hệ thống câu hỏi và bài tập:
+ Xác định rõ mục đích câu hỏi, bài tập (cung cấp kiến thức hay rèn luyện kỹ
năng gì).
+ Diễn đạt yêu cầu rõ ràng, dứt khoác.
+ Phù hợp với đối tượng
Ví dụ:
Câu hỏi: Hệ thống câu hỏi hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài Sự tích cây vú sữa
(Tiếng Việt 2, tập 1, trang 96).
+ Vì sao cậu bé bỏ nhà ra đi?
+ Trở về nhà không thấy mẹ, cậu bé đã làm gì?
+ Điều kì lạ nào đã xảy ra?
+ Quả có những đặc điểm gì?
+ Vì sao người ta gọi cây xanh ấy là cây vú sữa?
+ Em có hiểu vì sao cậu bé lại òa khóc khi nhìn lên tán lá không?
Bài tập:
1. Đọc đoạn thơ dưới đây (trong bài Khi mẹ vắng nhà của Trần Đăng Khoa), em
có suy nghĩ gì về câu trả lời của bạn nhỏ trong bài thơ đối với mẹ?
Mẹ bảo em: Dạo này ngoan thế!
- Không, mẹ ơi! Con đã ngoan đâu!
Áo mẹ mưa bạc màu
Đầu mẹ nắng cháy tóc

Mẹ ngày đêm khó nhọc
Con chưa ngoan, chưa ngoan!
2. Kết thúc bài thơ Mẹ vắng nhà ngày bão, nhà thơ Đặng Hiển viết:
Thế rồi cơn bão qua
Bầu trời xanh trở lại
21


Mẹ về như nắng mới
Sáng ấm cả gian nhà.
Theo em, hình ảnh nào đã làm nên vẻ đẹp của đoạn thơ trên? Vì sao?
2.2. Các biện pháp bồi dưỡng năng lực CTVH cho HSTH
Rèn luyện để nâng cao năng lực CTVH là một trong những nhu cầu cần thiết của
mỗi học sinh. Có năng lực CTVH tốt, các em sẽ cảm nhận được nhiều nét đẹp của thơ
văn, làm cho tâm hồn các em được phong phú hơn, nói, viết tiếng Việt thêm trong
sáng và sinh động
2.2.1. Bồi dưỡng hứng thú học tập
Hứng thú là một hiện tượng tâm lý trong đời sống mỗi người. Hứng thú tạo điều
kiện cho con người học tập, lao động được tốt hơn. Nhà văn M.Goorki nói: “Thiên tài
nảy nở từ tình yêu đối với công việc”. Việc bồi dưỡng hứng thú đối với thơ văn cho
học sinh tiểu học là một việc làm cần thiết. Để tạo hứng thú cho các em, giáo viên phải
tạo được sự thoải mái trong học tập, phải làm cho các em cảm nhận được vẻ đẹp và
khả năng kỳ diệu của ngôn từ, vẻ đẹp của hình ảnh, hình tượng, xúc cảm, trí tưởng
tượng... trong tác phẩm văn học. Giáo sư Lê Trí Viễn đã nói “không làm thân với văn
thơ thì không nghe được tiếng lòng chân thật của nó”...
Để bồi dưỡng hứng thú học văn học cho học sinh tiểu học, giáo viên nên cho
các em tiếp xúc càng nhiều càng tốt với những tác phẩm văn chương, khơi gợi cho các
em biết lắng nghe tình cảm, nhu cầu của mình: yêu thích cái gì, mong muốn điều gì?
Từ đó, tìm đến các tác phẩm văn học để vừa thỏa mãn nhu cầu tinh thần, vừa tạo thói
quen đọc sách và dần hình thành sự yêu thích đối với văn chương. Giáo viên cũng có

thể hướng các em đến với thơ văn vì thế giới đó sẽ mang đến cho các em nhiều điều bổ
ích và lí thú về thiên nhiên, con người và cuộc sống. Ngoài ra, kể cho học sinh nghe về
cuộc đời riêng của các nhà văn, nhà thơ nổi tiếng, cho các em biết xuất xứ của những
câu chuyện, bài thơ hay, tổ chức những cuộc nói chuyện văn thơ... cũng là những cách
khơi gợi sự tò mò, hứng thú đối với thơ văn, đưa các em đến gần hơn với tác phẩm
nghệ thuật.
Ngay khi còn nhỏ, hầu hết các em đều thích nghe ông bà, cha mẹ hoặc người
thân kể chuyện, đọc thơ. Bước chân tới trường tiểu học, được tiếp xúc với những câu
thơ, bài văn hay trong sách giáo khoa Tiếng Việt, nhiều em say mê đọc từng trang sách
một cách thích thú. Đó chính là những biểu hiện ban đầu của hứng thú, cần gìn giữ và
nuôi dưỡng để nó phát triển liên tục, mạnh mẽ. Một học sinh chưa thích văn học, thiếu
22


sự say mê cần thiết, nhất định chưa thể đọc lưu loát và diễn cảm bài văn, chưa thể xúc
động thực sự với những gì đẹp đẽ được tác giả diễn tả qua bài văn ấy.
Có hứng thú khi tiếp xúc với thơ văn, các em sẽ vượt qua được khó khăn, trở
ngại, cố gắng luyện tập để cảm thụ văn học tốt và học giỏi môn Tiếng Việt. Tập đọc
diễn cảm một bài thơ, đoạn văn, chăm chú quan sát, lắng nghe để tìm hiểu cái đẹp của
thiên nhiên và cuộc sống quanh ta, tập dùng từ ngữ cho đúng và hay, nói và viết thành
câu cho rõ ý, sinh động và gợi cảm… tất cả đều giúp các em phát triển năng lực cảm
thụ văn học. Trau dồi hứng thú khi tiếp xúc với thơ văn cũng chính là tự rèn luyện
mình để có nhận thức đúng, tình cảm đẹp, từ đó đến với văn học một cách tự giác, say
mê. Đây là yếu tố quan trọng của cảm thụ văn học.
2.2.2. Bồi dưỡng vốn tri thức ngữ - văn cho học sinh tiểu học
2.2.2.1. Giúp học sinh nắm vững kiến thức cơ bản về Tiếng Việt
Để trau dồi năng lực cảm thụ văn học ở tiểu học, các em cần nắm vững những
kiến thứcTiếng Việt cơ bản đã học trong chương trình môn Tiếng Việt ở tiểu học. Có
hiểu biết về ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp tiếng Việt sẽ giúp các em không chỉ nói – viết
tốt mà còn có thể cảm nhận được nét đẹp của nội dung qua những hình thức diễn đạt

sinh động và sáng tạo.
- Từ vựng: Phân biệt từ đơn, từ ghép, từ láy, từ ghép tổng hợp, từ ghép phân
loại, các kiểu từ láy, các dạng từ láy, nghĩa của từ láy, từ tượng hình, tượng thanh, từ
nhiều nghĩa, cùng nghĩa, trái nghĩa. Nắm nghĩa của từ và cách sử dụng từ. Phân biệt
danh từ, động từ, tính từ...
- Ngữ pháp: Tìm hiểu câu và cấu tạo ngữ pháp của câu, các thành phần câu, dấu
câu và kỹ năng sử dụng dấu câu...
- Các biện pháp tu từ: so sánh, nhân hóa...
2.2.2.2. Giúp học sinh nắm vững kiến thức cơ bản về văn học
- Giúp các em làm quen và cảm nhận về một số khái niệm như: hình ảnh (là
toàn bộ đường nét, màu sắc hay đặc điểm của người, vật, cảnh bên ngoài được ghi lại
trong tác phẩm, nhờ đó ta có thể tưởng tượng ra được người, vật, cảnh đó); chi tiết (là
điểm nhỏ, ý nhỏ, khía cạnh nhỏ trong nội dung sự việc hay câu chuyện); bố cục (là sự
xếp đặt, trình bày các phần để tạo nên một nội dung hoàn chỉnh)…
- Giúp học sinh nhận biết được các biện pháp nghệ thuật và tác dụng của nó: so
sánh, nhân hoá, điệp ngữ, đảo ngữ, đối lập…
23


Để cảm thụ tốt các tác phẩm văn học thông qua việc khai thác các biện pháp
nghệ thuật trong các bài văn, bài thơ, giáo viên cần hướng dẫn học sinh thực hiện tốt
các yêu cầu sau:
+ Hiểu được thế nào là biện pháp nghệ thuật: So sánh, nhân hóa, điệp từ và đảo
ngữ... (thông qua phân môn Luyện từ và câu)
+ Xác định đúng những biện pháp nghệ thuật trong bài văn, bài thơ.
+ Xác định đúng những từ, cụm từ, hình ảnh (ngữ liệu) thể hiện biện pháp nghệ
thuật.
+ Cảm nhận được ý nghĩa, giá trị của các biện pháp nghệ thuật.
- Giúp học sinh tìm hiểu nội dung, ý nghĩa tác phẩm văn học:
Cảm thụ văn học thông qua việc tìm hiểu nội dung, ý nghĩa thực chất chính là

hình thức tìm hiểu nội dung văn bản tác phẩm. Song trong việc tìm hiểu nội dung ý
nghĩa của văn bản, giáo viên không chỉ dừng lại ở mức tái hiện những kiến thức có
trong tác phẩm mà dựa trên những vấn đề học sinh đã phát hiện được như các biện
pháp nghệ thuật, các ngữ liệu thể hiện các biện pháp nghệ thuật... để định hướng cho
học sinh cảm nhận được giá trị nghệ thuật của văn bản. Muốn cảm nhận trọn vẹn giá
trị nội dung và nghệ thuật tác phẩm, trước hết giáo viên hướng dẫn các em tìm hiểu bố
cục và nội dung bài.
Ví dụ:
- Bài thơ, đoạn trích được chia làm mấy đoạn.
- Giúp học sinh tìm hiểu nội dung từng đoạn thông qua hệ thống các câu hỏi từ
đơn giản (trả lời theo nội dung đã có sẳn trong bài) đến những câu hỏi khó (học sinh
phải hiểu nội dung bài mới có thể giải đáp). Từ việc trả lời đúng các câu hỏi, học sinh
sẽ nêu được nội dung của đoạn (thơ, văn) hoặc toàn bài.
- Hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm có sáng tạo nhằm giúp học sinh nâng cao
cảm xúc thẩm mỹ và kích thích các em khám phá ra bí ẩn dưới những dòng chữ của
tác phẩm.
2.2.3. Bồi dưỡng vốn sống, vốn văn hóa
Vốn sống là một khái niệm rộng rãi, bao gồm toàn bộ tri thức, kinh nghiệm về
cuộc sống của mỗi cá nhân. Đó là những hiểu biết, những cảm xúc và cách ứng xử của
mỗi người trong những mối quan hệ với thiên nhiên và xã hội. Yêu cầu của việc bồi
dưỡng vốn sống đối với học sinh tiểu học là giúp các em tích luỹ được nhiều tri thức,
kinh nghiệm về cuộc sống.
24


Cảm thụ văn học là quá trình nhận thức có ảnh hưởng bởi vốn sống, vốn văn
hóa, kinh nghiệm, trải nghiệm của mỗi người. Bồi dưỡng vốn sống, vốn văn hóa cho
các em là một quá trình lâu dài và công phu. Giáo viên nên hướng dẫn các em tích lũy
vốn hiểu biết và cảm xúc của bản thân qua sự hoạt động và quan sát hàng ngày trong
cuộc sống. Có vốn sống các em mới có khả năng liên tưởng để tiếp nhận tác phẩm. Có

những cảnh vật, con người, sự việc diễn ra quanh ta tưởng chừng như rất quen thuộc,
nhưng nếu ta không chú ý quan sát, nhận xét để có cảm xúc và ghi nhớ (hoặc ghi chép
lại) thì chúng ta không thể làm giàu thêm vốn hiểu biết về cuộc sống. Chính vì vậy, tập
quan sát thường xuyên, quan sát bằng nhiều giác quan (mắt nhìn, tai nghe, tay sờ, mũi
ngửi…) là một thói quen rất cần thiết cho học sinh. Quan sát nhiều, quan sát kĩ chẳng
những giúp các em viết được những bài văn hay mà còn tạo điều kiện cho các em cảm
nhận được vẻ đẹp của thơ văn một cách tinh tế và sâu sắc.
Tô Hoài đã nêu kinh nghiệm quan sát để phục vụ cho việc tích lũy “vốn sống”
như sau: “Quan sát giỏi là phải tìm ra nét chính, thấy được tính riêng, móc được
những ngóc ngách của sự vật, của vấn đề. Nhiều khi không cần dàn đủ sự việc, chỉ cần
chép lại những đặc điểm mà mình cảm nhất như: một câu nói lột tả tính nết, những
dáng người và hình bóng, tiếng động, ánh đèn, nét mặt, một trạng thái tư tưởng do
mình đã khổ công ngắm, nghe, nghĩ mới bật lên và khi thấy bật lên được thì thích thú,
hào hứng, không ghi không chịu được”.
Bên cạnh vốn hiểu biết về thực tế cuộc sống, các em còn cần tích lũy cả vốn
hiểu biết về văn hóa. Đọc sách thường xuyên là con đường tích lũy vốn văn hóa hữu
hiệu. Mỗi cuốn sách có biết bao điều bổ ích và lí thú. Nó giúp ta mở rộng tầm nhìn
cuộc sống, khơi sâu những suy nghĩ, cảm xúc, góp phần khơi dậy năng lực cảm thụ
văn học ở mỗi chúng ta. Việc chọn sách đọc là rất quan trọng. Các em phải chọn
những cuốn sách phù hợp với lứa tuổi, có ích cho việc học tập và rèn luyện. Khi đọc
sách, cần tập trung tư tưởng cao, luôn suy nghĩ về những điều đáng đọc để thấy cái
hay, cái đẹp của tác phẩm (cả về nội dung và nghệ thuật). Đọc sách đến mức say mê
cũng có nghĩa là “sống” cùng với nhân vật, biết vui - buồn - sướng - khổ hay yêu ghét…, đồng thời cảm nhận được những hình ảnh đẹp, những câu văn hay, những chi
tiết xúc động…
Ngoài ra, đọc sách cần phải chọn lọc, ghi chép công phu để thu nhận, tích luỹ
những điều bổ ích, làm giàu thêm vốn sống. Các em cần tập thói quen ghi chép trong
sổ tay “văn học” những từ ngữ hay, hình ảnh đẹp, những câu thơ, đoạn văn có ý nghĩa,
25



×