Tải bản đầy đủ (.doc) (105 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ TRIẾT học vấn đề PHÁT HUY NGUỒN lực CON NGƯỜI TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP hóa, HIỆN đại hóa ở TỈNH KIÊN GIANG HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (535.89 KB, 105 trang )

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Để phát triển kinh tế - xã hội của một đất nước trong thời đại ngày
nay, nguồn lực con người là yếu tố quan trọng nhất và là yếu tố chủ đạo
quyết định các nguồn lực khác. Bởi vậy, ở hầu hết các quốc gia trên thế
giới vấn đề nguồn lực con người được đặt vào đúng vị trí của nó.
Nguồn lực con người được phát huy không chỉ là động lực trực tiếp
mà còn là mục tiêu của sự nghiệp đổi mới ở nước ta. Như Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ VIII đã xác định: "Lấy việc phát huy nguồn lực con
người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững". Vấn đề đặt
ra là làm thế nào để con người có được vai trò và bằng cách nào để phát
huy được vai trò của nhân tố con người cho mục tiêu phát triển? Đó là câu
hỏi lớn đã và đang tiếp tục đòi hỏi phải tìm lời giải đáp.
Cũng như cả nước, tỉnh Kiên Giang chỉ có thể thực hiện thành công
công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) khi phát huy được cao độ
nguồn lực con người cho sự phát triển kinh tế - xã hội.
Thực tế nguồn lực con người ở Kiên Giang chưa được phát huy và
sử dụng có hiệu quả, như: tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm, việc làm
không thường xuyên,việc làm không hiệu quả... còn khá phổ biến, hơn nữa
nhiều tiềm năng quan trọng của nhân tố con người như trí tuệ, nền văn hóa
truyền thống... vẫn chưa được phát huy tốt trong quá trình đổi mới hiện
nay. Vì vậy, để nghiên cứu vạch ra những cơ sở khoa học cho việc phát huy
nguồn lực con người trong sự nghiệp CNH, HĐH ở Kiên Giang là vấn đề
cấp thiết có ý nghĩa thực tiễn, lý luận quan trọng. Đó chính là lý do tôi chọn
đề tài "Vấn đề phát huy nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Kiên Giang" làm luận văn thạc sĩ triết học, chuyên
ngành chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.



2

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Phát huy nguồn lực con người nói chung, nguồn lực con người
trong sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta nói riêng đã được nhiều người
nghiên cứu với những hình thức, mức độ khác nhau và đã được công bố
trên những phương tiện thông tin đại chúng, trên những tạp chí chuyên
ngành và trên những chương sách chuyên khảo khác.
Mặc dù vấn đề nguồn lực con người đã được nhiều nhà khoa học có
uy tín thuộc nhiều chuyên ngành khác nhau nghiên cứu và mở nhiều cuộc hội
thảo bàn về vấn đề này, nhưng đây là vấn đề lớn và rất quan trọng cho sự phát
triển của một quốc gia, dân tộc. Vì vậy, cần phải tiếp tục nghiên cứu, tìm tòi
các cơ sở lý luận và thực tiễn để thực hiện tốt chiến lược con người, phát huy
cao nhất vai trò con người cho các mục tiêu kinh tế mà Đại hội Đảng lần thứ
VIII cũng như Nghị quyết Trung ương 4 (khóa VIII) đã đề ra vẫn còn được
tiếp tục nghiên cứu. Nghiên cứu nguồn lực con người trong sự nghiệp
CNH, HĐH ở tỉnh Kiên Giang với tư cách là một luận văn thạc sĩ hoặc luận
án tiến sĩ thì chưa có tác giả nào nghiên cứu và đề cập đến một cách có hệ
thống.
3. Mục đích và nhiệm vụ
Luận văn nhằm làm rõ những yêu cầu và nội dung việc phát huy
nguồn lực con người trong sự nghiệp CNH, HĐH ở tỉnh Kiên Giang. Trên
cơ sở đó nêu lên thực trạng, đề xuất những phương hướng, giải pháp nhằm
phát huy nguồn lực con người ở Kiên Giang trong sự nghiệp CNH, HĐH.
Để đạt được mục đích trên, luận văn thực hiện ba nhiệm vụ cơ bản
sau đây:
- Làm rõ một số vấn đề cơ bản của lý luận về nguồn lực con người
trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội.
- Thực trạng phát huy nguồn lực con người ở Kiên Giang.



3

- Đề xuất một số phương hướng và giải pháp để phát huy nguồn lực
con người trong sự nghiệp CNH, HĐH ở Kiên Giang.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Luận văn không nghiên cứu nguồn lực con người với tư cách là
đối tượng của bộ môn tâm lý học, cũng không nghiên cứu nguồn lực con
người trong sự phát triển kinh tế với tư cách là đối tượng của khoa học kinh
tế học. Luận văn nghiên cứu nguồn lực con người dưới góc độ triết học
nhằm đáp ứng sự nghiệp CNH, HĐH.
Trên cơ sở nghiên cứu nguồn lực con người trong sự phát triển kinh
tế - xã hội, luận văn tập trung làm rõ vai trò, biện pháp và phương hướng
để phát huy nguồn lực ấy trong sự nghiệp CNH, HĐH trên địa bàn tỉnh
Kiên Giang.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Những quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa
duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm của Đảng ta về
con người mà nhất là về nguồn lực con người trong sự phát triển kinh tế xã hội nói chung, trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước là cơ sở lý luận
trực tiếp của luận văn này.
- Luận văn sử dụng những phương pháp nghiên cứu chính: logic
và lịch sử, trừu tượng và cụ thể, phân tích và tổng hợp... gắn lý luận với
thực tiễn.
- Ngoài ra, luận văn còn sử dụng những phương pháp điều tra Xã
hội học.
6. Đóng góp của luận văn


4


Luận văn chỉ ra thực trạng của việc phát huy nguồn lực con người
trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Kiên Giang và đưa ra những
phương hướng và giải pháp khả thi, mang tính đặc thù trong phát huy
nguồn lực con người ở Kiên Giang.
7. Ý nghĩa của luận văn
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc hoạch định các
chính sách, kế hoạch góp phần xây dựng chiến lược con người trong sự
nghiệp CNH, HĐH ở tỉnh Kiên Giang.
- Luận văn cũng có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu
giảng dạy và học tập về nguồn lực con người trong các trường học của
Tỉnh.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, luận văn gồm 2 chương, 5 tiết.


5

Chương 1
NGUỒN LỰC CON NGƯỜI
TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA

1.1. KHÁI NIỆM NGUỒN LỰC CON NGƯỜI

1.1.1. Định nghĩa nguồn lực con người
Việc xem xét nhân tố con người với tư cách là một nguồn lực cơ
bản trong sự phát triển kinh tế - xã hội đã dần hình thành khái niệm mới:
nguồn nhân lực hay nguồn lực con người. Nguồn lực con người được các
nhà nghiên cứu đề cập trên các góc độ sau:

Trong lý luận về tăng trưởng kinh tế, nhân tố con người được đề
cập với tư cách là lực lượng sản xuất chủ yếu, là phương tiện để sản xuất ra
của cải. Ở đây, con người được xem xét từ góc độ là những lực lượng lao
động cơ bản nhất trong xã hội. Việc cung cấp đầy đủ và kịp thời lực lượng
lao động theo nhu cầu của nền kinh tế, là vấn đề quan trọng nhất, bảo đảm
tốc độ tăng trưởng kinh tế - xã hội.
Trong lý luận "vốn người" nhân tố con người được xem xét trước
hết như một yếu tố của quá trình sản xuất, một phương tiện để phát triển kinh
tế - xã hội và đến lượt nó, phát triển kinh tế xã hội lại là phương tiện nhằm
đạt mục đích phát triển nguồn lực con người. Đầu tư cho con người được
phân tích với tính cách là sự "tư bản hóa các phúc lợi" tương tự như đầu tư
vào các nguồn vật chất, có tính đến tổng hiệu quả các đầu tư này, hoặc của
thu nhập mà con người và xã hội thu được từ các đầu tư đó [55, 138]. Cách
tiếp cận này đang được áp dụng và phổ biến ở hầu hết các nước hiện nay.
Theo cách tiếp cận này, Ngân hàng thế giới cho rằng: nguồn nhân
lực là toàn bộ "vốn người" (thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp...) mà mỗi
cá nhân sở hữu. Ở đây, nguồn lực con người được coi như một nguồn vốn


6

bên cạnh các loại vốn vật chất khác như tiền, công nghệ, tài nguyên, thiên
nhiên... Đầu tư cho con người giữ vị trí trung tâm trong các loại đầu tư và
được coi là cơ sở chắc chắn cho sự phát triển bền vững.
Cũng dựa trên cách tiếp cận này, Liên Hợp Quốc đưa ra khái niệm
nguồn lực con người: là tất cả những kiến thức, kỹ năng và năng lực của
con người có quan hệ tới sự phát triển của đất nước. Đây được coi là một
yếu tố quan trọng bậc nhất trong kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội.
Còn theo quan niệm của các nhà khoa học Việt Nam được thể hiện
trong chương trình khoa học - công nghệ cấp Nhà nước "Con người Việt

Nam - mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội " mang mã số
KX-07 thì nguồn lực con người được hiểu là dân số và chất lượng con
người, bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khoẻ và trí tuệ, năng lực và
phẩm chất, thái độ và phong cách làm việc... [20, 328].
Từ những cách tiếp cận trên, có thể thấy rằng, nguồn lực con người
không chỉ đơn thuần là lực lượng lao động đã có và sẽ có, mà còn là một
tập hợp đa phức gồm nhiều yếu tố như trí tuệ, sức lực, kỹ năng làm việc...
của con người. Trong bài phát biểu khi gặp gỡ các nhà doanh nghiệp, các
nhà khoa học - công nghệ các tỉnh, thành phố phía Bắc, Thủ tướng Phan
Văn Khải cũng nhấn mạnh: "Nguồn lực con người bao gồm cả sức lao
động, trí tuệ và tinh thần gắn với truyền thống của dân tộc ta" [29, 1]. Điều
khẳng định trên có ý nghĩa rất quan trọng, định hướng cho việc nhận thức
và phát huy tiềm năng nhân lực.
Ngoài ra, cũng có thể hiểu đầy đủ hơn về nguồn lực con người
thông qua tìm hiểu khái niệm "phát triển nguồn nhân lực". Nếu dịch từ cụm
từ tiếng Anh thì phát triển nguồn nhân lực hay phát triển nguồn lực con
người là Human Resouce Development (HRD), còn phát triển con người
nói chung là Human Development (HD). Trong khái niệm về phát triển con
người (HD), nguồn lực con người được đề cập đến như một mục tiêu của


7

sự phát triển kinh tế - xã hội, như là chỉ tiêu về thành tựu kinh tế của dân
tộc. Ngược lại, phát triển nguồn lực con người (HRD) có xu hướng tập
trung vào các hoạt động, nhằm nâng cao khả năng thực hiện các vai trò sản
xuất của con người như trí tuệ, kỹ năng làm việc, khả năng tổ chức lãnh
đạo và quản lý... Ở đây có sự khác biệt, nội hàm khái niệm phát triển nguồn
lực con người sâu hơn, hẹp hơn nội hàm khái niệm phát triển con người.
Phát triển con người - là quan điểm về phát triển, trong đó lấy con

người làm trung tâm. Đó là sự phát triển của con người, vì con người và do
con người.
Phát triển con người có nghĩa là đầu tư vào phát triển tiềm năng của
con người như giáo dục, y tế, kỹ năng... để con người có thể làm việc một
cách sáng tạo và có năng suất cao nhất. Phát triển vì con người là bảo đảm
sự tăng trưởng kinh tế, mà con người tạo ra phải được phân phối rộng rãi
và công bằng. Phát triển do con người là hướng vào việc tạo ra cho con
người có cơ hội tham gia mọi hoạt động của đời sống xã hội (kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội)
Lịch sử loài người từ trước đến nay là lịch sử của sự phát triển con
người. Nói cách khác, sự phát triển của các xã hội, sự thay thế của các hình
thái kinh tế - xã hội là lịch sử đấu tranh, phát triển và giải phóng con người.
Con người đóng vai trò chủ thể sáng tạo lịch sử thông qua hoạt động thực
tiễn cải tạo thế giới. Qua các cuộc đấu tranh đó, con người sáng tạo ra lịch sử,
xã hội và sáng tạo ra chính mình. Do vậy, con người đạt tới giá trị tổng hòa
cao nhất, có ý nghĩa thúc đẩy sự vận động, phát triển của xã hội.
Với tư cách là chủ thể xã hội, con người tham gia phát triển sản
xuất vật chất. Và chính sản xuất vật chất lại tái sản xuất con người - nhân tố
quyết định sự tồn tại, phát triển của xã hội. Xã hội càng phát triển, con
người ngày càng hoàn thiện mọi mặt, càng có nhu cầu tham gia tổ chức,
quản lý xã hội và sự phát triển của bản thân mình. Con người, một khi được


8

thỏa mãn những nhu cầu đó, sẽ đóng góp to lớn, trở thành động lực mạnh
mẽ để thúc đẩy sự phát triển xã hội. Muốn vậy, con người phải hoàn thiện
mọi mặt, được đặt vào vị trí trung tâm. Mọi chiến lược phát triển đều
hướng vào con người nhưng muốn phát triển, phải dựa vào con người.
Đích cuối cùng của chiến lược phát triển là vì con người, phục vụ

con người, tạo ra sự phát triển với mức sống vật chất cao, đời sống tinh
thần phong phú và văn minh hơn. Mục tiêu đó có thể đạt được nếu chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội phù hợp và gắn liền với sự phát triển con
người, kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng và công bằng xã hội. Thực hiện
đồng bộ điều đó, con người mới phát huy được mọi mặt, khơi dậy được
tiềm năng và sức sáng tạo. Thể hiện đầy đủ vai trò quyết định của mình đối
với xã hội. Như vậy, con người vừa là chủ thể vừa là khách thể của quá
trình phát triển xã hội.
Trong các thập niên qua, nhiều quốc gia trên thế giới thực hiện
chiến lược quốc gia, nhằm phát triển con người và đã đạt nhiều thành tựu
quan trọng. Nhân loại sắp bước vào thế kỷ mới nhưng ở một số quốc gia,
khu vực, vẫn còn số lớn người dân nghèo đói, lạc hậu. Nam Á chiếm 2/5 số
người nghèo đói (515 triệu/ 1,3 tỷ người) [45, 61]. Châu Phi đang đối mặt
với đại dịch AIDS, nghèo đói, môi trường xuống cấp. Bất bình đẳng về
thu nhập giữa các quốc gia, khu vực và trên thế giới vẫn là vấn đề lớn của
nhân loại.
Từ sự nhận thức về vị trí, vai trò quan trọng của con người là mục
tiêu và động lực của sự phát triển, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành một
hệ thống chính sách nhằm góp phần nâng cao chất lượng con người thông
qua đào tạo, bồi dưỡng nhân lực, đồng thời tạo điều kiện để sử dụng và
phát huy có hiệu quả vốn con người - nguồn tài sản giá trị cao của quốc gia.
Năm 1991, Nhà nước Việt Nam đã thông qua "Chiến lược ổn định và phát
triển kinh tế - xã hội đến năm 2000", những chính sách đó đã góp phần


9

quan trọng vào sự phát triển con người ở Việt Nam trong thời gian qua,
thúc đẩy sự đi lên của đất nước.
Theo quan niệm của các tác giả Việt Nam thì phát triển nguồn lực

con người được hiểu là quá trình làm "gia tăng giá trị cho con người trên
các mặt đạo đức, trí tuệ, kỹ năng, tâm hồn, thể lực... làm cho con người trở
thành những người lao động có năng lực mới đáp ứng yêu cầu to lớn của sự
phát triển kinh tế - xã hội" [20, 285].
Từ những vấn đề nêu trên có thể thấy rằng, nguồn lực con người
được đề cập đến như một "nguồn vốn" tổng hợp với hệ thống các yếu tố
hợp thành: sức lực và trí tuệ, khối lượng cùng các đặc trưng về chất lượng
lao động như trình độ văn hóa, kỹ thuật, kinh nghiệm nghề nghiệp, thái độ
và phong cách làm việc... Ở đây, nhân tố con người được xem xét với một
tư cách là một yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất, một nguồn lực chủ yếu
để phát triển kinh tế - xã hội.
Nếu coi nguồn lực con người là toàn bộ tiềm năng người nói chung,
thì tiềm năng mà con người có thể đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã
hội, là việc khơi dậy và phát huy tất cả những tiềm năng đó. Quá trình này
bao gồm nhiều vấn đề như tạo việc làm và sử dụng lực lượng lao động,
phát huy tiềm năng trí tuệ và yếu tố tinh thần dân tộc, tạo ra những kích
thích và động cơ lao động. Trong đó, giải quyết việc làm và sử dụng nguồn
lao động chỉ là một nội dung của sử dụng và phát huy nguồn nhân lực.
Để khơi dậy và phát huy những tiềm năng người nói chung, việc sử
dụng và phát huy nguồn nhân lực phải được tiến hành đồng bộ từ vấn đề
giáo dục, đào tạo và phổ cập nghề. Chuẩn bị cho người lao động bước vào
cuộc sống lao động đến vấn đề tự do lao động và được hưởng thụ xứng
đáng giá trị mà lao động sáng tạo ra. Nói cách khác, chính sách sử dụng và
phát huy nguồn lực con người phải được lồng ghép với các vấn đề giáo dục
và đào tạo, sử dụng lực lượng lao động, tạo môi trường làm việc và đãi ngộ


10

thỏa đáng cho con người... trong đó, giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao

chất lượng nguồn lực con người, là cơ sở để sử dụng và phát huy con người
có hiệu quả.
Để làm rõ hơn quan niệm về nguồn lực con người và phát huy
nguồn lực con người, có thể đi sâu phân tích và làm rõ cấu trúc của nguồn
lực con người và việc phát huy nó trong quá trình CNH, HĐH đất nước.
1.1.2. Cấu trúc nguồn lực con người
Để tiến hành CNH, HĐH đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ
trương lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự
phát triển nhanh và bền vững. Đây là sự phát triển quan điểm truyền thống
coi con người là vốn quý nhất.
Trước đây, khi nói đến nguồn lực con người, người ta thường đồng
nhất với sức người trong sản xuất. Từ quan niệm đơn giản này, dễ dẫn đến
ngộ nhận sức người (sức lao động) trong hoạt động lao động sản xuất chỉ là
sức của cơ bắp. Nguồn lực con người trước tiên thể hiện ở sức người trong
sản xuất, song, không phải chỉ là sức cơ bắp mà cái cốt lõi, cái chủ yếu
trong nguồn lực con người ở thời đại ngày nay chính là hàm lượng trí tuệ,
là những phẩm chất tâm lý, đạo đức cần thiết, khả năng lao động sáng tạo,
hiệu quả v.v... của con người. Nguồn lực con người được hiểu như là sự kết
hợp giữa thể lực, trí lực, những phẩm chất, đạo đức, kinh nghiệm sống, nhu
cầu, thói quen vận dụng tổng hợp trí thức và kinh nghiệm của từng người,
của cộng đồng... cho thấy khả năng sáng tạo, chất lượng, hiệu quả hoạt
động và triển vọng mới phát triển của con người; nguồn lực con người là
một tập hợp các chỉ số phát triển người, là chất lượng văn hóa mà bản thân
nó và xã hội, có thể huy động vào sự phát triển tiếp theo các giá trị văn hóa
của toàn xã hội vì lợi ích của cá nhân, và xã hội [2, 14]. Từ ý nghĩa đó,
nguồn lực con người Việt Nam được hiểu là những tiêu chí phản ánh về số
lượng và chất lượng của dân số, với tư cách là lực lượng sản xuất trong xã


11


hội Việt Nam hiện nay, cũng như vấn đề quản lý, sử dụng và đào tạo nguồn
nhân lực đó như thế nào. Như vậy, với tư cách là nguồn lực quyết định của
sự nghiệp CNH, HĐH, nguồn lực con người cần phải được xem xét ở các
phương diện sau đây: trước tiên là những đặc điểm về dân số, giới tính, độ
tuổi, đặc điểm về mặt hình thái - sinh lý, khả năng thích nghi với môi
trường... và sau đó là những đặc điểm phản ánh chất lượng nguồn lực con
người như: trình độ học vấn, tay nghề, những phẩm chất về mặt tâm lý, đạo
đức phù hợp với yêu cầu của xã hội và nghề nghiệp, khả năng hoạt động
nghề, chất lượng cuộc sống qua thu nhập v.v... Những tiêu chí phản ánh về
số lượng, chất lượng nguồn lực con người, cần được xem xét trong quan hệ
với yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, trong quan hệ với đào tạo,
quản lý.
Tóm lại, con người dù ở bất kỳ hình thái xã hội nào cũng là người
lao động. Vì vậy, nguồn lực con người trước hết được biểu hiện ra là
nguồn lao động. Nó bao gồm toàn bộ những người lao động đang có khả
năng phục vụ cho xã hội và các thế hệ nối tiếp sẽ phục vụ cho xã hội. Từ
những người lao động trực tiếp đến các nhà quản lý, các nhà khoa học,
công nghệ, những người làm công tác văn phòng, dịch vụ, đến lực lượng
dự bị cho lao động trẻ... đều thuộc về nguồn lực con người của một quốc
gia, dân tộc. Từ khía cạnh này, có thể hiểu phát huy nguồn lực con người
trước hết là phát huy lực lượng lao động. Tạo việc làm và phát huy có hiệu
quả nhất nguồn lao động hiện có, và đó chính là yêu cầu cơ bản và chủ yếu
của việc phát huy nguồn lực con người.
Khi tham gia vào các quá trình phát triển kinh tế - xã hội, con người
chẳng những sử dụng lao động chân tay, mà còn sử dụng lao động trí óc,
hơn nữa, sử dụng lao động trí óc ngày càng nhiều khi xã hội càng phát
triển. Vì vậy, trí tuệ trở thành một yếu tố hết sức quan trọng của nguồn lực
con người. Hầu hết mọi người thừa nhận rằng, trí tuệ là yếu tố quan trọng
hàng đầu của nguồn lực con người. Có nó, con người có thể có được tất cả



12

những yếu tố khác - kể cả của cải, quyền lực, khoa học công nghệ mới...
Với ý nghĩa đó, khai thác và phát huy tiềm năng trí tuệ trở thành yêu cầu
quan trọng nhất của việc phát huy nguồn lực con người.
Tuy nhiên, trí tuệ với tư cách là một yếu tố của nguồn lực con
người không phải là những kiến thức trong sách vở, trong ngân hàng dữ
liệu hay trong chương trình phần mềm máy vi tính... Tri thức chỉ có thể trở
thành nguồn lực khi nó được con người tiếp thu, làm chủ và phát huy
chúng, hay nói theo cách nói của Mác, nó phải tồn tại trong nhân cách sinh
động của con người. Nghĩa là, chỉ những kiến thức nằm trong con người,
tồn tại trong vỏ não con người, được tạo ra, sửa đổi và hoàn thiện bởi con
người, được con người sử dụng, phát huy và truyền đạt lại mới được xem là
nguồn lực con người.
Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện nay, đang đặt ra những
yêu cầu rất cao về trí tuệ của nguồn nhân lực - những người lao động. Họ
không những phải có khả năng tiếp thu những tri thức mới, vận dụng có
hiệu quả vào sản xuất mà còn phải biết thường xuyên tự đổi mới tri thức,
để không bị lạc hậu trước sự phát triển như vũ bão của cách mạng khoa học
- công nghệ. Vì vậy, nguồn nhân lực cần thiết cho CNH, HĐH phải bao
gồm những người lao động có sự phát triển cao về năng lực, trí tuệ, đủ sức
làm chủ và tiếp thu công nghệ mới, có khả năng làm việc chủ động, linh
hoạt và sáng tạo, có khả năng sử dụng các công cụ, phương tiện lao động
hiện đại, tiên tiến...
Xuất phát từ yêu cầu đó, tiến hành CNH, HĐH nhất thiết phải nâng
cao trình độ học vấn chung của nguồn lực con người. Theo tổng kết của thế
giới, trình độ văn hóa tối thiểu của người dân phải có là tiểu học ở nền văn
minh nông nghiệp, trung học cơ sở ở nền văn minh công nghiệp và trung

học hoàn chỉnh (xong giáo dục phổ thông 12 năm) ở nền văn minh thông
tin, trí tuệ. Bởi vậy, con đường cơ bản nhất để phát huy tiềm năng nguồn
nhân lực là biến dân tộc đó thành xã hội có học vấn. Điều đó giải thích vì


13

sao cuộc chạy đua về kinh tế giữa các quốc gia hiện nay chủ yếu là cuộc
chay đua về phát triển giáo dục đào tạo.
Dựa trên nền tảng mặt bằng dân trí của nguồn lực con người, Đảng
và Nhà nướcViệt Nam cần xây dựng và phát triển những người lao động có
năng lực cao về trí tuệ. Họ phải có khả năng áp dụng khoa học để sáng chế
những kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, có khả năng nhạy bén, thích ứng
nhanh và làm chủ được kỹ thuật, công nghệ hiện đai, có kỹ năng nghề
nghiệp, có năng lực hoạch định chính sách, lựa chọn giải pháp và tổ chức
thực hiện, biết quản lý sản xuất kinh doanh trong điều kiện kinh tế hàng
hóa, cơ chế thị trường và phân công lao động quốc tế... Đây là những yêu
cầu rất cơ bản về nguồn lực con người cần thiết cho CNH, HĐH trong điều
kiện ngày nay.
Sau trí tuệ là yếu tố sức khỏe - yêu cầu không thể thiếu của nguồn
lực con người. Sức khỏe là điều kiện để duy trì và phát triển trí tuệ, là
phương tiện để chuyển tải tri thức vào hoạt động thực tiễn, để biến tri thức
thành sức mạnh vật chất hiện thực.
Với tư cách là một yếu tố của nguồn lực con người, sức khỏe là sự
phát triển hài hòa của con người cả về thể chất và tinh thần. Vì vậy, yếu tố
này phải bao gồm cả sức khỏe cơ thể và sức khỏe tinh thần. Sức khỏe cơ
thể là sự cường tráng, phát triển cân đối, hài hòa của các cơ quan trong cơ
thể theo quy luật "tạo hóa" của tự nhiên. Sức khỏe tinh thần là sự dẻo dai
trong hoạt động thần kinh mà biểu hiện cụ thể của nó thông qua sức mạnh,
niềm tin, khát vọng, ý chí và hoài bão. Suy cho cùng, sức khỏe tinh thần là

khả năng vận động của trí tuệ, biến tư duy thành hành động thực tế.
Bước vào giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH, yêu cầu về lao động trí
tuệ ngày một cao. Vì vậy, cần phải có những người lao động khỏe mạnh cả
về thể chất lẫn tinh thần mới đáp ứng được yêu cầu của nền sản xuất hiện
đại. Chỉ như vậy mới bắt nhịp cuộc sống hiện đại. Họ có thể làm việc dẻo


14

dai, có khả năng tập trung về trí tuệ cho công việc, có sức mạnh của niềm
tin và ý chí để phát huy tốt nhất vai trò của nguồn lực con người. Với ý
nghĩa đó, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân là một nhiệm vụ rất cơ bản để
nâng cao chất lượng nguồn lực con người, tạo tiền đề để phát huy có hiệu
quả tiềm năng con người.
Tiến hành CNH, HĐH còn đòi hỏi ở người lao động hàng loạt phẩm
chất lao động và nghề nghiệp như: kỷ luật tự giác, tiết kiệm nguyên liệu và
thời gian, có tinh thần hợp tác và tác phong lao động công nghiệp, có lương
tâm nghề nghiệp và trách nhiệm cao trước công việc được giao... Tất cả
những vấn đề đó, ngày nay được sử dụng trong một chỉ tiêu tổng hợp là
yếu tố văn hóa trong lao động. Đây là một yếu tố hết sức quan trọng để
đánh giá chất lượng nguồn lực con người nói chung và nguồn lực con
người cần thiết cho CNH, HĐH nói riêng.
Quá trình CNH, HĐH ngày nay còn đụng chạm đến các vấn đề
phức tạp trong quan hệ giữa con người và thiên nhiên mà chỉ có thể giải
quyết được nhờ trình độ văn hóa cao và sự hiểu biết sâu sắc của người lao
động trước môi trường sinh thái. Đây là vấn đề sống còn không chỉ của mỗi
quốc gia mà còn đối với nền văn minh nhân loại. Con người vốn có cội
nguồn từ thiên nhiên và không thể tách rời thiên nhiên trong sự tồn tại và
phát triển của mình. Vì vậy, sự hiểu biết và trách nhiệm cao trước vấn đề môi
trường sinh thái cũng là phẩm chất và năng lực cần thiết của nguồn lực

con người trong quá trình tiến hành công nghiệp hóa. Đây là yêu cầu tất
yếu để tránh được những hậu quả do sản xuất công nghiệp gây ra như: ô
nhiễm nguồn nước, khí hậu, khai thác cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên
nhiên... dẫn đến mất cân bằng sinh thái, làm nguy hại đến cuộc sống con
người và sự phát triển bền vững của đất nước.
Một vấn đề quan trọng khác cần xem xét ở nguồn lực con người là
cơ cấu của nguồn lao động, mà quan trọng nhất là cơ cấu đào tạo và cơ


15

cấu ngành nghề. Xuất phát từ yêu cầu phát triển kinh tế, từ nhu cầu sử
dụng mà những người lao động phải được đào tạo, phân bổ và sử dụng theo
cơ cấu hợp lý đảm bảo tính hiệu quả cao nhất trong sử dụng. Một quốc gia
tuy có lực lượng lao động đông đảo, nhưng nếu phân bổ không hợp lý giữa
các ngành, các vùng, cơ cấu đào tạo không phù hợp với nhu cầu sử dụng,
thì nguồn lao động đông đảo đó không những không trở thành nguồn lực để
phát triển mà nhiều khi còn là sức cản sự phát triển.
Theo xu hướng chung của quá trình công nghiệp hóa và sự tác động
của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện nay, cơ cấu nguồn lao động
sẽ chuyển dịch theo hướng: lao động dịch vụ, công nghiệp tăng cả về tương
đối lẫn tuyệt đối; tỉ trọng lao động nông nghiệp ngày càng giảm trong cơ cấu
lao động tổng thể. Cùng với quá trình đó, cấu trúc của nguồn lực con người
cũng biến đổi mạnh theo hướng: tỷ trọng lao động thành thạo ngày càng tăng
lên trong khi tỷ trọng lao động tay nghề thấp càng giảm; tỷ trọng lao động
trí lực ngày càng cao trong chi phí lao động, tỷ trọng lao động thể lực ngày
càng giảm... Đây là những vấn đề hết sức quan trọng cần phải tính tới trong
quá trình phát triển, sử dụng và phát huy nguồn lực con người cho CNH,
HĐH.
Cuối cùng, khi nói đến nguồn lực con người của một quốc gia, dân

tộc không thể không tính tới yếu tố tinh thần được hình thành và phát triển
trên cơ sở truyền thống văn hóa dân tộc. Thực tế cho thấy, truyền thống
văn hóa của mỗi dân tộc luôn luôn góp phần hình thành nhân cách và bản
lĩnh, ý chí và lòng tự trọng, lối sống và làm việc... của dân tộc đó. Nếu biết
phát huy những truyền thống tốt đẹp sẽ tạo nên sức mạnh của cả dân tộc.
Bởi vậy, đây được coi là nguồn nội lực vô tận, có ý nghĩa hết sức quan
trọng đối với sự tồn tại và phát triển.
Chúng ta tiến hành công nghiệp hóa theo định hướng XHCN. Vì
vậy, nguồn lực con người cần thiết cho CNH, HĐH ở Việt Nam không chỉ
là những người lao động có năng lực cao về trí tuệ mà còn phải là những


16

công dân yêu nước, cần cù lao động và sáng tạo; có ý chí vươn lên và lòng
tự trọng dân tộc cao; phải nắm vững và không ngừng làm phong phú lý
luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh
cụ thể của Việt Nam...
Quán triệt những yêu cầu trên, cần chú trọng khơi dậy và phát huy
những truyền thống văn hóa dân tộc. Đồng thời cần tập trung nâng cao
nhận thức cho người lao động về đường lối, quan điểm của Đảng trong thời
kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Từ đó, xây dựng những thế hệ con
người Việt Nam có bản lĩnh chính trị vững vàng, có niềm tin và quyết tâm
hoàn thành sứ mệnh CNH, HĐH đất nước. Đây là vấn đề rất quan trọng để
nhân tố con người Việt Nam không chỉ là chủ thể của quá trình công
nghiệp hóa mà còn là những công dân tốt bảo vệ thành quả cách mạng
trong tình hình mới hiện nay.
Tóm lại, nguồn lực con người là một phạm trù có nội hàm sâu,
ngoại diên mới rộng lớn. Nó không chỉ đơn thuần là nguồn lao động đã có
và sẽ có, mà còn bao gồm nhiều yếu tố vật chất và tinh thần khác nữa. Điều

đó đòi hỏi việc phát huy nguồn lực con người, cần phải chú ý khai thác và
phát huy đầy đủ những yếu tố vật chất và tinh thần ở từng con người cũng
như toàn xã hội.
Nguồn lực con người đáp ứng được những yêu cầu của quá trình
CNH, HĐH được coi là nguồn lực cần thiết cho công nghiệp hóa. Thực tiễn
cho thấy, có được nguồn lực con người phù hợp với yêu cầu CNH, HĐH và
phát huy một cách có hiệu quả nó chính là nhân tố quyết định sự thành
công của quá trình đó.
1.1.3. Những nhân tố tác động nguồn lực con người
Việc phát huy nguồn lực con người nhằm đáp ứng yêu cầu CNH,
HĐH luôn chịu tác động của những nhân tố chủ quan và khách quan sau:
Thứ nhất: Trình độ phát triển kinh tế.


17

Những nước có trình độ phát triển cao về kinh tế, GDP/ người và
đời sống chung của nhân dân ổn định ở mức cao, sẽ có điều kiện để đảm
bảo và nâng cao chất lượng nguồn lực con người vì tuổi thọ, sức khỏe, trình
độ dân trí, văn hóa và chuyên môn nghề nghiệp có điều kiện phát triển. Mặt
khác, trình độ phát triển kinh tế cao, cũng có nghĩa là thiết bị và công nghệ
sản xuất tiên tiến, nên càng đòi hỏi chất lượng nguồn nhân lực phù hợp với
công nghệ đó.
Khi trình độ phát triển kinh tế cao, con người mới có điều kiện vật
chất để cải thiện đời sống, làm tăng thể lực, tinh thần của chính cá nhân,
cộng đồng và khi đó, nhà nước mới có điều kiện vật chất để giải quyết tốt
hơn các vấn đề: giáo dục, y tế, văn hóa, thực hiện các chính sách xã hội. Sự
phát triển kinh tế là nền tảng vật chất để nhà nước giải quyết vấn đề nguồn
lực con người. Biện chứng giữa phát triển kinh tế và phát huy nguồn lực
con người là ở chỗ, sự phát triển của kinh tế là cơ sở để phát triển nguồn

lực con người, đến lượt nó, sự phát triển của nguồn lực con người lại là
điều kiện để phát triển kinh tế.
Thứ hai: Trình độ phát triển giáo dục - đào tạo.
Ngày nay, khi tiến bộ khoa học - công nghệ trở thành một nhân tố
trực tiếp của lực lượng sản xuất, là yếu tố quyết định sự tăng trưởng kinh tế
thì vai trò của nguồn lực con người ngày càng được đề cao. Trí tuệ, nhân
cách của con người là sản phẩm của giáo dục và đào tạo.
Chính phủ ở các nước trong những năm gần đây đều tăng các nguồn
lực đầu tư cho giáo dục, đào tạo nhằm phát triển nhanh nguồn lực con
người. Phương thức đầu tư cũng như quá trình phát triển giáo dục ở mỗi
nước có đặc điểm riêng, nên chất lượng nguồn lực con người ở các nước rất
khác nhau. Các nước công nghiệp phát triển và một số nước công nghiệp mới,
đầu tư rất lớn cho giáo dục, đào tạo (20% tổng ngân sách nhà nước) [49, 58],
nhằm phát triển nhanh chất lượng nguồn lực con người. Chính phủ các


18

nước đều nhận thấy một nền giáo dục hoàn chỉnh, đồng bộ và toàn diện sẽ
có khả năng cung cấp cho nền kinh tế quốc dân "đội ngũ các nhà khoa học,
những người lao động có kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp, năng động,
sáng tạo" [19, 5]. Đó là nguồn vốn quý giá để phát triển kinh tế và thực
hiện CNH, HĐH.
Đối với cá nhân mỗi người, giáo dục là quá trình hình thành, phát
triển, hoàn thiện nhân cách, thế giới quan với tình cảm, đạo đức... Đối với
xã hội, giáo dục là quá trình "tích tụ nguồn vốn con người" để chuẩn bị và
cung cấp nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Đối với nước ta, giáo dục phổ thông là nền tảng, là cơ sở để đào tạo nguồn
lực con người. Giáo dục chuyên nghiệp trực tiếp sản xuất ra sản phẩm cung
cấp cho thị trường sức lao động, những người lao động với những tiêu chuẩn

đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, phát triển kinh tế và CNH, HĐH.
Do vị trí quan trọng của giáo dục, đào tạo đối với sự hình thành và phát
triển nguồn lực con người nên đầu tư cho giáo dục được coi là đầu tư cho
phát triển, đầu tư trực tiếp vào nguồn lực con người.
Đối với Việt Nam, nguồn lực con người được coi là nguồn nội lực cơ
bản nhất để thực hiện CNH, HĐH. Giáo dục là khâu quyết định chăm lo cho
con người; hình thành trí tuệ, kiến thức, phương pháp lao động. Đảng cộng
sản Việt Nam đặt giáo dục ở vị trí "quốc sách hàng đầu", điều này khẳng
định vai trò của giáo dục trong sự hình thành và phát huy nguồn lực con
người cho CNH, HĐH đất nước. "Giáo dục là tương lai của dân tộc" [17, 13].
Thứ ba: Truyền thống dân tộc và sự phát triển văn hóa.
Có thể nói, CNH, HĐH là quá trình biến đổi mọi mặt đời sống của
con người và cộng đồng, vì vậy, công nghiệp hóa chỉ có thể tiến hành thành
công trong một môi trường văn hóa phù hợp.
Ngày nay, văn hóa đang trở thành động lực của sự phát triển kinh
tế. Văn hóa là tập hợp những tư tưởng, tình cảm, tập quán, thói quen trong


19

tư duy, lối sống và ứng xử của mỗi người, cộng đồng - đó là yếu tố tinh
thần trong chất lượng nguồn lực con người.
Mỗi quốc gia, dân tộc có nền văn hóa mang bản sắc riêng và có một
giá trị riêng độc đáo. Sự thành công của công nghiệp hóa và phát triển kinh
tế của Nhật Bản là một điển hình về vài trò của văn hóa, truyền thống dân tộc
đối với sự phát triển, sử dụng và phát huy có hiệu quả nguồn lực con người.
Nền văn hóa và truyền thống của dân tộc Việt Nam là "tài sản thừa
kế của các thế hệ người Việt Nam hôm nay và mai sau" [18, 242]. Văn hóa
và truyền thống dân tộc là một nhân tố đặc biệt quan trọng để hình thành và
phát triển nguồn lực con người Việt Nam. Định hướng XHCN của CNH,

HĐH đất nước đòi hỏi phải gắn động lực kinh tế với văn hóa nhằm đem lại
sự phát triển bền vững.
Quá trình hình thành và thực hiện sự bình đẳng về cơ hội phát triển
của mọi người; đề cao chất lượng cuộc sống; coi trọng giữ gìn bản sắc dân
tộc, gắn với phát triển văn minh của thời đại, đó chính là môi trường văn
hóa lành mạnh của quá trình CNH, HĐH. Môi trường văn hóa là cơ sở phát
triển con người cũng như nguồn lực con người đúng hướng, hạn chế những
tác động tiêu cực của cơ chế thị trường đối với nguồn lực con người.
Việc Nhà nước tạo lập môi trường văn hóa phù hợp cho sự phát
triển nguồn lực con người, là một nhân tố có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả,
thời gian và định hướng đúng đắn của sự nghiệp CNH, HĐH ở Việt Nam.
Thứ tư: Cơ chế, chính sách kinh tế - xã hội vĩ mô của Nhà nước.
Các chính sách vĩ mô của nhà nước tác động trực tiếp đến nguồn
lực con người gồm: Chính sách giáo dục - đào tạo và đào tạo lại, chính sách
tuyển dụng, sử dụng lao động, chính sách tiền lương, thu nhập, bảo hiểm xã
hội, bảo hộ lao động...


20

Bằng hệ thống các chính sách kinh tế - xã hội, Nhà nước ta đã thiết
lập được môi trường pháp lý cho sự hoạt động và tạo điều kiện để phát huy
nguồn lực con người. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, hệ thống các
chính sách luôn thay đổi theo hướng ngày càng hoàn thiện, đồng thời phản
ánh bản chất của quan hệ sản xuất. Chính sách đúng đắn và hợp lý là môi
trường, động lực, đòn bẩy kích thích sự phát triển của cá nhân, cộng đồng
theo xu hướng tiến bộ. Ngược lại, các chính sách không phù hợp sẽ có tác
động kìm hãm sự phát triển, thui chột năng lực và tư duy sáng tạo của mỗi
người, làm biến dạng động lực cạnh tranh, gây ra tâm lý chán nản, mất lòng
tin, kéo lùi sự tiến bộ của con người, ảnh hưởng tới chất lượng nguồn lực

con người.
Hệ thống các chính sách là sự thể hiện ý chí, nguyện vọng của giai cấp
thống trị trong điều hành, quản lý xã hội hướng tới mục tiêu mà nhà nước đã
hoạch định. Hiệu quả của hệ thống các chính sách được đo ở hoạt động
kinh tế - xã hội, ở sự phát triển của mỗi người và nguồn lực con người.
Hiện nay, cơ chế thị trường tác động rất lớn đến sự phát triển của
con người, nguồn lực con người. Chính sách kinh tế - xã hội của Nhà nước
ta không chỉ tạo môi trường thuận lợi mà còn hạn chế tác động tiêu cực của
thị trường đối với nguồn lực con người.
Trong bối cảnh đời sống quốc tế hóa, khu vực hóa ngày càng phát
triển, sự phát huy nguồn lực con người của mỗi nước luôn chịu tác động
của hội nhập nguồn lực con người khu vực và thế giới. Ngày nay, trình độ
tri thức, thể lực của nguồn lực con người ở các nước có nền kinh tế phát
triển đã vượt xa nguồn lực con người Việt Nam. Đây là thách thức lớn đối
với nguồn lực con người Việt Nam. Nền kinh tế thị trường thế giới, khu
vực mang theo cả nhân tố tích cực và tiêu cực cùng tác động đến sự phát
triển của nguồn lực con người Việt Nam. Nhà nước có vai trò tạo môi
trường thuận lợi để phát triển nhanh nguồn lực con người, nhằm hội nhập


21

vào nguồn lực con người thế giới, đồng thời ngăn cản sự tác động tiêu cực
của kinh tế thị trường đến sự phát triển nguồn nhân lực.
Sự hình thành, phát huy nguồn lực con người ở Việt Nam chịu sự
tác động của các nhân tố trên. Mỗi nhân tố tác động đến từng mặt của
nguồn lực con người, bởi vậy, Nhà nước cần sử dụng tổng hợp các nhân tố
để kích thích, định hướng quá trình phát triển và phát huy nguồn lực con
người nhằm đáp ứng yêu cầu trong CNH, HĐH đất nước.
1.2. VAI TRÒ NGUỒN LỰC CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG

NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA

1.2.1. Con người - nguồn lực của mọi nguồn lực
Sự thành công của quá trình CNH, HĐH đòi hỏi ngoài môi trường
chính trị ổn định, phải có các nguồn lực cần thiết, như: nguồn lực con
người, vốn, tài nguyên, thiên nhiên, cơ sở vật chất - kỹ thuật, vị trí địa lí, và
nguồn lực nước ngoài. Các nguồn lực này có quan hệ chặt chẽ với nhau,
cùng tham gia vào quá trình CNH, HĐH nhưng mức độ tác động và vai trò
của chúng đối với toàn bộ quá trình CNH, HĐH không giống nhau, trong
đó nguồn lực con người là yếu tố quyết định.
Xem xét vai trò của nguồn lực con người, cần đặt nó trong quan hệ
với các nguồn lực khác, đồng thời phải đặt công nghiệp hóa trong tình hình
hiện nay. Khi cuộc cách mạng khoa học, kỹ thuật và công nghệ hiện đại
phát triển mạnh mẽ, lao động trí tuệ ngày càng gia tăng và trở thành xu thế
phổ biến của nhân loại, khi công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa mà thực
chất là hiện đại hóa lực lượng sản xuất. Với cách tiếp cận như vậy, vai trò
quyết định của nguồn lực con người biểu hiện ở những điểm cơ bản như sau:
Trước hết, các nguồn lực khác như vốn, tài nguyên thiên nhiên, vị
trí địa lý, v.v... tự nó chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng. Chúng chỉ phát huy
tác dụng và có ý nghĩa xã hội tích cực, khi được kết hợp với nguồn lực con


22

người, thông qua hoạt động có ý thức của con người. Bởi lẽ, con người là
nguồn lực duy nhất biết tư duy, có trí tuệ và ý chí, biết "lợi dụng" các
nguồn lực khác, gắn kết chúng lại với nhau, tạo thành sức mạnh tổng hợp,
cùng tác động vào quá trình CNH, HĐH. Các nguồn lực khác là những
khách thể, chịu sự cải tạo, khai thác của con người và hết thảy chúng đều
phục vụ cho nhu cầu, lợi ích con người, nếu con người biết tác động và chi

phối hợp quy luật. Vì thế, trong các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất,
người lao động là yếu tố quan trọng nhất, là "lực lượng sản xuất hàng đầu
của toàn nhân loại" [32, 130].
Chúng ta đều rõ, muốn công nghiệp hóa phải có vốn, nhưng vốn chỉ
trở thành nguồn lực quan trọng và cấp thiết của sự phát triển khi nó nằm
trong tay những con người biết sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả cao.
Sự giàu có về tài nguyên thiên nhiên và những ưu thế về vị trí địa lý cũng
sẽ mất ý nghĩa, nếu chủ nhân của nó không có năng lực khai thác và khai
thác không đúng. Ngày nay, trước xu thế quốc tế hóa đời sống kinh tế, sự
hợp tác và đầu tư nước ngoài cũng là nguồn lực quan trọng, nó tạo ra "cái
hích" kinh tế, nhất là với các nước có điểm xuất phát thấp, nhưng sức mạnh
của "cái hích" đó đến đâu, tác động tích cực của nó như thế nào còn tùy
thuộc vào yếu tố con người khi tiếp nhận nguồn lực đó. Xét đến cùng, thiếu
sự hiện diện của trí tuệ và lao động của con người thì mọi nguồn lực đều trở
nên vô nghĩa, thậm chí khái niệm "nguồn lực" cũng không còn lý do để tồn
tại.
Thứ hai, các nguồn lực khác là hữu hạn, có thể bị khai thác cạn kiệt,
trong khi đó nguồn lực con người mà cái cốt lõi là trí tuệ, là nguồn lực vô
tận. Tính vô tận của trí tuệ con người biểu hiện ở chỗ, nó có khả năng
không chỉ tái sinh và tự sản sinh về mặt sinh học, mà còn tự đổi mới không
ngừng, phát triển về chất trong con người, nếu biết chăm lo, bồi dưỡng và
khai thác hợp lý. Đó là cơ sở làm cho năng lực nhận thức và hoạt động thực
tiễn của con người phát triển như một quá trình vô tận, xét về bình diện


23

cộng đồng, nhân loại. Nhờ vậy, con người từng bước làm chủ tự nhiên,
ngày càng khám phá ra những tài nguyên thiên nhiên mới, hoặc sáng tạo ra
những nguồn tài nguyên vốn không có sẵn trong tự nhiên. Với bản chất hoạt

động có mục đích và sáng tạo, con người bằng trí tuệ và lao động của mình,
đã liên tiếp chế tạo ra các thế hệ công cụ sản xuất mới, nhằm tác động vào
tự nhiên có hiệu quả hơn. Chính sự phát triển không ngừng của công cụ sản
xuất từ thủ công đến cơ khí và ngày nay là tự động hóa đã đưa xã hội loài
người chuyển qua các nền văn minh từ thấp lên cao, tự nó đã nói lên tính vô
tận của trí tuệ con người. Đúng là, "tri thức có tính chất lấy không bao giờ
hết" [1, 41].
Thứ ba, trí tuệ của con người có sức mạnh vô cùng to lớn một khi
nó được vật thể hóa, trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Dự báo vĩ đại
này của Các Mác đã và đang trở thành hiện thực. Sự phát triển như vũ bão
của cuộc cách mạng khoa học, kỹ thuật và công nghệ hiện đại đang dẫn các
nền kinh tế của các nước công nghiệp phát triển, vận động đến nền kinh tế
trí tuệ. Ở những nước này, lao động trí tuệ ngày càng chiếm tỉ lệ cao, nguồn
lợi mà họ thu được từ lao động chất xám chiếm tới 1/2 tổng giá trị tài sản
quốc gia, ví như ở Nhật Bản, riêng nguồn lợi do tin học mang lại đã chiếm
tới 40% [44, 24]. Giờ đây, sức mạnh của trí tuệ đạt đến mức, nhờ nó con
người có thể sáng tạo ra những máy móc "bắt chước" hay "phỏng" theo
những đặc tính trí tuệ của chính con người. Rõ ràng là, bằng những kỹ
thuật công nghệ hiện đại do chính bàn tay, khối óc con người làm ra, mà
ngày nay nhân loại đang chứng kiến những biến đổi thần kỳ trong lịch sử
phát triển của mình. Với ý nghĩa đó, Alvin Toffler đã xếp quyền lực trí tuệ
ở vị trí hàng đầu trong tất cả các loại quyền lực đã có trong lịch sử.
Thứ tư, kinh nghiệm của nhiều nước và thực tiễn của chính Việt
Nam cho thấy, sự thành công của CNH, HĐH phụ thuộc chủ yếu vào việc
hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách cũng như tổ chức thực hiện,


24

nghĩa là phụ thuộc vào năng lực nhận thức và hoạt động thực tiễn của con

người. Quá trình CNH, HĐH sẽ không thể đạt được kết quả tốt nếu không
lựa chọn được mô hình đúng, các bước đi thích hợp và các giải pháp hữu
hiệu, phù hợp với điều kiện cụ thể của mỗi nước và bối cảnh quốc tế, dù có
đủ các nguồn lực khác. Không hiếm các nước giàu có về tài nguyên thiên
nhiên và được tài trợ lớn từ bên ngoài nhưng vẫn không thành công trong
công nghiệp hóa. Điều này một lần nữa lại nói lên nguồn lực con người là
nguồn lực của mọi nguồn lực - chủ thể trực tiếp, hiện thực của toàn bộ quá
trình CNH, HĐH.
Nói tóm lại, tiềm năng sức lao động - con người với trí tuệ và lao
động được định hướng bởi trí tuệ đó, đã và đang là tài sản quý giá nhất, là
nguồn lực quan trọng nhất, quyết định sự phát triển của mỗi quốc gia. Vai
trò này, ngày càng tăng lên khi trí tuệ hóa lao động đang trở thành xu thế
phổ biến. Vì vậy, trong chiến lược phát triển của mình, nhiều nước đã đặt
con người vào vị trí trung tâm, quan tâm đặc biệt đến yếu tố con người và
chuyển đối tượng khai thác vào chính bản thân con người. Hiện tượng các
nước công nghiệp mới Đông Á là những cứ liệu lịch sử xác thực cho nhận
thức về nguồn lực con người trong quá trình CNH, HĐH. Sự thành công
của những nước này do nhiều nguyên nhân nhưng trong đó có một nguyên
nhân chung, đó là họ sớm nhận thức đúng vai trò quyết định của nguồn lực
con người và đầu tư thỏa đáng cho chiến lược con người, đặt lên hàng đầu
chất lượng nguồn lao động, đặc biệt là các yếu tố văn hóa, kỹ thuật và kỷ
luật, đi trước một bước về giáo dục và đào tạo, coi đó là chìa khóa của cánh
cửa tăng trưởng, là điều kiện bảo đảm cho sự thắng lợi của công nghiệp
hóa. Chẳng hạn, để chuẩn bị cho công nghiệp hóa, Hàn Quốc đã có kế
hoạch "trí tuệ hóa" toàn dân. Nhờ vậy, ngay từ năm 1960 họ đã đạt được
100% lao động có trình độ văn hóa cấp I, đến năm 1990 thì 94% người lao
động đã tốt nghiệp cấp II. Chi phí cho giáo dục của họ chiếm hơn 20% tổng


25


chi phí ngân sách nhà nước [49, 58]. Hay ở Đài Loan, trong 30 năm từ
1952 đến 1981 tổng giá trị sản phẩm quốc dân tăng 26,34 lần nhưng kinh
phí cho giáo dục tăng hơn 90 lần [27, 22]. Có thể nói rằng, nền kinh tế của
các nước này có sự phát triển nhanh phần lớn nhờ vào sự phát triển nhanh
của giáo dục và khoa học, kỹ thuật. Kinh nghiệm về xây dựng và sử dụng
nguồn lực con người của các nước công nghiệp mới Đông Á là những bài
học bổ ích cho các nước chuẩn bị bước vào CNH, HĐH.
Vai trò quyết định của nguồn lực con người chỉ trở thành hiện thực
khi người lao động có những năng lực và phẩm chất cần thiết, đáp ứng
được những yêu cầu mà quá trình CNH, HĐH đang đòi hỏi.
Yếu tố hàng đầu của nguồn lực con người trước hết là trí tuệ, bởi vì
"tất cả những gì thúc đẩy con người hành động đều tất nhiên phải thông
qua đầu óc của họ" [8, 409], tức là phải thông qua trí tuệ. Trình độ trí tuệ
phản ánh qua trình độ học vấn và tài năng sáng tạo. Nó biểu hiện ở khả
năng áp dụng những thành tựu khoa học để sáng chế ra những kỹ thuật,
công nghệ tiên tiến; ở sự nhạy bén, thích ứng nhanh và làm chủ được
những kỹ thuật, công nghệ hiện đại; ở kỹ năng lao động nghề nghiệp; ở
năng lực hoạch định chính sách, lựa chọn giải pháp và tổ chức thực hiện; ở
sự biết quản lý sản xuất, kinh doanh trong điều kiện nền kinh tế hàng hóa,
cơ chế thị trường và phân công lao động quốc tế. Để có được những năng
lực này, ngoài tư chất ban đầu, vai trò chủ yếu thuộc về giáo dục và đào
tạo, vì nó là phương tiện hữu hiệu để phát triển trí tuệ và trang bị chuyên
môn, nghề nghiệp, để khơi dậy tiềm năng sáng tạo của con người.
Ngoài ra, cũng cần thấy rằng, sự nghiệp CNH, HĐH khó có thể đạt
được kết quả tốt, nếu không có những công dân yêu nước, ham học hỏi, cần
cù lao động và sáng tạo; có tinh thần hợp tác, ý chí tự chủ vươn lên và lòng
tự trọng dân tộc cao, tôn trọng pháp luật, đạo lý; biết kết hợp hài hòa yếu tố



×