Tải bản đầy đủ (.doc) (203 trang)

SÁCH THAM KHẢO KINH tế học VI mô lý THUYẾT và THỰC HÀNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (838.52 KB, 203 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Môn kinh tế học vi mô là một trong các môn học thuộc khối kiến thức
cơ sở của các trường kinh tế. Môn học không chỉ cung cấp cho sinh viên
những hiểu biết cần thiết về các hoạt động kinh tế vi mô trong nền kinh tế
thị trường mà còn giúp họ bước đầu làm quen với việc tiếp cận và giải
quyết những vấn đề kinh tế hiện đại. Trước yêu cầu đổi mới đào tạo cán bộ
của Học viện Tài chính, đồng thời giúp cho sinh viên nắm vững nội dung
môn học, tập thể giáo viên môn kinh tế học vi mô đã tổ chức biên soạn
cuốn sách "Kinh tế học vi mô: Lý thuyết và thực hành". Cuốn sách đã đề
cập đến những nội dung chủ yếu về lý thuyết và bài tập thực hành của môn
học.
Cuốn sách là công trình tập thể do các giảng viên môn kinh tế học vi
mô Học viện Tài chính biên soạn. TS. Hoàng Thị Tuyết và TS. Đỗ Phi Hoài
là đồng chủ biên.
- TS. Hoàng Thị Tuyết viết chương 1 và 7;
- TS. Đỗ Phi Hoài viết chương 2 và 3;
- ThS. Nguyễn Xuân Thạch viết chương 4, 5 và 6;
- ThS. Phan Thị Tiến Bình và TS. Phạm Thị Thắng viết phần câu hỏi
và bài tập.
Với mong muốn cuốn sách thực sự hữu ích đối với sinh viên trong việc
nghiên cứu môn học, các tác giả đã cố gắng chọn lọc những nội dung lý
thuyết, câu hỏi và bài tập cơ bản nhất rút ra từ kinh nghiệm giảng dạy môn
học, đồng thời tham khảo thêm các tài liệu của các tác giả trong và ngoài
nước. Mặc dù tập thể tác giả đã hết sức cố gắng song do trình độ có hạn nên
cuốn sách không tránh khỏi có những thiếu sót. Nhà trường và tập thể tác
giả rất mong nhận được sự đóng góp quý báu của bạn đọc để lần xuất bản
sau cuốn sách được bổ sung hoàn thiện hơn.
Hà Nội, tháng 9 năm 2004
PHÒNG QUẢN LÝ KHOA HỌC
HỌC VIỆN TÀI CHÍNH


1


Chương 1
KINH TẾ HỌC VÀ NỀN KINH TẾ
1. NỀN KINH TẾ

Nền kinh tế là một cơ chế phân bổ các nguồn lực khan hiếm cho các
nhu cầu cạnh tranh nhau.
Để hiểu được một nền kinh tế hoạt động như thế nào, chúng ta phải
xem xét cách thức tổ chức của một nền kinh tế và phương thức tác động
qua lại giữa các chủ thể kinh tế với nhau trong quá trình ra quyết định.
1.1. Các chủ thể kinh tế
Trong một nền kinh tế có ba nhóm chủ thể ra quyết định về việc sử dụng
các nguồn lực khan hiếm. Đó là: Doanh nghiệp, hộ gia đình và Chính phủ.
- Hộ gia đình: Là người tiêu dùng các hàng hóa và dịch vụ được sản
xuất ra trong nền kinh tế. Đây là người quyết định số lượng hàng hóa và
dịch vụ được mua trên thị trường đầu ra. Đồng thời, hộ gia đình là người sở
hữu và cho thuê các yếu tố sản xuất trên thị trường đầu vào.
-Doanh nghiệp: Là người sản xuất ra các hàng hóa và dịch vụ cung
ứng cho nền kinh tế. Đây là người quyết định việc phân bổ các nguồn lực
để sản xuất ra các hàng hóa và dịch vụ trên thị trường đầu ra. Đồng thời là
người thuê và sử dụng các yếu tố sản xuất trên thị trường đầu vào.
- Chính phủ: Là người ban hành các quy định và luật lệ phù hợp, tạo ra
môi trường pháp lý thuận lợi cho sự hoạt động của các chủ thể kinh tế khác
trên thị trường. Bằng cách thay đổi các quy định và luật lệ, Chính phủ có thể
làm thay đổi sự lựa chọn của các doanh nghiệp và các hộ gia đình để điều
chỉnh các hoạt động kinh tế theo những mục tiêu nhất định.
1.2. Các yếu tố sản xuất
Các yếu tố sản xuất là các đầu vào dùng để sản xuất ra sản phẩm cho xã

hội. Các yếu tố sản xuất bao gồm:
Lao động (L): là khả năng sản xuất của con người. Thu nhập từ lao
động là tiền lương (w).
Đất đai (Đ): là nguồn lực tự nhiên. Thu nhập từ đất đai là tiền thuê đất (r).
Vốn (K): là phương tiện sản xuất để tạo ra sản phẩm. Thu nhập từ vốn
là tiền lãi (i).
2


1.3. Ba vấn đề kinh tế cơ bản
Một nền kinh tế muốn tồn tại và phát triển được cần phải giải quyết ba
vấn đề kinh tế cơ bản là: Sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào? Sản xuất
cho ai?
1.3.1. Sản xuất cái gì?
Quyết định sản xuất cái gì chính là quyết định sản xuất hàng hóa, dịch vụ
nào; với số lượng bao nhiêu; khi nào thì sản xuất và cung ứng ra thị trường.
Nhu cầu của xã hội về hàng hóa và dịch vụ rất phong phú, đa dạng và
ngày càng tăng về số lượng và chất lượng. Song trên thực tế, nhu cầu có
khả năng thanh toán lại có hạn. Vì vậy, để thỏa mãn nhu cầu vô hạn trong
khi khả năng thanh toán có hạn, xã hội và người tiêu dùng phải lựa chọn
nhu cầu cần thiết hơn và cần thiết nhất. Các nhu cầu này sẽ được xã hội,
người tiêu dùng ưu tiên hơn và khả năng thanh toán của các nhu cầu này sẽ
cao hơn. Tổng các nhu cầu có khả năng thanh toán của xã hội, của người
tiêu dùng chính là nhu cầu có khả năng thanh toán của thị trường. Nhu cầu
này là căn cứ, là xuất phát điểm để định hướng cho Chính phủ và các nhà
kinh doanh trong việc đưa ra các quyết định về sản xuất.
Trên thị trường, giá cả là phương tiện phát tín hiệu báo cho các nhà
kinh doanh biết cần phải sản xuất và cung ứng cái gì để có lợi nhất. Giá cả
là "bàn tay vô hình" điều khiển thị trường, điều khiển quan hệ cung cầu và
giúp người sản xuất lựa chọn quyết định sản xuất tối ưu.

1.3.2. Sản xuất như thế nào?
Quyết định sản xuất như thế nào chính là quyết định về phương pháp sản
xuất, hình thức công nghệ và cách phối hợp các đầu vào tối ưu.
Sau khi đã lựa chọn được cần sản xuất cái gì, Chính phủ và các nhà
kinh doanh phải xem xét và lựa chọn việc sản xuất như thế nào để có lợi
nhuận cao nhất. Động cơ lợi nhuận đã khuyến khích các doanh nghiệp tìm
kiếm, lựa chọn các phương pháp sản xuất có hiệu quả nhất. Để đứng vững
và cạnh tranh thắng lợi trên thị trường, các doanh nghiệp phải luôn luôn đổi
mới kỹ thuật và công nghệ, nâng cao trình độ của công nhân, trình độ quản
lý, nâng cao chất lượng sản phẩm và giữ uy tín với khách hàng.
1.3.3. Sản xuất cho ai?
Quyết định sản xuất cho ai chính là quyết định về việc phân phối thu
nhập. Cần phải xác định rõ ai sẽ được hưởng lợi từ những hàng hóa và dịch
vụ sản xuất ra.
3


Thị trường quyết định giá cả của các yếu tố sản xuất. Do đó, thị trường
cũng quyết định thu nhập của các đầu ra - thu nhập về hàng hóa, dịch vụ.
Thu nhập của xã hội, của tập thể hay của cá nhân phụ thuộc vào quyền sở
hữu và giá cả của các yếu tố sản xuất, phụ thuộc vào lượng hàng hóa và giá
cả của các hàng hóa, dịch vụ. Vấn đề mấu chốt cần giải quyết là những
hàng hóa và dịch vụ sản xuất được phân phối cho ai để vừa có thể kích
thích mạnh mẽ sự phát triển kinh tế, vừa bảo đảm sự công bằng xã hội.
Về nguyên tắc cần bảo đảm cho mọi người lao động được hưởng lợi từ
những hàng hóa và dịch vụ của doanh nghiệp đã tiêu thụ, căn cứ vào những
cống hiến của họ (cả lao động sống và lao động vật hóa) đối với quá trình
sản xuất ra những hàng hóa và dịch vụ, đồng thời cần chú ý thỏa đáng đến
những vấn đề xã hội.
Quá trình phát triển kinh tế của mỗi nước, mỗi ngành, mỗi doanh nghiệp

chính là quá trình lựa chọn để quyết định tối ưu ba vấn đề kinh tế cơ bản
trên. Song việc lựa chọn để quyết định tối ưu ba vấn đề kinh tế cơ bản còn
phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội, vào hệ thống kinh tế, vào
mức độ can thiệp của Chính phủ và chế độ chính trị - xã hội của mỗi nước.
1.4. Các mô hình kinh tế
Có ba mô hình kinh tế chủ yếu là: Mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập
trung, mô hình kinh tế thị trường và mô hình kinh tế hỗn hợp.
1.4.1. Mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung
Là mô hình kinh tế trong đó Chính phủ đưa ra mọi quyết định liên quan
đến việc phân bổ nguồn lực của xã hội.
Trong mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung việc lựa chọn ba vấn đề
kinh tế cơ bản: sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai đều
do Chính phủ quyết định.
Mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung
Quyết định của Chính phủ

Sản xuất cái gì
4

Sản xuất như thế nào

Sản xuất cho ai


Nhược điểm chủ yếu của mô hình này là : kém hiệu quả, kém linh hoạt
và thiếu động lực khuyến khích các chủ thể trong nền kinh tế.
1.4.2. Mô hình kinh tế thị trường
Là mô hình kinh tế trong đó thị trường đưa ra mọi quyết định liên quan
đến việc phân bổ nguồn lực của xã hội.
Trong mô hình kinh tế thị trường việc lựa chọn ba vấn đề kinh tế cơ

bản: sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai đều được thực
hiện thông qua hoạt động của quan hệ cung cầu và giá cả trên thị trường.
Mô hình kinh tế thị trường
PHÍA CUNG

THỊ TRƯỜNG

Người sản xuất

PHÍA CẦU

Người tiêu dùng

Kết quả
(sản xuất cái gì, như thế nào và cho ai)
Nền kinh tế thị trường tôn trọng các hoạt động của thị trường, quy luật
của sản xuất và lưu thông hàng hóa. Kinh tế thị trường là kinh tế năng động và
khách quan.
1.4.3. Mô hình kinh tế hỗn hợp
Là mô hình kinh tế kết hợp mô hình kinh tế thị trường với mô hình kinh
tế kế hoạch hóa tập trung.
Nền kinh tế hỗn hợp đòi hỏi trước hết phải phát triển các quan hệ cung
cầu, cạnh tranh, tôn trọng vai trò của thị trường, lấy lợi nhuận làm mục tiêu và
động cơ phấn đấu. Mặt khác, cũng đòi hỏi phải tăng cường vai trò và sự can
thiệp của Chính phủ để khắc phục những khuyết tật của nền kinh tế thị trường.
1.5. Sơ đồ hoạt động của nền kinh tế
Nền kinh tế thường xuyên trong trạng thái động. Các yếu tố sản xuất di
chuyển từ khu vực người tiêu dùng sang khu vực kinh doanh. Khu vực kinh
doanh sử dụng các yếu tố để sản xuất hàng hóa và dịch vụ. Để đổi lại việc
cung cấp các yếu tố sản xuất, người tiêu dùng nhận được thu nhập thông

qua lương, tiền cho thuê, tiền lãi và lợi nhuận. Nguồn thu nhập này sau đó
lại được sử dụng để mua sắm hàng hóa và dịch vụ. Các hoạt động này được
thể hiện thông qua sơ đồ hoạt động của nền kinh tế (hình 1.1).
5


Thị trường hàng
hóa, dịch vụ
Hàng hóa,
dịch vụ

Doanh nghiệp

Doanh
thu

Trợ cấp

Chi
tiêu

Chính phủ

Thuế

Lao
động,
đất đai,
vốn


Tiền
lương,
tiền
thuê,
tiền lãi

Hàng
hóa,
dịch
vụ

Lao
động,
đất
đai,
vốn

Chi
tiêu

Trợ cấp

Thuế
Tiền
Lương
lương,
, tiền
tiền
thuê,
thuê,

tiền
tiền lãi
lãi

Hàng hóa,
dịch vụ

Hộ gia đình

Lao
động,
đất đai,
vốn

Thị trường
yếu tố sản xuất

Hình 1.1: Sơ đồ hoạt động của nền kinh tế

Nền kinh tế thực thường phức tạp hơn nhiều những gì mà chúng ta đã
mô tả ở trên. Song sơ đồ này rất hữu ích trong việc hiểu và phân tích
phương thức hoạt động của một nền kinh tế.
2. KINH TẾ HỌC

2.1. Khái niệm
Kinh tế học là môn khoa học nghiên cứu phương thức xã hội phân bổ
các nguồn lực khan hiếm để sản xuất ra các hàng hóa và dịch vụ nhằm thỏa
mãn nhu cầu của các thành viên trong xã hội.
Kinh tế học là môn khoa học xã hội, môn khoa học nghiên cứu và
giải thích hành vi của con người liên quan đến sản xuất, trao đổi và sử

dụng các hàng hóa, dịch vụ.
6


Các hành vi kinh tế rất phức tạp. Vì vậy, cần phải xây dựng những lý
thuyết và mô hình kinh tế để hiểu biết và phân tích các hoạt động kinh tế.
Lý thuyết
Lý thuyết là sự diễn giải mang tính giả định những mối quan hệ giữa
các biến số mà chúng ta có thể quan sát được thông qua các quan hệ kinh tế.
Các lý thuyết được xây dựng để giải thích các hiện tượng, được kiểm định
qua các quan sát thực tế và được sử dụng để hình thành những mô hình, từ
đó có thể đưa ra các dự đoán chính xác.
Mô hình kinh tế
Mô hình mô tả mối quan hệ giữa hai hoặc nhiều biến số kinh tế. Các
nhà kinh tế thường sử dụng các mô hình kinh tế để phân tích các hoạt động
kinh tế và dự đoán sự thay đổi của một biến khi có sự thay đổi của biến kia.
Các mô hình được xây dựng trên cơ sở các giả định và thường dùng các
đồ thị và phương trình để biểu diễn. Mô hình cho phép chúng ta đơn giản
hóa thực tế để dễ dàng phân tích các vấn đề kinh tế.
Sử dụng lý thuyết và mô hình kinh tế giúp chúng ta áp dụng các kết quả
phân tích để nghiên cứu các vấn đề kinh tế cơ bản mà mỗi xã hội cần phải giải
quyết. Tuy nhiên, thế giới hiện thực không đơn giản như các mô hình được
xây dựng. Các mô hình chỉ là ước lượng. Nếu một mô hình không chính xác,
không đầy đủ hoặc nếu thế giới thực thay đổi thì cần xây dựng một mô hình
mới.
2.2. Kinh tế học thực chứng và kinh tế học chuẩn tắc
2.2.1. Kinh tế học thực chứng
Giải thích sự hoạt động của nền kinh tế một cách khách quan hoặc một
cách khoa học.
Các nhận định thực chứng thường mang tính chất mô tả và phân tích

thế giới một cách khách quan như nó vốn có. Kinh tế học thực chứng
thường trả lời cho câu hỏi "là gì" và "như thế nào"?
Ví dụ: Đánh thuế vào một loại hàng hóa thì giá của hàng hóa đó sẽ
thay đổi như thế nào?
Mục tiêu của kinh tế học thực chứng là giải thích xã hội quyết định như
thế nào về sản xuất và trao đổi hàng hóa trên cơ sở đó dự đoán nền kinh tế
sẽ phản ứng ra sao với những thay đổi của thực tế.

7


Ví dụ: Nếu đánh thuế vào một loại hàng hóa thì giá của hàng hóa đó sẽ
có xu hướng tăng lên.
2.2.2. Kinh tế học chuẩn tắc
Đưa ra các chỉ dẫn hoặc những khuyến nghị dựa trên những đánh giá,
nhận xét mang tính chủ quan cá nhân.
Kinh tế học chuẩn tắc thường mang tính khuyến nghị và khẳng định thế
giới cần phải thay đổi như thế nào. Kinh tế học chuẩn tắc thường trả lời cho
câu hỏi "nên làm cái gì" và "nên làm như thế nào"?
Ví dụ: "Cần phải đánh thuế vào thuốc lá để hạn chế hút thuốc"
Nghiên cứu kinh tế thường tiến hành từ kinh tế học thực chứng sang kinh tế
học chuẩn tắc, từ nhận thức đến cải tạo xã hội theo những mục tiêu nhất định.
2.3. Kinh tế học vi mô và kinh tế học vĩ mô
Mặc dù nghiên cứu kinh tế bao gồm rất nhiều lĩnh vực khác nhau như
thương mại quốc tế, tiền tệ và ngân hàng, lao động... nhưng lý thuyết kinh tế
cơ bản có thể được chia thành hai phân ngành lớn là: kinh tế học vi mô và
kinh tế học vĩ mô.
2.3.1. Kinh tế học vi mô
Nghiên cứu sự lựa chọn những vấn đề kinh tế cụ thể của các đơn vị kinh
tế trong nền kinh tế.

Kinh tế học vi mô nghiên cứu chi tiết các quyết định cá nhân về các
hàng hóa cụ thể. Nó giải thích vì sao các đơn vị kinh tế lại đưa ra sự lựa chọn và
làm thế nào để có được sự lựa chọn đó.
Ví dụ: Chúng ta có thể nghiên cứu tại sao người tiêu dùng lại thích xe
máy hơn xe đạp và người sản xuất quyết định như thế nào trong việc lựa
chọn sản xuất xe máy hay xe đạp.
2.3.2. Kinh tế học vĩ mô
Nghiên cứu sự lựa chọn những vấn đề kinh tế tổng thể của toàn bộ nền
kinh tế quốc dân.
Kinh tế học vĩ mô thường đơn giản hóa các vấn đề riêng biệt trong phân
tích để nhấn mạnh quá trình tương tác trong nền kinh tế trong việc quyết
định ba vấn đề kinh tế cơ bản. Kinh tế học vĩ mô tập trung phân tích việc
phân bổ nguồn lực để đạt được các mục tiêu kinh tế tổng quát cho toàn bộ
nền kinh tế như: tăng trưởng, lạm phát, thất nghiệp…
8


Ví dụ: Các nhà kinh tế học vĩ mô thường không quan tâm đến việc
phân loại hàng tiêu dùng thành xe máy, xe đạp, ti vi hay máy tính... Họ
nghiên cứu tất cả các hàng này dưới dạng một nhóm gọi là "hàng tiêu
dùng". Họ quan tâm chủ yếu đến việc nghiên cứu sự tương tác giữa quyết
định mua hàng tiêu dùng của tất cả các hộ gia đình và quyết định sản xuất
của tất cả các doanh nghiệp.
Kinh tế vi mô quan tâm đến mục tiêu hiệu quả của từng đơn vị kinh tế
Kinh tế vĩ mô quan tâm đến mục tiêu hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế
Kinh tế vi mô và kinh tế vĩ mô là những nội dung quan trọng của kinh
tế học. Chúng bổ sung và hỗ trợ cho nhau, thể hiện:
- Kết quả của kinh tế vĩ mô phụ thuộc vào các hành vi của kinh tế vi
mô. Nền kinh tế phụ thuộc vào sự phát triển của các doanh nghiệp.
- Những hành vi của kinh tế vi mô chịu ảnh hưởng của kinh tế vĩ mô.

Kinh tế vĩ mô tạo điều kiện và môi trường cho kinh tế vi mô phát triển.
Có thể coi kinh tế học vĩ mô là nghiên cứu về một khu rừng còn kinh tế
học vi mô là cây cối trong khu rừng đó.
2.4. Các đặc trưng của kinh tế học
- Kinh tế học nghiên cứu sự khan hiếm của nguồn lực
Tất cả các câu hỏi kinh tế đều phát sinh từ một thực tế đơn giản là bạn
không thể có được mọi thứ bạn muốn do có sự khan hiếm. Một nguồn lực
khan hiếm là nguồn lực mà tại điểm giá bằng không thì lượng cầu về nó lớn
hơn lượng cung sẵn có. Những nguồn lực này không có sẵn miễn phí với
khối lượng vô hạn. Do các nguồn lực khan hiếm nên xã hội phải lựa chọn
sử dụng các tài nguyên theo phương án tốt nhất. Vì vậy, khan hiếm là mẹ đẻ
của kinh tế học và kinh tế học còn được gọi là khoa học của sự lựa chọn.
- Kinh tế học nghiên cứu các hiện tượng kinh tế về mặt lượng
Trong các môn khoa học kinh tế cơ sở, môn kinh tế chính trị nghiên
cứu các hiện tượng kinh tế về mặt chất như: bản chất của các quá trình, các
quy luật, các phạm trù kinh tế. Môn kinh tế học nghiên cứu các hiện tượng
kinh tế về mặt lượng. Kinh tế học tìm cách lượng hóa các mối quan hệ kinh
tế và các quy luật kinh tế thông qua việc sử dụng các phương pháp toán học
và kết quả nghiên cứu được thể hiện thông qua các con số, phương trình và đồ
thị.
9


- Kinh tế học sử dụng giả định về tính hợp lý
Để dễ dàng phân tích các hiện tượng kinh tế, các nhà kinh tế thường
dựa trên các giả định. Các giả định làm cho thế giới thực trở nên đơn giản
và dễ hiểu hơn. Trong việc phân tích các hành vi của các chủ thể kinh tế,
cần phải sử dụng các giả định về tính hợp lý. Ví dụ các chủ thể kinh tế bao
giờ cũng lựa chọn theo cách tối ưu nhất. Người tiêu dùng luôn tìm cách tối
đa hóa lợi ích, người sản xuất luôn tìm cách tối đa hóa lợi nhuận...

- Nghiên cứu của kinh tế học mang tính toàn diện và tổng hợp
Kinh tế học đề cập đến tất cả các vấn đề liên quan đến cách thức lựa chọn
và phân bổ nguồn lực của xã hội một cách tối ưu. Vì vậy, khi xem xét các hoạt
động kinh tế phải đặt nó trong mối quan hệ với các hoạt động kinh tế khác.
- Kinh tế học nghiên cứu về các vấn đề cận biên
Trong thực tế, chúng ta thường phải cân nhắc xem có nên điều chỉnh kế
hoạch hành động hiện có hay không? Ví dụ: vào kỳ thi bạn đang học 10
tiếng một ngày. Bạn có nên học thêm một giờ nữa không hay nên nghỉ xem
tivi để cho đầu óc thoải mái. Các nhà kinh tế sử dụng thuật ngữ "thay đổi
cận biên" để chỉ những thay đổi nhỏ trong kế hoạch đang thực hiện. Từ
"cận biên" có nghĩa là "lân cận". Vì vậy, thay đổi cận biên là những thay
đổi nhỏ ở vùng lân cận của kế hoạch mà bạn đang thực hiện.
- Kết quả nghiên cứu của kinh tế học mang tính tương đối
Do các mối quan hệ kinh tế rất phức tạp, không thể xác định một cách
chính xác được các yếu tố tác động nên kết quả nghiên cứu về kinh tế chỉ
mang tính tương đối và được xác định ở mức trung bình tiên tiến.
2.5. Phương pháp nghiên cứu kinh tế học
Cũng giống như phương pháp nghiên cứu các môn học khác, môn kinh tế
học dựa trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử. Đồng
thời gắn chặt việc nghiên cứu lý luận, phương pháp luận với thực hành. Kinh
tế học nghiên cứu các tình huống kinh tế phát sinh trong thực tế để tìm ra
cách giải quyết tốt nhất. Đó chính là việc gắn nghiên cứu lý luận, với thực
tiễn sinh động, phong phú, phức tạp của các hoạt động kinh tế.
Ngoài ra, kinh tế học còn có một số phương pháp nghiên cứu riêng:
- Xây dựng các mô hình kinh tế để lượng hóa các quan hệ kinh tế
10


Vì thực tế rất phức tạp, để đơn giản hóa, các nhà kinh tế đã xây dựng
các mô hình kinh tế bằng cách chỉ chọn một số biến cơ bản. Việc đơn giản

hóa được thực hiện bằng cách đưa ra các giả định. Đơn giản hóa không có
nghĩa là không tính đến sự phức tạp của thế giới thực tế mà đó là quá trình cần
thiết để phát hiện ra thế giới thực tế đầy phức tạp.
- Phương pháp lựa chọn
Lựa chọn tối ưu các hoạt động kinh tế vi mô là vấn đề cốt lõi, xuyên suốt
của kinh tế học vi mô nên phải nắm vững phương pháp lựa chọn. Từ đó, rút
ra được tính tất yếu và xu hướng phát triển của các hoạt động kinh tế.
- Phương pháp cân bằng
Kinh tế học vi mô sử dụng chủ yếu phương pháp phân tích cân bằng bộ
phận (partial equilibrium). Theo phương pháp này, kinh tế học vi mô bỏ
qua sự tương tác của một hành vi kinh tế với toàn bộ nền kinh tế.
Kinh tế học vĩ mô sử dụng chủ yếu phương pháp phân tích cân bằng
tổng thể (general equilibrium). Theo phương pháp này, kinh tế học vĩ mô
xem xét cân bằng đồng thời của tất cả các thị trường, của các hàng hóa và
các nhân tố để xác định đồng thời giá cả và sản lượng cân bằng trong toàn
bộ nền kinh tế.
3. LỰA CHỌN KINH TẾ TỐI ƯU

3.1. Lý thuyết lựa chọn
3.1.1. Khái niệm
Lựa chọn là cách thức mà các cá nhân và các doanh nghiệp đưa ra
quyết định tối ưu về việc sử dụng các nguồn lực của họ
Lý thuyết lựa chọn tìm cách giải thích có cơ sở khoa học cho các quyết
định của cá nhân và của doanh nghiệp. Nó cố gắng giải thích tại sao họ lại
lựa chọn và cách thức của sự lựa chọn.
3.1.2. Sự cần thiết phải lựa chọn
- Sự lựa chọn là cần thiết vì nhu cầu của con người vô hạn trong khi đó
nguồn lực lại chỉ có hạn. (Nguồn lực có hạn có nghĩa là khối lượng sản
phẩm đầu ra cũng có hạn)
- Sự lựa chọn có thể thực hiện được vì một nguồn lực được sử dụng vào

nhiều mục đích khác nhau và chúng có thể thay thế được cho nhau trong
11


sản xuất hoặc trong tiêu dùng
3.1.3. Mục tiêu của sự lựa chọn
Đối với người sản xuất, việc lựa chọn nhằm mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận.
Đối với người tiêu dùng, lựa chọn để tối đa hóa lợi ích tiêu dùng. Đối với
Chính phủ, lựa chọn nhằm tối đa hóa phúc lợi xã hội.
3.1.4. Căn cứ của sự lựa chọn
Khái niệm hữu ích nhất được sử dụng trong lý thuyết lựa chọn là chi
phí cơ hội. Chi phí cơ hội là giá trị của cơ hội tốt nhất hoặc phương án kinh
doanh tốt nhất bị bỏ qua khi đưa ra một sự lựa chọn kinh tế.
Khái niệm chi phí cơ hội có ý nghĩa rất lớn về lý luận và thực tiễn.
Do các nguồn tài nguyên khan hiếm nên con người luôn phải lựa chọn
sẽ tiến hành các hoạt động nào. Khi quyết định làm một việc gì đó tức là đã
bỏ mất cơ hội để làm các việc khác.
Trong tiêu dùng: Nếu mua hàng hóa hoặc dịch vụ này thì phải từ bỏ cơ
hội để mua hàng hóa hoặc dịch vụ khác.
Trong sản xuất: Nếu sản xuất hàng hóa hoặc dịch vụ này thì phải từ bỏ
cơ hội để sản xuất hàng hóa hoặc dịch vụ khác.
Chi phí cơ hội của hàng hóa A là số lượng của hàng hóa B phải từ bỏ
do sử dụng nguồn lực để sản xuất hàng hóa A.
Trong thực tiễn: Chọn phương án này là bỏ qua cơ hội thực hiện các
phương án khác.
Ví dụ: Một sinh viên sau khi ra trường có thể làm việc cho doanh nghiệp
tư nhân hoặc làm việc cho một cơ quan nhà nước. Lựa chọn làm việc ở đâu,
sinh viên này phải bỏ qua những thứ có thể nhận được ở đơn vị kia.
Các chủ thể kinh tế khác nhau có sự khan hiếm khác nhau về các nguồn
lực. Vì vậy, khi lựa chọn người ta phải tính đến nguồn lực khan hiếm. Nó

chính là giới hạn ràng buộc, hạn chế đến khả năng lựa chọn.
Ví dụ: Một ông tổng giám đốc chọn phương tiện máy bay để đi từ Hà Nội
vào Thành phố Hồ Chí Minh trong khi một sinh viên lại lựa chọn phương
tiện là tàu hỏa.
Để minh họa cho vấn đề khan hiếm, sự lựa chọn và hiệu quả kinh tế
người ta sử dụng đường giới hạn khả năng sản xuất.
3.2. Đường giới hạn khả năng sản xuất
12


3.2.1. Nguồn lực khan hiếm
Thời gian là một trong những nguồn lực khan hiếm. Chúng ta chỉ có
một quỹ thời gian có hạn để thực hiện các công việc mà chúng ta muốn.
Giả sử những hoạt động chủ yếu của chúng ta được chia thành hai loại:
học tập và nghỉ ngơi. Với cách phân chia như vậy, chúng ta có thể biểu diễn
sự phân chia quỹ thời gian trên đồ thị như sau:
Học tập
Giờ/ngày

24

24

Nghỉ ngơi
Giờ/ngày

Hình 1.2: Thời gian là nguồn lực khan hiếm

Trên hình 1.2, đường đồ thị biểu diễn những khả năng kết hợp có thể giữa
học tập và nghỉ ngơi mà chúng ta có thể tiến hành trong quỹ thời gian của

mình (24 giờ). Một đường như vậy được gọi là đường giới hạn khả năng sản
xuất. Cụm từ "đường giới hạn" chỉ ra rằng đó là một đường biên mà chúng ta
không thể vượt quá. Thực vậy, những điểm nằm ngoài đường giới hạn là
những điểm không khả thi, để đạt được những điểm này chúng ta cần phải có
quỹ thời gian lớn hơn 24 giờ trong một ngày. Những điểm nằm bên trong
đường giới hạn được gọi là những điểm không có hiệu quả, bởi vì chúng ta
có thể đạt đến điểm này mà không cần phải sử dụng hết quỹ thời gian 24
giờ của mình.
3.2.2. Đường giới hạn khả năng sản xuất
* Khái niệm: Đường giới hạn khả năng sản xuất (PPF) chỉ ra số lượng
tối đa của hai hàng hóa có thể được sản xuất ra từ các đầu vào khác nhau
của nền kinh tế với một nguồn lực và công nghệ nhất định khi toàn bộ
nguồn lực được sử dụng một cách có hiệu quả.
Giả sử chúng ta có một khu đất nông nghiệp với một diện tích nhất định
được sử dụng chỉ để trồng cà phê và chè. Đường giới hạn khả năng sản xuất
trong trường hợp này như sau:

13


Kết hợp
A
B
C
D
E
F

Cà phê
0

1
2
3
4
5

Chè

Chè
15
14
12
9
5
0

15
14
12
9
5

1

2

3

4


5

Cà phê

Hình 1.3: Đường giới hạn khả năng sản xuất

Vì nguồn lực có hạn nên sản xuất thêm hàng hóa này có nghĩa là phải
sản xuất bớt hàng hóa khác. Chúng ta phải lựa chọn giữa các kết hợp hàng
hóa khác nhau và đường giới hạn khả năng sản xuất phản ánh sự giới hạn
mà khan hiếm nguồn lực buộc họ phải lựa chọn.
Đường giới hạn khả năng sản xuất cho biết những điểm mà tại đó xã
hội sản xuất một cách có hiệu quả.
Những điểm nằm phía trong đường giới hạn khả năng sản xuất là không
hiệu quả vì xã hội có thể tăng thêm sản lượng của một mặt hàng mà không
phải cắt bớt sản lượng của mặt hàng khác. Tại những điểm này nguồn lực bị
sử dụng lãng phí hoặc phân bổ không đúng.
Nguồn lực bị sử dụng lãng phí khi chúng nhàn rỗi trong khi chúng có
thể được đưa vào hoạt động.
Nguồn lực bị phân bổ không đúng khi chúng thực hiện những nhiệm vụ
14


không phù hợp.
Những điểm nằm ngoài đường giới hạn khả năng sản xuất là những
điểm không thể đạt được.
Như vậy, hiệu quả sản xuất chỉ xuất hiện ở những điểm nằm trên đường
giới hạn khả năng sản xuất.
Hiệu quả sản xuất đạt được khi không thể sản xuất thêm hàng hóa này
mà không phải giảm bớt sản xuất một số hàng hóa khác.
Điều đó có nghĩa là nền kinh tế đã tận dụng hết khả năng sản xuất.

Sự khan hiếm về nguồn lực buộc xã hội phải lựa chọn các điểm nằm
trên đường PPF. Bằng cách chọn như vậy, xã hội đã quyết định sẽ sản xuất
cái gì, bao nhiêu hàng hóa A, bao nhiêu hàng hóa B. Khi chọn một điểm cụ
thể trên đường PPF, xã hội cũng sẽ chọn phương án sản xuất như thế nào.
Để sản xuất được số lượng hàng của mỗi loại cần phải sử dụng bao nhiêu
yếu tố đầu vào, phải chọn công nghệ nào để tạo ra được mức sản lượng
mong muốn.
Trong việc lựa chọn các điểm hiệu quả, chúng ta gặp phải chi phí cơ
hội. Có nghĩa là tăng thêm sản lượng của một hàng hóa chỉ có thể đạt được
bằng cách hy sinh sản lượng của mặt hàng khác.
Chúng ta có thể đo lường chi phí cơ hội bằng cách sử dụng đường giới
hạn khả năng sản xuất.
Hàng hóa Y

A

YA

B

YB
XA

XB

Hàng hóa X

Hình 1.4: Đường giới hạn khả năng sản xuất phản ánh chi phí cơ hội

Nếu như chúng ta chuyển từ điểm A xuống điểm B, chúng ta phải từ bỏ

một số lượng hàng hóa Y và thay vào đó sẽ thu được một số lượng hàng hóa
X.
15


Chi phí cơ hội của hàng hóa X được đo bằng số lượng hàng hóa Y phải
từ bỏ cho một đơn vị tăng thêm của X. Chi phí cơ hội của X:
∆Y YB − YA
=
∆X X B − X A

Tương tự, trong ví dụ sản xuất chè hoặc cà phê, không phải toàn bộ khu
đất nông nghiệp phù hợp với việc sản xuất chè hoặc cà phê. Nếu như toàn
bộ diện tích đất nông nghiệp được dùng để sản xuất chè, thì có thể có một
phần khu đất không phù hợp với cây chè. Phần đất này có thể thích hợp hơn
với việc trồng cà phê. Nếu chúng ta chuyển vùng đất này sang trồng cà phê
thì việc giảm sản lượng chè sẽ ít hơn sự gia tăng sản lượng cà phê. Tuy
nhiên, nếu như chúng ta cứ tiếp tục phân bổ lại như thế, cuối cùng chúng ta
phải giảm diện tích đất phù hợp với sản xuất chè để dùng cho sản xuất cà
phê, nhưng có năng suất thấp. Lợi ích thu được khi chuyển sang trồng cà
phê không lớn nhưng sản lượng chè sẽ giảm đi rất nhiều.
Đường giới hạn sản xuất này không giống với đường giới hạn sản xuất
mô tả ở trên. Tại sao đường này lại là một đường cong lõm nếu xét từ gốc tọa
độ? Các đường PPF thường có dạng đường cong lõm vì năng suất cận biên
(sẽ được giải thích sau) của các nguồn lực sẽ thay đổi nếu như chúng ta
chuyển từ việc sản xuất mặt hàng này sang mặt hàng khác.
Những điểm nằm ngoài đường giới hạn khả năng sản xuất là những
điểm không thể đạt được. Do vậy, để tăng sản xuất một loại hàng hóa này
thì phải giảm sản xuất một loại hàng hóa khác.
Lưu ý rằng chi phí cơ hội sẽ thay đổi nếu A và B nằm ở hai điểm khác

của PPF. Cụ thể là, khi chúng ta di chuyển xuống phía dưới của PPF, chi
phí cơ hội của hàng hóa X tăng lên.
Chúng ta có thể giải thích tại sao chi phí cơ hội của hàng hóa X thay
đổi khi di chuyển dọc theo PPF. Chi phí cơ hội của hàng hóa X được biểu
diễn bằng độ dốc của đường nối điểm A và B. Khi chúng ta di chuyển
xuống phía dưới của đường cong, thì độ dốc của những đường nối trở nên
dốc hơn, chi phí cơ hội tăng lên.
Thông thường chúng ta xác định chi phí cơ hội tại một điểm trên PPF.
Tại một điểm trên PPF, chi phí cơ hội của hàng hóa X tương đương với độ
dốc của PPF tại chính điểm đó. Để có thể tính được độ dốc của đường PPF,
chúng ta có thể tính độ dốc của đường tiếp tuyến với PPF tại điểm chúng ta
cần xác định.
16


* Đặc điểm của đường giới hạn khả năng sản xuất
- Đường giới hạn khả năng sản xuất thể hiện trình độ sản xuất hiện có.
- Đường giới hạn khả năng sản xuất biểu hiện hiệu quả tối đa của việc
phân bổ nguồn lực. Nghĩa là nguồn lực được tận dụng bằng hết cho việc sản
xuất hai mặt hàng hoặc cho hai hoạt động kinh tế.
- Trên đường giới hạn khả năng sản xuất ta có thể tính được chi phí cơ
hội của việc sản xuất mặt hàng này bằng số đơn vị mặt hàng kia phải hy sinh.
- Đường giới hạn khả năng sản xuất có thể sử dụng để mô tả tăng trưởng
kinh tế. Các động lực của tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng về lực lượng lao
động, vốn và công nghệ mới.
3.3. Ảnh hưởng của các quy luật kinh tế đối với sự lựa chọn kinh tế
tối ưu
3.3.1. Tác động của quy luật khan hiếm
Sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và cho ai, sẽ không trở thành vấn đề
nếu nguồn lực không bị hạn chế. Nếu có thể sản xuất một số lượng vô hạn về

hàng hóa, dịch vụ hoặc nếu thỏa mãn được đầy đủ mọi nhu cầu của con người
thì không cần đến việc kết hợp lao động, máy móc thiết bị và nguyên vật liệu
một cách tối ưu. Nhưng thực tế lại không như vậy, mọi hàng hóa đều không
cho không, vì nguồn lực bị hạn chế, tài nguyên ngày một khan hiếm và cạn
kiệt. Nhu cầu của người tiêu dùng ngày càng tăng, càng đa dạng và phong phú,
nhất là về chất lượng hàng hóa và dịch vụ. Song tài nguyên để thỏa mãn
nhu cầu trên lại có hạn, ngày một khan hiếm và cạn kiệt. Do vậy, vấn đề lựa
chọn kinh tế tối ưu ngày càng phải đặt ra một cách nghiêm túc, gay gắt và
thực hiện rất khó khăn. Đó là đòi hỏi tất yếu của nhu cầu ngày một tăng và
tài nguyên ngày một khan hiếm. Các doanh nghiệp phải lựa chọn những vấn
đề kinh tế cơ bản của mình trong giới hạn cho phép của khả năng sản xuất
hiện có mà xã hội đã phân phối cho.
3.3.2. Tác động của quy luật hiệu suất giảm dần
Chúng ta có thể sử dụng đường giới hạn khả năng sản xuất để minh họa
một trong những mối quan hệ kinh tế quan trọng nhất: quy luật hiệu suất
giảm dần. Quy luật này nói lên mối liên hệ, không phải là giữa hai loại hàng
hóa (thiết bị cơ bản và hàng tiêu dùng) mà là giữa đầu vào của quá trình sản
xuất (như lao động) và đầu ra mà nó góp phần sản xuất ra.
17


Quy luật hiệu suất giảm dần đề cập khối lượng đầu ra có thêm ngày
càng giảm, khi ta liên tiếp đưa vào những đơn vị bằng nhau của một đầu
vào biến đổi (như lao động) với một số lượng cố định của một đầu vào khác
(như đất đai). Ví dụ, một trang trại trồng chè, nếu một lao động bỏ vào đó
tạo ra sản lượng 2.000 kg chè; khi tăng thêm một lao động nữa thì sản
lượng đạt 3.000 kg, liên tiếp tăng thêm một lao động nữa thì sản lượng đạt
3.500 kg chè,... Như vậy tăng thêm một lao động thì sản lượng tăng lên
1.000 kg chè, nhưng tăng thêm một người lao động nữa thì sản lượng chỉ
tăng lên có 500 kg chè. Đơn vị đầu vào thứ hai (lao động) tăng lên sẽ làm

tăng thêm đầu ra, nhưng sự tăng lên đầu ra này ít hơn đơn vị lao động thứ
nhất. Nếu tăng thêm người lao động thứ ba thì đầu ra sẽ tăng lên ít hơn.
3.3.3. Tác động của quy luật chi phí cơ hội tăng dần
Nếu đường giới hạn năng lực sản xuất là một đường thẳng thì chi phí cơ
hội để có thêm mặt hàng này khi từ bỏ mặt hàng kia sẽ không đổi. Đây là
trường hợp chi phí cơ hội không thay đổi.
Khi quy luật chi phí cơ hội ngày càng tăng phát huy tác dụng, nếu
muốn có thêm một số lượng bằng nhau về một mặt hàng, xã hội phải hy
sinh ngày càng nhiều số lượng một mặt hàng khác. Đường cong lõm của
đường giới hạn khả năng sản xuất biểu thị quy luật chi phí cơ hội ngày càng
tăng.
Chúng ta thấy quy luật chi phí cơ hội ngày càng tăng có quan hệ với
quy luật hiệu suất giảm dần, nhưng không phải là một. Chúng ta nhận thấy
rằng cùng với quy luật hiệu suất giảm dần, sản xuất thiết bị cơ bản và hàng
tiêu dùng phải sử dụng các yếu tố sản xuất (như lao động, thiết bị, đất đai...)
theo những tỷ lệ khác nhau, nếu quy luật chi phí cơ hội ngày càng tăng là
đúng. Chẳng hạn, để sản xuất lương thực cần đất đai và lao động, còn để sản
xuất vải cần lao động còn đất đai không đáng kể. Vì vậy, giả sử đất đai là cố
định, ta giả định hy sinh lượng hàng hóa công nghiệp (vải) để đưa lao động
sang sản xuất lương thực trên diện tích đất đai cố định. Tình huống này cho ta
thấy rằng quy luật hiệu suất giảm dần phát huy tác dụng. Như vậy, mỗi lao
động càng có ít diện tích sản xuất và do đó đem lại ít sản phẩm và một đơn
vị lương thực phải trả một lượng chi phí ngày càng cao tính về mặt hy sinh
sản xuất vải.
CÂU HỎI ÔN TẬP
18


I. Những nhận định sau đây đúng hay sai? Tại sao?
1. Tất cả các xã hội và trong mọi giai đoạn phát triển đều phải giải quyết

ba vấn đề kinh tế cơ bản: sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản
xuất cho ai.
2. Một người nghèo thì cần phải lựa chọn giữa thực phẩm và hàng tiêu
dùng, còn một người giàu thì không cần phải lựa chọn như vậy.
3. Áp dụng công nghệ hiện đại sẽ đẩy đường giới hạn khả năng sản xuất
(PPF) ra phía ngoài.
4. Một nền kinh tế tăng trưởng nhanh có đường giới hạn khả năng sản xuất
cao hơn, và một nền kinh tế tăng trưởng chậm có đường giới hạn khả
năng sản xuất thấp hơn.
5. Hiệu quả kỹ thuật quan trọng hơn hiệu quả kinh tế, vì hiệu quả kỹ thuật
quan tâm đến việc đạt được sản lượng tối đa từ một mức đầu vào nhất
định.
6. Do có tình trạng khan hiếm nên các chủ thể kinh tế buộc phải có sự lựa
chọn.
7. Để tăng thêm số lượng bằng nhau của một loại hàng hóa nào đó thì xã
hội phải từ bỏ một lượng ngày càng tăng của các hàng hóa khác.
8. Mở rộng khả năng sản xuất của một nền kinh tế sẽ được thể hiện ở sự
dịch chuyển "ra phía ngoài" của đường giới hạn khả năng sản xuất.
9. Hệ thống giá là yếu tố quyết định đối với "sản xuất cái gì, sản xuất như
thế nào và sản xuất cho ai" trong nền kinh tế thị trường
10. Một nền kinh tế không có thất nghiệp sẽ không sản xuất ở mức sản
lượng nằm trên đường giới hạn khả năng sản xuất.
II. Chọn câu trả lời đúng nhất
1. Đường giới hạn khả năng sản xuất có thể giải thích được:
a. Ba vấn đề kinh tế cơ bản: sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản
xuất cho ai.
b. Sự thay đổi công nghệ và kỹ thuật.
c. Khái niệm về " chi phí cơ hội".
d. Nền kinh tế tăng trưởng nhanh hoặc chậm.
e. Tất cả các câu trên đều đúng.

2. Cơ sở của lý thuyết lựa chọn là:
19


3.

4.

5.

6.

20

a. Hiệu quả kỹ thuật
b. Hiệu quả kinh tế.
c. Chi phí cơ hội.
d. Câu b và c
e. Không câu nào đúng
Một trong những vấn đề quan tâm của kinh tế học vi mô là:
a. Tỷ lệ thất nghiệp đã tăng đột ngột vào đầu những năm 1980 ở nước
Anh
b. Lãi suất cao trong nền kinh tế có thể làm giảm tổng mức đầu tư.
c. Tăng thu nhập có thể được phản ánh ở mức chi tiêu cao hơn của
người tiêu dùng.
d. Thất nghiệp trong lực lượng lao động của ngành công nghiệp đã tăng
nhanh vào những năm 1981.
e. Năm nay mức GNP của nước Anh cao hơn năm 1981.
Một trong những vấn đề quan tâm của kinh tế học vĩ mô là:
a. Đánh thuế cao vào mặt hàng thuốc lá sẽ hạn chế hút thuốc lá.

b. Người công nhân nhận được lương cao hơn có thể mua được nhiều
hàng xa xỉ hơn.
c. Một hãng sẽ đầu tư vào máy móc nếu tỷ lệ lợi tức dự tính đủ cao.
d. Tỷ lệ lạm phát cao sẽ làm cho nền kinh tế tăng trưởng chậm
e. Doanh nghiệp sẽ thuê tăng số lượng lao động nếu giá sản phẩm của
doanh nghiệp tăng lên
Một lý thuyết hay một mô hình kinh tế là:
a. Phương trình toán học
b. Sự dự đoán về tương lai của một nền kinh tế
c. Cải cách kinh tế được khuyến nghị trong chính sách của Chính phủ
nhấn mạnh đến các quy luật kinh tế
d. Tập hợp các giả định và kết luận rút ra từ các giả định này
e. Tất cả các câu trên đều đúng
Sự lựa chọn của một cá nhân và một hãng bị giới hạn bởi:
a. Ràng buộc về thời gian
b. Ràng buộc về kỹ thuật sản xuất
c. Ràng buộc về ngân sách


d. Ràng buộc về sở thích
e. Tất cả các câu trên đều đúng
7. Hoa bỏ ra hai giờ để đi mua sắm và mua được một đôi giày với giá
50.000đ, chi phí cơ hội của đôi giày là:
a. Hai giờ
b. 50.000đ
c. Hai giờ cộng 50.000đ
d. Phương án sử dụng thay thế tốt nhất của hai giờ và 50.000đ đó.
e. Không câu nào đúng
8. Quy luật chi phí cơ hội tăng dần được giải thích tốt nhất bằng:
a. Sự khan hiếm của các nguồn tài nguyên

b. Hiệu suất giảm dần của quá trình sản xuất
c. Lạm phát
d. Đường giới hạn khả năng sản xuất có dạng đường thẳng.
e. Tất cả các câu trên đều đúng
9. Hình bên mô tả đường giới hạn khả năng sản xuất về hai hàng hóa là
hàng tiêu dùng và hàng tư liệu sản xuất, ý nghĩa nào của các điểm A và
B là đúng:
a. Điểm A phản ánh nhu cầu hàng tiêu dùng,
Hàng tư liệu sản xuất
còn điểm B phản ánh nhu cầu hàng tư
liệu sản xuất.
A
b. Chúng mô tả các tổ hợp sản lượng tối đa
B
của hàng tiêu dùng và hàng tư liệu sản
xuất mà nền kinh tế này có thể tạo ra được.
c. Điểm A mô tả sản lượng tối đa về hàng
tiêu dùng còn điểm B mô tả sản lượng tối
Hàng tiêu
đa về hàng tư liệu sản xuất.
dùng
d. Điểm A mô tả sản lượng tối đa về hàng tư liệu sản xuất còn điểm B
mô tả sản lượng tối đa về hàng tiêu dùng.
e. Điểm A phản ánh khả năng cung ứng hàng tiêu dùng, còn điểm B
phản ánh khả năng cung ứng hàng tư liệu sản xuất.
10. Giá thị trường
a. Phản ánh sự khan hiếm nguồn lực
b. Truyền thông tin kinh tế
21



c. Tạo động lực cho các chủ thể kinh tế trên thị trường
d. Hướng dẫn sử dụng nguồn lực một cách có hiệu quả
e. Tất cả các câu trên đều đúng
BÀI TẬP
1. Cho biểu giới hạn khả năng sản xuất sau:
Khả năng
A
B
C
D
E
F

Máy móc
0
1
2
3
4
5

Thực phẩm
20
19
16
12
7
0


a. Vẽ đường giới hạn khả năng sản xuất.
b. Tính chi phí cơ hội của việc sản xuất 1, 2, 3, 4, 5 đơn vị máy móc
c. Tính chi phí cơ hội của việc sản xuất đơn vị máy móc thứ nhất, thứ
hai, thứ ba, thứ tư, thứ năm.
d. Tại sao có sự khác nhau giữa các chi phí cơ hội tính được ở câu c?
e. Giả sử tài nguyên sẵn có tăng lên, điều gì xảy ra với đường giới hạn
khả năng sản xuất?
2. Có biểu sau đây mô tả sự đánh đổi giữa số sinh viên được đào tạo ở các
trường đại học mỗi năm và số các dự án về xây dựng cơ sở hạ tầng được
thực hiện.
Số sinh viên
(triệu/năm)

0

2

4

6

8

Số dự án về xây dựng
cơ sở hạ tầng

30

25


19

11

0

22


a. Hãy vẽ đường giới hạn khả năng sản xuất biểu thị sự đánh đổi giữa
số sinh viên được đào tạo và số dự án về xây dựng cơ sở hạ tầng
được thực hiện.
b. Hãy tính và minh họa trên đường giới hạn khả năng sản xuất chi phí cơ
hội của việc đào tạo 2 triệu, 4 triệu, 6 triệu và 8 triệu sinh viên mỗi năm.
c. Tại sao chi phí cơ hội thay đổi?

23


Chương 2
CUNG VÀ CẦU
Xã hội phải tìm ra cách thức để giải quyết các vấn đề: Sản xuất cái gì?
Sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai? Kinh tế thị trường cho thấy, thị
trường và giá cả là căn cứ để phân bổ nguồn lực khan hiếm cho các yêu cầu
sử dụng mang tính cạnh tranh. Chương này sẽ nghiên cứu thị trường chi tiết
hơn với những vấn đề rất quan trọng đối với phân tích kinh tế.
I. CẦU

1.1. Khái niệm
Cầu là số lượng hàng hóa mà người mua có khả năng và sẵn sàng mua ở

mỗi mức giá khác nhau trong một thời gian nhất định.
Cầu khác nhu cầu: Nhu cầu là những mong muốn và nguyện vọng vô hạn
của con người. Sự khan hiếm làm cho hầu hết các nhu cầu không được thỏa
mãn. Hoặc thỏa mãn nhu cầu này thì người ta lại hướng tới nhu cầu khác.
Cầu bao gồm hai yếu tố là khả năng và sự sẵn sàng. Nếu bạn rất thích
có một chiếc xe máy Dream II nhưng bạn không có tiền để mua, cầu của
bạn về chiếc xe này bằng không. Trong khi người khác có tiền để mua chiếc
xe này song anh ta lại không thích nó nên cũng không mua và cầu của
người này đối với xe máy Dream II bằng không.
Lượng cầu là lượng hàng hóa và dịch vụ mà người mua sẵn sàng hoặc
có khả năng mua ở mức giá đã cho trong một thời gian nhất định.
Như vậy, cầu là toàn bộ mối quan hệ giữa lượng cầu và giá.
1.2. Cầu cá nhân và cầu thị trường
Cầu của mỗi người tiêu dùng đối với một loại hàng hóa hay dịch vụ nào
đó là cầu cá nhân. Cầu của tất cả người tiêu dùng về hàng hóa hay dịch vụ
là cầu thị trường. Cầu thị trường là tổng hợp của tất cả cầu cá nhân.
Biểu cầu cho thấy: Tương ứng với mỗi mức giá là một lượng cầu nhất định.
Ví dụ: Cầu thị trường về xe máy Dream II ở thành phố Hà Nội như sau:
24


Giá (triệu đồng/chiếc)

Lượng cầu (chiếc/tuần)

30

100

25


200

20

300

15

400

10

500

Đường cầu là đường biểu diễn mối quan hệ giữa lượng cầu và mức giá.
Các đường cầu nghiêng xuống dưới về phía phải. Khi giá cả của hàng hóa hoặc
dịch vụ giảm thì lượng cầu tăng lên. Mối quan hệ này được gọi là luật cầu.
Luật cầu: Số lượng hàng hóa hoặc
dịch vụ được yêu cầu trong khoảng
thời gian đã cho tăng lên khi giá của
nó giảm xuống.
Khi giá của một hàng hóa nào đó
cao lên, người tiêu dùng sẽ tìm mua
hàng hóa khác thay thế làm cho lượng
cầu về hàng hóa này giảm.
Mối quan hệ giữa lượng cầu và
mức giá là mối quan hệ hàm số:

Q DX = f (Px )


Hàm cầu:

P
30
25
20
15
10

D
100 200 300 400 500 Q

Hình 2.1: Đường cầu về xe máy
Dream II

Trong đó: Q DX : lượng cầu về hàng X
PX: giá hàng X
Một cách khác, hàm cầu được mô tả là một phương trình mà biến số có thể
là giá hoặc là lượng cầu. Phương trình đường cầu được viết là
QD = a0 - a1.P

(1)

D

Trong đó: Q : lượng cầu
P: giá cả
a0: Hệ số biểu thị lượng cầu khi giá bằng 0.
a1: Hệ số biểu thị mối quan hệ giữa giá và lượng cầu.

25


×