Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Vai trò của thành phần kinh tế nhà nước trong xây dưng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.89 KB, 25 trang )

Mục lục
Lời mở đầu
Phần I: Những lý luận chung về vai trò của thành phần kinh tế nhà
nước trong xây dưng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
1.1

Kinh tế thị trường

1.2

Kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

1.3

Khái niệm thành phần kinh tế nhà nước

1.4

Vai trò của thành phần kinh tế nhà nước

Phần II: Thực trạng hoạt động của thành phần kinh tế nhà nước
2.1 Vận dụng dường lối của Đảng vào thành phần kinh tế nhà nước
trong xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa hiện nay
2.2 Những thành tựu
2.3 Những tồn tại và yếu kém
2.4 Giải pháp tăng cường vai trò của thành phần kinh tế nhà nước
Phần III: Kết luận
Tài liệu tham khảo



Đề tài thảo luận: Vai trò của thành phần kinh tế nhà nước trong xây dưng và phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
Lời mở đầu
Việt Nam chính thức khởi xướng công cuộc đổi mới kinh tế từ năm 1986, kể từ đó
đến nay Việt Nam đã có nhiều thay đổi to lớn. Trong đó vai trò dẫn dắt, chủ đạo,
điều tiết của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần của kinh tế Nhà nước luôn
được Đảng quan tâm, coi trọng giúp Việt Nam giảm nhanh được tình trạng nghèo
đói, bước đầu xây dựng nền kinh tế công nghiệp hóa, đạt được tốc độ tăng trưởng
kinh tế cao đi đôi với sự công bằng tương đối trong xã hội. Để phát triển nền kinh
tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong Nghị quyết Đại hội X
(4/2006) đã khẳng định chủ trương nhất thiết phát triển kinh tế nhiều thành phần,
các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác,
cùng cạnh tranh lành mạnh trong đó thành phần kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ
đạo và quyết định, kinh tế Nhà nước cùng kinh tế tập thể trở thành cơ sở vững chắc
của nền kinh tế quốc dân và một lần nữa nhấn mạnh nhiệm vụ “Tiếp tục đổi mới và
phát triển kinh tế Nhà nước để thực hiện tốt vai trò chủ đạo của nền kinh tế”. Có
như vậy mới phát huy được đặc điểm của kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới
WTO. Vậy làm thế nào để Việt Nam có thể hội nhập vào nền kinh tế thế giới với
những cơ hội và thách thức mới? Các thành phần kinh tế nhà nước nói riêng đã
thúc đầy tiến trình hội nhập ra sao? Thành phần kinh tế nhà nước có vai trò như thế
nào trong nền kinh tế hiện nay? Để trả lời cho những câu hỏi trên đây chúng e đã
nghiên cứu đề tài này và sau đây là phần trình bày của chúng em.


Phần I: Những lý luận chung về vai trò của thành phần kinh tế nhà nước
trong xây dưng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
1.1 Kinh tế thị trường.

Lịch sử nhân loại đã chứng kiến nhiều mô hình kinh tế khác nhau.
Mỗi mô hình đó là sản phẩm của trình độ nhận thức nhất định trong những
điều kiện lịch sử cụ thể. Song hiện nay, mô hình kinh tế thị trường là một
mô hình kinh tế phổ biến và có hiệu quả nhất trong việc phát triển kinh tế
của hầu hết tất cả các quốc gia trên thế giới. Mô hình này không chỉ được áp
dụng ở các nước tư bản chủ nghĩa, mà còn được áp dụng ở các nước đi theo
con đường xã hội chủ nghĩa. Nó được vận dụng ở các nước phát triển và cả
ở các nước đang phát triển. Việt Nam cũng mới sử dụng mô hình kinh tế này
được khoảng hơn 15 năm nay. Vậy kinh tế thị trường là gì?
Theo C. Mác, kinh tế thị trường là một giai đoạn phát triển tất yếu của lịch sử mà
bất cứ nền kinh tế nào cũng phải trải qua để đạt tới nấc thang cao hơn trên con
đường phát triển và nền kinh tế tư bản chủ nghĩa chính là nền kinh tế thị trường
phát triển đến trình độ phổ biến và hoàn chỉnh. Nấc thang cao hơn chính là nền
kinh tế cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là nền kinh tếxã hội chủ nghĩa. Để
chuyển lên nấc thang này, nền kinh tế thị trường phải phát triển hết mức, phải trở
thành phổ biến trong đời sống kinh tế - xã hội. Hay nói cách khác “Kinh tế thị
trường là trình độ cao hơn của kinh tế hàng hóa, trong đó yếu tố đầu vào và đầu
ra đều thông qua trị trường”
Ngoài ra khi nói về khái niệm về kinh tế thị trường thì chúng ta còn có thêm hai
quan điểm khác nhau nữa được đưa ra trong hội thảo về "kinh tế thị trường và định
hướng xã hội chủ nghĩa" do hội đồng lý luận trung ưng tổ
chức:
-

Một là, xem "Kinh tế thị trường là phương thức vận hành kinh tế lấy
thị trường hình thành do trao đổi và lưu thông hàng hóa làm người phân
phối các nguồn lực chủ yếu; lấy lợi ích vật chất, cung cầu thị trường và mua
bán giữa hai bên làm cơ chế khuyến khích hoạt động kinh tế. Nó là phương
thức tổ chức vận hành kinh tế - xã hội, không tốt mà cũng không xấu. Tốt



-

hay xấu là do người sử dụng nó. Theo quan điểm này, kinh tế thị trường là
vật "trung tính", là "công nghệ sản xuất" ai sử dụng cũng được
Hai là, xem "Kinh tế thị trường " là một loại kinh tế - xã hội - chính
trị, nó in đậm dấu ấn của lực lượng xã hội làm chủ thị trường. Kinh tế thị
trường là một phạm trù hoạt động, có chủ thể của quá trình hoạt động đó, có
sự tác động lẫn nhau của các chủ thể hoạt động. Trong xã hội có giai cấp,
chủ thể hoạt động trong kinh tế thị trường không chỉ phải cá nhân riêng lẻ,
đó còn là những tập đoàn xã hội, những giai cấp. Sự tác động qua lại của các
chủ thể hoạt động đó có thể có lợi cho người này, tầng lớp hay giai cấp này;
có hại cho tầng lớp, giai cấp khác.

Trong nền kinh tế thị trường, nếu lượng cầu hàng hóa cao hơn lượng cung, thì giá
cả hàng hóa sẽ tăng lên, mức lợi nhuận cũng tăng khuyến khích người sản xuất
tăng lượng cung. Người sản xuất nào có cơ chế sản xuất hiệu quả hơn, thì cũng có
tỷ suất lợi nhuậncao hơn cho phép tăng quy mô sản xuất, và do đó các nguồn lực
sản xuất sẽ chảy về phía những người sản xuất hiệu quả. Những người sản xuất có
cơ chế sản xuất kém hiệu quả sẽ có tỷ suất lợi nhuận thấp, khả năng mua nguồn lực
sản xuất thấp, sức cạnh tranh kém sẽ bị đào thải.
Cơ chế phân bổ nguồn lực trong nền kinh tế thị trường có thể dẫn tới bất bình
đẳng. Đấy là chưa kể vấn đề thông tin không hoàn hảo có thể dẫn tới việc phân bổ
nguồn lực không hiệu quả. Do một số nguyên nhân, giá cả có thể không linh hoạt
trong các khoảng thời gian ngắn hạn khiến cho việc điều chỉnh cung cầu không
suôn sẻ, dẫn tới khoảng cách giữa tổng cung và tổng cầu. Đây là nguyên nhân của
các hiện tượng thất nghiệp, lạm phát.
Trong thực tế hiện nay, không có một nền kinh tế thị trường hoàn hảo, cũng như
không có nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung hoàn toàn (trừ nền kinh tế Bắc Triều
Tiên). Thay vào đó là nền kinh tế hỗn hợp. Tùy ở mỗi nước mà các yếu tố thị

trường nhiều hay ít.Trong thương mại quốc tế, mức độ thị trường hóa nền kinh tế
có thể được sử dụng làm tiêu chí trong xác định điều kiện thương mại.
1.2 Kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.


Khái niệm

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là tên gọi một cơ chế quản lý kinh
tế được Đảng Cộng sản Việt Nam tạo ra và triển khai tại Việt Nam từ thập niên


1990 cho đến nay. Việc áp dụng cơ chế này cũng được ghi vào Hiến pháp Việt
Nam mới nhất.
Cho đến nay, chính Đảng Cộng sản Việt Nam cũng thừa nhận rằng chưa có nhận
thức rõ, cụ thể và đầy đủ về thế nào là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa mà chỉ có giải thích nguyên lý chung rằng, đó là một nền kinh tế vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý chặt chẽ của nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Nguyên nhân của tình trạng này là hệ thống kinh tế này là hoàn toàn mới,
chưa có tiền lệ trong lịch sử Thêm vào đó, công tác lý luận ở Việt Nam về hệ thống
kinh tế này còn chưa theo kịp thực tiễn. Gần 20 năm theo đuổi chủ trương xây
dựng hệ thống kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhưng các thể chế
cho hệ thống này hoạt động vẫn chưa có đầy đủ. Đến hội nghị lần thứ 6 của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa X, Đảng mới ra nghị quyết
số 21-NQ/TW ngày 30 tháng 1 năm 2008 về tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tới ngày 23 tháng 9 năm 2008, Chính phủ
Việt Nam mới có nghị quyết số 22/2008/NQ-CP ban hành Chương trình hành động
của Chính phủ để thực hiện nghị quyết 21-NQ/TW.



Các đặc trưng:

Hệ thống kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có các đặc trưng sau:


Là một nền kinh tế hỗn hợp, nghĩa là vừa vận hành theo cơ chế thị trường,
vừa có sự điều tiết của nhà nước. Các quy luật khách quan của nền kinh tế thị
trường được tôn trọng, các mạch máu kinh tế và các ngành trọng yếu (khai mỏ,
ngân hàng, quốc phòng...) được nhà nước quản lý. Các thông lệ quốc tế trong
quản lý và điều hành kinh tế được vận dụng một cách hợp lý. Nền kinh tế chịu
sự chi phối của các quy luật kinh tế xã hội chủ nghĩa.



Là một nền kinh tế đa dạng các hình thức sở hữu, nhưng khu vực kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, kinh tế nhà nước và kinh tế tập
thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế. Đất đai thuộc sở
hữu toàn dân.



Là nền kinh tế phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững và chủ động hội nhập
kinh tế thành công.




Việc phân phối được thực hiện chủ yếu theo kết quả lao động và theo hiệu
quả kinh tế, đồng thời theo cả mức đóng gópvốn. Chú trọng phân phối
lại qua phúc lợi xã hội. Việc phân bổ các nguồn lực vừa được tiến hành theo

hướng nâng cao hiệu quả, vừa theo hướng giúp thu hẹp khoảng cách phát triển
giữa các địa phương. Phát triển kinh tế gắn với tiến bộ, công bằng xã hội; công
bằng xã hội được chú ý trong từng bước, từng chính sách phát triển.
Phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi trường.




Các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, nghề nghiệp và nhân dân được
khuyến khích tham gia vào quá trình phát triển kinh tế.
∗ Sự cần thiết khách quan phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam
-

Sự cần thiết khách quan

Kinh tế hàng hoá là một kiểu tổ chức kinh tế - xã hội, mà trong đó sản phẩm sản
xuất ra để trao đổi, để bán trên thị trường. Mục đích của sản xuất trong kinh tế
hàng hoá không phải để thoả mãn nhu cầu trực tiếp của người sản xuất ra sản phẩm
mà nhằm để bán, tức là để thoả mãn nhu cầu của người mua đáp ứng nhu cầu của
xã hội.
Kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hoá, trong đó toàn bộ
các yếu tố "đầu vào" và "đầu ra" của sản xuất đều thông qua thị trường. Kinh tế
hàng hoá và kinh tế thị trường không đồng nhất với nhau, chúng khác nhau về trình
độ phát triển. Về cơ bản chúng có cùng nguồn gốc và cùng bản chất.
Theo C.Mác, sản xuất và lưu thông hàng hoá là hiện tượng vốn có của nhiều hình
thái kinh tế - xã hội. Những điều kiện ra đời và tồn tại của kinh tế hàng hoá cũng
như các trình độ phát triển của nó do sự phát triển của lực lượng sản xuất tạo ra.
-

Cơ sở khách quan của sự tồn tại và phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam.


+ Phân công lao động xã hội với tính cách là cơ sở chung của sản xuất hàng hoá
chẳng những không mất đi, mà trái lại còn được phát triển cả về chiều rộng và
chiều sâu. Phân công lao động trong từng khu vực, từng địa phương cũng ngày
càng phát triển. Sự phát triển của phân công lao động được thể hiện ở tính phong
phú, đa dạng và chất lượng ngày càng cao của sản phẩm đưa ra trao đổi trên thị
trường.


+ Trong nền kinh tế nước ta, tồn tại nhiều hình thức sở hữu, đó là sở hữu toàn dân,
sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân (gồm sở hữu cá thể, sở hữu tiểu chủ, sở hữu tư bản
tư nhân), sở hữu hỗn hợp. Do đó, tồn tại nhiều chủ thể kinh tế độc lập, lợi ích
riêng, nên quan hệ kinh tế giữa họ chỉ có thể thực hiện bằng quan hệ hàng hoá tiền tệ.
+ Thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, tuy cùng dựa trên chế độ công
hữu về tư liệu sản xuất, nhưng các đơn vị kinh tế vẫn có sự khác biệt nhất định, có
quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh, có lợi ích riêng. Mặt khác, các đơn vị
kinh tế còn có sự khác nhau về trình độ kỹ thuật - công nghệ, về trình độ tổ chức
quản lý, nên chi phí sản xuất và hiệu quả sản xuất cũng khác nhau.
+ Quan hệ hàng hoá - tiền tệ còn cần thiết trong quan hệ kinh tế đối ngoại, đặc biệt
trong điều kiện phân công lao động quốc tế đang phát triển ngày càng sâu sắc, vì
mỗi nước là một quốc gia riêng biệt, là người chủ sở hữu đối với các hàng hoá đưa
ra trao đổi trên thị trường thế giới. Sự trao đổi ở đây phải theo nguyên tắc ngang
giá.
Như vậy, khi kinh tế thị trường ở nước ta là một tồn tại tất yếu, khách quan, thì
không thể lấy ý chí chủ quan mà xoá bỏ nó được.
-

Tác động to lớn của nền kinh tế thị trường

Nền kinh tế nước ta khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn mang

nặng tính tự túc tự cấp, vì vậy sản xuất hàng hoá phát triển sẽ phá vỡ dần kinh tế tự
nhiên và chuyển thành nền kinh tế hàng hoá, thúc đẩy sự xã hội hoá sản xuất.
Kinh tế hàng hoá tạo ra động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Do cạnh
tranh giữa những người sản xuất hàng hoá, buộc mỗi chủ thể sản xuất phải cải tiến
kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới vào sản xuất để giảm chi phí sản xuất đến mức tối
thiểu nhờ đó có thể cạnh tranh được về giá cả, đứng vững trong cạnh tranh. Quá
trình đó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, nâng cao năng suất lao động xã hội.
Trong nền kinh tế hàng hoá, người sản xuất phải căn cứ vào nhu cầu của người tiêu
dùng, của thị trường để quyết định sản xuất sản phẩm gì, với khối lượng bao nhiêu,
chất lượng như thế nào. Do đó kinh tế hàng hoá kích thích tính năng động, sáng tạo
của chủ thể kinh tế, kích thích việc nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã, cũng như
tăng khối lượng hàng hoá và dịch vụ.
Phân công lao động xã hội là điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hoá, đến
lượt nó sự phát triển kinh tế hàng hoá sẽ thúc đẩy sự phân công lao động xã hội và


chuyên môn hoá sản xuất. Vì thế phát huy được tiềm năng, lợi thế của từng vùng,
cũng như lợi thế của đất nước có tác dụng mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài.
Sự phát triển của kinh tế thị trường sẽ thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản
xuất, do đó tạo điều kiện ra đời của sản xuất lớn, xã hội hoá cao; đồng thời chọn
lọc được những người sản xuất, kinh doanh giỏi, hình thành đội ngũ cán bộ quản lý
có trình độ, lao động lành nghề, đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước.
Như vậy, phát triển kinh tế thị trường là một tất yếu kinh tế đối với nước ta, một
nhiệm vụ kinh tế cấp bách để chuyển nền kinh tế lạc hậu của nước ta thành nền
kinh tế hiện đại, hội nhập vào sự phân công lao động quốc tế. Đó là con đường
đúng đắn để phát triển lực lượng sản xuất, khai thác có hiệu quả tiềm năng của đất
nước vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Thực tiễn những năm đổi mới đã chứng minh rằng, việc chuyển sang nền kinh tế
thị trường nhiều thành phần là hoàn toàn đúng đắn. Nhờ phát triển nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần, chúng ta đã bước đầu khai thác được tiềm năng trong nước

và thu hút được vốn, kỹ thuật, công nghệ của nước ngoài, giải phóng được năng
lực sản xuất, góp phần quyết định vào việc bảo đảm tăng trưởng kinh tế với nhịp
độ tương đối cao trong thời gian qua.
Trình độ phát triển của kinh tế thị trường có liên quan mật thiết với các giai đoạn
phát triển của lực lượng sản xuất. Về đại thể, kinh tế hàng hoá phát triển qua ba
giai đoạn tương ứng với ba giai đoạn phát triển của lực lượng sản xuất: sản xuất
hàng hoá giản đơn, kinh tế thị trường tự do, kinh tế thị trường hiện đại.
Nước ta đang thực hiện chuyển đổi nền kinh tế, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá
tập trung sang kinh tế hàng hoá. Mô hình kinh tế của Việt Nam được xác định là
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa (nói ngắn gọn là kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa).
Hiện nay nền kinh tế thị trường của nước ta còn ở trình độ kém phát triển, bởi lẽ cơ
sở vật chất - kỹ thuật của nó còn lạc hậu, thấp kém, nền kinh tế ít nhiều còn mang
tính tự cấp tự túc. Tuy nhiên, nước ta không lặp lại nguyên vẹn tiến trình phát triển
kinh tế của các nước đi trước: kinh tế hàng hoá giản đơn chuyển lên kinh tế thị
trường tự do, rồi từ kinh tế thị trường tự do chuyển lên kinh tế thị trường hiện đại,
mà cần phải và có thể xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại, định hướng xã hội
chủ nghĩa theo kiểu rút ngắn. Điều này có nghĩa là phải đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá để phát triển nhanh chóng lực lượng sản xuất, trong một thời gian
tương đối ngắn xây dựng được cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại để nền kinh tế


nước ta bắt kịp với trình độ phát triển chung của thế giới; đồng thời phải hình
thành đồng bộ cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Nhà nước có vai trò
đặc biệt quan trọng trong việc quản lý kinh tế vĩ mô và thực hiện định hướng xã
hội chủ nghĩa.
1.3 Khái niệm thành phần kinh tế nhà nước



Khái niệm

Phạm trù kinh tế nhà nước đã được sách báo đề cập đến trong nhiều năm gần đây
và được sử dụng thống nhất từ Đại hội lần thứ VIII của Đảng đến nay. Kinh tế nhà
nước là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất(sở
hữu toàn dân và sở hữu nhà nước ). Kinh tế nhà nước bao gồm các doanh nghiệp
nhà nước, các quỹ dự trữ quốc gia, các quỹ bảo hiểm nhà nước và các tài sản thuộc
sở hữu nhà nước có thể đưa vào vòng chu chuyển kinh tế. Kinh tế nhà nước phát
huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là công
cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế.


Các bộ phận hợp thành kinh tế nhà nước

Kinh tế nhà nước do nhiều bộ phận hợp thành, mỗi bộ phận có chức năng và nhiệm
vụ khác nhau. Các thành phần đó gồm:
-

-

-

Doanh nghiệp nhà nước: là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành
lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích nhằm
thực hiện các mục tiêu kinh tế- xã hội do Nhà nước giao. Như vậy, doanh
nghiệp nhà nước có hai loại: một loại hoạt động kinh doanh vì mục đích lợi
nhuận và một loại khác, hoạt động công ích không vì mục tiêu lợi nhuận mà
vì mục tiêu phúc lợi xã hội.Trong đó doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh
doanh vì mục đích lợi nhuận giữ vai trò quan trọng trong thành phần kinh tế
nhà nước.

Các quỹ dự trữ quốc gia: là một bộ phận của kinh tế nhà nước, nhằm đảm
bảo cho kinh tế nhà nước, kinh tế quốc dân hoạt động bình thường trong mọi
tình huống. Các quỹ dự trữ quốc gia dùng lực lượng vật chất của mình dể
điều tiết, quản lý, bình ổn giá cả thị trường, đảm bảo cho tình hình kinh tếxã hội ổn định để phát triển.
Các quỹ bảo hiểm nhà nước: cũng là một bộ phận không thể thiếu được của
kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Nó chịu trách nhiệm thực hiện


-

chế độ bảo hiểm do nhà nước quy định để phục vụ cho kinh tế nhà nước và
các thành phần kinh tế khác, nhằm đảm bảo cho hoạt động kinh tế- xã hội
bình thường trong những điều kiện bị tổn thất do rủi ro khách quan.
Các tải sản của nhà nước có thể đưa vào vòng chu chuyển kinh tế.

Các bộ phận cấu thành, tuy có nhiệm vụ cụ thể khác nhau, nhưng có quan hệ chặt
chẽ với nhau trong một hệ thống kinh tế nhà nước thống nhất và hoạt động theo
một thể chế do nhà nước quy định. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay thành phần kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo,
giúp điều tiết nền kinh tế.
1.4

Vai trò của thành phần kinh tế nhà nước

Trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo. “Kinh tế nhà nước phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, là lực lượng vật
chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh
tế. Doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí then chốt; đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học
và công nghệ; nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế – xã hội và
chấp hành pháp luật”. Việc xác lập vai trò chủ đạo của nền kinh tế nhà nước là vấn

đề có tính nguyên tắc và là sự khác biệt cơ bản giữa kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa với kinh tế thị trường tư bản. Tính định hướng xã hội chủ nghĩa
của kinh tế thị trường ở nước ta đã quy định kinh tế nhà nước phải giữ vai trò chủ
đạo trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Bởi lẽ, mỗi một chế độ xã hội đều có
một cơ sở kinh tế tương ứng với nó, kinh tế nhà nước, nói đúng ra kinh tế dựa trên
chế độ công hữu bao gồm nhà nước và kinh tế hợp tác, tạo cơ sở kinh tế cho chế độ
xã hội mới – xã hội chủ nghĩa.
Tình trạng hoạt động kém hiệu quả của nền kinh tế nhà nước trong thời gian qua
mà một số nhà chính trị đã phủ định sự cần thiết kinh tế nhà nước là sai lầm về lý
luận ,khống thể phủ nhận nền kinh tế nhà nước là giữ vai trò chủ đạo. Vấn đề chủ
yếu là cơ cấu lại kinh tế nhà nước và đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà
nước để chúng hoạt động có hiệu quả. Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là một
trong những giải pháp cơ bản để cơ cấu lại khu vực kinh tế nhà nước và cải thiện
căn bản cơ chế quản lý doanh nghiệp. Nhà nước thông qua chế độ tham dự cổ phần
để khống chế hoạt động của các doanh nghiệp theo định hướng của nhà nước.
Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định mạnh mẽ rằng kinh tế nhà nước
phải giữ vị trí then chốt, phải đóng vai trò chủ đạo. Đó là định hướng xã hội chủ
nghĩa quan trọng bậc nhất của sự phát triển kinh tế nước ta.
Trên con đường mà Đảng, Bác Hồ và dân tộc ta đã lựa chọn, nếu làm yếu kinh tế
nhà nước là làm suy yếu nhà nước xã hội chủ nghĩa. Cho nên toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân làm sao để cho thành phần kinh tế nhà nước tăng cường vai trò chủ đạo.


Muốn sử dụng sức mạnh tổng hợp của tất cả các thành phần kinh tế thì kinh tế nhà
nước phải luôn luôn là đội quân chủ lực trên mặt trận kinh tế. Nhờ đó mà nhà nước
xã hội chủ nghĩa có lực lượng vật chất quan trọng và quyết định nhất để luôn luôn
bảo đảm ổn định xã hội.
Kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế thuộc sở hữu nhà nước, bao gồm các
doanh nghiệp nhà nước; ngân sách, tín dụng, ngân hàng nhà nước; các quỹ dự trữ
quốc gia, các quỹ bảo hiểm nhà nước, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, các cơ sở vật

chất của quốc phòng, an ninh, phần vốn của Nhà nước góp vào liên doanh trong
công ty cổ phần; các nguồn lực của Nhà nước đầu tư ở trong và ngoài nước. Như
vậy, kinh tế nhà nước rộng hơn, mạnh hơn kinh tế quốc doanh. Trước đây, mọi
người thường quan niệm thành phần kinh tế quốc doanh là nói đến doanh nghiệp
nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Hiện nay, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước được thể hiện trên các mặt cụ thể
như sau:
Một là: kinh tế nhà nước không kiểm soát một cách tràn lan, mà chỉ nắm giữ
những vị trí, lĩnh vực then chốt trong nền kinh tế. Nhờ đó có thể chi phối hoạt động
của các thành phần kinh tế khác và của toàn bộ nền kinh tế.
Hai là: kinh tế nhà nước mà nòng cốt là các doanh nghiệp nhà nước phải đi đầu
trong việc ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nêu gương về năng suất, chất
lượng và hiệu quả kinh tế - xã hội. Điều đó không chỉ là trực tiếp đóng góp vào
tăng trưởng nhanh, bền vững mà còn tạo sức mạnh cạnh tranh, thúc đẩy các doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác cũng phải không ngừng nâng cao sức
cạnh tranh cùng đóng góp ngày càng nhiều cho quá trình phát triển kinh tế.
Ba là: kinh tế nhà nước là lực lượng kinh tế to lớn, là công cụ để Nhà nước thực sự
là "bàn tay hữu hình" điều tiết vĩ mô nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Tất cả những điều trên đã được Đại hội Đảng lần thứ IX khẳng định: " kinh tế nhà
nước phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng
và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Doanh
nghiệp nhà nước giữ những vị trí then chốt, đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học và
công nghệ; nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế - xã hội và chấp
hành pháp luật".
Chính vì vậy mà kinh tế nhà nước là một chủ thể quan trọng nhất là thành phần
kinh tế then chốt đã góp phần đưa đất nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế, chuyển
sang một giai đoạn mới, giai đoạn của mô hình kinh tế thị trường chuyển biến
vững chắc theo quỹ đạo chủ nghĩa xã hội.
Phần II: Thực trạng hoạt động của thành phần kinh tế nhà nước.



2.1 Vận dụng dường lối của Đảng vào thành phần kinh tế nhà nước trong xây
dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện
nay.
Khi nước ta chuyển sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ
chế thị trường, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm, tìm hiểu những vấn đề cản trở
sự phát triển của đất nước. Hầu hết tất cả các chính sách kinh tế, xã hội chính trị
đều đề ra những biện pháp giải quyết. Vận dụng dường lối của Đảng vào thành
phần kinh tế nhà nước trong xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay, chúng ta đã thực hiện đồng bộ trên tất cả các
khía cạnh.
Từ đầu thập kỷ 90, Đảng ta đã có nhiều chủ trương quan trọng đẩy mạnh công
cuộc đổi mới cơ chế quản lý và tổ chức sắp xếp lại hệ thống doanh nghiệp nhà
nước nhằm thích ứng với thời kỳ đổi mới, xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Việc tổ chức, đổi mới các doanh nghiệp nhà nước nhằm
khơi dậy nội lực của các doanh nghiệp để nâng cao hiệu quả cạnh tranh và khả
năng định hướng của các thành phần kinh tế khác cùng phát triển lên chủ nghĩa xã
hội. Cụ thể :
-

Những đổi mới liên quan đến tư cách pháp nhân của các doanh nghiệp nhà nước.
Những đổi mới về mô hình tổ chức sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhà
nước.
Các chính sách đa dạng hóa sở hữu doanh nghiệp nhà nước.
Trong Văn kiện Đại hội XI, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Kinh tế nhà nước giữ vai
trò chủ đạo. Như chúng ta đã biết, tại Đại hội VIII (năm 1996) Đảng ta lần đầu tiên
đưa ra phạm trù kinh tế nhà nước thay vì cách gọi kinh tế quốc doanh trước đó, với
nội hàm rộng hơn, bao quát được toàn bộ các hoạt động quản lý tài nguyên của đất
nước; những cơ sở hạ tầng được tạo ra; các loại quỹ của quốc gia; các doanh

nghiệp nhà nước bao gồm cả doanh nghiệp công ích và doanh nghiệp kinh doanh...
nhờ đó đã giải quyết được vấn đề nhận thức thực tiễn cũng như lý luận về vai trò
chủ đạo của kinh tế nhà nước.
Các doanh nghiệp nhà nước hoạt động có hiệu quả cao sẽ góp phần tăng cường
tiềm lực và sức mạnh của kinh tế nhà nước trong sứ mệnh chủ đạo trong nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cho nên, việc tăng hay giảm cả về quy
mô, số lượng, chất lượng hiệu quả sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp nhà


nước chỉ phản ánh một bộ phận của kinh tế nhà nước nói chung, chứ không thể coi
đó là toàn bộ kinh tế nhà nước với vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân.
Văn kiện Đại hội XI của Đảng cũng chỉ rõ: “Nhà nước quản lý nền kinh tế, định
hướng, điều tiết, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội bằng pháp luật, chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng vật chất”. Luận điểm nêu trên của
Đảng ta là hoàn toàn phù hợp với thực tiễn kinh tế khách quan. Bài học từ các nền
kinh tế lớn vừa qua cũng cho thấy, vai trò của nhà nước không chỉ thể hiện ở sự
điều hành vĩ mô nền kinh tế, mà còn ở thực lực của kinh tế nhà nước.
Tại Hội nghị lần 3 Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng khóa IX, Đảng ta đã khẳng
định phải tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của
thành phần kinh tế nhà nước, đặc biệt là hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước.
Qua quá trình hoạt động thực tiến, Đảng ta đã nhận thức:
-

-

Kinh tế Nhà nước có vai trò quyết định trong việc giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa, ổn định và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong
đó doanh nghiệp nahf nước phải không ngừng đổi mới, phát giữu triển và nâng cao
hiệu quả, giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế.
Kiên quyết điều chỉnh cơ cấu để doanh nghiệp nhà nước có cơ cấu hợp lý, tập

trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng đối với các sản
phẩm và dịch vụ chủ yếu nhưng không nhất thiết là phải chiếm tỷ trọng lớn trong
tất cả các ngành và sản phẩm của cơ chế thị trường.
Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý để doanh ngiệp nhà nước kinh doanh tự chủ, tự
chịu trách nhiệm, hợp tác và cạnh tranh bình đẳng với các doanh nghiệp thuộc các
thành phần kinh tế khác nhằm tạo nên sức cạnh tranh hấp dẫn của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

-

Nhiệm vụ chủ yếu trong giai đoạn trước mắt là hoàn thành cơ bản việc sắp xếp,
điều chỉnh cơ cấu lại và đổi mới hoạt động các doanh nghiệp nhà nước, phân định
rõ ràng các doanh nghiệp để có chính sách giải pháp phù hợp để phát triển mạnh
mẽ kinh tế nhà nước góp phần cùng các thành phần kinh tế khác tạo nên một nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cân đối, hiện đại.
Phát biểu khai mạc hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng khóa X,
Tổng bí thư Nông Đức Mạnh nói: “ Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
là mô hình hoàn toàn mới, chưa có tiền lệ. Chúng ta phải vừa làm, vừa đúc kết thực
tiễn. Vấn đề đặt ra là phải tạo sự thống nhất nhận thức, quam điểm, mục tiêu và các
chủ trương giải pháp để đi tới sự thống nhất trong hoạt động thực tiễn, từng bước
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm thúc đẩ
nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững , hội nhập kinh tế quốc tế thành công, giữ


vững định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh.
Để đạt được điều này, Đảng ta đã xác đinh phải phát triển đồng đều tất cả các
thành phần kinh tế trong đó đặc biệt quan tâm đế vai trò chủ đạo của thành phần
kinh tế nhà nước. Đây là một định hướng chiến lược đúng, đáp ứng đòi hởi ngày
càng cao của thực tế.

Và kết quả đạt được là chúng ta đã đạt được thành tựu ngoạn mục trong việc phát
triển đất nước, kinh tế có tốc độ phát triển cao, đời sống nhân dân được cải thiện rõ
rệt, tình hình chính trị tương đối ổn định…
2.2 Những thành tựu
Nhìn khái quát, hệ thống kinh tế nhà nước, mà chủ lực là hệ thống doanh nghiệp
nhà nước đang được đổi mới, phát triển và ngày càng hoàn thiện hơn. Điều này
biểu hiện ở chỗ: hệ thống doanh nghiệp nhà nước đang phát triển, nắm giữ các lĩnh
vực quan trọng trong nền kinh tế quốc dân và chi phối các thành phần kinh tế khác.
Các bộ phận của kinh tế nhà nước như các quỹ dự trữ quốc gia đảm bảo những cân
đối lớn của kinh tế quốc dân; hệ thống bảo hiểm được hình thành và phát triển, đã
bảo hiểm và giúp các thành phần kinh tế an tâm sản xuất; tài nguyên, đất đai, hầm
mỏ được khai thác đạt hiệu quả nhiều hơn. Cả hệ thống kinh tế này cùng với những
thể chế thống nhất đồng bộ của nhà nước đang có tác dụng thúc đẩy các thành phần
kinh tế khác phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều đáng quan tâm là hệ
thống doanh nghiệp nhà nước- lực lượng nòng cốt của kinh tế nhà nước- qua nhiều
lần sắp xếp, chuyển đổi đã từng bước được củng cố và có đóng góp tích cực vào
thành tựu của quá trình đổi mới ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp nhà nước đã đứng
vững trên thị trường, sản xuất kinh doanh có hiệu quả, đóng góp nhiều cho ngân
sách. Trong giai đoạn 2000-2007 doanh nghiệp nhà nước đóng góp 39% GDP;
40% tổng thu ngân sách, 80% doanh nghiệp kinh doanh có lãi; 8% doanh nghiệp
hoà vốn và 12% doanh nghiệp thua lỗ.Nhờ thực hiện sắp xếp lại và cổ phần hoá
nên số doanh nghiệp có quy mô vừa và lớn tăng lên. Năm 2007 cả nước sắp xếp
được 271 doanh nghiệp và bộ phận doanh nghiệp, cổ phần hoá 150 doanh nghiệp
nâng tổng số đơn vị được sắp xếp là 5366 doanh nghiệp trong đó cổ phần hoá là
3756 doanh nghiệp; có 17 doanh nghiệp cổ phần hoá có vốn nhà nước trên 100 tỉ
đồng, một số doanh nghiệp có vốn nhà nước 1000 tỉ đồng như công ty Phân đạm


và hoá chất dầu khí, tổng công ty bảo hiểm Việt Nam, ngân hàng ngoại thương So
với tổng số doanh nghiệp của cả nước đang hoạt động doanh nghiệp nhà nước tuy

chỉ chiếm 3,6% nhưng nó đã chiếm 32,7% tổng số lao động, 54,9% tổng số vốn,
51,1%giá trị tài sản cố định, 38,8% doanh thu. Đề án tái cấu trúc doanh nghiệp nhà
nước giai đoạn 2011-2015 được phê duyệt và tích cực thực hiện. Cổ phần hóa và
thoái vốn đầu tư ngoài ngành theo cơ chế thị trường được đẩy mạnh, trong đó tập
trung vào các tập đoàn, tổng công ty nhà nước. Tính đến 30-9-2014 đã thực hiện
sắp xếp lại 6.883 doanh nghiệp nhà nước, trong đó cổ phần hóa 4.136 doanh
nghiệp. Việc liên doanh liên kết giữa doanh nghiệp nhà nước với các thành phần
kinh tế khác, đặc biệt là thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng
phát triển đã thu hút thêm được nhiều vốn, công nghệ, giải quyết việc làm cho
người lao động. Phương pháp sản xuất kinh doanh và quản lý mới cùng trang thiết
bị hiện đại đã từng bước nâng cao năng suất, chất lượng cho một số doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp nhà nước công ích trong hoạt động biết tiết kiệm chi phí, nhiều
doanh nghiệp đã tự tạo được nguồn vốn cho mình chứ không chỉ trông chờ vào
ngân sách nhà nước do đó phục vụ nhu cầu xã hội tốt hơn. Tóm lại, hệ thống doanh
nghiệp nhà nước đã được tổ chức, sắp xếp lại theo một cơ cấu mới, tiến bộ hơn về
chất; cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước được xác định ngày càng rõ và
hoàn thiện hơn; vai trò tự chủ kinh doanh và rự chủ tài chính của các doanh nghiệp
được xác lập và ngày càng mở rộng nhà nước từng bước quản lý doanh nghiệp
bằng pháp luật, nên môi trường, hành lang pháp lý ngày càng rõ ràng giúp quản lý
và phát huy tính chủ động của doanh nghiệp.
Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa gắn liền với hội nhập
kinh tế quốc tế sâu rộng trên nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức, theo nguyên tắc
và chuẩn mực của thị trường toàn cầu. Việt Nam đã thiết lập được các quan hệ đối
tác chiến lược về kinh tế ; tích cực xây dựng Cộng đồng kinh tế ASEAN và hoàn
thiện thị trường trong nước đầy đủ hơn theo cam kết WTO; đàm phán, ký kết và
thực hiện nhiều Hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương thế hệ
mới. Cho đến nay đã có gần 50 quốc gia công nhận nền kinh tế Việt Nam là nền
kinh tế thị trường, trong đó có các đối tác thương mại lớn của Việt Nam. Cùng với
đó, trên 90 Hiệp định thương mại song phương, gần 60 Hiệp định khuyến khích và
bảo hộ đầu tư, 54 Hiệp định chống đánh thuế hai lần đã được ký kết. Quan hệ hợp

tác đa phương và khu vực tích cực hơn với nhiều tổ chức tài chính quốc tế như
Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và Ngân hàng
Thế giới (WB). Việt Nam hiện đang tham gia nhiều hiệp định thương mại tự do
khu vực và song phương (FTA), mới đây nhất đã ký kết FTA với Hàn Quốc, Liên


minh kinh tế Á - Âu; đã chủ động tham gia và đưa ra nhiều đề xuất nhằm thúc đẩy
đàm phán Hiệp định Ðối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), Hiệp định Ðối tác
kinh tế khu vực toàn diện (RCEP); đàm phán Hiệp định Thương mại Tự do (FTAs)
với Liên minh châu Âu (EU),... Việc tham gia ký kết và đàm phán tham gia các
hiệp định FTA có tác động tích cực tới phát triển kinh tế, nâng cao năng lực cạnh
tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm, phát triển nông nghiệp, nông thôn, giải
quyết lao động, tạo công ăn việc làm, nâng cao tiền lương và thu nhập. Việc hội
nhập kinh tế quốc tế sâu rộng và đa dạng đã tác động tích cực đến sự phát triển
kinh tế nước ta. Thị trường xuất khẩu của Việt Nam được mở rộng đến 230 quốc
gia và vùng lãnh thổ, kim ngạch xuất khẩu giai đoạn 2011-2013 tăng bình quân
22,58%/năm.
Những thành tựu đạt được nêu trên là do nỗ lực, cố gắng của toàn Đảng, toàn dân,
của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong đó có nguyên nhân từ
nhận thức, đổi mới về lý luận, nhận thức và chỉ đạo thực tiễn của Đảng Cộng sản
Việt Nam về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xác định
phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, kiên trì lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các
quyết sách về kinh tế, được nhân dân đồng tình ủng hộ và tích cực tham gia. Sự
quản lý, điều hành của Nhà nước đối với kinh tế thị trường sát thực và hiệu quả
hơn. Nhà nước quản lý, điều tiết nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa thông qua pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, các công
cụ kinh tế và lực lượng vật chất cần thiết và phù hợp với nguyên tắc của kinh tế thị
trường; xây dựng, hoàn thiện thể chế, tạo dựng môi trường kinh tế vĩ mô, môi
trường kinh doanh, khắc phục và hạn chế những tác động tiêu cực của kinh tế thị
trường. Mở rộng, phát huy dân chủ trong lĩnh vực kinh tế, thực hiện ngày càng tốt

hơn vai trò làm chủ về kinh tế của nhân dân. Vai trò lãnh đạo cũng như nội dung
và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng rõ hơn.
2.3 Những tồn tại yếu kém
Tuy kinh tế nhà nước đã đạt được những bước thành công như vậy nhưng vai trò
chủ đạo của kinh tế nhà nước hiện nay chưa thực sự xuất phát từ thực lực vượt trội
của khu vực này so với các thành phần kinh tế khác và so với các doanh nghiệp
trên thế giới. Đặc điểm này được thể hiện rõ ở một số điểm như sau:
Thứ nhất, năng lực cạnh tranh của khu vực doanh nghiệp nhà nước thấp
kém,nhiều doanh nghiệp hoạt động không có hiệu quả. Nợ của khu vực doanh
nghiệp nhà nước quá lớn, nợ khó đòi chưa có dấu hiệu thuyên giảm(chiếm tới
74,8% trong số nợ quá hạn của ngân hàng thương mại quốc doanh). So với các


doanh nghiệp trên thế giới, doanh nghiệp nhà nước Việt Nam có quy mô nhỏ
bé,công nghệ lạc hậu, tạo ra giá trị gia tăng thấp, sản xuất ra các hàng hóa và dịch
vụ ít có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới.
Thứ hai, So với các thành phần kinh tế khác, doanh nghiệp nhà nước được nhận
nhiều hỗ trợ và hưởng những quyền lợi đặc biệt mà doanh nghiệp khác không thể
có. Doanh nghiệp nhà nước được vay vốn không cần thế chấp,được giao đất mà
không phải thuê,được giao thực hiện các dự án lớn mà nắm chắc là thu lãi cao…
Thứ ba, bên cạnh sự yếu kém của doanh nghiệp nhà nước,hiệu quả hoạt động
của hệ thống ngân hàng Nhà nước và các dịch vụ công khác,kể cả các dịch vụ công
ích vẫn còn thấp. Hệ thống ngân hàng chưa đảm bảo cung cấp nguồn vốn đầy đủ
và thuận lợi cho doanh nghiệp thuộc mọi thành phần. Các dịch vụ công,nhất là
dịch vụ doanh nghiệp còn yếu kém,chi phí cao,chất lượng thấp.
Tuy nhiên, việc phát huy vai trò của Nhà nước đối với sự phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay cũng còn những hạn chế
đáng kể: thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn chưa được xây
dựng đồng bộ, vận hành suôn sẻ; quản lý nhà nước về kinh tế còn nhiều bất cập;

chưa có giải pháp mang tầm đột phá để kinh tế nhà nước thực sự hoàn thành tốt
chức năng chủ đạo trong nền kinh tế; kinh tế tập thể còn rất yếu kém; năng lực
cạnh tranh của nền kinh tế thấp; chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng
kinh tế và bảo vệ môi trường…
2.4 Giải pháp tăng cường vai trò của thành phần kinh tế nhà nước
2.4.1. Đối với doanh nghiệp Nhà nước
Kinh tế Nhà nước có vai trò quyết định trong việc giữ vững định hướngxã hội
chủ nghĩa, ổn định và phát triển kinh tế, chính trị và xã hội của đất nước. Doanh
nghiệp Nhà nước (gồm doanh nghiệp nhà nước giữ 100% vốn và doanh nghiệp nhà
nước giữ cổ phần chi phối), phải không ngừng được đổi mới, phát triển và nâng
cao hiệu quả, giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế, làm công cụ vật chất quan trọng
để kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Việc tiếp tục sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp
nhà nước là nhiệm vụ cấp bách và cũng là nhiệm vụ chiến lược, lâu dài và nhiều
khó khăn, phức tạp, mới mẻ.



-

Định hướng sắp xếp, phát triển doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh
doanh và hoạt động công ích.
Đối với doanh nghiệp hoạt động kinh doanh.

+ Nhà nước giữ 100% vốn đối với các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong
lĩnh vực độc quyền nhà nước: vật liệu nổ, hoá chất độc, chất phóng xạ, hệ thống
truyền tải quốc gia, mạng trục thông tin quốc gia và quốc tế, sản xuất thuốc lá điếu.
+ Nhà nước giữ cổ phần chi phối hoặc giữ 100% vốn đối với doanh nghiệp nhà
nước hoạt động kinh doanh trong các ngành và lĩnh vực: bán buôn lương thực, bán
buôn xăng dầu, sản xuất điện, khai thác các khoáng sản quan trọng, sản xuất một

số sản phẩm cơ khí, điện tử, công nghệ thông tin, sản xuất kim loại đen, kim loại
màu, sản xuất hoá chất cơ bản, phân hoá học, thuốc bảo vệ thực vật, sản xuất xi
măng, công nghiệp xây dựng, sản xuất một số hàng tiêu dùng và công nghiệp thực
phẩm quan trọng, sản xuất hoá độc, thuốc chữa bệnh, vận tải hàng không, đường
sắt, viễn đông, kinh doanh tiền tệ, bảo hiểm, xổ số kiến thiết, dịch vụ viễn thông cơ
bản, chủ yếu là các doanh nghiệp quy mô lớn, có đóng góp lớn cho ngân sách, đi
đầu trong việc ứng dụng công nghệ mũi nhọn, công nghệ cao và góp phần quan
trọng ổn định kinh tế vĩ mô. Những doanh nghiệp hoạt động kinh doanh đảm bảo
nhu cầu thiết yếu cho sản xuất và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đồng
bào nông thôn, đồng bào các dân tộc ở miền núi, vùng sâu, vùng xa.
+ Nhà nước giữ cổ phần đặc biệt trong một số trường hợp cần thiết.
Chuyển các doanh nghiệp giữ 100% vốn sang hình thức công ty trách nhiệm hữu
hạn một chủ sở hữu là Nhà nước hoặc công ty cổ phần gồm các cổ đông là các
doanh nghiệp nhà nước.Căn cứ định hướng trên đây, Chính phủ chỉ đạo rà soát,
phê duyệt phân loại cụ thể các doanh nghiệp nhà nước hiện có để triển khai thực
hiện vào từng thời kỳ xem xét điều chỉnh định hướng, phân loại doanh nghiệp cho
phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế -xã hội.
Doanh nghiệp thuộc các tổ chức của Đảng thực hiện sắp xếp như đối với doanh
nghiệp nhà nước. Doanh nghiệp thuộc các tổ chức chính trị – xã hội đăng ký hoạt
động theo Luật Doanh nghiệp.
+ Việc thành lập mới doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh chủ yếu sẽ
thực hiện dưới hình thức công ty cổ phần. Chỉ thành lập mới doanh nghiệp 100%


vốn nhà nước đối với những ngành và lĩnh vực mà nhà nước cần giữ độc quyền,
hoặc các thành phần kinh tế khác không muốn hay không có khả năng tham gia.
-

Đối với doanh nghiệp hoạt động công ích.


+ Nhà nước giữ 100% vốn đối với các doanh nghiệp công ích hoạt động trong lĩnh
vực : in bạc và chứng chỉ có giá ; điều hành bay; bảo đảm hàng hải; kiểm soát và
phân phối tàn số vô tuyến điện ; sản xuất ; sửa chửa vũ khí ; khí tài ; trang bị
chuyên dùng quốc phòng , an ninh ; doanh nghiệp được giao thực hiện nhiệm vụ
quốc phòng đặc biệt và các doanh nghiệp tại các địa bàn chiến lược quan trọng kết
hợp kinh tế với quốc phòng theo quyết định của chính phủ . Các doanh nghiệp của
quân đội và công an được sắp xếp và phát triển theo định hướng này.
+ Nhà nước giữ 100% vốn hoặc cổ phần chi phối đối với những doanh nghiệp công
ích đang hoạt động trong các lĩnh vực: kiểm định kĩ thuật phương tiện giao thông
cơ giới ; xuất bản sách giáo khoa , sách báo chính trị , phim thời sự và tài liệu quản
lý , bảo trì hệ thống đường sắt quốc gia , sân bay, quản lý thuỷ nông đầu nguồn ,
trồng và bảo vệ rừng đầu nguồn , thoát nước ở đô thị lớn, ánh sáng đường phố ,
quản lý,bảo trì hệ thống đường bộ , bến xe , đường thuỷ quan trọng , sản xuất sản
phẩm và cung ứng dịch vụ khác theo quy định của chính phủ.Trong từng thời kỳ,
chính phủ xem xét , điều chỉnh định hướng phân loại doanh nghiệp phù hợp với
yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội .
+ Đối với các doanh nghiệp hoạt động công ích hiện có , chính phủ căn cứ vào
định hướng trên đây chỉ đạo rà soát và phê duyệt phân loại cụ thể để thực hiện triển
khai thực hiện . Những doanh nghiệp công ích đang hoạt động không thuộc diện
nêu trên sẽ được sắp xếp lại . Việc thành lập doanh nghiệp nhà nước hoạt động
công ích phải xem xét chặt chẽ, đúng định hướng , có yêu cầu và có đủ các yêu cầu
cần thiết .
+ Khuyến khích nhân dân và doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế sản xuất
những sản phẩm , dịch vụ mà xã hội cần và pháp luật không cấm.


Đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.

Mục tiêu cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là nhằm tạo ra loại hình doanh
nghiệp có nhiều chủ sở hửu , trong đó có đông đảo người lao động , để sử dụng

hiệu quả vốn , tài sản của nhà nước và huy động thêm vốn xã hội vào phát triển


sản xuất , kinh doanh, tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động , có hiệu
quả cho doanh nghiệp của nhà nước , phát huy vai trò làm chủ thực sự của xã hội ,
của cổ đông và tăng cường sự giám sát của xã hội đối với doanh nghiệp , đảm bảo
hài hoà lợi ích của nhà nước , doanh nghiệp và người lao động. Cổ phần hoá doanh
nghiệp của nhà nước không được biến thành tư nhân hoá doanh nghiệp nhà nước.
Đối tượng cổ phần hoá là những doanh nghiệp nhà nước hiện có mà nhà nước
không cần giữ 100% vốn, không phụ thuộc vào thực trạng kết quả sản xuất kinh
doanh. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền căn cứ vào định hướng sắp xếp, phát
triển doanh nghiệp nhà nước và điều kiện thực tế của từng doanh nghiệp mà quyết
định chuyển doanh nghiệp nhà nước hiện có thành công ty cổ phần, trong đó nhà
nước có cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt, cổ phần ở mức thấp hoặc nhà nước
không giữ cổ phần.
Hình thức cổ phần hoá bao gồm: giữ nguyên giá trị doanh nghiệp, phát hành cổ
phiếu để thu hút thêm vốn; bán một phần giá trị hiện có của doanh nghiệp cho các
cổ đông, cổ phần hoá đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp; chuyển toàn bộ doanh
nghiệp thành công ty cổ phần. Trường hợp cổ phần hoá đơn vị phụ thuộc của
doanh nghiệp thì không được gây khó khăn hoặc làm ảnh hưởng đến hiệu quả sản
xuất, kinh doanh các bộ phận còn lại của doanh nghiệp.
Nhà nước đầu tư được mua cổ phần lần đầu đối với những doanh nghiệp cổ phần
hoá mà nhà nước không được giữ cổ phần chi phối theo đúng quy định của Luật
Doanh nghiệp và Luật khuyến khích đầu tư trong nước khuyến khích nhà đầu tư có
tiềm năng về công nghệ, thị trường, kinh nghiệm quản lý, tiền vốn mua cổ phần.
Số tiền mua được từ bán cổ phần dùng để thực hiện chính sách đối với người lao
động và để nhà nước tái đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, không được đưa vào
ngân sách để chi thường xuyên.
Nhà nước ban hành cơ chế, chính sách phù hợp đối với doanh nghiệp nhà nước đã
chuyển sàng công ty cổ phần. Sửa đổi ccác chính sách ưu đãi đối với các doanh

nghiệp cổ phần hoá theo hướng ưu đãi hơn đối vơí những doanh nghiệp khi cổ
phần hoá có khó khăn.Chỉ đạo chặt chẽ doanh nghiệp nhà nước đầu tư một phần
vốn để lập mới công ty cổ phần ở những lĩnh vực cần thiết.




Thực hiện giao bán, khoán kinh doanh, cho thuê, sát nhập, giải thể, phá
sản đối với doanh nghiệp nhà nước quy mô nhhỏ, làm ăn không hiệu
quả.

Đối với doanh ghiệp có quy mô nhỏ có vốn nhà nước dưới 5 tỷ đồng, nhà nước
không cần nắm giữ và không cổ phần hoá được, tuỳ thực tế của từng doanh nghiệp,
cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định một trong các hình thức: Bán, giao,
khoán kinh doanh, cho thuê. Khuyến khích doanh nghiệp nhà nước đã giao, bán
được chuyển thành công ty cổ phần của người lao động. Sát nhập, giải thể, phá sản
những doanh nghiệp nhà nước hoạt động không hiệu quả, nhưng không thực hiện
được các hình thức nói trên.Sửa đổi, bổ sung luật phá sản doanh nghiệp theo hướng
người quyết định thành lập doanh nghiệp có quyền đề nghị tuyên bố phá sản.Đẩy
mạnh tuyền truyền, nâng cao nhận thức, hiểu biết của người lao động và toàn xã
hội đối với người chủ trương cổ phần hoá, giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê,
sát nhập, giải thể, phá sản doanh nghiệp nhà nước.


Đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổng công ty nhà nước,
hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh.

Tổng công ty nhà nước phải có vốn điều lệ đủ lớn, có thể huy động vốn từ nhiều
nguồn, trong đó vốn nhà nước là chủ yếu, thực hiện kinh doanh đa ngành, có ngành
chính chuyên sâu, có liên kết giữa các đơn vị thành viên liên kết về sản xuất, tài

chính, thị trường..., có trình độ công nghệ và quản lý tiên tiến năng suất lao động
cao, chất lượng sản phẩm tốt, có khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và
quốc tế, hoàn thành việc sắp xếp các tổng công ty nhà nước hiện có, nhằm tập
trung hơn nữa nguồn lực để chi phối được những ngành, lĩnh vực then chốt của nền
kinh tế, làm lực lượng chủ lực trong việc bảo đảm các cân đối lớn và ổn định kinh
tế vĩ mô, cung ứng những sản phẩm trọng yếu cho nền kinh tế quốc dân và xuất
khẩu, đóng góp lớn cho ngân sách, làm nòng cốt thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả.Trong từng thời kỳ, theo yêu cầu
phát triển của nền kinh tế cần có sự điều chỉnh phù hợp những tổng công ty đang
hoạt động không có đủ yêu cầu trên sẽ được sắp xếp lại.Thí điểm, rút kinh nghiệm
để nhân rộng việc thực hiện chuyển tổng công ty nhà nước sang hoạt động công ty
mẹ – công ty con , trong đó tổng công ty đầu tư vốn vào các doanh nghiệp thành
viên là những công ty trách nhiệm hữu hạn một chủ ( tổng công ty) hoặc là công ty
cổ phần mà tổng công ty giữ cổ phần chi phối .Bên cạnh các tổng công ty nhà


nước. Nghị quyết trung ương III chủ trương hình thành một số tập đoàn kinh tế
mạnh trên cơ sở các Tổng công ty nhà nước có sự tham gia của các thành viên kinh
tế, kinh doanh đa ngành, trong đó các ngành kinh doanh chính, chuyên môn hoá
cao và giữ vai trò chi phối trong nền kinh tế quốc dân.


Giải quyết lao động dôi dư và nợ không thanh toán được.

Nghị quyết Trung ương III xác định rằng, lao động dôi dư được doanh nghiệp tạo
điều kiện đào tạo lại hoặc nghỉ việc hưởng nguyên lương trong một thời gian để
tìm việc; nếu không tìm được việc thì được nghỉ chế độ mất việc theo quy định của
Bộ Luật lao động. Để có đủ cơ sở pháp lý cho vấn đề này, bộ Luật lao dộng được
sửa đổi, bổ sung theo hướng cho phép áp dụng chế độ mất việc đối với số lao động
dôi dư tại thời điểm giao, bán, khoán kinh doanh và cho thuê doanh nghiệp nhà

nước. Đồng thời, khẩn trương bổ sung chính sách bảo hiểm xã hội; ban hành chính
sách bảo hiểm thất nghiệp theo hướng nhà nước, doanh nghiệp và người lao động
cùng góp.Đối với nợ không thanh toán được, thành lập công ty mua bán nợ và tài
sản của doanh nghiệp nhà nước để xử lý nợ và tài sản không cần dùng, tạo điều
kiện lành mạnh hoá tài chính doanh nghiệp.


Đổi mới trình độ công nghệ và trình độ quản lý trong doanh nghiệp nhà
nước

Phải khẳng định rằng công nghệ là vấn đề sống còn của doanh nghiệp nếu muốn
tồn tại có hiệu quả.Xây dựng chiến lược đổi mới công nghệ trong từng ngành, từng
doanh nghiệp,tăng cường công tác nghiên cứu triển khai,phát triển sản phẩm,công
tác nghiên cứu thị trường, thông tin thị trường,tăng cường xúc tiến bán hàng, tăng
cường vai trò của thương mại điện tử,nâng cao chất lượng sản phẩm bằng cách
hướng các doanh nghiệp cố gắng vươn lên áp dụng hệ thống quản lý chất lượng
quốc tế .
2.4.2. Với tài sản thuộc nhà nước.
Cần đổi mới hệ thống các chính sách mang tính chất vĩ mô như chính sách tiền tệ,
tài chính, thuế, tín dụng, đầu tư xuất nhập khẩu. Xác định và phân biệt rõ ràng
các quyền sở hữu sử dụng,định đoạt và hưởng lợi đối với tài sản quốc gia để có sự
phân định rõ chức năng quản lý và chức năng kinh tế của nhà nước và của doanh
nghiệp nhà nước để tránh tình trạng Nhà nước tham gia quá sâu vào công việc của


các doanh nghiệp nhà nước.Lành mạnh hoá hệ thống tài chính, tín dụng, ngân
hàng Nhà nước, hệ thống dự trữ quốc gia, các quỹ bão hiểm, quỹ dự phòng cần
được sử dụng có hiệu quả hơn.



Phần III: Kết luận
Qua gần 30 năm xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, từ Đại
hội VI (năm 1986) đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã chuyển đổi
thành công từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử,
đưa Việt Nam ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển
có thu nhập trung bình, đồng thời hình thành được hệ thống kết cấu hạ tầng thiết yếu
phục vụ đời sống kinh tế - xã hội và công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thể chế
kinh tế, đặc biệt là hệ thống luật pháp và bộ máy quản lý ngày càng được xây dựng,
hoàn thiện theo hướng tiến bộ, phù hợp. Công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế được
triển khai sâu rộng và hiệu quả. Dân chủ trong xã hội tiếp tục được mở rộng. Chính trị
- xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được giữ vững.

Cùng với quá trình phát triển và hội nhập kinh tế của đất nước đối với khu vực và
thế giới, Nước ta đang trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH. Trong quá trình chuyển
đổi từ nền kinh tế chủ yếu tự cung tự cấp sang nền kinh tế thị trường với nhiều
thành phần kinh tế, thì vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà
nước theo định hướng XHCN, luôn đặt ra những vấn đề nghiên cứu lý luận thực
tiễn và cần thiết. Trong đó, vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế Nhà nước cần
đuợc tăng cường và đổi mới sao cho phù hợp với cơ chế kinh tế mới. Phát triển
kinh tế cũng phải đi đôi với bảo đảm công bằng văn minh và tiến bộ xã hội.Đảng ta
đã xác định một cách nhất quán kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là
nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.Vì vậy
việc xác định một cách rõ ràng và nhất quán vị trí,vai trò của kinh tế nhà nước
trong quá trình hoạch định đường lối,chính sách phát triển kinh tế đất nước là rất
cần thiết.Như vậy, vai trò và các biện pháp tăng cưòng vai trò chủ đạo của thành
phần kinh tế Nhà nước là hết sức quan trọng trong điều kiện hiện nay.


Tài liệu tham khảo

-

-

-

Giáo trình Đường lối Cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam_Bộ Giáo
dục và Đào tạo_NXB Chính trị quốc gia
Trang web Wikipedia tiếng Việt:
/>%C6%B0%E1%BB%9Dng
Báo Tạp chí cộng sản:
/>Luận Văn.net.vn
Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam:
/>

×