i
LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
Phát triển ngành dịch vụ là một xu hướng tất yếu đang diễn ra trên thế
giới. Đó là một trong những mục tiêu rất quan trọng trong việc phát triển kinh
tế đất nước. Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, dịch vụ sẽ ngày càng
đóng góp tỷ trọng lớn vào sự phát triển kinh tế đất nước. Bởi dịch vụ vừa là
cầu nối giữa các yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” trong quá trình sản xuất, thúc
đẩy phân công lao động xã hội, vừa tác động tích cực đến sự phát triển cơ
bản, toàn diện của các ngành công nghiệp và nông nghiệp.Thủ đô Viêng Chăn
là vùng trọng điểm phát triển công nghiệp của nước Lào, thu hút ngày càng
nhiều lao động đến sinh sống nên nhu cầu về dịch vụ tăng nhanh. Thực tế trên
địa bàn Thủ đô Viêng Chăn thời gian qua, cơ cấu ngành dịch vụ có chuyển
biến tích cực, phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, thu hút được sự tham
gia của nhiều thành phần kinh tế và tỷ trọng đóng góp GDP của ngành không
ngừng tăng cao. Tuy nhiên, quy mô của ngành dịch vụ trên địa bàn Thủ đô
Viêng Chăn còn nhỏ bé, chưa phát triển tương xứng với tiềm năng, nhiều thị
trường tiêu thụ còn bỏ ngỏ. Sự tác động của ngành dịch vụ tới chuyển dịch cơ
cấu kinh tế của Thủ đô Viêng Chăn không cao và còn hạn chế trong việc đảm
bảo tính ổn định của cơ cấu kinh tế trong vùng đồng thời sự gắn kết giữa các
ngành dịch vụ chưa được chặt chẽ, nhiều loại hình dịch vụ còn nằm ngoài tầm
kiểm soát của chính quyền. Xuất phát từ những yêu cầu ở trên tôi chọn đề tài:
“Phát triển ngành dịch vụ trên địa bàn Thủ đô Viêng Chăn nước CHDCND
Lào” làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ kinh tế của mình.
Ngoài phần mở đầu, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài
được trình bày gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về phát triển ngành dịch vụ trên địa bàn Thủ
đô Viêng chăn nước CHDCND Lào.
Chương 2: Thực trạng phát triển ngành dịch vụ trên địa bàn Thủ đô
Viêng Chăn nước CHDCND Lào.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp phát triển ngành dịch vụ trên địa
bàn Thủ đô Viêng Chăn nước CHDCND Lào.
ii
CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN NGÀNH DỊCH VỤ TRÊN ĐỊA
BÀN THỦ ĐÔ VIÊNG CHĂN NƯỚC CHDCND LÀO
1.1. Ngành dịch vụ và sự cần thiết phát triển ngành dịch vụ trên địa bàn
Thủ đô Viêng chăn
Khái niệm ngành dịch vụ
Hiện nay, có một định nghĩa mang tính tổng quát hơn được thừa
nhận nhiều hơn, đó là: Dịch vụ là hoạt động làm thay đổi điều kiện và
chất lượng của một chủ thể do tác động của chủ thể khác nhằm thỏa
mãn nhu cầu của chủ thể đó. Theo đó, dịch vụ không sinh ra nếu không
có sự tách rời giữa chủ thể tiêu dùng và chủ thể cung cấp.
Phân loại ngành dịch vụ
Dịch vụ mang tính thương mại và dịch vụ không mang tính thương mại:
Dịch vụ mang tính thương mại là những dịch vụ được thực hiện,
được cung ứng nhằm mục đích thu lợi nhuận và vì mục tiêu là kinh doanh.
Ví dụ dịch vụ quảng cáo để bán hàng, dịch vụ môi giới…
Dịch vụ không mang tính chất thương mại (dịch vụ phi thương mại)
là những dịch vụ được cung ứng không nhằm mục đích kinh doanh, không
vì mục đích thu lợi nhuận. Những dịch vụ này bao gồm các dịch vụ công
cộng, thường do các Đoàn thể, các tổ chức xã hội phi lợi nhuận cung ứng
hoặc do các cơ quan Nhà nước cung ứng khi cơ quan này thực hiện chức
năng nhiệm vụ của mình.
Dịch vụ về hàng hóa và dịch vụ về tiêu dùng
Dựa vào mục tiêu của dịch vụ người ta chia dịch vụ thành 4 nhóm sau:
Dịch vụ phân phối: Vận chuyển, lưu kho, bán buôn, bán lẻ, quảng
cáo môi giới…
Dịch vụ sản xuất: Ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, các dịch vụ về kỹ
sư kiến trúc công trình, dịch vụ kế toán kiểm toán, dịch vụ pháp lý…
Dịch vụ xã hội: Dịch vụ sức khỏe, y tế, giáo dục, bưu chính viễn
thông, các dịch vụ nghe nhìn và các dịch vụ xã hội khác.
iii
Dịch vụ cá nhân: dịch vụ sửa chữa, dịch vụ khách sạn nhà hàng, các
dịch vụ giải trí, dịch vụ du lịch văn hóa.
Thương mại dịch vụ
Thương mại dịch vụ (tiếng Anh là trade in service) là khái niệm chỉ
các hoạt động thương mại trong lĩnh vực dịch vụ hay khái niệm dùng để
nhấn mạnh khía cạnh thương mại, tính chất thương mại trong lĩnh vực
dịch vụ hay nói cách khác thương mại dịch vụ là sự trao đổi dịch vụ giữa
các cá nhân tổ chức với nhau vì mục đích kinh doanh sinh lời. Như vậy
thương mại dịch vụ khác với thương mại hàng hóa ở đối tượng trao đổi,
đối với thương mại hàng hóa thì đối tượng trao đổi là hàng hóa - các sản
phẩm hữu hình, còn đối với thương mại dịch vụ thì đối tượng trao đổi lại
là dịch vụ - các sản phẩm vô hình.
Vai trò của ngành dịch vụ trong nền kinh tế thị trường
Thứ nhất: Ngành dịch vụ là bộ phận cấu thành và càng giữ vai trò
quan trọng trong nền kinh tế quốc dân.
Ngành dịch vụ góp phần thúc đẩy sản xuất, lưu thông, phân phối
hàng hóa, thúc đẩy thương mại hàng hóa phát triển trong phạm vi
quốc gia cũng như quốc tế.
Ngành dịch vụ trở thành yếu tố quan trọng trong quá trình sản xuất
Ngành dịch vụ có tác động tích cực đối với phân công lao động xã hội
Thứ hai: Đóng góp của thương mại dịch vụ vào cán cân thương mại.
Thứ ba: Ngành dịch vụ tạo ra một số lượng rất lớn việc làm cho người
lao động.
Thứ tư: Hỗ trợ các ngành kinh tế phát triển.
Thứ năm: Ngành dịch vụ góp phần thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
1.2. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá và các nhân tố ảnh hưởng đến sự
phát triển ngành dịch vụ trên địa bàn Thủ đô Viêng chăn
Hệ thống chỉ tiêu đánh giá sự phát triển ngành dịch vụ trên địa bàn
Thủ đô Viêng chăn
- Tốc độ tăng trưởng (%) của ngành dịch vụ trên địa bàn Thủ đô Viêng
Chăn trong một thời kỳ liên tục.
iv
- Sự phát triển về số lượng của các nhóm ngành dịch vụ trên địa bàn
Thủ đô Viêng Chăn.
- Mức độ đóng góp của ngành dịch vụ vào sự tăng trưởng và phát triển
chung của kinh tế xã hội trên địa bàn Thủ đô Viêng Chăn.
- Mức độ thu hút vốn và các nguồn lực của ngành dịch vụ.
- Số lượng và qui mô các doanh nghiệp tham gia vào các ngành dịch vụ,
tỷ lệ các doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp Nhà nước, tình hình hoạt
động và hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp.
- Mức độ quan tâm và hỗ trợ của cấp chính quyền thông qua các việc áp
dụng các chính sách, cơ chế, chiến lược, quy hoạch phát triển đối với các
ngành dịch vụ, cũng như hỗ trợ các doanh nghiệp trong quá trình hoạt động
kinh doanh trong ngành dịch vụ.
Ngoài các chỉ tiêu ở trên, chúng có thể lượng hoá chỉ tiêu giá trị thực hiện
dịch vụ và chỉ tiêu mức độ đáp ứng nhu cầu dịch vụ theo các công thức sau:
- Chỉ tiêu giá trị thực hiện dịch vụ (Cd): Cd= Qi * Gi (i=1- n)
Trong đó:
Qi : Là khối lượng dịch vụ loại i
Gi : Là giá dịch vụ lại i (được tính trên cơ sở chi phí trực
tiếp, gián tiếp và lợi nhuận).
n : Là số lượng dịch vụ lại i
- Chỉ tiêu mức độ đáp ứng nhu cầu dịch vụ (Kd):
m
Qi0 * Ni 0
i=1
Kd =
m
Qin * Ni n
i=1
Trong đó:
0
Qi : Khối lượng dịch vụ loại i mà doanh nghiệp cung ứng
trong năm.
Ni 0 : Số lượng khách hàng được thực hiện dịch vụ loại i
Qin : Nhu cầu hàng năm về dịch vụ loại i
Ni n : Số lượng khách hàng có nhu cầu dịch vụ loại i
m : Số lượng các dịch vụ được các doanh nghiệp thực hiện.
v
Khi ta áp dụng công thức tính Cd và Kd trên có thể xác định được giá trị
thực hiện dịch vụ và mức độ đáp ứng nhu cầu về từng loại dịch vụ cụ thể.
Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển ngành dịch vụ trên địa
bàn Thủ đô Viêng Chăn
Thứ nhất: sự phát triển của cách mạng khoa học công nghệ hiện đại
và sự xuất hiện ngành nghề mới:
Thứ hai: Sự phát triển của trang thiết bị và cơ sở hạ tầng xã hội phục
vụ cho quá trình phát triển của ngành dịch vụ:
Hai ba: Sự phát triển của phân công lao động, sự gắn kết giữa phân
công lao động trong nước với phân công lao động quốc tế:
Thứ tư: Sự biến đổi cơ cấu nhu cầu cá nhân trong xã hội theo hướng
tỷ trọng thỏa mãn nhu cầu tinh thần ngày càng tăng:
Thư năm: Xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và sự phát triển thị trường
thế giới tạo ra nhu cầu và khả năng phát triển của ngành dịch vụ:
Thứ sáu: Phát triển đồng bộ các loại thị trường (trong đó có thị trường
dịch vụ) là yêu cầu khách quan phát triển thị trường dân tộc thống nhất:
Thứ bảy: Vai trò của Nhà nước trong quá trình hình thành và phát
triển ngành dịch vụ
1.3.
Những bài học rút ra cho sự phát triển ngành dịch vụ trên địa bàn
Thủ đô Viêng Chăn
Để phát triển ngành dịch vụ một cách có hiệu quả, Chính phủ nên tập
trung vào các chính sách phát triển các ngành dịch vụ trọng điểm như: Dịch
vụ thương mại, thông tin liên lạc, giao thông vận tải, du lịch giáo dục và đào
tạo, dịch vụ tài chính… Cũng như tạo ra một cơ chế điều chỉnh phù hợp cho
lĩnh vực này. Sự phát triển của các ngành dịch vụ then chốt này sẽ tạo điều
kiện để nâng cao giá trị gia tăng trong sản xuất công nghiệp, tăng khả năng
cạnh tranh của xuất khẩu, cũng như tạo ra môi trường hấp dẫn hơn để thu hút
đầu tư nước ngoài.
vi
CHƯƠNG 2:
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGÀNH DỊCH VỤ
TRÊN ĐỊA BÀN THỦ ĐÔ VIÊNG CHĂN
2.1. Khái quát về sự phát triển kinh tế - xã hội của nước CHDCND
Lào và Thủ đô Viêng Chăn
2.1.1. Khái quát sự phát triển kinh tế - xã hội của nước CHDCND Lào
Nước CHDCND Lào, phía Bắc có biên giới với CHND Trung Hoa, phía
Nam giáp với Cămphuchia, phía Đông giáp với Việt nam và Myanma và phía Tây
Nam giáp với Thái Lan, với 3/4 là diện tích đồi núi và cao nguyên, đồng bằng chỉ
chiếm 1/5 lãnh thổ nằm hoàn toàn ở phía tây là nơi tập trung đông dân sinh sống.
Khí hậu của Lào thuộc khu vực nhiệt đới gió mùa với sự luân chuyển của hai
luồng gió ngược chiều nhau trong một năm…
Hiện nay, tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế vẫn chiếm ở mức cao.
Cho dù đã có xu hướng giảm dần theo từng năm 2003 đến nay, nhưng mức giảm
là chưa nhiều. Năm 2007, tỷ trọng nông nghiệp vẫn là 42,3%. Với tỷ trọng cao
như vậy, sẽ gây ra nhiều khó khăn cho nền kinh tế trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Trong khi đó, nhóm ngành công nghiệp dù có tăng nhưng mức
tăng là khá chậm (năm 2007, cơ cấu của ngành là 30,1%). Điều này kéo theo tốc
độ tăng trưởng của nhóm ngành dịch vụ cũng chậm lại. Năm 2003 cơ cấu của
ngành dịch vụ là 25,5%, thì đến năm 2007 con số này là 27,6%, điều này càng
thể hiện là cơ cấu ngành dịch vụ vẫn còn chiếm tỷ trọng thấp.
Để có được tỷ lệ cơ cấu như ở trên, trong những năm qua, các ngành
cũng đã có tốc độ tăng trưởng ở mức khá, nhưng chưa đều giữa các ngành. và
được thể hiện qua bảng 2.2:
Nếu nhìn vào tốc độ phát triển của các ngành trong cơ cấu kinh tế trong
giai đoạn 2003 - 2007, có thể dễ dàng nhận thấy các nhóm ngành công nghiệp
tăng trưởng với tốc độ cao hơn cả, năm 2003 tốc độ tăng trưởng đạt 11,5%,
đến năm 2007 là 19,1%, nhìn chung tăng đều qua các năm. Qua đồ thị 2.2 có
thể thấy xu thế tăng trưởng của 2 chỉ tiêu này là khá giống nhau. Về giá trị,
tốc độ tăng trưởng của ngành dịch vụ xấp xỉ với tốc độ tăng trưởng của GDP.
Nếu như trước năm 2004 ngành dịch vụ tăng trưởng với tốc độ thấp hơn tốc
vii
độ của GDP, thì từ giữa năm 2004 đến giữa năm 2005 tốc độ tăng trưởng của
GDP luôn thấp hơn tốc độ tăng trưởng của ngành dịch vụ, nhưng đến năm
2006 tới 2007 thì tốc độ tăng của GDP lại lớn hơn của ngành dịch vụ.
2.1.2. Đặc điểm cơ bản về sự phát triển kinh tế - xã hội của Thủ đô Viêng
Chăn
Hiện nay, Thủ đô Viêng Chăn có các ngành nghề thế mạnh là: Du lịch,
thương mại, công nghiệp. Những ngành nghề đặc biệt phát triển là công
nghiệp thực phẩm, dệt lụa, kéo sợi bông, thuốc da, đóng đồ gỗ, làm hàng thủ
công mỹ nghệ.
Tuy nhiên sau năm 1986, nền kinh tế Lào nói chung và Thủ đô Viêng
Chăn nói riêng đã thực sự bước vào giai đoạn mới của cải cách kinh tế.
Đường lối đổi mới cơ chế quản lý kinh tế đã đưa lại luồng sinh khí mới cho
các ngành kinh tế phát triển, trong đó có lĩnh vực dịch vụ. Thêm vào đó Thủ
đô Viêng Chăn có một hệ thống cơ sở vật chất, giao thông (hệ thống đường
xá, cầu cống, sân bay, nhà ga…) và hệ thống thông tin liên lạc… khá phát
triển. Vì vậy, đây sẽ là động lực rất quan trọng để phát triển ngành dịch vụ nói
riêng và phát triển kinh tế chung của Thủ đô Viêng Chăn.
2.2. Thực trạng phát triển ngành dịch vụ trên địa bàn Thủ đô Viêng
Chăn
2.2.1. Khái quát chung về sự phát triển của ngành dịch vụ trên địa bàn
Thủ đô Viêng Chăn
Ngành dịch vụ đóng góp một phần đáng kể và ngày càng tăng đối
với kinh tế của Thủ đô Viêng Chăn
Trên địa bàn Thủ đô Viêng Chăn, khu vực dịch vụ bao gồm bao gồm 5
nhóm ngành chủ yếu sau:
- Nhóm dịch vụ thương mại: Bao gồm các hoạt động buôn bán như bán
buôn, bán lẻ, phân phối hàng hóa…
- Nhóm dịch vụ vận tải và thông tin liên lạc.
- Nhóm dịch vụ tài chính: Bao gồm các dịch vụ ngân hàng, bảo hiểm,
đầu tư bất động sản, cho thuê và các hoạt động kinh doanh khác.
- Nhóm dịch vụ hành chính công như giáo dục, đào tạo, y tế, quản lý
hành chính…
viii
- Nhóm dịch vụ khác như khách sạn, nhà hàng; chăm sóc sức khỏe và
các dịch vụ khác.
Về cơ cấu kinh tế của Thủ đô Viêng Chăn đã có sự chuyển đổi rõ rệt.
Ngành nông nghiệp chiếm tỷ trọng nhỏ nhất là 16,3% vào năm 2007 giảm
6,3% so với năm 2003; ngành công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn nhất là 45,2%,
so với năm 2003 thì ngành công nghiệp đã tăng là 6,3%; còn ngành dịch vụ
đứng ở vị chí thứ hai với tỷ trọng là 38,5%, tương ứng tăng 0,2% so với năm
2003, và được thể hiện qua bảng 2.3:
Như vậy, cơ cấu của ngành dịch vụ là chưa cao. Năm 2007 cơ cấu
ngành dịch vụ của Thủ đô Viêng Chăn giảm 0,6% so với năm 2006. Đây
là dấu hiệu không tốt cho ngành dịch vụ của Thủ đô Viêng Chăn.
Qua bảng 2.4 ta thấy, tốc độ tăng trưởng GDP của Thủ đô tăng đều qua
các năm từ năm 2003 đến năm 2006. Sang đến năm 2007, tốc độ tăng trưởng
GDP giảm so với năm 2006 là 0,2%. Đối với ngnàh dịch vụ cũng có sự tăng
trưởng trong những năm gần đây. Cụ thể, năm 2003 tốc độ tăng trưởng của
ngành dịch vụ đạt ở mức 7,2% thì đến năm 2005 chỉ còn đạt là 6,7%, giảm so
với năm 2003 là 0,5%. Sang đến năm 2007 thì tốc độ tăng trưởng của ngành
dịch vụ đã đạt được 8,3%, tăng hơn so với năm 2007 là 0,9% và so với năm
2003 là 1,1%.
Về cơ cấu nhóm ngành dịch vụ trên địa bàn Thủ đô Viêng Chăn
Trong 5 nhóm ngành dịch vụ được phân theo bảng 2.5, thì nhóm ngành
dịch vụ thương mại có tỷ trọng lớn nhất. Năm 2004 cơ cấu của ngành dịch vụ
thương mại là 37,6% thì sang đến năm 2007 tăng đến 40,7%. tăng hơn so với
năm 2004 là 3,1%, nhưng lại giảm hơn so vớin năm 2006 là 0,6%... Như vậy,
trong năm 2007 có ba nhóm ngành có xu hướng giảm là ngành dịch vụ
thương mại, ngành dịch vụ vận tải và thông tin liên lạc, ngành dịch vụ hành
chính công.
Ngành dịch vụ đóng góp đáng kể trong việc tạo công ăn việc làm
cho người lao động
Năm 2005 đứng thứ ba là ngành dịch vụ, năm 2005 ngành mới chỉ
chiếm 11,8% thì đến năm 2007 con số này đã là 15,6% tăng hơn so với năm
2005 là 3,8%, và được thể hiện qua bảng 2.6 dưới đây:
ix
Số lượng các doanh nghiệp thuộc sở hữu tư nhân gia tăng mạnh mẽ
Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của khối doanh nghiệp này còn
thấp, hầu hết các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ trên trên địa bàn
Thủ đô Viêng Chăn đều có quy mô nhỏ lẻ, xét cả về số lượng lao động cũng như
năng lực tài chính. Chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần làm cho
số lượng các doanh nghiệp sở hữu ngoài nhà nước trong lĩnh vực dịch vụ tăng
lên đáng kể. Hiện nay, các lĩnh vực dịch vụ được tư nhân hóa mạnh mẽ là
thương mại dịch vụ, kinh doanh nhà hàng, khách sạn… Trong khi đó các lĩnh
vực dịch vụ mà sở hữu nhà nước chiếm ưu thế là giáo dục đào tạo.
Đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực ngành dịch vụ còn thấp
Theo thống kê trung bình trên thế giới thì có tới 60% vốn đầu tư được
đưa vào khu vực dịch vụ. Tuy nhiên, trên địa bàn Thủ đô Viêng Chăn con số
này thấp hơn nhiều. Đầu tư nước ngoài vào khu vực dịch vụ chỉ chiếm
khoảng 22,3% số dự án, tương ứng 28,7% tổng số vốn đầu tư nước ngoài tại
Thủ đô Viêng Chăn trong giai đoạn này.
2.2.2. Thực trạng phát triển một số ngành dịch vụ chủ yếu
2.2.2.1. Ngành dịch vụ thương mại Thủ đô Viêng Chăn
Hoạt động xuất, nhập khẩu:
Tình hình nhập khẩu của Thủ đô Viêng Chăn cũng tăng và luôn tăng ở
mức cao hơn xuất khẩu. Năm 2004 tốc độ tăng trưởng của Thủ đô Viêng Chăn
là 24,63% thì đến năm 2007 con số tương ứng là 35,63%, tăng hơn so với năm
2004 là 11%, được thể hiện qua bảng 2.7:
Về mặt hàng xuất khẩu: Thủ đô Viêng Chăn vẫn đang duy trì xuất khẩu
các mặt hàng có lợi thế là: Mặt hàng nông sản (Cà phê, gô, đậu vàng, gạo…),
thủ công mỹ nghệ, dệt may, da giầy… đồng thời phát triển thêm một số mặt
hàng xuất khẩu mới, tăng cường gia công cho các công ty nước ngoài.
Về thị trường xuất khẩu: Thủ đô Viêng Chăn đã có chủ trương đa
dạng hoá thị trường xuất khẩu, tù những thị trường truyền thống như: Việt Nam,
Thái Lan, Campuchia… thì nay phát triển thêm sang các thị trường phương tây
như: Anh, Đức, Pháp… thị trường nước Mỹ và thị trường Nam phi…
Về mặt hàng nhập khẩu: Các mặt hàng nhập khẩu của Thủ đô Viêng
Chăn, chủ yếu là các mặt hàng như: máy móc thiết bị, nguyên vật liệu đầu
vào của sản xuất, công nghệ, ô tô…
x
Hoạt động thương mại nội địa:
Trong những năm qua, hoạt động thương mại trên thị trường nội địa phát
triển mạnh. Hàng hoá, dịch vụ lưu thông trên thị trường nội địa ngày càng dồi
dào, phong phú, chất lượng, mẫu mã được cải tiến hơn, lượng tiêu thụ trong
nước tăng, có thể đáp ứng mọi nhu cầu của các tầng lớp dân cư. Mạng lưới bán
lẻ phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng theo hướng văn minh hơn, hiện
đại hơn, trải rộng ra nhiều địa điểm trên toànThủ đô. Nhằm thuận tiện hơn cho
người tiêu dùng và đáp ứng đủ nhu cầu của người tiêu dùng.
2.2.2.2. Ngành dịch vụ tài chính - ngân hàng
Tình hình ngành dịch vụ tài chính ngân hàng ở Thủ đô Viêng Chăn
được thể hiện qua bảng 2.8:
Những năm qua, đóng góp của ngành dịch vụ tài chính ngân hàng vào
nhóm ngành dịch vụ nói chung là không đáng kể, chỉ ở mức thấp và có xu hướng
giảm dần: năm 2004 là 1,8% và đến năm 2007 chỉ còn 2,11%, tăng hơn so với
năm 2004 là 0,23%. Tốc độ tăng trưởng của ngành dịch vụ tài chính ngân hàng
cũng không ổn định cho dù như đã nói ở trên, tốc độ thu hút lực lượng lao động
là rất lớn.
2.2.2.3. Ngành dịch vụ bưu chính viễn thông và vận tải
Đóng góp của ngành dịch vụ bưu chính viễn thông và vận tải tăng liên
tục và tốc độ tăng khá cao. Năm 2004 tỷ lệ đóng góp của ngành dịch vụ bưu
chính viễn thông và vận tải ở Thủ đô Viêng Chăn là 24,8%, sang đến năm
2007 tỷ lệ này là 34,05%, tăng hơn so với năm 2004 là 9,25% và tăng hơn so
với năm 2006 là 5,44%.
Về tốc độ tăng trưởng của ngành dịch vụ bưu chính viễn thông và của
ngành dịch vụ vận tải đều tăng trong các năm vừa qua. Cụ thể, năm 2004 tốc độ
tăng của ngành này đạt mức cao nhất là 20,8%, sang đến năm 2007 là 15,74%.
Về ngành dịch vụ bưu chính viễn thông:
Mạng lưới bưu chính viễn thông trải rộng khắp toàn quốc, từ thành thị
đến các vùng nông thôn. Hiện nay, trênThủ đô Viêng Chăn có 2 trung tâm
khai thác quốc gia, 304 bưu cục các cấp, 637 điểm bưu điện, 284 đại lý bưu
điện. Những dịch vụ này đáp ứng nhu cầu nhận gửi thuận lợi của dân cư để
giúp thu hút vốn, nộp cho quỹ hỗ trợ phát triển của nhà nước để nhà nước đầu
tư vào các chương trình mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, bên cạnh đó một
xi
phần nào đáp ứng được nhu cầu của người dân Thủ đô khi mà mức số của
người dânThủ đô đều tăng.
Dịch vụ vận tải ở Thủ đô Viêng Chăn:
Vận tải hàng không: Trong giai đoạn vừa qua, sự phát triển của ngành
dịch vụ hàng không chưa được vững chắc, hiệu quả sức cạnh tranh còn thấp
thể hiện ở chỗ: cơ sở vật chất kỹ thuật và công nghệ hàng không dân dụng còn
lạc hậu so với khu vực và thế giới, số lượng máy bay ít, tỷ lệ máy bay thuộc
sở hữu của nhà nước còn thấp, do trang bị còn thiếu đồng bộ, quy mô hoạt
động vận chuyển còn nhỏ, kết cấu hạ tầng hàng không mà trước hết là các
cảng hàng không, sân bay có nguy cơ phát triển không kịp với yêu cầu phát
triển của vận tải hàng không, từ đó làm giảm sự phát triển đồng thời hạn chế
sức cạnh tranh của ngành dịch vụ hàng không.
Vận tải đường bộ bằng phương tiện công cộng:
Tính từ năm 2004 đến 2007, vân tải hành khách công cộng ở Thủ đô
Viêng Chăn có nhiều tiến bộ vượt bậc cả về số lượng và chất lượng. Số người sử
dụng xe bus ở Thủ đô Viêng Chăn phát triển nhanh chóng, năm 2007 đã vận
chuyển được khoảng 421 nghìn hành khách, gấp gần hai lần năm 2006, đáp ứng
hơn 19% nhu cầu đi lại của khách hàng, được thể hiện qua bảng 2.10:
2.2.2.4. Ngành dịch vụ du lịch
Năm du lịch 1990-1991, Lào mới đón được 24.000 lượt khách, thì năm
du lịch 2005-2006 là năm đầu tiên Lào vượt ngưỡng một triệu khách, đây sẽ
là động lực thúc đẩy sự phát triển của ngành dịch vụ du lịch của Lào nói
chung và của Thủ đô Viêng Chăn nói riêng trong các năm tới, được thể hiện
qua bảng 2.11:
2.3. Đánh giá thực trạng phát triển ngành dịch vụ trên địa bànThủ đô
Viêng Chăn
2.3.1. Kết quả đã đạt trong phát triển ngành dịch vụ trên địa bàn Thủ đô
Viêng Chăn
- Ngành dịch vụ thương mại phát triển, đặc biệt là lĩnh vực xuất khẩu,
do đó đã đóng góp vào cải thiện cán cân thương mại, làm giảm thâm hụt
thương mại của Thủ đô Viêng Chăn nói riêng và nước Lào nói chung. Bên
cạnh đó hoạt động thương mại nội địa đã phát triển mạnh và về cơ bản đã đáp
ứng được nhu cầu, thị hiếu của người dân.
xii
- Sự phát triển của ngành dịch vụ bưu chính viễn thông và vận tải trong
những năm vừa qua đã phần nào đáp ứng và làm thoả mãn được nhu cầu của
người dân Thủ đô, góp phần vào làm tăng thu hút đầu tư từ nước ngoài vào
Thủ đô Viêng Chăn nói riêng và vào nước Lào nói chung.
- Ngành dịch vụ tài chính ngân hàng đã có sự phát triển mạnh mẽ trong
mấy năm vừa qua, nó đã góp phần lớn vào việc luân chuyển vốn từ người có
vốn tới người thiếu vốn, điều đó làm tăng tính hiệu quả sử dụng vốn của Thủ
đô Viêng Chăn.
- Ngành dịch vụ góp phần tạo ra được nhiều việc làm cho người lao
động ởThủ đô Viêng Chăn và của các khu vực lân cận, làm tăng thu nhập cho
người dân và nâng dần mức sống của người dânThủ đô Viêng Chăn.
2.3.2. Những hạn chế
- Ngành dịch vụ là bộ phận cấu thành và càng giữ vai trò quan trọng
trong nền kinh tế quốc dân. Hiện nay, ngành dịch vụ ở Thủ đô Viêng Chăn
chưa thể hiện được vai trò nổi bật như ở các nước có nền kinh tế phát triển,
đóng góp của khu vực dịch vụ cho GDP trong giai đoạn gần đây mới chỉ ở
mức 38%. Trong khi con số này ở các đô thị lớn trên thế giới là trên 50%.
- Tốc độ tăng trưởng của khu vực dịch vụ trên địa bàn Thủ đô Viêng
Chăn thấp hơn tốc độ tăng trưởng GDP, đặc biệt là trong nhóm ngành dịch vụ
hỗ trợ kinh doanh và bưu chính viễn thông - những nhóm ngành dịch vụ có
vai trò quan trọng dịch vụ sự tăng trưởng của nền kinh tế cũng như môi
trường kinh doanh cho hoạt động của các doanh nghiệp.
- Việc phát triển ngành dịch vụ của Thủ đô Viêng Chăn chưa theo một
quy hoạch và kế hoạch cụ thể, thiếu chiến lược phát triển lâu dài, dẫn đến có
những bước đi và lộ trình còn chưa phù hợp với yêu cầu của thực tế.
- Số lượng dịch vụ mà Thủ đô Viêng Chăn đang cung cấp còn thiếu
nhiều so với nhu cầu của người dânThủ đô.
- Trình độ lao động cũng như trình độ chuyên môn hoá trong sản xuất
và cung ứng dịch vụ còn hạn chế và ở mức thấp hơn nhiều so với các nước
trong khu vực, như: Thái độ phục vụ của người lao động trực tiếp chưa cao,
chưa có quy chế và tiêu chuẩn cụ thể về phục vụ…
xiii
CHƯƠNG 3:
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGÀNH DỊCH VỤ
TRÊN ĐỊA BÀN THỦ ĐÔ VIÊNG CHĂN
3.1. Quan điểm, định hướng và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trên
địa bàn Thủ đô Viêng Chăn đến năm 2015
Mục tiêu phát triển ngành dịch vụ
Mục tiêu tổng thể của khu vực dịch vụ là phát triển một khu vực dịch
vụ hiệu quả và có năng lực cạnh tranh để:
(i) tạo nguồn đầu vào có giá trị gia tăng cao phục vụ quá trình công nghiệp
hóa hiện đại hóa, đặc biệt dịch vụ những ngành có định hướng xuất khẩu.
(ii) đảo ngược tình trạng thâm hụt đang ngày càng gia tăng trong cán
cân thương mại dịch vụ.
(iii) tạo môi trường kinh tế hấp dẫn để thu hút đầu tư nước ngoài.
(iv) hỗ trợ tăng trưởng bền vững và từng bước chuyển sang nền kinh tế
tri thức.
(v) góp phần đáp ứng các mục tiêu phát triển nguồn nhân lực phục vụ
cho sự phát triển lâu dài.
Mục tiêu cụ thể đến năm 2015: Toàn bộ các hoạt động dịch vụ tính theo giá
trị gia tăng đạt nhịp độ tăng trưởng bình quân 8-10%/năm và đến 2015 chiếm 5060% GDP trên địa bàn Thủ đô và chiếm 60-70% tổng số lao động.
3.2. Các giải pháp nhằm phát triển ngành dịch vụ trên địa bàn Thủ
đô Viêng Chăn
3.2.1. Nhóm giải pháp tạo môi trường pháp lý thuận lợi để phát triển
ngành dịch vụ
- Mở rộng quyền, môi trường kinh doanh cho các doanh nghiệp thuộc
các thành phần kinh tế hoạt động trong ngành dịch vụ
- Sửa đổi các qui định, tiêu chuẩn, định mức kinh tế - kỹ thuật quản lý
hoạt động ngành dịch vụ phù hợp với các cơ chế quản lý kinh tế và cam kết
quốc tế trên địa bàn Thủ đô Viêng Chăn
- Giải pháp giảm bớt các thủ tục, qui định quản lý hành chính đối với
hoạt động trong ngành dịch vụ
- Giải pháp kiện toàn hệ thống quản lý Nhà nước đối với ngành dịch vụ
xiv
3.2.2. Nhóm giải pháp thúc đẩy, nâng cao năng lực cạnh tranh hoạt động
trong ngành dịch vụ
- Nâng cao khả năng cạnh tranh ngành dịch vụ trên địa bàn Thủ đô Viêng
Chăn
- Phát triển xúc tiến ngành dịch vụ trên địa bàn Thủ đô Viêng Chăn
- Phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ để thúc đẩy phát triển
ngành dịch vụ trên địa bàn Thủ đô Viêng Chăn
- Phát triển nguồn nhân lực trong ngành dịch vụ trên địa bàn Thủ đô Viêng
Chăn
- Khuyến khích doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia
phát triển ngành dịch vụ trên địa bàn Thủ đô Viêng Chăn
3.2.3. Nhóm giải pháp tạo điều kiện hội nhập cho ngành dịch vụ
- Thành lập hiệp hội doanh nghiệp ngành hàng trên địa bàn Thủ đô Viêng
Chăn
- Xây dựng chiến lược và định hướng phát triển thương mại dịch vụ
- Qui hoạch phát triển ngành dịch vụ trên địa bàn Thủ đô Viêng Chăn
- Đổi mới công tác kế hoạch hóa hoạt động ngành dịch vụ trên địa bàn
Thủ đô Viêng Chăn
- Đổi mới công tác thông tin thống kê ngành dịch vụ trên địa bàn Thủ
đô Viêng Chăn
- Đổi mới công kế toán trong các doanh nghiệp kinh doanh ngành dịch
vụ trên địa bàn Thủ đô Viêng Chăn
3.2.4. Nhóm giải pháp để phát triển một số ngành dịch vụ then chốt
3.2.4.1. Dịch vụ thương mại
- Về xuất, nhập khẩu: Trong năm tới để phát triển lĩnh vực này, Thủ đô
Viêng Chăn cần có chính sách ưu đãi để phát triển các ngành sản xuất mà Lào có
lợi thế để xuất khẩu như: Hàng nông sản, thủ công mỹ nghệ, giầy da… Bên cạnh
đó là khuyến khích người tiêu dùng dùng hàng trong nước, để phát triển các
ngành sản xuất trong nước, mặt khác cải thiện được cán cân thanh toán.
- Về kinh doanh nội địa: Cần phát triển các trung tâm kinh tế lớn, như hệ
thống các siêu thị, trung tâm thương mại, chợ, các cửa hàng đại lý… Cần quy
hoạch rõ địa điểm và dành đất để thu hút đầu tư trong và ngoài nước, cần có các
chính sách khuyến khích đầu tư, ưu đãi cho các nhà đầu tư vào lĩnh vực này.
xv
- Về đầu tư và phát triển cơ sở hạ tầng thương mại: Đầu tư và xây dựng
thêm các trung tâm triển lãm, giới thiệu sản phẩm, khu hội chợ, hệ thống các
trung tâm bán buôn, bán lẻ, trung tâm đầu tư công nghệ, trang thiết bị hiện đại,
hệ thống đường xá, giao thông, thông tin liên lạc, điện thoại, fax…
- Trong thời gian tới cần chú trọng đào tạo nhân lực có trình độ cao về
kinh doanh và quản lý, am hiểu thị trường, vận hành tốt các kênh phân phối,
cách thức bán hàng…
3.2.4.2. Dịch vụ tài chính
Dịch vụ ngân hàng và tín dụng:
- Phát triển và ứng dụng các công nghệ ngân hàng.
- Phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống ngân hàng thông qua tăng
cường đào tạo và đào tạo lại các cán bộ cũ, bổ sung các cán bộ mới có năng
lực chuyên môn và kiến thức cao. Ngoài ra, cần tính giảm bộ máy hành chính
và loại bỏ những lao động có năng suất thấp.
- Nghiên cứu cải tiến hệ thống thống kê các khoản giao dịch quốc tế
trong ngân hàng để xác định chính xác hơn về quy mô của từng loại hoạt
động dịch vụ.
- Từng bước gỡ bỏ các qui định có tính can thiệp vào quy trình nghiệp
vụ, vào quyết định kinh doanh và các quy định hạn chế quyền tự chủ về quản
lý nhân sự, quản lý tài chính, tiền lương và hệ thống khuyến khích cũng như
hệ thống tài chính nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh quốc tế của các
ngân hàng thương mại quốc doanh.
- Lành mạnh hóa tình hình tài chính của các ngân hàng thương mại
quốc doanh với việc cơ cấu lại nợ, làm sạch bảng cân đối tài sản và áp dụng
các biện pháp ngăn ngừa phát sinh nợ khó đòi thông qua giảm tỷ lệ nợ quá
hạn của các ngân hàng thương mại.
- Tách bạch hoạt động kinh doanh theo nguyên tắc thị trường và hoạt
động tín dụng ưu đãi theo chính sách của Nhà nước. Nói cách khác là phân
biệt các hoạt động cho vay chính sách và cho vay thương mại, tạo điều kiện
cho các ngân hàng thương mại quốc doanh thực sự hoạt động kinh doanh tiền
tệ - tín dụng và dịch vụ ngân hàng theo nguyên tắc thị trường.
- Rà soát lại các qui định về an toàn hệ thống, bao gồm các qui định về
vốn điều lệ, về trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý của các ngân hàng thương
xvi
mại, về chế độ báo cáo tài chính, về qui chế thanh tra, giám sát, về bảo đảm
tiền vay cùng những qui định can thiệp khẩn cấp khác. Thiết lập hệ thống
đánh giá, phân loại ngân hàng theo tiêu chuẩn.
Dịch vụ bảo hiểm:
- Tăng vốn điều lệ, việc bổ sung vốn điều lệ đối với các doanh nghiệp
trên địa bàn Thủ đô Viêng Chăn.
- Đa dạng hóa sản phẩm, khuyến khích các doanh nghiệp nghiên cứu
triển khai các sản phẩm bảo hiểm mới, đặc biệt là các sản phẩm bảo hiểm
phục vụ chương trình phát triển ngành dịch vụ. Để đạt được mục đích này cần
thực hiện các biện pháp hỗ trợ có thời hạn như: Cấp kinh phí thiết kế sản
phẩm, trợ giá phí bảo hiểm trong thời gian đầu, giảm thuế cho các sản phẩm
bảo hiểm mới.
- Hiện đại hóa công nghệ thông tin: Tập trung vào việc phát triển công
nghệ quản lý, đánh giá rủi ro, đề phòng và hạn chế tổn thất, tính phí và trích lập
dự phòng nghiệp vụ, hệ thống báo cáo tài chính, hệ thống quản lý dữ liệu.
- Đa dạng hóa và mở rộng hoạt động đầu tư: các doanh nghiệp bảo hiểm
cần điều chỉnh chiến lược đầu tư và các cơ sở hạ tầng, các dự án đầu tư dài hạn.
- Phát triển nguồn nhân lực, đào tạo đội ngũ chuyên gia trong nhiều lĩnh
vực hoạt động kinh doanh bảo hiểm, nâng cao nhận thức của người dân về
tầm quan trọng của bảo hiểm.
3.2.4.3. Dịch vụ bưu chính viễn thông
Phát huy mọi nguồn lực của ngành, của các thành phần kinh tế để xây
dựng và phát triển mạnh cơ sở vật chất kỹ thuật truyền thông, có dung lượng
lớn, tốc dộ cao, phủ sóng toàn bộ trên địa bàn Thủ đô Viêng Chăn và các
vùng phụ cận, hoạt động có hiệu quả, an toàn và tin cậy, đón đầu được xu
hướng hội tụ công nghệ và dịch vụ viễn thông, tin học, truyền thông quảng
bá, làm nền tảng cho việc phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin, thương
mại điện tử…Thủ đô Viêng Chăn sẽ trở thành đầu nối quan trọng trên xa lộ
thông tin quốc gia, được xây dựng và phát triển trên nền tảng công nghệ tiên
tiến như IP, ATM…
3.2.4.4. Ngành du lịch
Xây dựng chính sách phát triển cơ sở hạ tầng các điểm du lịch trọng tâm,
các khu di tích, các điểm du lịch tiềm năng… Trên địa bànThủ đô Viêng Chăn.
xvii
Xây dựng chính sách thu hút vốn đầu tư từ các doanh nghiệp của mọi thành
phần kinh tế, cho phép kinh doanh du lịch quốc tế được hưởng các chế độ ưu đãi
khuyến khích xuất khẩu. Chính quyền cần ưu đãi đầu tư đối với các lĩnh vực, ngành
nghề, dự án trọng điểm đầu tư du lịch; có chính sách thuận lợi cho việc đầu tư vốn
như ưu đãi thuế, lệ phí, tiền sử dụng đất, cho vay vốn, bảo lãnh…
Về chính sách xuất, nhập cảnh và hải quan: Tiếp tục đơn giản hóa các
thủ tục xuất nhập cảnh, quá cảnh đối với người và hành lý của khách du lịch
phù hợp với khả năng quản lý của địa phương và thông lệ quốc tế.
Về thuế: Áp dụng thuế xuất nhập khẩu đối với trang thiết bị khách sạn,
cơ sở vui chơi giải trí, vật tư phục vụ du lịch mà trong nước chưa sản xuất
được bằng với thuế suất nhập khẩu tư liệu sản xuất; miễn giảm thuế, giảm lãi
suất, ưu tiên vốn vay đầu tư đối với các dự án tại vùng qui hoạch trọng điểm
phát triển du lịch.
3.2.4.5. Dịch vụ vận tải
Hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế chính sách: Hệ thống pháp luật
và cơ chế chính sách đối với hoạt động kinh doanh dịch vụ giao thông vận tải
cần được bổ sung kịp thời, tạo sự thông thoáng trong kinh doanh dịch vụ phù
hợp với yêu cầu trên địa bàn Thủ đô Viêng Chăn.
Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành vận tải,
trong đó có các ngành vận tải đường bộ, đường sắt, đường thủy.
Tăng cường công tác quản lý đối với dịch vụ giao thông vận tải: Phối
hợp công tác giữa các cơ quan quản lý chuyên ngành của địa phương trong
việc cung cấp thông tin về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, trong việc
làm thủ tục hành chính các loại, trong việc thanh kiểm tra, xử lý nghiêm mọi
vi phạm.
Khuyến khích đầu tư lĩnh vực dịch vụ vận tải nhằm tạo tác dụng tích cực
trong việc nâng cao chất lượng dịch vụ trên địa bànThủ đô Viêng Chăn.
xviii
KẾT LUẬN
Ngày nay, các ngành dịch vụ ngày càng chứng tỏ vai trò quan trọng
trong sự phát triển kinh tế thế giới, của mỗi quốc gia cũng như đối với phát
triển kinh tế vùng. Cùng với sự phát triển kinh tế, phát triển thương mại dịch
vụ đã làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế với xu hướng giá trị của các ngành dịch
vụ chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong cơ cấu kinh tế ngành.
Thủ đô Viêng Chăn với vai trò là trung tâm kinh tế lớn nhất của cả
nước, là đầu tư trong quá trình phát triển của cả nước Lào, đã xác định phát
triển ngành dịch vụ là yếu tố cơ bản để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, trong đó khẳng định vai trò và vị trí quan trọng của các ngành
dịch vụ như: Du lịch, bưu chính viễn thông, tài chính ngân hàng, vận tải…
Trong sự phát triển của đất nước. Cho tới nay, ngành dịch vụ trên địa bàn Thủ
đô Viêng Chăn vẫn đang phát triển, tuy chưa thật sự tương xứng với tiềm
năng của nó.
Kết quả nghiên cứu của đề tài cho thấy phát triển ngành dịch vụ trên địa
bànThủ đô Viêng Chăn đang có nhiều thuận lợi nhưng cũng gặp không ít khó
khăn và thách thức. Đề tài đã xây dựng được một hệ thống các giải pháp chủ
yếu nhằm thúc đẩy phát triển ngành dịch vụ ở Thủ đô Viêng Chăn trong thời
gian tới. Tuy nhiên, để đạt được kế quả như mong đợi thì cần phải có sự kế hợp
hài hoà giữa các giải pháp, sao cho giải pháp này hỗ trợ và làm động lực cho
giải pháp kia, nhằm khai thác được các mặt thuận lợi và khắc phục hoặc hạn
chế trong sự phát triển ngành dịch vụ trên địa bàn Thủ đô Viêng Chăn.