Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Phát triển thị trường xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (285.01 KB, 15 trang )

i

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Mặt hàng thủ công mỹ nghệ (TCMN) - một trong các ngành được đánh giá là
có nhiều tiềm năng phát triển bền vững, xuất khẩu lớn và có tỷ suất lợi nhuận cao vì
TCMN là ngành hàng xuất khẩu có tỷ lệ ngoại tệ thực thu bằng 95-97% giá trị xuất
khẩu, hơn hẳn các ngành nghề khác, do chủ yếu sản xuất từ nguồn nguyên liệu sẵn
có trong nước.
Tuy nhiên, hiện nay, so với các mặt hàng xuất khẩu khác, kim ngạch xuất
khẩu hàng TCMN vẫn chiếm tỷ trọng thấp. Nguyên nhân là do hàng TCMN chưa
phong phú đa dạng; số lượng các làng nghề truyền thống làm hàng xuất khẩu phát
triển chưa nhiều và còn kém đồng đều giữa các vùng; trình độ tập trung hoá và
chuyên môn hoá chưa cao, từ đó năng lực xuất khẩu còn nhỏ bé, sức cạnh tranh của
nhiều hàng hoá thủ công mỹ nghệ còn yếu, lực lượng trực tiếp sản xuất kinh doanh
tuy đông nhưng không mạnh, thiếu kỹ năng và kinh nghiệm tổ chức sản xuất kinh
doanh, nhất là lúng túng trong quan hệ tìm thị trường xuất khẩu. Do đó, việc tìm
kiếm và phát triển thị trường xuất khẩu hàng TCMN hiện đang là vấn đề cấp thiết
đòi hỏi cần phải có những nghiên cứu và giải pháp thiết thực.
Xuất phát từ tình hình thực tế trên cùng với mong muốn được đóng góp một
phần hữu ích trong việc tìm ra các giải pháp thúc đẩy xuất khẩu một mặt hàng giàu
tiềm năng của Việt Nam, tôi đã chọn đề tài: “Phát triển thị trường xuất khẩu hàng
thủ công mỹ nghệ của Việt Nam” cho luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Trong thời gian gần đây, đã có một số đề tài nghiên cứu về ngành thủ công
mỹ nghệ như: “Những biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của
nhóm hàng TCMN trên thị trường Liên minh Châu Âu (EU)” của tác giả Đinh Minh
Hải (2002), “Giải pháp ứng dụng thương mại điện tử cho các doanh nghiệp TCMN
ở Hà Nội” của tác giả Vũ Thị Minh Hiền (2003), “Hoạt động xuất khẩu hàng



ii

TCMN khu vực ngoài Nhà nước của Hà Nội” của tác giả Nguyễn Minh Phương
(2006),... nhưng chưa có đề tài nào nghiên cứu về vấn đề phát triển thị trường xuất
khẩu đối với hàng TCMN của Việt Nam. Chính vì vậy, đề tài nghiên cứu trong luận
văn có thể nói là mang tính thực tiễn cao, đặc biệt là trong quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
3.1. Mục đích nghiên cứu.
Mục đích nghiên cứu của luận văn là đề xuất một số giải pháp và kiến nghị
nhằm phát triển thị trường xuất khẩu hàng TCMN của Việt Nam đến năm 2015.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Từ mục đích nghiên cứu như ở trên, luận văn cần thực hiện một số nhiệm vụ
cụ thể như sau:
- Luận giải cơ sở lý luận về thị trường, thị trường xuất khẩu, phát triển thị trường
xuất khẩu và sự cần thiết phải phát triển thị trường xuất khẩu hàng TCMN của
Việt Nam.
- Phân tích, đánh giá thực trạng phát triển thị trường xuất khẩu hàng TCMN của
Việt Nam trong 5 năm gần đây. Rút ra các ưu điểm, những hạn chế và nguyên
nhân của những hạn chế đó.
- Dự báo các cơ hội và thách thức đối với việc phát triển thị trường xuất khẩu
hàng TCMN trong thời gian tới. Đề xuất một số giải pháp nhằm giúp Việt Nam
phát triển thị trường xuất khẩu hàng TCMN đến năm 2015.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu: Là hoạt động phát triển thị trường xuất khẩu hàng
TCMN của các doanh nghiệp Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu số liệu trong 5 năm gần đây từ năm 2004
đến hết năm 2008 và đề xuất giải pháp đến năm 2015.



iii

5. Phương pháp nghiên cứu.
Luận văn sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau, trong
đó, sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử làm phương
pháp nghiên cứu tổng quát. Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng phương pháp phân
tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, mô hình hoá làm phương pháp nghiên cứu cụ thể
để rút ra các kết luận cốt lõi làm cơ sở cho các giải pháp và đề xuất.
6. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần lời nói đầu và kết luận, bố cục của luận văn được chia làm 3
chương:
 Chương 1: Lý luận chung về phát triển thị trường xuất khẩu và sự cần thiết
phải phát triển thị trường xuất khẩu hàng TCMN của Việt Nam.
 Chương 2: Thực trạng phát triển thị trường xuất khẩu hàng TCMN của Việt
Nam giai đoạn 2004 - 2008.
 Chương 3: Định hướng và một số giải pháp phát triển thị trường xuất khẩu
hàng TCMN của Việt Nam đến năm 2015.


iv

CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG XUẤT
KHẨU VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG
XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ CỦA VIỆT NAM.
1.1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU.
1.1.1. Một số thuật ngữ.
 Xuất khẩu: Xuất khẩu là hoạt động mua bán, trao đổi hàng hoá, dịch vụ giữa
các chủ thể có quốc tịch khác nhau, không kể hàng hoá đó có ra khỏi phạm vi hành
chính của quốc gia đó hay không nhằm mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận.

 Thị trường xuất khẩu: Thị trường xuất khẩu của một doanh nghiệp là tập
hợp những khách hàng nước ngoài tiềm năng, tức là những khách hàng nước ngoài
đang mua hoặc sẽ mua sản phẩm của doanh nghiệp đó.
 Phát triển thị trường xuất khẩu: Phát triển thị trường là tổng hợp các cách
thức, các biện pháp của doanh nghiệp để đưa khối lượng hàng hoá tiêu thụ trên thị
trường đó đạt mức tối đa.
1.1.2. Các phương thức phát triển thị trường xuất khẩu.
 Phát triển thị trường xuất khẩu theo chiều rộng: Phát triển thị trường xuất
khẩu theo chiều rộng là quá trình phát triển về số lượng. Số lượng ở đây có thể là số
lượng thị trường (số lượng quốc gia, vùng lãnh thổ...), số lượng khách hàng hoặc số
lượng mặt hàng.
 Phát triển thị trường xuất khẩu theo chiều sâu: Phát triển thị trường theo
chiều sâu có nghĩa là doanh nghiệp cần phải tìm mọi cách để tăng khả năng tiêu thụ
sản phẩm của mình trên thị trường hiện tại.
1.1.3. Nội dung hoạt động phát triển thị trường xuất khẩu.
Hoạt động này được nghiên cứu với 4 nội dung chính: Nghiên cứu thị trường
xuất khẩu, lập chiến lược và kế hoạch phát triển thị trường xuất khẩu, thực hiện
chiến lược và kế hoạch phát triển thị trường xuất khẩu và đánh giá và kiểm tra việc
thực hiện chiến lược và kế hoạch phát triển thị trường xuất khẩu.


v

1.1.4. Các chỉ tiêu đánh giá mức độ phát triển thị trường xuất khẩu.
Để phân tích, đánh giá mức độ phát triển thị trường xuất khẩu, doanh nghiệp
có thể sử dụng một số chỉ tiêu: Số lượng thị trường xuất khẩu qua các năm, số
lượng thị trường xuất khẩu tăng bình quân trong từng giai đoạn và tốc độ tăng kim
ngạch xuất khẩu bình quân.
1.2. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG
XUẤT KHẨU.

1.2.1. Các nhân tố thuộc về nước xuất khẩu.
Với nội dung này, luận văn nghiên cứu ảnh hưởng của các nhân tố thuộc về
nước xuất khẩu đến hoạt động phát triển thị trường theo hai giác độ: (1) Các nhân
tố từ phía doanh nghiệp xuất khẩu gồm có: Loại hàng hoá xuất khẩu, nguồn lực tài
chính và nguồn nhân lực và (2) Các nhân tố từ phía Nhà nước xuất khẩu gồm:
Chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước và mức độ hội nhập kinh tế quốc tế của
nước xuất khẩu.
1.2.2. Các nhân tố thuộc về nước nhập khẩu.
Phần này, luận văn tập trung nghiên cứu tác động của một số nhân tố sau:
Các chính sách, chế độ ưu đãi dành cho hàng hoá của nước xuất khẩu, mức độ cạnh
tranh trên thị trường của nước nhập khẩu, tình hình kinh tế của nước nhập khẩu,
tình hình chính trị của nước nhập khẩu và hệ thống luật pháp của nước nhập khẩu.
1.3. SỰ CẦN THIẾT PHẢI PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU
HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ CỦA VIỆT NAM.
 Để tăng doanh số bán hàng và hạn chế rủi ro.
 Để tìm đầu ra cho hàng hóa sản xuất trong nước.
 Để cạnh tranh và khẳng định vị thế của hàng TCMN VN trên thị trường
quốc tế.
 Hàng TCMN có giá trị thực thu cao, đóng góp tích cực trong kim ngạch
xuất khẩu của cả nước.
 Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn.
 Giải quyết công ăn việc làm, tạo thu nhập cho người dân và giảm bớt các tệ
nạn xã hội.
 Gìn giữ và bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc.


vi

CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU

HÀNG TCMN CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2004 - 2008
2.1. KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH SẢN XUẤT VÀ XUẤT KHẨU HÀNG THỦ
CÔNG MỸ NGHỆ CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2004 - 2008.
2.1.1. Khái quát về tình hình sản xuất hàng TCMN của Việt Nam.
2.1.2. Đặc thù của hoạt động xuất khẩu hàng TCMN Việt Nam.
Hoạt động xuất khẩu hàng TCMN của Việt Nam thường được chia thành hai
hình thức xuất khẩu chủ yếu: Xuất khẩu qua biên giới và xuất khẩu tại chỗ.
 Xuất khẩu qua biên giới: Đối với hình thức xuất khẩu này, sản phẩm TCMN
xuất khẩu của nước ta chủ yếu được làm ra theo hai phương thức: (1) Theo thiết kế
của các nghệ nhân VN và (2) Gia công sản phẩm theo đơn đặt hàng của nước ngoài.
 Xuất khẩu tại chỗ: Với hình thức xuất khẩu này, các doanh nghiệp sẽ chủ
động sản xuất ra sản phẩm TCMN mang đậm bản sắc văn hoá Việt Nam để bán cho
các du khách nước ngoài đến thăm Việt Nam.
2.1.3. Khái quát tình hình xuất khẩu hàng TCMN của Việt Nam.
 Kim ngạch xuất khẩu: Các mặt hàng thủ công mỹ nghệ có mức độ tăng
trưởng khá cao trong những năm qua, bình quân vào khoảng 18%/năm, với kim
ngạch xuất khẩu 450 triệu USD trong năm 2004 và đạt hơn 750 triệu USD vào năm
2007, năm 2008 mặc dù bị tác động ít nhiều của suy thoái kinh tế toàn cầu nhưng
kim ngạch xuất khẩu cũng đã đạt gần 850 triệu USD.
 Một số mặt hàng TCMN xuất khẩu chủ lực của Việt Nam: Trong các mặt
hàng TCMN của nước ta thì có 5 nhóm mặt hàng xuất khẩu chủ lực, đó là: đồ gỗ;
hàng mây, tre, cói, lá, thảm; hàng gốm, sứ; hàng sơn mài mỹ nghệ và hàng thêu.
Trong đó, mặt hàng đồ gỗ, hàng gốm sứ và hàng mây tre cói lá thảm luôn chiếm tỷ
trọng cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng TCMN của Việt Nam.
Cụ thể, đối với hàng đồ gỗ, kim ngạch xuất khẩu của nhóm hàng này trong
năm 2007, 2008 luôn chiếm tỷ trọng cao nhất là 26%, tương ứng với giá trị xuất
khẩu năm 2007 là 198,4 triệu USD, và năm 2008 là 220,5 triệu USD. Đối với hàng
mây, tre, cói, lá và thảm các loại thì năm 2004, kim ngạch xuất khẩu đối với nhóm



vii

hàng này chiếm tới 25%, đứng vị trí thứ 2 sau mặt hàng gốm sứ, tuy nhiên, tỷ trọng
xuất khẩu nhóm hàng này có xu hướng giảm dần qua các năm, cụ thể: năm 2005
chiếm 22%, năm 2006 chiếm 21% nhưng đến năm 2007, 2008 con số này chỉ còn là
19%. Còn đối với hàng gốm, sứ thì từ năm 2004 đến 2006, mặt hàng gốm, sứ luôn
chiếm tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu cao nhất, đặc biệt trong năm 2005, kim ngạch
xuất khẩu mặt hàng này đạt tới 29%. Tuy nhiên, đến năm 2007, 2008, tỷ trọng kim
ngạch xuất khẩu mặt hàng này chỉ đạt 25%, đứng ở vị trí thứ hai sau mặt hàng gỗ.
2.2. PHÂN TÍCH CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC PHÁT TRIỂN
THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU HÀNG TCMN VN GIAI ĐOẠN 2004-2008.
 Nguồn nguyên liệu: Thời gian gần đây, do sự khai thác bừa bãi, không có kế
hoạch của các địa phương nên các nguồn nguyên liệu này cũng đã dần dần bị giảm
cả về số lượng và chất lượng, trong khi đó nhu cầu về nguyên liệu lại ngày càng
tăng lên.
 Nguồn vốn: Nhìn chung, các cơ sở sản xuất hàng TCMN của nước ta đa số
đều có quy mô vừa, nhỏ và thiếu vốn. Nhu cầu sử dụng vốn rất lớn nhưng việc huy
động vốn hiện nay gặp rất nhiều khó khăn.
 Nhu cầu của thị trường đối với hàng TCMN: Trong những năm qua, nhu
cầu hàng TCMN trên thế giới tăng lên khá nhanh tạo điều kiện thuận lợi cho các
doanh nghiệp xuất khẩu hàng TCMN nước ta tạo được nhiều thị trường lớn như EU,
Nhật Bản, Đài Loan, Bắc Mỹ…
 Sự cạnh tranh gay gắt của nhiều nước trong khu vực: Hiện tại, hàng
TCMN của Việt Nam phải cạnh tranh gay gắt với hàng TCMN của một số đối thủ
cạnh tranh có nhiều tiềm năng và kinh nghiệm trong cùng khu vực như: Trung
Quốc, Thái Lan, Singapore…
 Các chính sách của Nhà nước liên quan đến hàng TCMN: Các cơ chế,
chính sách mới thông thoáng đã tạo điều kiện thuận lợi, tiếp sức cho doanh nghiệp
phát triển thị trường xuất khẩu. Tuy nhiên, trong thực tế vẫn còn không ít trường
hợp chậm triển khai hay thực hiện chưa đồng bộ giữa các bộ, ngành tạo rào cản

không đáng có đối với doanh nghiệp xuất khẩu.
 Sự kiện Việt Nam gia nhập tổ chức Thương mại thế giới (WTO): Sự kiện
này đã và đang giúp các doanh nghiệp trong và ngoài nước mở rộng cơ hội giao
thương. Đây là một thuận lợi lớn cho các doanh nghiệp TCMN Việt Nam trong việc


viii

đưa hàng hoá thâm nhập vào thị trường thế giới.
 Sự ra đời của Hiệp hội xuất khẩu hàng TCMN Việt Nam (Vietcraft): Hiệp
hội có vai trò to lớn trong việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng TCMN của Việt Nam sang
các nước.
2.3. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU HÀNG
TCMN CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2004 - 2008.
2.3.1. Cơ cấu thị trường xuất khẩu hàng TCMN của các doanh nghiệp VN.
 Xét theo các khu vực thị trường: Hiện nay, hàng TCMN của nước ta đã có
mặt trên khắp thị trường các châu lục, thị trường xuất khẩu có kim ngạch lớn nhất là
thị trường các nước châu Âu, sau đó đến châu Á, châu Mỹ, châu Úc và cuối cùng là
châu Phi.
 Xét theo các thị trường quốc gia đơn lẻ: Thị trường xuất khẩu TCMN của
Việt Nam chủ yếu là nhỏ lẻ, giá trị kim ngạch xuất khẩu thấp. Điều này cho thấy
hoạt động phát triển thị trường xuất khẩu mới chỉ đạt được hiệu quả về chiều rộng.
Các doanh nghiệp xuất khẩu cần nỗ lực hơn nữa để sản phẩm TCMN của Việt Nam
thâm nhập vào các thị trường quốc tế được sâu hơn.
2.3.2. Các hoạt động phát triển thị trường xuất khẩu hàng TCMN của các
doanh nghiệp Việt Nam giai đoạn 2004 - 2008.
 Nghiên cứu thị trường xuất khẩu: Hiện nay, các doanh nghiệp xuất khẩu
hàng TCMN của Việt Nam đã bắt đầu có ý thức và chủ động tìm kiếm và nghiên
cứu các thông tin về các thị trường xuất khẩu như. Tuy nhiên, do nhân lực của các
doanh nghiệp còn nhiều hạn chế như về: ngoại ngữ, kỹ năng giao tiếp,… nên thông

tin thu được còn ít và không được chọn lọc.
 Lập chiến lược và kế hoạch phát triển thị trường xuất khẩu: Công tác lập
chiến lược và kế hoạch phát triển thị trường của các doanh nghiệp xuất khẩu hàng
TCMN của Việt Nam còn nhiều hạn chế, chưa được nhiều doanh nghiệp quan tâm.
Nguyên nhân là do các doanh nghiệp vẫn quen với việc sản xuất và kinh doanh một
cách thụ động, chủ yếu là sản xuất theo đơn đặt hàng từ các đối tác nước ngoài,
hoặc là cứ sản xuất theo ý chủ quan của mình rồi chờ khách hàng tìm đến.
 Thực hiện chiến lược và kế hoạch phát triển thị trường xuất khẩu: Hiện
nay, một số doanh nghiệp xuất khẩu hàng TCMN của Việt Nam đã phần nào vận


ix

dụng được chiến lược thâm nhập thị trường: tập trung vào một số ít các sản phẩm
hiện có trên một số ít các thị trường hiện có. Tuy nhiên, có rất ít doanh nghiệp
TCMN Việt Nam nhận thức được và biết cách vận dụng các loại hình chiến lược
khác như chiến lược phát triển thị trường, chiến lược phát triển sản phẩm, chiến
lược đa dạng hóa.
 Đánh giá và kiểm tra việc thực hiện chiến lược và kế hoạch phát triển thị
trường xuất khẩu: Do việc lập chiến lược và kế hoạch phát triển thị trường hiện
chưa được nhiều doanh nghiệp quan tâm và theo sát nên công tác đánh giá, kiểm tra
việc thực hiện chiến lược và kế hoạch cũng phần lớn vẫn chỉ mang tính hình thức
chứ chưa có hiệu quả trong việc phát huy những thành tựu đã đạt được và hạn chế
những khó khăn còn tồn tại.
2.3.3. Phân tích các chỉ tiêu phát triển thị trường xuất khẩu hàng TCMN của
các doanh nghiệp Việt Nam.
 Số thị trường xuất khẩu qua các năm: Số thị trường xuất khẩu hàng năm từ
năm 2004 đến 2007 đều tăng lên so với năm trước. Tuy nhiên, đến năm 2008, do
tình hình kinh tế thế giới có sự suy thoái nên kết quả của hoạt động phát triển thị
trường xuất khẩu hàng TCMN có sự giảm sút, cụ thể số thị trường xuất khẩu

TCMN trong năm 2008 giảm 4 thị trường so với năm 2007.
 Số thị trường xuất khẩu tăng bình quân trong từng giai đoạn (Sbq): Chỉ
tiêu này có giá trị dương (Sbq = 4), điều này có nghĩa là hoạt động phát triển thị
trường xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam đã được mở rộng về mặt quy mô.
 Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu bình quân: Chỉ tiêu này trong giai đoạn
từ năm 2004 đến 2008 đều có giá trị lớn hơn 1. Điều này chứng tỏ hoạt động phát
triển thị trường xuất khẩu hàng TCMN của các doanh nghiệp Việt Nam đã có được
thành công nhất định.
2.4. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG
XUẤT KHẨU HÀNG TCMN CỦA VIỆT NAM.
2.4.1. Những ưu điểm trong hoạt động phát triển thị trường xuất khẩu hàng
TCMN của các doanh nghiệp Việt Nam.
 Giá trị kim ngạch xuất khẩu hàng TCMN của VN tăng đều qua các năm:
Nếu như năm 2004, kim ngạch xuất khẩu TCMN chỉ đạt 450 triệu USD thì đến năm
2008, con số này đã lên tới 850 triệu USD, tăng gấp gần 2 lần so với năm 2004.


x

 Thị trường xuất khẩu hàng TCMN Việt Nam ngày càng được phát triển
theo chiều rộng: Về thị trường xuất khẩu, nếu như những năm trước đây, mặt hàng
thủ công mỹ nghệ của Việt Nam chủ yếu xuất khẩu sang một số thị trường như Liên
Xô và Đông Âu, thì đến nay mặt hàng này đã có mặt tại gần 164 quốc gia và vùng
lãnh thổ ở khắp các châu lục trên thế giới.
 Thị trường đối với mặt hàng đồ gỗ và sơn mài mỹ nghệ có tốc độ tăng
trưởng nhanh: Đối với mặt hàng đồ gỗ thì trong năm 2004, kim ngạch xuất khẩu
chỉ đạt 77,1 triệu USD, nhưng đến năm 2008 con số này đã lên tới 220,5 triệu USD,
tăng 186%. Còn đối với mặt hàng sơn mài mỹ nghệ thì năm 2004, kim ngạch đạt
58,8 triệu USD nhưng đến năm 2008, giá trị kim ngạch lên tới 145,7 triệu USD,
tăng 148%.

 Các doanh nghiệp tích cực tham gia hội chợ, triển lãm trong nước và quốc
tế về hàng TCMN: Trong thời gian qua, nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã bắt đầu
chú trọng đến việc tham gia các hội chợ, triển lãm trong nước và quốc tế về hàng
TCMN và hoạt động này đã mang lại một số thành tựu nhất định như: có thêm
nhiều bạn hàng mới, ký được nhiều hợp đồng thông qua các hội chợ, triển lãm,...
2.4.2. Những tồn tại trong hoạt động phát triển thị trường xuất khẩu hàng
TCMN của các doanh nghiệp Việt Nam.
 Công tác nghiên cứu thị trường còn nhiều hạn chế: Trong các doanh
nghiệp xuất khẩu hàng TCMN hiện nay chủ yếu là các doanh nghiệp có quy mô vừa
và nhỏ, chưa có điều kiện thường xuyên nghiên cứu, khảo sát thị trường nước ngoài,
tham gia các hội chợ triển lãm quốc tế,...
 Hoạt động phát triển thị trường xuất khẩu hàng TCMN Việt Nam mới chỉ
phát triển theo chiều rộng, chưa chú trọng phát triển theo chiều sâu: Mặc dù,
hàng TCMN của Việt Nam đã có mặt tại 164 quốc gia, tuy nhiên, phần lớn là các thị
trường nhỏ với giá trị kim ngạch xuất khẩu chỉ đạt dưới 5 triệu USD/năm. Điều này
thể hiện hoạt động phát triển thị trường xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam
mới chỉ có hiệu quả về chiều rộng chứ chưa phát triển được theo chiều sâu.
 Phần lớn các doanh nghiệp chưa có chiến lược phát triển thị trường xuất
khẩu: Hiện nay, phần lớn các doanh nghiệp xuất khẩu, các đơn vị sản xuất hàng
TCMN nước ta đều rất bị động trong hoạt động sản xuất cũng như hoạt động kinh
doanh xuất nhập khẩu. Các doanh nghiệp chủ yếu chờ đơn đặt hàng từ các đối tác


xi

nước ngoài và làm gia công cho họ.
 Thị trường xuất khẩu tại chỗ chưa được khai thác xứng với tiềm năng:
Hiện nay, hàng TCMN được bán tại các địa điểm du lịch của Việt Nam phần lớn có
xuất xứ từ Trung Quốc và một số nước lân cận. Đây là một bất cập lớn cần các
doanh nghiệp TCMN Việt Nam có biện pháp khắc phục trong thời gian tới.

2.4.3. Nguyên nhân của những tồn tại.
2.4.1.1. Nguyên nhân từ phía doanh nghiệp.
 Nguồn lực của doanh nghiệp còn nhiều hạn chế: Điều này thể hiện ở nguồn
vốn ít, khó huy động và nguồn nhân lực mặc dù dồi dào nhưng lại thiếu kỹ năng và
ít được đào tạo bài bản.
 Hoạt động sản xuất nhỏ lẻ và thiếu sự liên kết giữa các doanh nghiệp sản
xuất và kinh doanh: Các doanh nghiệp sản xuất hàng TCMN Việt Nam hầu hết đều
có quy mô vừa và nhỏ cùng với sự liên kết giữa các nhà sản xuất và kinh doanh
hàng TCMN hiện nay dẫn đến các hiện tượng tranh mua tranh bán, làm giảm hiệu
quả kinh doanh, chưa phát huy được thế mạnh của cộng đồng.
 Các doanh nghiệp chưa coi trọng việc đăng ký bản quyền sở hữu trí tuệ:
Hiện nay, một bất cập rất lớn, đang là vấn đề nan giải của ngành TCMN đó chính là
tình trạng ăn cắp bản quyền, sao, chép mẫu mã sản phẩm. Tình trạng này đã và đang
diễn ra khá phổ biến trong các cơ sở sản xuất, doanh nghiệp. Chính kiểu làm ăn này
đã dẫn đến tình trạng các doanh nghiệp tự hại nhau trong kinh doanh xuất khẩu.
 Khả năng cạnh tranh của hàng TCMN Việt Nam còn yếu: Điều này được thể
hiện qua chất lượng hàng TCMN không đồng đều và nhiều bất cập; mức giá xuất
khẩu hàng TCMN của Việt Nam khó cạnh tranh; và công tác thiết kế kiểu dáng sản
phẩm còn nhiều yếu kém.
 Các doanh nghiệp Việt Nam chưa coi trọng việc phát triển kênh phân phối
đối với thị trường xuất khẩu tại chỗ.
2.4.1.2. Nguyên nhân từ phía Nhà nước.
 Thiếu quy hoạch và phát triển nguồn nguyên liệu dẫn đến nguyên liệu ngày
càng cạn kiệt.
 Một số hoạt động hỗ trợ của Nhà nước đối với doanh nghiệp xuất khẩu hàng
TCMN chưa đạt được mục tiêu đặt ra.


xii


CHƯƠNG 3
ĐỊNH HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ
TRƯỜNG XUẤT KHẨU HÀNG TCMN CỦA VIỆT NAM
3.1. DỰ BÁO THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU HÀNG TCMN CỦA VIỆT NAM
TỚI NĂM 2015.
3.2. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU HÀNG
TCMN CỦA VIỆT NAM TỚI NĂM 2015.
3.2.1. Mục tiêu xuất khẩu hàng TCMN của Việt Nam tới năm 2015.
Trong chiến lược xuất khẩu hàng TCMN, mục tiêu xuất khẩu đặt ra cho
nhóm hàng này đến hết năm 2009 là 1,2 tỷ USD, năm 2010 là l,5 tỷ USD, và đến
năm 2015 là 2,5 tỷ USD.
3.2.2. Định hướng thị trường xuất khẩu hàng TCMN của Việt Nam tới 2015.
Hướng chủ yếu xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ trong thời gian tới là
nhằm vào các thị trường và khu vực thị trường chính là: Thị trường EU; Nhật Bản;
Nga, các nước SNG và Đông Âu; Bắc Mỹ; các thị trường lân cận quan trọng như
Đài Loan, Hồng Kông, Hàn Quốc, Trung Quốc; và Trung Đông, Australia.
3.3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM PHÁT TRIỂN THỊ
TRƯỜNG XUẤT KHẨU HÀNG TCMN CỦA VIỆT NAM.
3.3.1. Giải pháp từ phía doanh nghiệp.
 Các doanh nghiệp sản xuất hàng TCMN cần chủ động liên kết lại với
nhau: Các doanh nghiệp sản xuất hàng TCMN cần chủ động liên kết lại xây dựng
làng nghề hoặc cụm sản xuất thủ công mỹ nghệ. Điều này sẽ giúp các doanh nghiệp
có thể tận dụng và phát huy được nguồn lực của nhau: máy móc thiết bị, nhân lực,
vốn...
 Nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng TCMN Việt Nam.
- Đảm bảo tính đồng nhất và ổn định về chất lượng sản phẩm: Các doanh
nghiệp cần áp dụng các công nghệ bảo quản, xử lý nguyên liệu để tránh hiện tượng


xiii


ẩm, mốc… do thay đổi khí hậu và tăng cường công tác kiểm tra chất lượng sản
phẩm khi sản xuất nhằm đảm bảo tính đồng nhất và ổn định chất lượng sản phẩm.
- Chú trọng đến việc thiết kế sáng tạo kiểu dáng sản phẩm và đăng ký bản
quyền sở hữu trí tuệ: Các doanh nghiệp cần quan tâm và đầu tư hơn nữa cho việc
thiết kế sáng tạo ra sản phẩm riêng cho mình thông qua việc xây dựng một đội
ngũ hoạ sỹ, thiết kế tạo mẫu chuyên nghiệp. Đồng thời, doanh nghiệp cần tiến hành
đăng ký bản quyền sở hữu kiểu dáng cho sản phẩm của mình để tránh hiện tượng
các doanh nghiệp khác sao chép mẫu mã làm nản lòng và tinh thần sáng tạo của các
nhà thiết kế.
 Tăng cường công tác nghiên cứu thị trường xuất khẩu: Các doanh nghiệp
xuất khẩu hàng TCMN của nước ta cần tăng cường công tác thu thập thông tin bằng
nhiều hình thức để đảm bảo nắm bắt những nhu cầu, tập quán và phong tục của từng
địa phương cũng như các chính sách quy định về tiêu chuẩn nhập khẩu thiết kế sản
xuất sản phẩm thích hợp để tiến hành xúc tiến mở rộng và phát triển thị trường xuất
khẩu.
 Chú trọng đến hoạt động đào tạo: Công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân
lực tại các làng nghề, doanh nghiệp TCMN cần được tiến hành riêng (về nội dung
đào tạo, về cách thức tổ chức,…) cho từng đối tượng khác nhau như: Đào tạo cho
cán bộ lãnh đạo, quản lý; cán bộ kinh doanh xuất khẩu, cán bộ trực tiếp thực hiện
công tác phát triển thị trường; các nghệ nhân và cán bộ thiết kế; và thợ thủ công.
 Phát triển kênh phân phối thông qua việc liên kết với các hãng du lịch
nhằm khai thác thị trường xuất khẩu tại chỗ: Việc phát triển các hình thức phân
phối theo các tour du lịch tới các làng nghề, tại các chợ/showroom/các cửa hàng bán
sản phẩm tại làng nghề, các cửa hàng bán đồ lưu niệm tại các trung tâm lớn ở Hà
Nội, Hồ Chí Minh,... sẽ giúp cho doanh nghiệp quảng bá và đẩy mạnh tiêu thụ sản
phẩm TCMN Việt Nam tới các du khách quốc tế. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp
cũng cần đẩy mạnh hình thức tour du lịch kết hợp tham quan một số công đoạn sản
xuất sản phẩm và mua sắm sản phẩm TCMN tại các làng nghề thông qua việc liên
kết với các đại lý, hãng, công ty du lịch lữ hành nội địa, các văn phòng du lịch của

Việt Nam ở nước ngoài.


xiv

3.3.2. Kiến nghị đối với Nhà nước.
 Nâng cao hiệu quả các hoạt động hỗ trợ đối với doanh nghiệp xuất khẩu
hàng TCMN: Thông qua các hoạt động hỗ trợ thông tin, hỗ trợ xúc tiến thương
mại, hỗ trợ về tín dụng, về vốn và hỗ trợ về thuế.
 Nâng cao chất lượng qui hoạch, kế hoạch đẩy mạnh xuất khẩu hàng
TCMN: Trên cơ sở qui hoạch, kế hoạch phát triển nhóm hàng TCMN theo địa
phương, từng tỉnh, thành phố phối hợp với cơ quan chức năng, với hội làng nghề,
doanh nghiệp cùng xây dựng kế hoạch phát triển trong từng thời kỳ, cả ngắn hạn và
dài hạn.
 Tăng cường công tác bảo hộ kiểu dáng sở hữu công nghiệp: Để khắc phục
tình trạng vi phạm bản quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam hiện nay, Nhà nước cần có
những chế tài và cơ chế cưỡng chế thi hành các quy định về bảo hộ quyền sở hữu trí
tuệ hiệu quả, đồng thời lãnh đạo các cơ quan thực thi pháp luật cần phải quyết tâm
chỉ đạo việc giám sát và kiên quyết triệt phá các đối tượng vi phạm (thông qua các
hình thức như xử phạt nặng hoặc truy tố hình sự đối với những trường hợp nghiêm
trọng).
 Hoàn thiện công tác quy hoạch nguồn nguyên liệu, mạng lưới sản xuất,
phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ cho hoạt động xuất khẩu hàng TCMN: Hiện nay
do khai thác bừa bãi, thiếu quy hoạch và đầu tư, dẫn đến tình trạng nguồn nguyên
liệu chính như gỗ, tre, trúc sào, giang, nứa, mây đang dần cạn kiệt. Đây là những
nguyên liệu dòng đời ngắn, dễ trồng, dễ khai thác thu hoạch. Vì vậy vấn đề đặt ra
phải xây dựng phát triển nguồn nguyên liệu ổn định, khai thác bền vững và chế biến
nguyên liệu thô…
 Hỗ trợ đào tạo phát triển nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp, làng
nghề: Nhà nước cần xây dựng kế hoạch cụ thể và tổ chức thực hiện các chương

trình đào tạo nghề, giải quyết vấn đề thiếu hụt và nâng cao chất lượng nguồn lao
động. Cần xã hội hoá công tác đào tạo, theo đó những doanh nghiệp lớn cũng được
xem xét cấp kinh phí đào tạo công nhân cho mình và cung cấp cho những doanh
nghiệp khác.


xv

KẾT LUẬN
Hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam hiện nay được đánh giá là có năng
lực cạnh tranh trong xuất khẩu do có những lợi thế so sánh về đầu vào như: nguồn
nguyên liệu sẵn có, dễ trồng, dễ khai thác; sức lao động dồi dào, thông minh, khéo
léo. Do đó, kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ đạt mức tăng khá, tốc độ
tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu tăng thường vào khoảng 20% mỗi năm. Hơn nữa,
hàng thủ công mỹ nghệ còn có vai trò to lớn trong việc giải quyết việc làm, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động trong nông nghiệp và nông thôn, góp phần
thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng miền một cách bền vững.
Qua phân tích thực trạng phát triển thị trường xuất khẩu hàng TCMN của các
doanh nghiệp Việt Nam trong giai đoạn 2004 – 2008, luận văn đã rút ra những nhận
xét về những thành tựu đã đạt được như: Thị trường xuất khẩu hàng TCMN Việt
Nam ngày càng được phát triển, các doanh nghiệp Việt Nam bắt đầu quan tâm đến
công tác phát triển thị trường xuất khẩu hơn... Bên cạnh những thành tựu đó, luận
văn cũng thấy được nhiều hạn chế còn tồn tại, đó là: Công tác nghiên cứu thị trường
còn nhiều hạn chế; thị trường xuất khẩu hàng TCMN chưa được chú trọng phát
triển theo chiều sâu; phần lớn các doanh nghiệp chưa có chiến lược phát triển thị
trường xuất khẩu,... và tìm ra được nguyên nhân của các hạn chế đó: Nguồn lực của
doanh nghiệp còn nhiều hạn chế; hoạt động sản xuất nhỏ lẻ, thiếu sự liên kết giữa
các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh; khả năng cạnh tranh của hàng TCMN
Việt Nam còn yếu... Trên cơ sở đó, luận văn đã đề xuất 5 giải pháp đối với doanh
nghiệp, 5 kiến nghị đối với Nhà nước để giúp các doanh nghiệp có thể phát triển thị

trường xuất khẩu hàng TCMN tốt hơn trong thời gian tới.



×