Tải bản đầy đủ (.doc) (207 trang)

LUẬN án TIẾN sĩ LỊCH sử ĐẢNG ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM LÃNH đạo sự NGHIỆP CÔNG NGHIỆP hóa HIỆN đại hóa NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN từ năm 1991 đến 2002

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (711.03 KB, 207 trang )

5

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tiến hành CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là yêu cầu khách quan,
nhiệm vụ chiến lược trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của nhiều quốc
gia, nhất là các quốc gia có nền kinh tế chậm phát triển, sản xuất nông nghiệp
là chủ yếu và phần lớn dân cư sống ở nông thôn.
Ở nước ta, nông nghiệp, nông thôn có vị trí, vai trò hết sức quan trọng
đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây. Trong công cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN cũng như trong sự nghiệp đổi mới đất
nước ngày nay, phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng CNH, HĐH đã
góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, từng bước
giải quyết những vấn đề bức xúc trong xã hội, nhất là giải quyết việc làm,
tăng thu nhập cho dân cư. Sản phẩm của nông nghiệp và kinh tế nông thôn,
không những đáp ứng cho yêu cầu sinh hoạt ngày càng cao của đời sống xã
hội, mà còn cung cấp nguyên liệu cho các ngành công nghiệp, tăng hàng hoá
nông sản xuất khẩu, đóng góp một phần quan trọng vào tổng thu nhập của nền
kinh tế quốc dân, thúc đẩy kinh tế, xã hội phát triển.
Nông thôn là nơi cung cấp nguồn lao động chủ yếu cho các ngành
kinh tế quốc dân và là thị trường rộng lớn của các sản phẩm nông nghiệp,
công nghiệp và các ngành kinh tế khác. Đặc biệt, đối với nước ta quá độ
lên CNXH từ một nền kinh tế chậm phát triển, sản xuất nông nghiệp là
chủ yếu, giai cấp nông dân vẫn chiếm gần 80% dân số trong toàn xã hội.
Do đó phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn còn là cơ sở cho sự ổn
định về kinh tế, chính trị, xã hội, củng cố và tăng cường quốc phòng, an
ninh đất nước.
Hơn 10 năm thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, những thành
tựu đạt được, bắt nguồn từ đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn của



6

Đảng và Nhà nước, phát huy động lực to lớn của toàn dân, trực tiếp là của giai
cấp nông dân, thực hiện đoàn kết, liên minh giữa giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và đội ngũ trí thức, thúc đẩy nông nghiệp và kinh tế nông thôn
phát triển gắn liền với xây dựng nông thôn mới, đẩy mạnh đô thị hoá nông
thôn, góp phần vào sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước. Bởi vậy, Đảng ta
khẳng định đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là một trong những
nhiệm vụ chiến lược quan trọng hàng đầu có ý nghĩa quyết định đến thực hiện
thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, đến nay trên nhiều vùng nông
thôn, cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn chuyển dịch chậm, lao động
còn phổ biến là thủ công, công nghiệp nông thôn chưa đáp ứng được yêu
cầu của sản xuất nông nghiệp hàng hoá, trình độ khoa học, công nghệ lạc
hậu, cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội triển khai thiếu đồng bộ, đời sống của
nông dân còn khó khăn, một số nội dung của CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn thực hiện còn lúng túng, ảnh hưởng nhất định đến phát triển
kinh tế - xã hội.
Nghiên cứu, tổng kết quá trình Đảng lãnh đạo sự nghiệp CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn từ năm 1991 đến năm 2002, làm rõ tính đúng đắn,
sáng tạo của chủ trương và những thành tựu đạt được, yếu kém, khuyết
điểm, nguyên nhân của những thành tựu và yếu kém, khuyết điểm. Từ đó
rút ra một số bài học kinh nghiệm, góp phần vào quá trình hoàn thiện chủ
trương của Đảng về CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, thúc đẩy sản xuất
phát triển trong những năm tiếp theo là việc làm cần thiết, có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn sâu sắc.
Với lý do trên, nghiên cứu sinh chọn đề tài “Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn



7

từ 1991 đến 2002” làm luận án tiến sĩ lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng
Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở nước ta trong những năm
gần đây luôn được các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu, tổng kết, góp phần
vào quá trình hoàn thiện chủ trương CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, nâng
cao năng lực lãnh đạo của Đảng, thúc đẩy kinh tế - xã hội nông thôn phát triển.
Tập thể khoa học như Hội Khoa học kinh tế Việt Nam có công trình: Phát
triển nông nghiệp và nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tập
I, II, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, đã nghiên cứu về cơ chế,
vai trò của chính sách nông nghiệp, nông thôn trong sự nghiệp CNH, HĐH, đề
xuất những giải pháp khuyến khích đầu tư và khai thác nguồn lực, tiềm năng to
lớn trong nông nghiệp, nông thôn, nông dân để phát trển sản xuất, nhưng chưa
khái quát có tính hệ thống các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta
về CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn từ năm 1991 đến năm 2002.
Các nhà khoa học ở nước ta cũng có nhiều công trình nghiên cứu về
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn với phương pháp tiếp cận khác nhau
như: xã hội học, kinh tế học, khoa học quản lý kinh tế... nổi bật là các công
trình sau: Đổi mới và hoàn thiện một số chính sách phát triển nông nghiệp,
nông thôn do Phó giáo sư, Tiến sĩ Lê Đình Thắng và Tiến sĩ Phạm Văn Khôi
(chủ biên), Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội, 1995; Đổi mới cơ chế quản
lý kinh tế nông nghiệp ở Việt Nam của Tiến sĩ Trương Thị Tiến, Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999... trong đó đã đánh giá về thực trạng
nông nghiệp, nông thôn ở nước ta trong thời kỳ 1976 - 1990, đề cập về một
số chính sách đổi mới kinh tế nông nghiệp, nông thôn, những kết quả đạt


8


được và yếu kém trong quá trình sản xuất, xác định phương hướng phát triển
nông nghiệp và kinh tế nông thôn những năm 1991 - 1995.
Từ năm 1996 đến năm 2002, trên cơ sở cụ thể hoá đường lối xây dựng,
phát triển kinh tế theo hướng CNH, HĐH đất nước do Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VIII, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX xác định, nhiều công
trình khoa học nghiên cứu về lĩnh vực kinh tế nông nghiệp, nông thôn được
xuất bản như các cuốn sách: Nông nghiệp và nông thôn trên con đường công
nghiệp hoá, hiện đại hoá và hợp tác hoá, dân chủ hoá của Vũ Oanh, Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998; Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp, nông thôn, một số vấn đề lý luận và thực tiễn của Hồng Vinh, Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998; Con đường công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nông nghiệp và nông thôn của Phó giáo sư, Tiến sĩ Chu Hữu Quí, Nguyễn
Kế Tuấn, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001 v.v... Những công
trình trên đã đề cập tính cấp thiết đổi mới cơ chế, chính sách phát triển nông
nghiệp, nông thôn, vai trò tự chủ của các thành phần kinh tế trong nông nghiệp,
khai thác tiềm năng, nguồn vốn to lớn của nông dân để thúc đẩy sản xuất phát
triển; yêu cầu cấp bách đưa nông nghiệp, nông thôn nước ta theo con đường
CNH, HĐH, nhưng chưa có công trình nào đề cập quá trình nhận thức và sự
lãnh đạo của Đảng về CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn từ năm 1991 đến
năm 2002; Tập thể tác giả: Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Văn Nam, Tiến sĩ Nguyễn
Viết Thông, Tiến sĩ Đặng Quốc Tuyến, Nguyễn Ngô Hai... có công trình: Công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn Việt Nam, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, bao gồm 22 bài viết, đề cập về vai trò của các
ngành kinh tế trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn và những vấn đề đặt ra
trong quá trình CNH, HĐH, xác định phương hướng, giải pháp chủ yếu, nhằm
thực hiện thắng lợi mục tiêu kinh tế - xã hội 5 năm 2001 - 2005, song chưa khái


9


quát có hệ thống về chủ trương lãnh đạo của Đảng, những kết quả đạt được của
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở nước ta từ năm 1991 đến năm 2002.
Các công trình khảo sát thống kê tư liệu về nông nghiệp, nông thôn trong
quá trình CNH, HĐH như: Kết quả tổng điều tra nông thôn và nông nghiệp năm
1994 của Tổng cục Thống kê, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội, 1995; Thực
trạng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn Việt Nam của Tiến
sĩ Lê Mạnh Hùng, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội, 1998; Niên giám Thống kê
của Tổng cục Thống kê, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội, 2003... Các công trình
trên đã đề cập về kinh nghiệm CNH nông nghiệp, nông thôn của một số nước
trên thế giới, đánh giá kết quả bước đầu của CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn
ở nước ta, trên cơ sở thống kê bằng nhiều số liệu trên tất cả các lĩnh vực nông,
lâm, ngư nghiệp, công nghiệp nông thôn, đồng thời chỉ ra những yếu kém, bất
cập của kinh tế nông nghiệp, nông thôn ở nước ta trong quá trình CNH, HĐH,
song các công trình đó mới dừng lại ở tổng hợp, thống kê các số liệu.
Các công trình nghiên cứu thực tiễn ở các địa phương như: Biến đổi cơ
cấu ruộng đất và kinh tế nông nghiệp ở vùng châu thổ sông Hồng trong thời kỳ
đổi mới của Phó giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Văn Khánh, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2001; Ảnh hưởng của đô thị hoá đến nông thôn ngoại thành
Hà Nội thực trạng và giải pháp của Giáo sư, Tiến sĩ Lê Du Phong, Tiến sĩ
Nguyễn Văn Áng, Hoàng Văn Hoa, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2002; Chuyển dịch cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp ở Đồng bằng sông Hồng
thực trạng và triển vọng của Tiến sĩ Đặng Văn Thắng, Phạm Ngọc Dũng, Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003... Các công trình đã nghiên cứu
những mặt cụ thể trong nội dung của CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở
nước ta, trong đó chủ yếu đánh giá và tổng hợp kết quả phát triển nông nghiệp,


10


nông thôn ở các địa phương, nhất là về chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao
động, giải quyết việc làm cho lao động nông thôn trong những vùng này.
Ngoài ra còn nhiều bài viết đăng trên các tạp chí của các cơ quan Trung
ương Đảng và các ngành kinh tế như: Phát triển công nghiệp nông thôn ở
Đồng bằng sông Cửu Long của Phạm Châu Long, Tạp chí Tư tưởng - Văn
hoá, tháng 11/1998; Hải Dương phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn
theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Trương Kim Sơn, Tạp chí
Cộng sản, tháng 3/2002; Một số định hướng về công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nông nghiệp và nông thôn nước ta của Tiến sĩ Lưu Bích Hồ, Tạp chí Cộng
sản, tháng 4/2002; Tác dụng của tăng năng suất lao động nông nghiệp trong
công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Lê Bá Tâm, Tạp chí Lý luận Chính trị,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, tháng 6/2002; Sự biến đổi chức
năng kinh tế gia đình ở thành phố Hồ Chí Minh trong quá trình đô thị hoá,
công nghiệp hoá của Nguyễn Tiến Vững, Tạp chí Lý luận Chính trị, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, tháng 5/2003... Những công trình trên chủ
yếu trình bày về đặc điểm của các vùng nông thôn, sự lãnh đạo của đảng bộ
và chính quyền địa phương trong các vùng dân cư, nhằm thực hiện chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, khai thác tiềm năng, nguồn lực ở địa
phương thúc đẩy nông nghiệp, nông thôn phát triển. Đặc biệt là đưa ra những
số liệu về phát triển nông nghiệp, nông thôn, vấn đề xoá đói, giảm nghèo
trong các vùng, các khu vực nông thôn và những bất cập, yếu kém trong công
tác tổ chức, quản lý của đảng bộ, chính quyền địa phương trong việc khai thác
tiềm năng, nguồn lực cho phát triển sản xuất, giải quyết việc làm, tăng thu
nhập cho người lao động.
Các luận án tiến sĩ liên quan đến đề tài như Luận án tiến sĩ kinh tế: Phát
triển nông nghiệp hàng hoá trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở


11


nước ta của Mai Văn Bảo, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội,
2000; Luận án tiến sĩ kinh tế: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn Đồng bằng Bắc bộ và tác động của nó đối với tăng cường sức
mạnh phòng thủ tỉnh, thành phố thuộc khu vực này của Nguyễn Văn Bảy, Học
viện Chính trị quân sự, Hà Nội, 2001... đề cập chủ yếu dưới góc độ kinh tế
chính trị, trong đó xác định về yêu cầu phát triển nông nghiệp, nông thôn
trong quá trình CNH, HĐH, nội dung và một số giải pháp nhằm phát huy các
thành phần kinh tế trong nông nghiệp, nông thôn thúc đẩy sản xuất phát triển,
thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội, gắn với xây dựng nền quốc phòng toàn
dân và an ninh nhân dân trong thời kỳ mới.
Các công trình nghiên cứu, tổng kết về CNH và sự phát triển kinh tế - xã
hội của các quốc gia, vùng lãnh thổ trong khu vực và trên thế giới có: Công
nghiệp hoá và hiện đại hoá ở Việt Nam và các nước trong khu vực của Phạm
Khiêm Ích, Nguyễn Đình Phan, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội, 1994; Công
nghiệp hoá từ nông nghiệp, lý luận thực tiễn và triển vọng áp dụng ở Việt
Nam do Đặng Kim Sơn (chủ biên), Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội, 2001;
Nghiên cứu so sánh đổi mới kinh tế ở Việt Nam và cải cách kinh tế ở Trung
Quốc của Lê Hữu Tầng, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, đã đề
cập xu hướng về CNH ở một số quốc gia trước sự tác động của cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ trên thế giới, tổng kết kinh nghiệm về CNH
trong các nước ASEAN, quá trình HĐH của Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn
Quốc, Đài Loan..., rút ra một số kinh nghiệm về CNH nông nghiệp, nông thôn
của các nước trên và triển vọng áp dụng vào quá trình phát triển kinh tế - xã
hội ở nước ta, quan điểm, phương hướng, con đường CNH, HĐH ở Việt Nam
so với Trung Quốc, Nhật Bản và một số nước khác trên thế giới.
Các công trình khoa học trên, đã cung cấp nhiều tư liệu và phương pháp
tiếp cận vấn đề CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn và đề cập ở mức độ khác


12


nhau đến sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng về CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
Tuy nhiên, chưa công trình nào đề cập có hệ thống, toàn diện về Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn từ năm 1991
đến năm 2002, dưới góc độ khoa học Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận án
+ Mục đích:
Làm rõ tính đúng đắn, sáng tạo của chủ trương CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn, kết quả đạt được và những yếu kém, khuyết điểm trong quá trình
Đảng lãnh đạo CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn từ năm 1991 đến năm
2002. Qua đó rút ra một số kinh nghiệm, góp phần vào quá trình hoàn thiện
hơn chủ trương của Đảng về CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, thúc đẩy
sản xuất phát triển, thực hiện thắng lợi những mục tiêu, nhiệm vụ kinh tế, xã
hội trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta.
+ Nhiệm vụ:
- Làm rõ yêu cầu khách quan chủ trương của Đảng về CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
- Trình bày sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng về CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn. Làm rõ những thành tựu, yếu kém và nguyên nhân của những
thành tựu, yếu kém đó trong quá trình thực hiện chủ trương CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn từ năm 1991 đến năm 2002.
- Bước đầu rút ra một số kinh nghiệm Đảng lãnh đạo sự nghiệp CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn từ năm 1991 đến năm 2002.
+ Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu đường lối, chủ trương và sự lãnh đạo của Đảng đối với sự
nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở nước ta từ 1991 đến 2002.
+ Phạm vi nghiên cứu:
Luận án tập trung nghiên cứu Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo sự
nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn từ năm 1991 đến năm 2002, trên
phạm vi cả nước (năm 1991 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng



13

bước đầu hình thành những quan điểm cơ bản về CNH, HĐH đất nước nói
chung, CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn nói riêng, năm 2002 Hội nghị lần
thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, tổng kết hơn 10 năm thực hiện
chủ trương CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn)
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
+ Cơ sở lý luận:
Dựa trên những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh; đường lối, chủ trương của Đảng về cách mạng XHCN, trực tiếp
là đường lối, chủ trương về phát triển kinh tế – xã hội nông thôn trong những
năm đổi mới.
+ Phương pháp nghiên cứu:
Luận án kết hợp chặt chẽ phương pháp lịch sử với phương pháp lôgíc,
đồng thời sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê,
khảo sát thực tiễn, phương pháp chuyên gia.
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận án.
- Làm rõ thêm tính đúng đắn, sáng tạo của Đảng trong lãnh đạo, chỉ đạo
sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn từ năm 1991 đến năm 2002.
- Rút ra một số kinh nghiệm trong quá trình Đảng lãnh đạo sự nghiệp
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn từ năm 1991 đến năm 2002, góp phần vào
quá trình hoàn thiện hơn chủ trương của Đảng về CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn, thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển trong những năm tiếp theo.
6. Ý nghĩa của luận án
Kết quả nghiên cứu của luận án, góp phần tổng kết thực tiễn quá trình
Đảng lãnh đạo CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn từ năm 1991 đến năm
2002, khẳng định Đảng ta đã lựa chọn bước đi đúng đắn, yếu tố quyết định
đến thực hiện thắng lợi của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Qua đó xây dựng

niềm tin tưởng của quần chúng nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời
phê phán những nhận thức coi nhẹ, hoặc nôn nóng chủ quan bỏ qua bước đi


14

quan trọng về CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn trong thời kỳ đẩy mạnh
CNH, HĐH đất nước.
Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho nghiên cứu, giảng
dạy Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam ở các nhà trường trong và ngoài quân đội.
7. Kết cấu của luận án
Luận án gồm: Mở đầu, 3 chương (trong đó có 6 tiết), kết luận, danh mục
tài liệu tham khảo và các phụ lục.

Chương 1
CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG VỀ
CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN
TỪ 1991 ĐẾN 1995
1.1. Yêu cầu khách quan công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa
1.1.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn chủ trương công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp, nông thôn của Đảng
Nông nghiệp, nông thôn luôn tồn tại khách quan trong mọi chế độ xã
hội, có vị trí, vai trò quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia.
Những sản phẩm của nông nghiệp và kinh tế nông thôn không những đáp
ứng nhu cầu sinh hoạt của đời sống xã hội, mà còn cung cấp nguyên liệu
cho công nghiệp, tạo cơ sở cho công nghiệp và các ngành kinh tế quốc dân
khác phát triển, góp phần vào thực hiện thắng lợi những mục tiêu, nhiệm
vụ về kinh tế, xã hội, xây dựng và phát triển đất nước. Do đó, đối với mọi

quốc gia, trong bất cứ thời kỳ nào, đẩy mạnh phát triển nông nghiệp và


15

kinh tế nông thôn luôn là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội, nhất là đối với các quốc gia đi lên từ nền
kinh tế nông nghiệp là chủ yếu.
Về lý luận, khi nghiên cứu con đường CNH ở nước Anh phát triển nông
nghiệp hàng hóa, trên cơ sở tổ chức lại thành nền đại sản xuất như trong công
nghiệp, tạo điều kiện để thực hiện CNH đô thị, lúc đầu C.Mác và Ph.Ăngghen
dự đoán, giai cấp nông dân sẽ nhanh chóng chuyển sang giai cấp công nhân
cùng với quá trình CNH trong nông nghiệp, song trên thực tế phương thức đó
không phù hợp, các hình thức tổ chức sản xuất như kinh tế hộ gia đình, kinh
tế HTX, kinh tế trang trại lại phát triển có hiệu quả cao hơn so với kiểu tổ
chức sản xuất theo lối công nghiệp.
Theo C.Mác: “Con người làm ra lịch sử của chính mình, nhưng không
phải làm theo ý muốn tuỳ tiện của mình..., mà là trong những điều kiện trực
tiếp có trước mắt, đã cho sẵn và do quá khứ để lại” [93, tr.145]. Lao động và
đất đai là hai nguồn gốc cơ bản để nông nghiệp “sinh sôi, nảy nở và phát
triển” mà không cần phải đầu tư nhiều vốn ngay từ đầu, đây là lợi thế cơ bản
của phát triển nông nghiệp so với phát triển công nghiệp. Tổng kết thực tiễn,
C.Mác và Ph.Ăngghen đã nhận thức, đánh giá lại vị trí, vai trò quan trọng của
nông nghiệp, nông dân và chỉ ra, đối với nền kinh tế của nước Anh cần được
tổ chức sản xuất lại cho phù hợp, để kinh tế nông nghiệp tiếp tục phát triển,
đem lại hiệu quả ngày càng cao.
Kế thừa và phát triển những tư tuởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, khi
nghiên cứu CNTB ở Nga, V.I.Lênin đã phân tích tình hình cụ thể và tìm tòi
con đường đưa nông nghiệp, nông dân nước Nga đi lên CNXH. Năm 1908
trong Cương lĩnh ruộng đất của Đảng xã hội dân chủ, Người cho rằng:

Không thể phát triển nông nghiệp nước Nga theo con đường “đại điền trang


16

kiểu Phổ” vì đó là kiểu phát triển kém hiệu quả, mà phải là kiểu “một chủ
trại tự do” [79, tr.182].
Sau khi Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi, bước vào thời kỳ quá độ
lên CNXH, lúc đầu V.I.Lênin thấy, cần phải đưa nền nông nghiệp đi theo chủ
nghĩa cộng sản (theo mô hình của sản xuất công nghiệp), sau đó Người nhận
ra con đường này không phù hợp với đặc thù của sản xuất nông nghiệp và tâm
lý, nguyện vọng của nông dân. Năm 1921, V.I.Lênin chuyển sang áp dụng
Chính sách kinh tế mới, Người đánh giá cao vị trí, vai trò của nông nghiệp,
nông dân, đồng thời khuyến khích sản xuất nông nghiệp phát triển. Trong tác
phẩm Bàn về thuế lương thực, V.I.Lênin chỉ ra: muốn khôi phục và phát triển
nền kinh tế - xã hội lúc này, cần phải đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, lấy
lương thực để trao đổi hàng hóa, làm cơ sở cho phát triển công nghiệp và các
hoạt động thương nghiệp. Với quan điểm “bắt đầu từ nông dân” và các chính
sách đúng đắn đó, nên đến năm 1925 sản xuất nông nghiệp ở nước Nga đã đạt
mức trước chiến tranh (1913), trong khi đó các nước TBCN tham gia Chiến
tranh thế giới lần thứ nhất phải mất nhiều năm mới khôi phục lại được sản
xuất, đáp ứng yêu cầu của xã hội.
Tuy nhiên, khi V.I.Lênin qua đời, do điều kiện, hoàn cảnh quốc tế có
những yêu cầu mới, Đảng Cộng sản và Nhà nước Liên Xô chủ trương CNH
đất nước, trong đó tập trung phát triển mạnh công nghiệp nặng, công nghiệp
nhẹ và sản xuất nông nghiệp chưa được coi trọng, phong trào hợp tác hóa, tập
thể hóa các nông trang phát triển mạnh mẽ, làm cho vai trò động lực của nông
dân chưa được phát huy, lương thực, thực phẩm không đáp ứng được yêu cầu
sinh hoạt của xã hội, cùng với những yếu kém trong công tác tổ chức, quản lý
nền kinh tế, làm kìm hãm sự phát triển của LLSX, đời sống của các tầng lớp

nhân dân hết sức khó khăn. Sau đó nhiều nước XHCN cũng đi theo mô hình


17

này, dẫn đến hiệu quả kinh tế thấp, nền kinh tế mất cân đối, ảnh hưởng và tác
động lớn đến tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước.
Thấm nhuần những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể Việt Nam.
Theo Người ở nước ta sản xuất nông nghiệp chiếm bộ phận lớn trong nền
kinh tế quốc dân, mà sản xuất nhỏ lại chiếm bộ phận lớn trong nông
nghiệp, thì trước hết “Phải cải tạo và phát triển nông nghiệp để tạo điều
kiện cho việc công nghiệp hoá nước nhà. Phải có một nền nông nghiệp phát
triển thì công nghiệp mới có thể phát triển mạnh” [101, tr.14]. Để có nền
kinh tế ngày càng phát triển cao, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, tiến
hành CNH XHCN là mục tiêu phấn đấu chung của cách mạng, là con
đường ấm no thực sự của nhân dân, nhưng “Hiện nay, chúng ta lấy sản xuất
nông nghiệp làm chính. Vì muốn mở mang công nghiệp thì phải có đủ
lương thực, nguyên liệu” [102, tr.41]. Trong điều kiện miền Bắc được hoàn
toàn giải phóng, bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH, tuy còn nhiều khó
khăn phải tiếp tục giải quyết, nhưng Người luôn xác định phương hướng
phát triển của nền kinh tế - xã hội, đánh giá cao vị trí, vai trò của nông
nghiệp, nông thôn và nông dân, giải quyết mối quan hệ giữa công nghiệp
với nông nghiệp, góp phần quan trọng vào sự phát triển của cách mạng.
Thực tiễn quá trình CNH của các nước trên thế giới cho thấy, để phát huy
vị trí, vai trò của nông nghiệp, nông thôn đối với đời sống xã hội, đòi hỏi mỗi
quốc gia phải có chủ trương, chính sách và hình thức tổ chức phù hợp, mới
khai thác được mọi tiềm năng, nguồn lực và thế mạnh của nông nghiệp, nông
thôn cho sự phát triển, đó cũng là vấn đề cơ bản có ý nghĩa quyết định đến sự
phát triển kinh tế - xã hội của các nước trong thời kỳ đầu của quá trình xây

dựng, đưa nền kinh tế từ lạc hậu lên nền kinh tế tiên tiến và hiện đại. Trong quá
trình phát triển, những nước có cơ cấu kinh tế nông nghiệp là chủ yếu thường


18

tận dụng nguồn lực, tiềm năng và phát huy vai trò của nông nghiệp, tiến hành
CNH nông nghiệp, nông thôn, tạo điều kiện để phát triển công nghiệp và các
ngành kinh tế quốc dân, thực hiện CNH đất nước. Khi nông nghiệp phát triển
bền vững sẽ tạo ra những bước phát triển ổn định cho nền kinh tế - xã hội.
Đan Mạch, thời kỳ đầu tiến hành CNH, đại bộ phận lao động xã hội làm
nông nghiệp và chủ yếu dựa vào nguồn tài nguyên trong nước để phát triển
sản xuất, trong điều kiện đó Chính phủ Đan Mạch đã xác định nhiều chính
sách khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp và tăng cường đầu tư cho
sản xuất, nên năng suất lao động nông nghiệp của Đan Mạch đạt trình độ cao
trên thế giới, một lao động nông nghiệp có thể nuôi được 160 người, bình
quân lương thực đầu người đứng đầu thế giới [54, tr.18].
Phần Lan là một quốc gia nhỏ nằm ở Bắc Âu, dựa vào lợi thế về tài
nguyên rừng và một số khoáng sản quí, trong quá trình CNH, Phần Lan chủ
trương đẩy mạnh CNH nông nghiệp, nông thôn, các ngành công nghiệp nông
thôn, nhất là công nghiệp chế biến gỗ, công nghiệp làm giấy phát triển mạnh,
các sản phẩm của nông nghiệp, lâm nghiệp không những đáp ứng nhu cầu tiêu
dùng trong xã hội, mà còn đạt kim ngạch xuất khẩu lớn và trao đổi hàng hoá
thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển. Ngày nay, Phần Lan được coi là
một nước có nền kinh tế công, nông nghiệp phát triển với trình độ công nghệ
hiện đại [107, tr.27].
Các nước công nghiệp phát triển ở Tây Âu, Bắc Mỹ, tuy giá trị của sản
phẩm nông nghiệp chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng thu nhập của nền kinh tế
quốc dân, nhưng sản xuất nông nghiệp luôn được các quốc gia coi trọng,
lương thực, thực phẩm luôn bảo đảm sự ổn định, tạo cơ sở để phát triển nhanh

kinh tế công nghiệp.
Đối với các nước ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương: Miến Điện,
Philíppin, Thái Lan..., trong thập kỷ 50 của thế kỷ XX, lúc đầu chủ trương


19

đẩy mạnh phát triển công nghiệp còn nông nghiệp chỉ được xem là nguồn
cung cấp lao động dư thừa cho công nghiệp và dịch vụ. Do đó, các ngành
công nghiệp phát triển nhanh, tốc độ tăng trưởng cao, nhưng kinh tế nông
thôn vẫn nghèo nàn và lạc hậu. Từ thập kỷ 60, các nước trên đã nhận thức lại
về vị trí, vai trò của nông nghiệp, nông thôn, chủ trương đẩy mạnh CNH, tạo
ra động lực lớn thúc đẩy nông nghiệp, nông thôn phát triển, góp phần quan
trọng vào thực hiện CNH đất nước. Đặc biệt là trong những thập kỷ gần đây,
một số nước và vùng lãnh thổ như: Hàn Quốc, Singapo, Đài Loan, Hồng
Công, quá trình CNH đã chọn bước đi đẩy mạnh CNH nông nghiệp, nông
thôn, làm thay đổi cơ cấu kinh tế từ nông - công nghiệp, sang cơ cấu kinh tế
công - nông nghiệp và dịch vụ, đưa nền kinh tế đang phát triển trở thành nước
công nghiệp mới. Đánh giá sự thành công về phát triển kinh tế của các quốc
gia này, Viện Nghiên cứu phát triển kinh tế quốc tế Harward nhận định: “Sự
quan tâm... về lợi ích của các vùng nông thôn là một trong những nguyên
nhân chính của sự phát triển kinh tế nhanh ở châu Á” [140, tr.556].
Thực tiễn trên chứng tỏ, CNH nông nghiệp, nông thôn là một trong
những nhiệm vụ quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, xây
dựng đất nước. Đối với mọi quốc gia, vai trò của nông nghiệp và kinh tế nông
thôn không chỉ dừng lại trong việc cung cấp lương thực, thực phẩm cho đời
sống xã hội, nguyên liệu cho công nghiệp, mà còn là thị trường rộng lớn của
công nghiệp và các ngành kinh tế quốc dân khác, trực tiếp liên quan đến môi
sinh, bảo vệ môi trường. Bởi vậy, không phải ngẫu nhiên ở hàng loạt nước,
điểm xuất phát của sự phát triển hay cải cách kinh tế, chính trị, lại từ CNH

nông nghiệp, nông thôn.
Ngày nay, nhờ ứng dụng những thành tựu khoa học và công nghệ tiên
tiến của thời đại vào quá trình sản xuất, cho phép con người làm ra nhiều sản
phẩm với chất lượng cao, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần


20

của xã hội, nhưng vẫn chưa có sản phẩm nào thay thế được thức ăn cho con
người. Vì vậy, từ lúc chuẩn bị xây dựng, phát triển, đến chỗ đưa nền kinh tế
phát triển cao, trở thành một nước công nghiệp, từ chỗ kém phát triển, đến
tăng trưởng kinh tế - xã hội, bao giờ sản xuất nông nghiệp cũng giữ vai trò
quan trọng trong quá trình phát triển của mỗi quốc gia.
Ở nước ta, quá trình lãnh đạo xây dựng, phát triển đất nước, Đảng Cộng
sản Việt Nam luôn khẳng định tầm quan trọng của nông nghiệp, nông thôn và
có những chủ trương, chính sách đúng đắn thúc đẩy sản xuất phát triển, đáp
ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng.
Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đặc điểm cơ bản của
nước ta quá độ đi lên CNXH từ một nền kinh tế nghèo nàn và lạc hậu, sản
xuất nông nghiệp là chủ yếu. Để có nền kinh tế phát triển cao, cơ sở vật chất
- kỹ thuật tiên tiến và hiện đại, Đảng ta khẳng định tiến hành CNH XHCN là
quy luật khách quan và là yêu cầu cấp bách của sự nghiệp cách mạng. Song
vấn đề cơ bản quyết định cho thành công là xác định hình thức, bước đi
đúng đắn và phù hợp. Với nguồn nhân lực lao động dồi dào, tiềm năng trong
nông nghiệp, nông thôn và nông dân còn rất lớn, đây là điều kiện có sẵn, lợi
thế cơ bản của đất nước cần được khơi dậy và phát huy, thúc đẩy sản xuất
phát triển. Bởi vậy, trong thời kỳ đầu sự nghiệp CNH, HĐH, chủ trương của
Đảng trước hết phải dựa vào nông nghiệp, phát huy thế mạnh của nông
nghiệp và kinh tế nông thôn để tạo đà cho sự phát triển công nghiệp, thực
hiện thắng lợi các mục tiêu về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, đưa đất

nước vững bước đi lên CNXH.
Kinh nghiệm về xây dựng, phát triển nền kinh tế - xã hội của nhiều quốc
gia trên thế giới cho thấy: dù công nghiệp và các ngành kinh tế quốc dân khác
có được coi trọng bao nhiêu, nhưng nông nghiệp còn lạc hậu, thì sự lạc hậu ấy
sẽ dẫn đến những thiệt hại lớn cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân, sớm hay


21

muộn cũng buộc xã hội phải khắc phục, có như vậy mới bảo đảm cho sự phát
triển bình thường của nền kinh tế đất nước.
Đối với nước ta, chủ trương của Đảng tiến hành CNH, HĐH đất nước,
nhằm xây dựng một nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, có cơ cấu
kinh tế hợp lý với từng thời kỳ và hướng tới mục tiêu xây dựng một nền kinh
tế có cơ cấu công - nông nghiệp hiện đại. Trong giai đoạn trước mắt, bước đi
của sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta phải tập trung đầu tư vốn, khoa học - kỹ
thuật, đẩy mạnh phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn, gắn liền với
phát triển những ngành công nghiệp trọng yếu, giải quyết mối quan hệ giữa
công nghiệp với nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân là vấn đề có ý nghĩa
quyết định đến thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ của cách mạng trong chặng
đường đầu tiên thời kỳ quá độ lên CNXH.
Khi bàn về mối quan hệ giữa công nghiệp với nông nghiệp, Chủ tịch Hồ
Chí Minh thường ví công nghiệp và nông nghiệp như “hai cái chân của con
người”, “hai cái chân của nền kinh tế..., hai chân đi khỏe và đi đều thì tiến
bước sẽ nhanh và nhanh chóng đi đến mục đích” [105, tr.545], theo Chủ tịch
Hồ Chí Minh, nếu ngành công nghiệp phát triển mà ngành nông nghiệp không
được phát triển thì khập khiễng như đi một chân, dẫn tới nền kinh tế - xã hội
phát triển không cân đối, vững chắc, ảnh hưởng lớn tới đời sống xã hội. Luận
điểm của Người là cơ sở lý luận quan trọng để Đảng ta vận dụng sáng tạo vào
điều kiện cụ thể, xác định đường lối, chủ trương về phát triển kinh tế - xã hội

trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Trong giai đoạn mới của cách mạng, cùng với xây dựng, phát triển kinh
tế - xã hội, nhiệm vụ chiến lược bảo vệ Tổ quốc còn hết sức nặng nề, bảo đảm
cho đất nước luôn luôn trong điều kiện có hòa bình để tập trung xây dựng
CNXH, yêu cầu phải có nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân vững
mạnh. Do đó, xây dựng một nền kinh tế phát triển toàn diện là đòi hỏi tất yếu,


22

trước hết, phải bảo đảm về lương thực, thực phẩm để cung cấp cho xây dựng
lực lượng vũ trang, huấn luyện thường xuyên cho lực lượng dự bị động viên
trong các khu vực nông thôn, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của cuộc chiến
tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc, như V.I.Lênin chỉ rõ: “Một đội quân giỏi
nhất, những người trung thành nhất với sự nghiệp cách mạng cũng đều dễ lập
tức bị kẻ thù tiêu diệt, nếu họ không được vũ trang, tiếp tế lương thực và huấn
luyện đầy đủ” [80, tr.497].
Thông qua sự tăng trưởng của nông nghiệp và kinh tế nông thôn sẽ tạo
ra nền tảng để phát triển công nghiệp, trong đó có công nghiệp quốc phòng,
thực hiện các hoạt động lưỡng dụng trong những cơ sở công nghiệp như: dệt
may, đóng giày, sửa chữa cơ khí, ô tô vận tải, thông tin liên lạc, bưu chính
viễn thông..., vừa tạo ra những sản phẩm phục vụ cho phát triển sản xuất
nông nghiệp và kinh tế nông thôn, vừa sẵn sàng phục vụ cho nhu cầu quốc
phòng, an ninh, trực tiếp là các lực lượng vũ trang nhân dân đóng quân trên
các địa bàn nông thôn về lương thực, thực phẩm, quân tư trang và các đồ
dùng quân dụng khác.
Kết quả thực hiện chủ trương của Đảng về CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn, làm cho điều kiện ăn, ở, đi lại, học hành, chữa bệnh của nhân dân
được cải thiện, bộ mặt của nông thôn được đổi mới, đời sống vật chất, tinh
thần và trình độ dân trí của nhân dân được nâng lên. Hệ thống chính trị ở cơ

sở từng bước được tăng cường, góp phần quan trọng vào ổn định tình hình
kinh tế, chính trị, xã hội ở nông thôn. Qua đó để “Xây dựng thế trận quốc
phòng toàn dân, gắn với thế trận an ninh nhân dân mà mấu chốt là thế trận
lòng dân” [11, tr.64].
Khi đời sống của nhân dân được cải thiện, nông thôn ngày càng khang
trang sạch đẹp, văn minh, tình làng, nghĩa xóm càng được gắn kết, sẽ nâng
cao ý thức giác ngộ chính trị cách mạng, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, trước


23

hết là trách nhiệm của người dân, trong xây dựng, bảo vệ quê hương, làng
xóm của mình. Trong nông thôn, sẽ cung cấp những thanh niên trẻ khỏe, có
trình độ văn hóa, để phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
đồng thời đó cũng là nguồn cổ vũ, động viên các lực lượng vũ trang nhân dân
hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ.
Lý luận chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về CNH XHCN
và sự sinh động về con đường CNH nông nghiệp, nông thôn của các quốc gia
trên thế giới, trong đó có cả những thành công và những thất bại, là cơ sở lý
luận, thực tiễn để Đảng ta ngày càng nhận thức đúng đắn hơn vị trí, vai trò
quan trọng của nông nghiệp, nông thôn, nông dân và khai thác tiềm năng to lớn
của khu vực này, trên cơ sở đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn,
nhiệm vụ có ý nghĩa quyết định đến thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH
đất nước trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
1.1.2. Thực trạng của nông nghiệp, nông thôn nước ta trong quá trình
công nghiệp hóa đất nước thời kỳ 1976 - 1990
Sau khi cả nước độc lập, thống nhất, quá độ lên CNXH, trên cơ sở
những kinh nghiệm của cách mạng XHCN ở miền Bắc và từ thực tiễn của
nền kinh tế - xã hội, đồng thời trung thành và vận dụng sáng tạo luận điểm
của V.I.Lênin: “Cơ sở vật chất duy nhất của chủ nghĩa xã hội chỉ có thể là

nền đại công nghiệp cơ khí có khả năng cải tạo cả nông nghiệp. Nhưng
không thể đóng khung ở nguyên lý chung đó. Cần phải cụ thể hoá nguyên
lý đó” [85, tr.11]. Kế thừa những quan điểm cơ bản về CNH XHCN do Hội
nghị lần thứ 19 (3/1971), Hội nghị lần thứ 22 (1/1974) của Ban Chấp hành
Trung ương khoá III đề ra, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng
(12/1976), tiếp tục khẳng định tính tất yếu khách quan của con đường CNH ở
nước ta và chỉ ra phương huớng phát triển trong thời kỳ mới. Đồng thời Đại
hội khẳng định bước điều chỉnh quan trọng về nội dung CNH, trong đó coi


24

phát triển nông nghiệp, công nghiệp nhẹ là cơ sở để ưu tiên phát triển công
nghiệp nặng một cách hợp lý.
Chủ trương, phương hướng tiến hành CNH do Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IV của Đảng xác định, vừa chỉ rõ mối quan hệ chặt chẽ giữa
công nghiệp với nông nghiệp, vừa khẳng định vai trò quan trọng của nông
nghiệp trong nền kinh tế quốc dân, nhất là đối với sự phát triển của công
nghiệp. Ở nước ta, khi chưa có nền đại công nghiệp cơ khí, thì sự phát triển
của công nghiệp, nhất là công nghiệp nặng, phải được đặt trong mối quan hệ
chặt chẽ với nông nghiệp, mỗi bước phát triển của công nghiệp lúc này, phải
nhằm đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp. Khi nông nghiệp phát triển, sẽ tạo ra
điều kiện để ưu tiên cho phát triển công nghiệp nặng và từng bước thực hiện
thắng lợi sự nghiệp CNH đất nước.
Thực hiện chủ trương của Đảng về xây dựng, phát triển kinh tế nông
nghiệp, nông thôn trong quá trình CNH đất nước, trong giai đoạn 1976 1980, Nhà nước tập trung đầu tư nguồn vốn, khoa học - kỹ thuật... cho sản
xuất nông nghiệp, đồng thời thực hiện một bước cơ giới hóa trong nông
nghiệp như làm đường giao thông nông thôn, xây dựng trường học, trạm y tế
và đưa hàng vạn máy kéo lớn, nhỏ, hàng chục vạn động cơ nổ các loại vào
sản xuất, thúc đẩy nông nghiệp phát triển đạt được những kết quả tiến bộ, góp

phần từng bước ổn định đời sống của toàn xã hội, tạo điều kiện để thúc đẩy
nền kinh tế - xã hội phát triển.
Tuy đạt được một số thành tựu, nhưng so với mục tiêu kinh tế - xã hội
trong lĩnh vực nông nghiệp theo kế hoạch 5 năm 1976 - 1980, nhiều chỉ tiêu
không đạt, nhất là về sản xuất lương thực, các ngành sản xuất khác như
chăn nuôi gia súc, gia cầm phát triển chậm, khai thác thủy, hải sản chưa
được quan tâm.


25

Đối với kinh tế nông thôn, các ngành công nghiệp, nhất là công nghiệp
chế biến chưa được đầu tư xây dựng, các ngành nghề, làng nghề truyền thống
chưa được khuyến khích phát triển, dẫn đến nhiều mặt hàng thiết yếu phục vụ
cho đời sống xã hội khan hiếm, chính sách phân phối bình quân đã kìm hãm
sự phát triển của LLSX trong nông thôn. Do sản xuất không đáp ứng được
yêu cầu tiêu dùng của xã hội, hàng năm Nhà nước phải nhập khẩu lương thực
và có xu hướng tăng dần, năm 1976 nhập khẩu 1,2 triệu tấn, năm 1979 tăng
lên 2,2 triệu tấn [129, tr.53].
Tình tình trên đã ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội, đời
sống của các tầng lớp nhân dân, nhất là các vùng dân cư nông thôn hết sức
khó khăn. Thực trạng đó do những sai lầm về hình thức, bước đi trong quá
trình CNH đất nước; nôn nóng, chủ quan trong cải tạo nền nông nghiệp,
nông thôn nhanh chóng đi lên hiện đại và trong giải quyết mối quan hệ giữa
công nghiệp với nông nghiệp và tài chính giá cả. Những sai lầm đó biểu hiện
trên những vấn đề cơ bản sau:
Một là, nhận thức chưa đúng đắn vị trí, vai trò của nông nghiệp và kinh
tế nông thôn trong quá trình CNH đất nước.
Từ xem nhẹ vị trí, vai trò của nông nghiệp và kinh tế nông thôn, nên
đầu tư cho phát triển sản xuất chưa tương xứng với vị trí mặt trận hàng đầu

trong nền kinh tế - xã hội, dẫn đến cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho sản
xuất nông nghiệp chưa đáp ứng kịp thời, các công trình thủy lợi, nghiên cứu
đưa tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất, đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ
cán bộ quản lý chưa được coi trọng..., làm cho nền nông nghiệp vẫn trong
tình trạng độc canh, lạc hậu. Cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất nông
nghiệp, nông thôn chưa được quan tâm đúng mức, dẫn tới mất cân đối giữa
sản xuất với chế biến, lưu thông và tiêu thụ sản phẩm; các cơ sở chế biến
hình thành chậm, nên hầu hết nông sản mới sử dụng ở dạng thô, giá trị kinh


26

tế thấp; các ngành nghề trong nông thôn hầu như chưa được đầu tư, tổ chức
thiếu chặt chẽ, hiệu quả kinh tế thấp; đường giao thông chắp vá, phương tiện
vận chuyển thiếu nghiêm trọng, tình trạng ứ đọng sản phẩm ở nhiều nơi trở
thành phổ biến, gây lãng phí lớn cho sản xuất. Đó là nguyên nhân cơ bản
làm cho sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn ở nước ta trong thời kỳ
này không ổn định.
Về cơ cấu đầu tư: đầu tư cho cơ giới hóa nông nghiệp thường tập trung
cho cơ giới lớn, xem nhẹ cơ giới nhỏ và công cụ cầm tay, giữa mua sắm trang
bị máy móc mới cho sản xuất nông nghiệp với xây dựng các cơ sở sửa chữa,
bảo quản, sản xuất phụ tùng... Một số địa phương thực hiện CNH trong nông
nghiệp được đầu tư, trang bị các loại máy móc hiện đại, nhưng không phù hợp
với đồng ruộng Việt Nam cũng như cơ sở hạ tầng ở nông thôn lúc bấy giờ,
dẫn tới hoạt động kém hiệu quả. Tình hình trên, không những gây thiệt hại về
kinh tế, mà còn phá vỡ các cơ sở hạ tầng và các ngành nghề truyền thống ở
nông thôn như: sửa chữa nông cụ, cơ khí nhỏ, nghề rèn...
Chủ trương của Đảng và các chính sách của Nhà nước, tăng cường đầu
tư xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho nông nghiệp và kinh tế nông thôn,
nhằm thúc đẩy sản xuất phát triển là bước đi đúng đắn, song đầu tư tập trung

vào lĩnh vực nào, cơ cấu đầu tư cho các ngành ra sao, trong những năm này
vẫn chưa được giải đáp.
Nguyên nhân cơ bản của tình hình trên là do Đảng và Nhà nước ta nhận
thức chưa đúng đắn về vị trí, vai trò quan trọng của nông nghiệp và kinh tế
nông thôn trong sự nghiệp CNH đất nước, dẫn đến nóng vội, chủ quan duy ý
chí trong chỉ đạo và rập khuôn máy móc trong tổ chức thực hiện cải tạo nền
nông nghiệp. Hợp tác hoá, tập thể hoá ồ ạt, nên đã kìm hãm đến sự phát triển
của LLSX trong nông thôn, ảnh hưởng trực tiếp tới quá trình sản xuất.


27

Hai là, xây dựng quan hệ sản xuất trong nông nghiệp, nông thôn chưa
phù hợp với trình độ phát triển của LLSX, làm cho sự phát triển của nông
nghiệp, nông thôn trì trệ nghiêm trọng.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng chủ trương tổ chức lại
sản xuất, cải tiến quản lý nông nghiệp, đưa nông nghiệp tiến lên sản xuất lớn
XHCN, sau đó được cụ thể hóa trong các Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp
hành Trung ương 2,5,6 khóa IV, Chỉ thị của Ban Bí thư về xây dựng cấp
huyện ngày 24/1/1978, Nghị quyết của Bộ Chính trị ngày 1/9/1980.
Nội dung cơ bản và tư tưởng chỉ đạo của các văn kiện trên là tổ chức lại
sản xuất nông nghiệp theo hướng tập trung, chuyên môn hóa và cơ giới hóa
trong toàn quốc. Do đó, HTX được mở rộng về quy mô và thống nhất quản lý
trên tất cả các khâu từ sản xuất đến phân phối, tiêu dùng. Mọi tư liệu sản xuất
và đất đai canh tác của hộ nông dân được đưa vào sở hữu tập thể HTX, thực
hiện phân phối lại ruộng đất với quy mô lớn và sản xuất theo quy hoạch, kế
hoạch thống nhất.
Về cải tiến quản lý sản xuất nông nghiệp, thực hiện lao động tập trung,
chuyên môn hóa như trong các xí nghiệp công nghiệp, HTX được tổ chức
thành các đội chuyên, phân công, hợp tác thông qua hợp đồng tập thể, dưới sự

điều hành của ban quản trị, cơ quan thống nhất mọi công việc trong HTX
nông nghiệp. Đồng thời, tổ chức lại sản xuất nông nghiệp theo từng HTX và
quản lý trên phạm vi cơ sở huyện.
Thực hiện chủ trương trên, từ năm 1976 đến năm 1980 ở miền Bắc đã
mở rộng quy mô HTX từ thôn lên xã, hoặc liên xã, đội sản xuất được mở rộng
đến quy mô thôn. Năm 1979 miền Bắc có 4.154 HTX toàn xã, trong đó có
835 HTX có quy mô trên 500 ha ruộng đất canh tác, 159 HTX có quy mô trên
700 ha và có một số HTX có quy mô trên 1.000 ha [24, tr.18]. Hợp tác hoá,
tập thể hoá qui mô lớn, nhưng không phát huy được những năng lực sản xuất


28

hàng hoá của các chủ thể kinh tế, làm cho hiệu quả sản xuất nông nghiệp càng
thấp. Năng suất lúa giảm đến mức thấp nhất (năm 1976 là 22,3 tạ/ha; năm
1978 chỉ còn 17,5 ta/ha, năm 1980 mới đạt 20,8 tạ/ha) (xem Phụ lục 1).
Thực tế đó cho thấy, tổ chức sản xuất nông nghiệp theo quy trình công
nghiệp được ứng dụng ở một số địa phương là không phù hợp, nên không
khơi dậy và phát huy được năng lực của người lao động. Đến giai đoạn này,
hợp tác hóa, tập thể hóa, được phát triển tới mức độ cao, song lại càng bộc lộ
những nhược điểm lớn.
Trong khi mô hình hợp tác hóa, tập thể hóa ở miền Bắc rơi vào tình
trạng khủng hoảng chưa được nghiên cứu, tổng kết, lại được áp dụng dập
khuôn máy móc vào miền Nam, dẫn đến triệt tiêu sự phát triển của sản xuất
hàng hoá. Đến tháng 7/1980 toàn miền Nam xây dựng được 1.518 HTX và
9.350 TĐSX, thu hút 35,6% số hộ nông dân vào làm ăn tập thể [24, tr.27],
kết quả càng đẩy mạnh hợp tác hóa, tập thể hóa, sản xuất nông nghiệp càng
bị suy giảm. Năm 1980 diện tích canh tác giảm 9,45 vạn ha ruộng đất, sản
lượng lương thực giảm 4,1 vạn tấn so với năm 1978 [129, tr.48]. Cuối năm
1979 hàng loạt các HTX và TĐSX tan rã, số còn lại nhìn chung hoạt động

kém hiệu quả. Sự gò ép nông dân các HTX, TĐSX, nông dân cá thể vào
làm việc tập thể, dẫn đến các ngành nghề trong nông thôn đang tồn tại và
phát triển, sản xuất ra nhiều mặt hàng phục vụ cho yêu cầu sinh hoạt của
đời sống xã hội bị phá vỡ.
Ba là, một số chính sách của Nhà nước về sản xuất nông nghiệp chưa
phù hợp, nên kìm hãm sự phát triển sản xuất. Yêu cầu phải đổi mới cơ chế,
chính sách thúc đẩy nông nghiệp phát triển.
Hàng năm căn cứ vào khả năng sản xuất của từng vùng, từng địa
phương, Nhà nước giao nghĩa vụ lương thực đến từng HTX, TĐSX, bao gồm
thuế nông nghiệp và thu mua lương thực theo giá thấp, thu mua lương thực


29

ngoài nghĩa vụ theo giá khuyến khích, song mức huy động không ổn định, lại
tăng dần cùng với sự tăng lên của sản xuất lương thực, làm giảm số lương
thực tiêu dùng của người sản xuất, không khuyến khích được người lao động
đầu tư thâm canh, mở rộng diện tích để tăng sản lượng.
Do thực hiện quản lý kinh tế theo từng khu vực, từng địa phương, tạo ra
“ngăn sông, cấm chợ”, dẫn đến lưu thông ách tắc, cản trở sự phát triển của sản
xuất hàng hóa trong nông nghiệp và kinh tế nông thôn.
Từ yêu cầu sinh hoạt của đời sống xã hội và đáp ứng cho cuộc chiến
tranh giải phóng dân tộc, các chính sách khuyến khích sản xuất nông nghiệp
được thực hiện ở miền Bắc trong nhiều năm có tác dụng tích cực thúc đẩy
nông nghiệp phát triển, nhưng trong điều kiện mới không được điều chỉnh,
chậm sửa đổi về nội dung và hình thức tổ chức thực hiện, làm giảm nhiệt tình
của người lao động.
Những hạn chế trên, đã tác động tới sản xuất nông nghiệp và kinh tế
nông thôn, làm cho sản xuất rơi vào tình trạng trì trệ, đời sống của các tầng
lớp nhân dân gặp khó khăn. Thực tiễn khắc nghiệt của đời sống xã hội, đòi

hỏi nông nghiệp, nông thôn phải tìm một hướng đi mới, khai thác nguồn lực,
tiềm năng của các thành phần kinh tế, trước hết là kinh tế hộ gia đình, thúc
đẩy sản xuất phát triển.
Đứng trước khủng hoảng của mô hình quản lý kinh tế và sự giảm sút của
sản xuất nông nghiệp, một số tổ chức đảng và quần chúng ở các địa phương
đã tự tìm kiếm cách làm mới. Từ những năm 1975 - 1978, tỉnh Vĩnh Phú và
Hải Phòng đã thực hiện khoán tới hộ nông dân, sau đó lan ra nhiều địa
phương với các mức độ khác nhau đều cho kết quả kinh tế khá hơn so với
khoán việc trong những năm trước đó.
Cùng với sự tìm kiếm cách thức tổ chức sản xuất mới ở các địa phương,
Đảng và Nhà nước ta cũng suy nghĩ, tìm tòi, xác định các chủ trương, giải


×