Tải bản đầy đủ (.doc) (61 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ vấn đề dân tộc và THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH dân tộc TRÊN địa bàn TỈNH THÁI NGUYÊN HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (407.12 KB, 61 trang )

MỤC LỤC
Tra
ng
MỞ ĐẦU

Chương 1

QUAN ĐIỂM CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ

02
07

MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ QUAN ĐIỂM, CHÍNH SÁCH
DÂN TỘC CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA

1.1

Quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí

07

1.2

Minh về vấn đề dân tộc
Quan điểm, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta

17

hiện nay
Chương 2


THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI VIỆC THỰC HIỆN

29

CHÍNH SÁCH DÂN TỘC Ở TỈNH THÁI NGUYÊN HIỆN NAY

2.1

Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và tình hình

29

dân tộc ở tỉnh Thái Nguyên
2.2

Thực trạng và vấn đề đặt ra trong thực hiện chính sách

36

2.3

dân tộc ở tỉnh Thái Nguyên
Giải pháp đổi mới việc thực hiện chính sách dân tộc ở tỉnh

51

Thái Nguyên hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


60
63

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài


Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, gồm có 54 dân tộc anh em. Các dân
tộc đoàn kết gắn bó với nhau trong suốt quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước. Đảng
ta luôn coi vấn đề dân tộc có vị trí chiến lược quan trọng trong sự nghiệp cách mạng
nước ta. Việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ dân tộc, hoạch định và thực hiện có
hiệu quả chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực
tiễn to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Trong bối cảnh quốc tế và trong nước hiện nay, vấn đề dân tộc đang có
những diễn biến phức tạp, vừa mang tính đặc thù riêng của từng quốc gia, vừa
mang tính toàn cầu. Vấn đề dân tộc luôn là vấn đề nhạy cảm mà các thế lực thù địch
tìm mọi cách lợi dụng để chống phá sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ
quốc của nhân dân ta, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn coi việc hoạch định và thực hiện chính
sách dân tộc là một nhiệm vụ quan trọng của cách mạng Việt Nam. Quá trình thực hiện
chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước trong mấy thập kỷ qua đã đạt được nhiều
thành tựu lớn trên các lĩnh vực, góp phần quan trọng vào thắng lợi của từng thời kỳ
cách mạng. Điều đó khẳng định bản chất và chức năng tốt đẹp của nhà nước xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam.

Tuy nhiên, theo nhiều đánh giá, chính sách dân tộc và việc thực hiện chính
sách dân tộc trong thời kỳ mới cũng bộc lộ không ít hạn chế thiếu sót, chưa đáp ứng
được yêu cầu đặt ra và sự mong đợi của các đồng bào dân tộc cả nước. Đời sống nhân

dân các dân tộc chậm được cải thiện; trình độ kinh tế xã hội giữa các dân tộc không
được thu hẹp; một số vùng dân tộc thiếu ổn định chính trị xã hội; tình hình tôn giáo
phát triển ở vùng dân tộc thiểu số không bình thường v.v… Chính vì vậy, việc nghiên
cứu, đánh giá về vấn đề thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước trong thời
gian vừa qua đặt ra hết sức cấp thiết, nhất là thực trạng thực hiện tại những tỉnh có sự
đa dạng cao về dân tộc như tỉnh Thái Nguyên.

Thái Nguyên là một tỉnh ở Đông Bắc Việt Nam có 46 dân tộc anh em
cùng cư trú đan xen từ lâu đời. Những năm qua, việc thực hiện chính sách dân tộc của
Đảng và Nhà nước trên các lĩnh vực đời sống xã hội ở Thái Nguyên đã đạt được những
thành tựu lớn. Đời sống nhân dân cơ bản ổn định và có vùng được cải thiện rõ rệt. Tình
hình an ninh trật tự và an toàn xã hội được giữ vững. Bên cạnh đó, việc thực hiện chính
sách dân tộc trong tỉnh còn không ít bất cập. Tỷ lệ đói nghèo trong đồng bào dân tộc
2


thiểu số cao, khoảng cách về trình độ phát triển kinh tế - xã hội so với dân tộc Kinh còn
lớn. Do đó, việc nghiên cứu đánh giá về thực hiện chính sách dân tộc ở Thái Nguyên
không chỉ góp phần làm cơ sở cho các chủ trương chính sách phát triển kinh tế xã hội
của đảng bộ và chính quyền tỉnh đối với vùng dân tộc miền núi trong thời gian tới mà
còn cho chúng ta thấy việc giải quyết vấn đề dân tộc ở nước ta từ quan điểm đường lối
đến tổ chức thực hiện. Xuất phát từ ý nghĩa quan trọng về lý luận và thực tiễn đó, tôi đã
chọn đề tài: “Vấn đề dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc trên địa bàn

tỉnh Thái Nguyên hiện nay” làm khóa luận cử nhân chuyên ngành chủ nghĩa xã hội
khoa học.

2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Vấn đề dân tộc và việc thực hiện chính sách dân tộc ở nước ta là một
chủ đề nghiên cứu thu hút sự quan tâm của nhiều tác giả thuộc nhiều ngành, nhiều giới

khác nhau, kể cả những người làm công tác hoạch định chính sách và quản lý. Có thể
thấy rằng, hầu hết các công trình nghiên cứu về dân tộc và miền núi đều ít nhiều đề cập
đến vấn đề dân tộc và việc thực hiện chính sách dân tộc nước ta ở những mức độ khác
nhau. Trong những năm gần đây, nhiều công trình nghiên cứu về chủ đề này đã được
công bố, được tiếp cận dưới các góc độ của các môn khoa học như: Dân tộc học, Chủ
nghĩa xã hội khoa học, Xã hội học, Sử học... Trong đó, một số công trình chuyên khảo
bàn về vấn đề dân tộc và việc thực hiện chính sách dân tộc đã ra đời.

Tập thể tác giả ở Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Phân viện
Hà Nội - Khoa Dân tộc (1995) đã xuất bản công trình: "Vấn đề dân tộc và
chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước". Từ góc độ dân tộc học, cuốn
sách đã làm rõ những điều cơ bản nhất của vấn đề dân tộc và chính sách dân
tộc của Đảng và Nhà nước ta trong những năm đổi mới đất nước. Trong cuốn
sách "Phát triển quan hệ dân tộc ở Việt Nam hiện nay", GS Trần Quang
Nhiếp (1997) đã phân tích những đặc điểm chủ yếu và thực trạng của quan hệ
dân tộc, những yếu tố tác động, các hình thức biểu hiện quan hệ dân tộc ở
nước ta. Các tác giả Nguyễn Quốc Phẩm và Trịnh Quốc Tuấn (1999) với công
trình "Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn về dân tộc và quan hệ dân tộc ở Việt
Nam” đã đưa ra sự lý giải về một số khái niệm liên quan đến vấn đề dân tộc

3


và trình bày thực tiễn vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc Việt Nam hiện
nay. Cuốn sách "Về vấn đề dân tộc và công tác dân tộc ở nước ta" của Ủy
ban Dân tộc và Miền núi (2001) đã trình bày một cách hệ thống các quan
điểm lý luận về công tác dân tộc và nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ làm công tác
dân tộc nhằm đáp ứng yêu cầu của đất nước trong tình hình mới.
Gần đây, Viện Nghiên cứu Chính sách dân tộc và Miền núi (2002) đã công bố
ấn bản chuyên khảo: "Vấn đề dân tộc và định hướng xây dựng chính sách dân tộc

trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa". Cuốn sách đã trình bày cơ sở lý luận và
thực tiễn về chính sách dân tộc của Đảng ta, và những định hướng cơ bản trong việc
quy hoạch dân cư, đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế hàng hóa phù hợp với đặc điểm
từng vùng nhằm đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đặc biệt là công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, đồng thời kiến nghị những giải pháp sớm ổn định
và cải thiện đời sống đồng bào dân tộc.

Mặt khác, nhiều chương trình và đề tài nghiên cứu quốc gia, bộ, ngành về
vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc ở nước ta đã được triển khai thực hiện, chẳng
hạn như: "Chính sách dân tộc của các chính quyền nhà nước phong kiến Việt Nam X –
XIX” (2001, đề tài KX.04-05); “Những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách liên quan
đến mối quan hệ dân tộc hiện nay” (2001, đề tài KX.04-05); “Xóa đói giảm nghèo ở
vùng dân tộc nước ta hiện nay - thực trạng và giải pháp” (2002, đề tài KX.04-05).

Bên cạnh đó, vấn đề dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc ở nước ta
cũng là một chủ đề được nhiều nghiên cứu đề cập đến. Dưới góc độ bàn về
vai trò của quân đội trong thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà
nước có thể nêu lên một số công trình tiêu biểu như: “Vai trò của quân đội
trong thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước”, đề tài cấp Tổng
cục, Hà Nội, 2003, do TS. Mẫn Văn Mai làm chủ nhiệm; Luận văn thạc sỹ:
“Lực lượng vũ trang Quân khu 2 với thực hiện chính sách dân tộc của Đảng
và Nhà nước ta hiện nay” của Lê Thế Mạnh, Học viện Chính trị, 2000; Luận
văn thạc sỹ: “Phát huy vai trò của quân đội nhân dân trong đấu tranh chống
truyền đạo trái phép trên địa bàn Tây Bắc hiện nay” của Vũ Văn Đôn, Học
viện Chính trị, 2001. Những công trình nghiên cứu trên đề cập khá sâu sắc,

4


toàn diện về đoàn kết dân tộc, vai trò của Quân đội nhân dân Việt Nam trong

xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc và gúp phần thực hiện chính sách
dân tộc của Đảng và Nhà nước trên địa bàn xác định.
Ngoài ra, có nhiều công trình và bài viết của các nhà khoa học, các nhà quản lý
và hoạch định chính sách đánh giá về tình hình và kết quả thực hiện chính sách dân tộc.
Tuy nhiên, cho đến nay, chúng tôi nhận thấy chưa có một công trình nghiên cứu nào đề
cập trực tiếp về vấn đề thực hiện chính sách dân tộc ở tỉnh Thái Nguyên. Với ý nghĩa
quan trọng về lý luận và thực tiễn, vấn đề này cần phải được nghiên cứu dưới góc độ
chính trị - xã hội, tìm hiểu thực trạng và đưa ra những giải pháp cơ bản để nhằm đổi
mới việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ở tỉnh Thái Nguyên hiện
nay.
2. Mục đích và nhiệm vụ của khóa luận

Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận Má c - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của
Đảng ta về vấn đề dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc, khóa luận tập trung phân tích
thực trạng việc thực hiện chính sách dân tộc ở tỉnh Thái Nguyên; từ đó, đề xuất một số
giải pháp nhằm góp phần thực hiện chính sách dân tộc ở tỉnh Thái Nguyên trong thời
gian tới.

Nhiệm vụ của đề tài
- Hệ thống hóa quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
về vấn đề dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc; quan điểm, chính sách dân tộc của
Đảng và Nhà nước ta hiện nay.

- Phân tích thực trạng việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước
trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.

- Nêu lên phương hướng cơ bản, những giải pháp chủ yếu nhằm đổi mới việc
thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ở tỉnh Thái Nguyên trong thời gian
tới.


4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là việc thực hiện chính sách dân tộc
của Đảng và Nhà nước đối với đồng bào các dân tộc ở tỉnh Thái Nguyên.

- Phạm vi nghiên cứu tập trung vào tìm hiểu và đánh giá về tình hình dân tộc và
5


việc thực hiện chính sách dân tộc trong tỉnh Thái Nguyên từ khi đất nước bước vào
công cuộc Đổi mới cho đến nay, bao gồm: chính sách dân tộc, tình hình dân tộc trong
tỉnh, thực trạng và kết quả thực hiện chính sách dân tộc trên các lĩnh vực; nguyên nhân
thành công và hạn chế.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Khóa luận dựa trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước về vấn đề dân tộc và giải quyết
vấn đề dân tộc; những chủ trương, chính sách của Đảng bộ và Ủy ban nhân dân tỉnh
Thái Nguyên về chính sách dân tộc.

Khóa luận sử dụng phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử, phương pháp lịch sử, phân tích tổng hợp, phương pháp so
sánh, hệ thống.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của khóa luận
- Về lý luận, nghiên cứu này góp phần làm sáng rõ quan điểm, chính sách dân
tộc đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta thông qua phân tích thực tiễn tại một tỉnh có
tính điển hình về quan hệ dân tộc ở nước ta.

- Về thực tiễn, từ phân tích thực trạng và đề xuất những giải pháp chủ

yếu nhằm đổi mới việc thực hiện chính sách dân tộc ở tỉnh Thái Nguyên, khóa
luận có thể là tài liệu cho các cấp, các ngành của tỉnh Thái Nguyên tham khảo
để thực hiện chính sách dân tộc có hiệu quả đối với vùng đồng bào dân tộc
của tỉnh trong thời gian tới.
Mặt khác, kết quả nghiên cứu thiết thực góp phần thực hiện chức trách, nhiệm
vụ của người cán bộ chính trị quân đội nói riêng và nhiệm vụ của quân đội nói chung
trên địa bàn Thái Nguyên trong công tác dân vận, tham gia thực hiện chính sách dân
tộc.

7. Kết cấu
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận
được kết cấu gồm 2 chương như sau:

Chương 1: Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn
đề dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước ta

6


Chương 2: Thực trạng, phương hướng và giải pháp đổi mới việc thực hiện
chính sách dân tộc ở tỉnh Thái Nguyên hiện nay

Chương 1
QUAN ĐIỂM CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ QUAN ĐIỂM, CHÍNH SÁCH DÂN TỘC CỦA
ĐẢNG, NHÀ NƯỚC TA HIỆN NAY

1.1. Quan điểm chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề
dân tộc


1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề dân tộc
* Về khái niệm dân tộc và vấn đề dân tộc
Lâu nay, ở nước ta, thuật ngữ dân tộc thường được sử dụng với hai ý nghĩa
chính là: tộc người (ethnic), quốc gia dân tộc (nation) và để chỉ một hình thức
cộng đồng tộc người phát triển cao hơn bộ tộc là dân tộc. Tùy từng trường hợp cụ
thể, thuật ngữ dân tộc được hiểu theo những ý nghĩa khác nhau.
Dân tộc với nghĩa là quốc gia dân tộc (nation) chỉ một cộng đồng chính trị xã hội, thiết lập trên một lãnh thổ nhất định bao gồm một hay nhiều tộc người.
Quốc gia dân tộc là một cộng đồng người ổn định, hình thành trong lịch sử, sử
dụng chung một ngôn ngữ mang tính hành chính, có một lãnh thổ bất khả xâm
phạm, có một tên gọi, có chung mối quan hệ kinh tế, văn hóa và một thị trưường
thống nhất, được chỉ đạo và điều hành bởi một nhà nước chung.
Thuật ngữ dân tộc dùng để chỉ cộng đồng tộc người (ethnic). Theo
nghĩa này, dân tộc là một cộng đồng người hình thành và phát triển trong lịch
sử trên một lãnh thổ nhất định, có mối liên hệ về kinh tế, có chung một ngôn
ngữ và các đặc trưng sinh hoạt văn hoá, có ý thức tự giác tộc người và tên tự
gọi của cộng đồng, ví dụ: dân tộc Kinh, dân tộc Tày v.v…
Vấn đề dân tộc bao gồm mối quan hệ giữa các tộc người trong một
quốc gia và giữa các quốc gia dân tộc thể hiện trên các lĩnh vực chính trị, kinh

7


tế, lãnh thổ, ngôn ngữ, văn hóa… Giải quyết vấn đề dân tộc là giải quyết mối
quan hệ giữa các tộc người, các quốc gia dân tộc trên các lĩnh vực ấy nhằm
thực hiện các quyền và lợi ích của tộc người và quốc gia dân tộc. Biểu hiện
nổi bật của vấn đề dân tộc là những nội dung nảy sinh mâu thuẫn trong quan
hệ giữa các tộc người trong nội bộ quốc gia dân tộc và giữa các quốc gia dân
tộc với nhau trong quan hệ quốc tế, diễn ra trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội
tác động đến mỗi tộc người và mối quan hệ tộc người, quốc gia dân tộc đòi
hỏi các nhà nước phải quan tâm giải quyết. Thực chất của vấn đề dân tộc là

việc thực hiện quyền và lợi ích giữa các dân tộc, các quốc gia dân tộc, nhất là
các quyền cơ bản của các dân tộc: quyền được tồn tại với tính cách là một tộc
người, dân tộc; quyền độc lập của tộc người, dân tộc; quyền dân tộc tự quyết,
quyền dân tộc bình đẳng; quyền độc lập về kinh tế và những điều kiện để phát
triển kinh tế lâu dài, bền vững; quyền giữ gìn và phát triển ngôn ngữ, văn hóa
tộc người, dân tộc.
* Quan điểm của C.Mác – Ph.Ăng ghen về vấn đề dân tộc
Quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen về vấn đề dân tộc được trình bày trong
nhiều tác phẩm nổi tiếng của các ông, nhất là trong "Tuyªn ng«n cña §¶ng Céng

s¶n". C.Mác và Ph.Ăngghen đã kêu gọi: “Hãy xóa bỏ tình trạng người bóc lột người
thì tình trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng sẽ bị xóa bỏ. Khi mà sự đối kháng
giữa các giai cấp trong nội bộ dân tộc không còn nữa thì sự thù địch giữa các dân tộc
cũng đồng thời mất theo” [01, tr. 624].

Theo đó, việc giải quyết vấn đề dân tộc phải luôn gắn với vấn đề giai
cấp và vấn đề nhân loại. Trong cuộc cách mạng của giai cấp công nhân do
Đảng cộng sản lãnh đạo, lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc gắn bó mật thiết
với nhau. Giải phóng dân tộc là một trong ba sự nghiệp giải phóng trong sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân: giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc,
giải phóng con người. Chỉ có đấu tranh thủ tiêu giai cấp mới xóa bỏ được nạn
người bóc lột người và tình trạng áp bức dân tộc. Ph.Ăng-ghen chỉ ra rằng,
công nhân tất cả các nước đều giống nhau, lợi ích của họ thống nhất, kẻ thù

8


của họ cũng giống nhau, cho nên họ cần hiệp lực đấu tranh chung và xây
dựng khối liên minh công nhân tất cả các dân tộc đối lập với liên minh giai
cấp tư sản các dân tộc.

Tư tưởng đoàn kết giai cấp công nhân toàn thế giới, đấu tranh chống áp
bức bóc lột, thủ tiêu chế độ tư bản chủ nghĩa đi đến thủ tiêu giai cấp, thủ tiêu
tình trạng người bóc lột người vừa là nguyên tắc lý luận, đồng thời cũng là
nền tảng của chính sách dân tộc mácxít của giai cấp công nhân trong cuộc đấu
tranh chống giai cấp tư sản. Điều đó thể hiện tập trung thái độ chính trị của
những người cộng sản, thái độ của giai cấp công nhân nói chung trong cuộc
đấu tranh giai cấp nhằm đánh đổ chủ nghĩa tư bản. Quan điểm đó cũng chỉ rõ
phương hướng chiến lược và giải pháp cơ bản tập hợp lực lượng giai cấp công
nhân tất cả các dân tộc đấu tranh chống ách áp bức, nô dịch.
Những quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen nêu trên được coi là
cương lĩnh đầu tiên, là nguyên tắc lý luận và kim chỉ nam cho hành động của
các Đảng Cộng sản trong giải quyết vấn đề dân tộc. Quan điểm đó thể hiện ở
ba vấn đề cơ bản như sau:
Thứ nhất: Chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa là cơ sở sinh ra nạn
người bóc lột người; cơ sở duy trì và dung dưỡng nạn áp bức giai cấp và áp
bức dân tộc của giai cấp tư sản đối với giai cấp vô sản và các dân tộc.
Thứ hai: Tình trạng áp bức giai cấp sẽ phát triển cùng với sự phát triển
của chủ nghĩa tư bản. Sản xuất tư bản chủ nghĩa càng đẩy mạnh thì nạn bóc
lột và áp bức giai cấp, áp bức dân tộc càng nặng nề. Vì vậy, muốn xóa bỏ nạn
áp bức giai cấp, tình trạng dân tộc này đi nô dịch, bóc lột dân tộc khác thì phải
xóa bỏ tận gốc chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, cơ sở kinh tế - xã hội
sinh ra nạn áp bức giai cấp, nạn nô dịch dân tộc.
Thứ ba: Cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư
sản trong xã hội tư bản chủ nghĩa, tuy không phải là cuộc đấu tranh dân tộc,
nhưng lúc đầu mang hình thức đấu tranh dân tộc. Do vậy, trước hết giai cấp tư
sản phải giành lấy chính quyền, phải tự mình trở thành dân tộc.
9


Mặt khác, giải quyết vấn đề dân tộc là giải quyết vấn đề lực lượng cách

mạng. Cho nên, đây vừa là nhiệm vụ trước mắt vừa là nhiệm vụ lâu dài,
thường xuyên và xuyên suốt quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa. Vì thế,
giải quyết vấn đề dân tộc vừa là mục tiêu vừa là động lực của cách mạng xã
hội chủ nghĩa gắn liền với sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân. Giải
quyết đúng đắn vấn đề dân tộc sẽ huy động được sức mạnh to lớn của quần
chúng nhân dân trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.
* Cương lĩnh dân tộc của V.I. Lênin
Lênin đã phát triển sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác về vấn đề dân tộc
trong điều kiện mới. Khi nghiên cứu và giải quyết vấn đề dân tộc, V.I.Lê-nin
đã phát hiện hai xu hướng có tính quy luật của phong trào dân tộc. Người cho
rằng: “Quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, có hai xu hướng lịch sử trong
vấn đề dân tộc. Xu hướng thứ nhất là: sự thức tỉnh của đời sống dân tộc và của
các phong trào dân tộc, cuộc đấu tranh chống mọi ách áp bức dân tộc, việc thiết
lập các quốc gia dân tộc. Xu hướng thứ hai là: việc phát triển và tăng cường
đủ mọi thứ quan hệ giữa các dân tộc, việc xóa bỏ những hàng rào ngăn cách
các dân tộc và việc thiết lập sự thống nhất quốc tế của tư bản, của đời sống
kinh tế nói chung, của chính trị, của khoa học v.v...Cương lĩnh dân tộc của
những người mácxít chú ý đến cả hai xu hướng đó”… [08, tr.158].
Xuất phát từ quan điểm khoa học, cách mạng về vấn đề dân tộc, Lê-nin
đã đề ra Cương lĩnh dân tộc của các Đảng Cộng sản. Đó chính là linh hồn và
nội dung cơ bản của chính sách dân tộc: “Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng;
các dân tộc được quyền tự quyết; liên hợp công nhân tất cả các dân tộc lại: đó
là cương lĩnh dân tộc mà chủ nghĩa Mác, kinh nghiệm toàn thế giới và kinh
nghiệm của nước Nga dạy cho công nhân” [09, tr.375]. Đây là tư tưởng chỉ
đạo, nội dung cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lênin về chính sách dân tộc.
- Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng
Bình đẳng dân tộc là quyền của mọi dân tộc không phân biệt đa số hay
thiểu số, trình độ kinh tế, văn hóa cao hay thấp, không phân biệt chủng tộc,
10



mầu da... Quyền bình đẳng giữa các dân tộc bao gồm tất cả các lĩnh vực trong
đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Đây cũng là cơ sở pháp lý chung
giải quyết các quan hệ dân tộc trên thế giới, trong các khu vực hay trong một
quốc gia. Bình đẳng giữa các dân tộc cũng là kết quả đấu tranh của nhân dân
lao động các nước là thành quả của văn hóa văn minh và tiến bộ xã hội. Theo
Lê-nin: “Nguyên tắc bình đẳng hoàn toàn gắn liền chặt chẽ với việc đảm bảo
quyền lợi của các dân tộc thiểu số... bất cứ một thứ đặc quyền nào dành riêng
cho một dân tộc, và bất cứ một một sự vi phạm nào đến quyền lợi của một
dân tộc thiểu số, đều bị bác bỏ” [08, tr. 179].
Trước hết, bình đẳng dân tộc phải được thể hiện trong nội dung kinh tế
hay bình đẳng về kinh tế. Lợi ích kinh tế gắn liền với lợi ích giai cấp, dân tộc,
quốc gia. Bởi vậy, giải quyết các mối quan hệ dân tộc đều phải tính đến quan
hệ kinh tế, lợi ích kinh tế. Bất cứ sự áp đặt nào trong hợp tác, giao lưu, liên
kết, bất kỳ đặc quyền kinh tế nào dành riêng cho các dân tộc, đều dẫn đến
việc vi phạm lợi ích của các dân tộc, dẫn đến sự bất bình đẳng dân tộc.
Bình đẳng chính trị cũng là quyền của mỗi dân tộc. Đối với các dân tộc
bị áp bức, bị lệ thuộc, đấu tranh giành quyền bình đẳng về chính trị, chính là
điều kiện để có bình đẳng trên các phương diện khác của đời sống xã hội. Lênin cũng nêu rõ vấn đề bình đẳng về chính trị liên quan đến quyền tự quyết
của các dân tộc. Để thực hiện bình đẳng về chính trị, những người mácxít
phải đấu tranh không khoan nhượng chống chủ nghĩa dân tộc dưới mọi mầu
sắc. Lê-nin chỉ rõ: “Chủ nghĩa Mác không thể điều hòa được với chủ nghĩa
dân tộc, dù là chủ nghĩa dân tộc "công bằng", "thuần khiết", tinh vi và văn
minh đến đâu đi nữa” [08, tr.167].
Bình đẳng trên lĩnh vực văn hóa - xã hội có tầm quan trọng đặc biệt và
liên quan đến nhiều yếu tố dân tộc. Vấn đề bình đẳng trong văn hóa xã hội
phải luôn luôn gắn liền với bình đẳng về kinh tế, chính trị. Đấu tranh chống
chủ nghĩa cơ hội và các hình thức tinh vi xảo quyệt của chủ nghĩa dân tộc núp
dưới chiêu bài "tự trị dân tộc về văn hóa" hoặc đấu tranh cho mọi sự phát
11



triển dân tộc cho "nền văn hóa dân tộc" là xác định đúng quan hệ giữa kinh tế,
chính trị và văn hóa trong xã hội tư bản chống các chiêu bài mị dân thông qua
khẩu hiệu đòi "tự trị dân tộc về văn hóa".
- Các dân tộc đều có quyền tự quyết
Mỗi một dân tộc đều có quyền tự quyết định, quyền tự chủ đối với vận
mệnh của dân tộc mình. Quyền tự quyết bao gồm: Tự quyết định về chính trị xã hội và con đường phát triển của dân tộc mình. Quyền tự quyết cũng được
thể hiện ở quyền tự do phân lập thành quốc gia độc lập hay quyền tự nguyện
liên hiệp lại của các dân tộc trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi và đáp ứng nhu
cầu, nguyện vọng của nhân dân các dân tộc vì mục tiêu phát triển hòa bình,
phồn vinh và hữu nghị.
Khẳng định lập trường của mình về vấn đề quyền dân tộc tự quyết, Lênin nhấn mạnh, các đảng xã hội chủ nghĩa chân chính không được làm đồi bại
ý thức của giai cấp vô sản, không được làm lu mờ đấu tranh giai cấp, không
được dùng những lời nói dân chủ tư sản sáo rỗng để mê hoặc giai cấp công
nhân, không được phá hoại sự thống nhất trong cuộc đấu tranh chính trị hiện
nay của giai cấp vô sản. Chỉ với điều kiện ấy, chúng ta mới thừa nhận quyền
dân tộc tự quyết. Toàn bộ thực chất của vấn đề chính là ở trong điều kiện ấy.
Lê-nin nhấn mạnh cương lĩnh dân tộc của phái dân chủ công nhân là
hoàn toàn xóa bỏ mọi đặc quyền của bất cứ dân tộc nào, dùng biện pháp hoàn
toàn tự do, dân chủ để giải quyết vấn đề tự quyết về chính trị của các dân tộc.
“Nhiệm vụ tuyệt đối của những người mácxít là bảo vệ chủ nghĩa dân chủ
kiên quyết nhất và triệt để nhất trong mọi mặt của vấn đề dân tộc. Trong khi,
nguyên tắc của chủ nghĩa dân tộc tư sản là sự phát triển dân tộc nói chung, do
đó mà sinh ra tính đặc biệt của chủ nghĩa dân tộc tư sản, những cuộc xung đột
dân tộc không có lối thoát” [08, tr.169].
- Đoàn kết giai cấp công nhân các dân tộc
Để thực hiện quyền bình đẳng và quyền tự quyết dân tộc, cần phải đoàn
kết giai cấp công nhân các dân tộc, các quốc gia. Đoàn kết giai cấp công nhân
12



các dân tộc chính là đoàn kết gắn bó lực lượng nòng cốt của phong trào đấu
tranh cho tiến bộ, hòa bình và phát triển. Với bản chất quốc tế và những ưu
điểm vốn có, giai cấp công nhân các dân tộc vừa đại diện cho lợi ích nguyện
vọng của giai cấp công nhân nói chung vừa đại diện cho lợi ích của nhân dân
lao động và lợi ích các dân tộc. Đoàn kết giai cấp công nhân các dân tộc cũng
chính là kết hợp hài hòa giữa chủ nghĩa yêu nước chân chính với tinh thần
quốc tế cao cả của giai cấp công nhân các nước, là lực lượng trung tâm của
phong trào đấu tranh cho độc lập dân tộc, cho hòa bình, tiến bộ và phồn vinh
của nhân loại.
Trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, chống chủ nghĩa dân
tộc hẹp hòi, sô vanh, giai cấp công nhân các dân tộc cần liên hợp lại. Vì lợi
ích, vì mục đích chung, Lê-nin chỉ rõ: “Lợi ích của giai cấp công nhân đòi hỏi
công nhân thuộc tất cả các dân tộc ở trong một nước nhất định phải hợp nhất
lại trong các tổ chức vô sản thống nhất, như tổ chức chính trị, công đoàn, hợp
tác - giáo dục, v.v... " [08, tr. 77].
Do bản chất quốc tế và sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân
là tiêu diệt chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội, do đó, đoàn kết giai
cấp công nhân các dân tộc, thực hiện những nhiệm vụ của cuộc đấu tranh giai
cấp của mình là thiết thực tiêu diệt mọi áp bức dân tộc, mọi đặc quyền đặc lợi
dân tộc. Bình đẳng, đoàn kết thực hiện quyền tự quyết là những nội dung
chính giúp các đảng mácxít chân chính vận dụng vào hoàn cảnh nước mình,
cụ thể hóa thành chính sách dân tộc.
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc
Trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề dân tộc và giải quyết vấn
đề dân tộc, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của cách
mạng Việt Nam thể hiện rõ ở những luận điểm sau:

13



Tư tưởng về giải phóng dân tộc và con đường giải phóng dân tộc Việt
Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường giải phóng dân tộc, về chính sách
dân tộc là sự vận dụng sáng tạo nguyên lý chủ nghĩa Mác, luận cương của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể của cách
mạng Việt Nam. Sau nhiều năm bôn ba nước ngoài, Hồ Chí Minh đã tìm thấy
con đường giải phóng dân tộc. Người nói: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ
nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao
động trên thế giới khỏi ách nô lệ” [14, tr.128].
Từ chủ nghĩa yêu nước, Hồ Chí Minh đã đến với chủ nghĩa Mác-Lênin,
xác định chính xác con đường giải phóng dân tộc Việt Nam. Sau khi tiếp cận
với chủ nghĩa Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc
được hình thành. Luận điểm cơ bản đầu tiên thể hiện sự nhạy bén và sáng
suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh là Người sớm khẳng định con đường giải
phóng dân tộc nhất định phải bằng con đường cách mạng vô sản, độc lập dân
tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội.
Thực hiện bình đẳng, tương trợ giúp đỡ nhau giữa các dân tộc để cùng
đoàn kết tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Trong việc xây dựng khối đoàn kết dân tộc, theo Hồ Chí Minh, cần
phải tôn trọng quyền bình đẳng giữa các dân tộc. Người nhấn mạnh: “Đồng
bào miền núi phải đoàn kết giúp đỡ đồng bào miền xuôi. Và đồng bào miền
xuôi phải đoàn kết giúp đỡ đồng bào miền núi. Mọi người phải đoàn kết, các
dân tộc phải thương yêu giúp đỡ lẫn nhau” [18, tr.135].
Chủ tịch Hồ Chí Minh đòi hỏi các dân tộc miền xuôi ra sức giúp đỡ
đồng bào miền núi để cùng phát triển, cùng tiến lên chủ nghĩa xã hội. Người
yêu cầu Đảng và Chính phủ phải có kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, đầu
tư thỏa đáng, chăm lo đào tạo đội ngũ cán bộ, đẩy mạnh phong trào miền núi
về kinh tế cũng như về văn hóa và tất cả các mặt. Bình đẳng, đoàn kết giúp đỡ
lẫn nhau giữa các dân tộc nhằm tạo ra sức mạnh nội lực có ý nghĩa quyết định

14


thắng lợi của sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ:
“Nước ta là một nước thống nhất gồm nhiều dân tộc. Các dân tộc sống trên đất
nước Việt Nam đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ... chính sách dân tộc
của chúng ta là nhằm thực hiện sự bình đẳng giúp nhau giữa các dân tộc để
cùng nhau tiến lên chủ nghĩa xã hội” [17, tr. 587].
Chính sách dân tộc phải chú ý đến tính đặc thù dân tộc.
Hồ Chí Minh luôn đòi hỏi trong công tác chỉ đạo, tuyên truyền vận
động nhân dân phải quán triệt sâu sắc đặc thù dân tộc. Người nhắc nhở: “Một
tỉnh có đồng bào Thái, đồng bào Mèo, thì tuyên truyền huấn luyện đối với
đồng bào Thái khác, đồng bào Mèo khác, phải có sự thay đổi cho thích hợp”
[18, tr.128]. Người yêu cầu trong công tác phát triển miền núi phải thật cụ thể,
và nhất là phải phù hợp với điều kiện của đồng bào. Người căn dặn: “Nếu cứ
nói nào là làm "cách mạng xã hội chủ nghĩa", nào là "tiến lên chủ nghĩa xã
hội", nào là "xây dựng chủ nghĩa xã hội", đồng bào các dân tộc thiểu số khó
hiểu, ít người hiểu. Phải nói rõ xây dựng chủ nghĩa xã hội là làm cái gì? Nói
nôm na để cho người ta dễ hiểu, hiểu để người ta làm được” [18, tr.130].
Chính sách dân tộc phải hướng vào sự phát triển toàn diện miền núi
Hồ Chí Minh luôn quan tâm tới yêu cầu phát triển của đồng bào miền
núi. Theo Người, đi lên chủ nghĩa xã hội phải đi bằng hai chân, công nghiệp và nông
nghiệp, ở miền núi, tiềm năng, thế mạnh là đất và rừng. Người đã chỉ ra một số nhiệm
vụ cụ thể: đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp; phát triển giao thông đến từng
làng bản; ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất; xây dựng đời sống văn
hóa - xã hội cho đồng bào các dân tộc, cải tạo dần những phong tục tập quán lạc hậu...
Tuy nhiên, Người cũng lưu ý phải làm một cách dần dần, không chủ quan, nóng vội
được.

Chính sách dân tộc phải chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng, phát

triển và chăm sóc đội ngũ cán bộ, con em của đồng bào dân tộc
Theo Người, cán bộ là gốc của mọi công việc. Người đòi hỏi công tác cán bộ:
“Phải chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, cất nhắc cán bộ miền núi. Cố nhiên cán bộ người
15


Kinh phải giúp đỡ anh em cán bộ địa phương, nhưng phải làm sao cho cán bộ địa
phương tiến bộ, để anh em tự quản lý lấy công việc ở địa phương, chứ không phải là
bao biện làm thay” [14, tr. 418]. Trong cán bộ người dân tộc thiểu số, Người đánh giá
cao vai trò của phụ nữ các dân tộc thiểu số đối với cách mạng [14, tr. 87]. Chính vì
vậy, đào tạo, phát triển đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số nói chung, cán bộ nữ dân tộc
thiểu số nói riêng là đòi hỏi của thực tiễn miền núi của cách mạng nước ta.

Những tư tưởng lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chính sách dân tộc
đã được thực tiễn mấy chục năm qua chứng minh là đúng đắn. Việc hiện thực
hóa những tư tưởng ấy đã đem lại những thành tựu to lớn trong công cuộc bảo
vệ và xây dựng vùng đồng bào các dân tộc cũng như trong cả nước.
1.2. Quan điểm, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta hiện nay
1.2.1. Quan điểm cơ bản của Đảng về vấn đề dân tộc và giải quyết vấn đề
dân tộc ở nước ta trong thời kỳ mới
Từ khi ra đời đến nay, Đảng ta luôn coi vấn đề dân tộc là vấn đề chiến lược của
cách mạng nước ta, từ đó đề ra quan điểm, chính sách đúng đắn về vấn đề dân tộc và
giải quyết vấn đề dân tộc trong từng thời kỳ cách mạng theo nguyên tắc cơ bản: Bình
đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc.

Quan điểm nhất quán ấy thể hiện xuyên suốt thông qua các văn kiện tại
các kỳ Đại hội Đảng, các Nghị quyết, Chỉ thị quan trọng về miền núi dân tộc. Trên tinh
thần cách mạng và sáng tạo, năm 1986, tại Đại hội lần thứ VI, Đảng ta đề ra đường lối
đổi mới toàn diện các lĩnh vực trong đó có đổi mới chính sách dân tộc. Sau hơn hai
mươi năm Đổi mới, Đảng ta đã đúc kết được những bài học trong việc giải quyết các

vấn đề dân tộc trong thời kỳ mới. Nghị quyết Đại hội XI tiếp tục nhấn mạnh:

“Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, thương yêu,
tôn trọng và giúp nhau cùng tiến bộ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vì dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” [05, tr.244]. Trong Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển
năm 2011), Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Thực hiện chính sách bình đẳng,
đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các

16


dân tộc cùng phát triển, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng đồng
dân tộc Việt Nam. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa, ngôn ngữ, truyền thống
tốt đẹp của các dân tộc. Chống tư tưởng kỳ thị và chia rẽ dân tộc. Các chính
sách kinh tế – xã hội phải phù hợp với đặc thù của các vùng và các dân tộc,
nhất là các dân tộc thiểu số” [05, tr.81].
Trong thời kỳ mới, Đảng ta đã đề ra các quan điểm về công tác dân tộc
trong Nghị quyết Hội nghị trung ương VII khóa IX (2003) như sau:
Một là, vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản,
lâu dài, đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt
Nam.
Trước sau, Đảng ta luôn khẳng định vị trí chiến lược của vấn đề dân tộc
trong sự nghiệp cách mạng. Hiện nay, một lần nữa, Đảng ta khẳng định việc
giải quyết tốt vấn đề dân tộc, giữ gìn và phát huy truyền thống đoàn kết dân
tộc là vấn đề chiến lược lâu dài của cách mạng Việt Nam.
Trong giai đoạn hiện nay, những thành tựu quan trọng đã đạt được
trong sự nghiệp đổi mới cho thấy khối đại đoàn kết dân tộc ở nước ta đã có
tầm cao mới, là động lực to lớn thúc đẩy sự phát triển của đất nước, làm cho

thế và lực của cách mạng nước ta ngày càng được tăng cường. Trước yêu cầu
của thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng thành công chủ nghĩa
xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa càng đòi hỏi
nhân dân ta phải ra sức củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy cao
độ nội lực và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế.
Hai là, các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng
phát triển, cùng nhau phấn đấu thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Kiên quyết đấu tranh với mọi âm mưu chia rẽ dân tộc.
Bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ nhau cùng phát triển chính là
nguyên tắc mác xít cơ bản giải quyết vấn đề dân tộc được Đảng ta vận dụng sáng
17


tạo vào thực tiễn dân tộc Việt Nam nhằm giải quyết mối quan hệ giữa các dân tộc
nước ta, cùng nhau thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tuy
nhiên để thực hiện được mục tiêu đó một vấn đề rất quan trọng là phải cùng nhau
kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu chia rẽ dân tộc của các thế lực thù
địch. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý điều hành của Nhà nước, phải phát
huy tốt vai trò của các ban ngành, đoàn thể để xây dựng, củng cố, tăng cường khối
đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình mới.
Ba là, phát triển toàn diện chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và an ninh
- quốc phòng trên địa bàn vùng dân tộc và miền núi; gắn tăng trưởng kinh tế
với giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện tốt chính sách dân tộc; quan tâm
phát triển, bồi dưỡng nguồn nhân lực; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ dân
tộc thiểu số; giữ gìn và phát huy những giá trị, bản sắc văn hoá truyền thống
các dân tộc thiểu số trong sự nghiệp phát triển chung của cộng đồng dân tộc
Việt Nam thống nhất.

Hiện nay giữa các vùng, miền và các dân tộc nước ta vẫn còn tồn tại sự
chênh lệch khá lớn về trình độ phát triển trên nhiều mặt, nhất là giữa miền núi,
vùng sâu vùng xa, vùng dân tộc thiểu số với miền xuôi, đồng bằng và đô thị;
giữa dân tộc thiểu số và đa số. Do vậy, cần phải có sự quan tâm giúp đỡ nhiều
hơn nữa của Nhà nước, của các địa phương cho các vùng khó khăn, vùng dân
tộc. Nhà nước cần tạo điều kiện tốt nhất cho đồng bào dân tộc thiểu số để tranh
thủ được sự giúp đỡ của các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương,
phát huy tối đa nội lực để phát triển theo kịp sự phát triển chung của cả nước.
Lĩnh vực trọng tâm là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển các ngành nghề
tạo ra nhiều việc làm, nâng cao đời sống nhân dân. Đồng thời giải quyết tốt các
vấn đề xã hội như chăm sóc y tế, giáo dục, giảm tỷ lệ thất nghiệp, đẩy lùi các tệ
nạn xã hội…Cần quan tâm chăm lo phát triển nguồn nhân lực bằng nhiều biện
pháp thiết thực như: tăng cường đầu tư, mở rộng và nâng cao chất lượng giáo
dục, xoá mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học, trung học cơ sở, ưu tiên đào tạo
18


xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số. Về văn hoá, mỗi dân tộc có bản sắc
văn hoá đặc sắc riêng cần được giữ gìn, bảo tồn và phát triển để tạo lên sự đa
dạng, phong phú của nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Bốn là, ưu tiên phát triển kinh tế - xã hội các vùng dân tộc và miền
núi, trước hết, tập trung vào phát triển giao thông và cơ sở hạ tầng, xoá đói,
giảm nghèo; khai thác có hiệu quả tiềm năng thế mạnh của từng vùng, đi
đôi với bảo vệ bền vững môi trường sinh thái; phát huy nội lực, tinh thần tự
lực, tự cường của đồng bào các dân tộc, đồng thời tăng cường sự quan tâm
hỗ trợ của trung ương và sự giúp đỡ của các địa phương trong cả nước.
Các vùng dân tộc và miền núi do điều kiện tự nhiên khó khăn (xa xôi,
hẻo lánh, giao thông liên lạc khó khăn) nên sự phát triển kinh tế - xã hội còn
rất lạc hậu. Vì vậy, trong thời kỳ phát triển mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước cần phải có các chính sách ưu tiên để cho các vùng này

có thể theo kịp sự phát triển chung của cả nước, trước hết phải chú trọng xây
dựng hệ thống cơ sở hạ tầng như điện, đường, trường, trạm… Cần phải quan
tâm và làm tốt hơn nữa công tác xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống nhân
dân bằng nhiều chính sách, biện pháp sát thực. Ưu tiên thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội vùng dân tộc và miền núi trước hết phải phát huy được nội
lực, sức mạnh, tinh thần tự lực, tự cường của đồng bào các dân tộc, phát huy
tối đa thế mạnh của mỗi vùng, đồng thời coi trọng và tăng cường sự quan tâm
hỗ trợ của Trung ương và các địa phương trong cả nước. Ưu tiên thúc đẩy
phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc và miền núi nhưng phải hết sức quan
tâm không xem nhẹ vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái. Xác định nhiệm vụ
trọng tâm là phát triển kinh tế nhưng tuyệt đối không được coi phát triển kinh
tế bằng mọi giá mà bỏ qua các giá trị tốt đẹp khác.
Năm là, công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc là nhiệm vụ của
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của các cấp, các ngành, của toàn bộ hệ thống
chính trị.

19


Đảng ta chỉ rõ, tiến hành công tác dân tộc và chính sách dân tộc là
trách nhiệm của tất cả các ngành, các cấp, các địa phương, của cả hệ thống
chính trị; trong đó, vai trò lãnh đạo thuộc về hệ thống các tổ chức đảng.
Cùng với đó là các cơ quan, các ban ngành có trách nhiệm trực tiếp tổ chức
triển khai tiến hành công tác dân tộc, thực hiện chính sách dân tộc theo
phạm vi trách nhiệm, khu vực địa bàn được phân công, đồng thời chịu
trách nhiệm trước Đảng, Nhà nước và trước nhân dân về mảng công tác mà
đơn vị mình phụ trách, địa bàn mình phụ trách.
Các quan điểm về công tác dân tộc của Đảng vừa mang ý nghĩa cơ bản
thường xuyên, có giá trị lâu dài về chỉ đạo giải quyết vấn đề dân tộc ở nước
ta, vừa mang ý nghĩa thực tiễn cấp bách gắn với giai đoạn cách mạng hiện nay

của nước ta, của thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, mở cửa và
hội nhập với thế giới.
1.2.2. Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước hiện nay
Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước thể hiện quan điểm, đường lối
giải quyết vấn đề dân tộc ở nước ta của Đảng, là thể chế hóa và cụ thể hóa quan điểm
dân tộc của Đảng vào thực tiễn cuộc sống. Trên cơ sở kế thừa những thành tựu trước
đây, chính sách dân tộc trong thời kỳ mới ngày càng hoàn thiện, đáp ứng được yêu cầu
trong tình hình mới. Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước hiện nay có tính toàn
diện và đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội, quốc phòng
an ninh.

* Về kinh tế
Chính sách phát triển kinh tế vùng dân tộc miền núi là nội dung quan
trọng hàng đầu của chính sách dân tộc trong thời kỳ mới nhằm phát huy tiềm
năng thế mạnh của vùng đồng bào các dân tộc, gắn với kế hoạch phát triển
chung của cả nước, cùng cả nước tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Trong đó, tập trung vào những nội dung sau đây:
Đổi mới và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu cây trồng vật nuôi.
Cơ cấu kinh tế lạc hậu, không hợp lý dựa vào nông nghiệp là chính ở
vùng miền núi dân tộc trước đây chuyển dịch sang cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện

20


đại thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa nhằm phát huy thế mạnh và tiềm
năng kinh tế của các tộc người nước ta. Cơ cấu kinh tế vùng miền núi dân tộc
từng bước chuyển sang kinh tế hàng hoá phù hợp với đặc điểm của từng vùng,
tiểu vùng, từng tộc người, phát huy các thế mạnh về lâm nghiệp, cây công
nghiệp dài ngày, cây ăn quả, lương thực, chăn nuôi đại gia súc, phát triển
công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến, tiểu thủ công nghiệp, du lịch.

Chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi theo hướng đa dạng, ứng dụng các
thành tựu khoa học kỹ thuật mới. Nhiều giống cây con mới đưa vào sản xuất
đạt hiệu quả kinh tế cao. Đồng bào các tộc người và các đơn vị, tổ chức trên
địa bàn tự chủ sản xuất kinh doanh bằng nhiều hình thức thích hợp như: vườn
rừng, trang trại, vườn cây công nghiệp, cây ăn quả, lương thực, dược liệu. Vấn
đề lương thực ở miền núi được vận hành theo kinh tế hàng hoá, gắn phát triển
sản xuất lương thực với cơ cấu nông, lâm, ngư nghiệp thống nhất, cải thiện
môi trường sinh thái.
Trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, vùng miền núi dân tộc chú ý đổi mới
cơ cấu ngành nghề, quy trình kỹ thuật, đẩy mạnh thâm canh, tăng vụ, tăng năng
suất. Cơ cấu kinh kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng ngành công
nghiệp, dịch vụ, giảm dần tỷ trọng nông, lâm nghiệp. Sản xuất công nghiệp tập
trung vào công nghiệp khai khoáng, vật liệu xây dựng, chế biến nông lâm sản.
Khôi phục và khuyến khích phát triển các nghề thủ công nghiệp truyền thống
như mây tre đan, dệt thổ cẩm, mộc, rèn…
Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần định hướng xã hội chủ
nghĩa, từng bước xây dựng quan hệ sản xuất mới.
Nhà nước đẩy mạnh phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước với nhiều hình thức đa dạng
ở vùng tộc người thiểu số và miền núi. Từ đó, phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở vật
chất kỹ thuật, nâng cao đời sống nhân dân, giúp thu hẹp khoảng cách phát triển giữa
các địa phương, phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan
hệ sản xuất mới.

21


Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được chú trọng xây
dựng với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế ở vùng tộc người
thiểu số. Kinh tế tập thể gồm các hình thức hợp tác đa dạng, trong đó hợp tác

xã là nòng cốt. Kinh tế cá thể, tiểu chủ với hình thức chính là hộ gia đình có
vị trí quan trọng ở các tộc người. Kinh tế tư bản tư nhân được khuyến khích
phát triển rộng rãi trong những ngành nghề sản xuất, kinh doanh. Chính
quyền các cấp tạo điều kiện để kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài vào làm ăn
thuận lợi, hướng vào các sản phẩm xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh
tế xã hội. Tập trung xây dựng kinh tế hộ gia đình, tạo ra sức mạnh mới trong
phát triển nông nghiệp, nông thôn. Phát triển kinh tế trang trại, góp phần khai
thác diện tích đất trống, đồi núi trọc, đất hoang hoá. Sắp xếp, chuyển đổi các
nông, lâm trường quốc doanh về tổ chức quản lý và phương thức hoạt động
nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất.
Đẩy mạnh nền kinh tế thị trường để tạo sự chuyển biến quan trọng
trong tư duy, nhận thức và thực tiễn đời sống kinh tế các dân tộc, phá vỡ nền
kinh tế tự cung tự cấp khép kín, tạo ra các sản phẩm đáp ứng được nhu cầu
của thị trường, khai thác được những lợi thế tự nhiên, xã hội, kỹ thuật của
từng dân tộc, từng vùng, từng địa phương.
Ứng dụng rộng rãi khoa học kỹ thuật, thay đổi qui mô sản xuất để phát
triển lực lượng sản xuất, tăng năng suất lao động và hiệu quả kinh tế. Điều
chỉnh quan hệ sản xuất một cách hợp lý và đổi mới quản lý để giải phóng sức
sản xuất, phát huy sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế ở miền núi.
Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội: điện, đường, trường,
trạm, cơ sở công nghiệp.
Quan tâm đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nhằm mở rộng giao lưu, phát
triển kinh tế giữa miền núi với miền xuôi và với nước ngoài. Triển khai thực
hiện các chương trình, dự án đầu tư cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội làm cho kết
cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và đời sống vùng đồng bào dân tộc được cải thiện.
Khuyến khích các thành phần kinh tế trong nước và các nhà đầu tư nước
ngoài đầu tư phát triển công nghiệp và kết cấu hạ tầng ở miền núi, đặc biệt
22



khuyến khích phát triển các ngành chế biến nông, lâm sản. Tiến hành xây
dựng các công trình thuỷ điện với quy mô lớn, vừa và nhỏ, kể cả trạm thuỷ
điện kết hợp thuỷ lợi trên khắp cả nước. Đầu tư sửa chữa, nâng cấp và xây
dựng mới hệ thống đường giao thông vận tải. Ưu tiên đầu tư vốn ngân sách
xây dựng hệ thống giao thông, các đầu mối giao thông chính. Chú trọng công
tác thủy lợi phục vụ sản xuất, kiên cố hóa, nâng cấp và xây dựng mới công trình
vừa và nhỏ như hồ, đập tràn, trạm bơm, kênh mương.
* Về chính trị - xã hội
Xây dựng hệ thống chính trị ở vùng dân tộc miền núi, phát huy quyền
làm chủ của nhân dân, tạo điều kiện để đồng bào tham gia xây dựng hệ thống
chính trị các cấp.
Củng cố và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở ở các vùng
dân tộc thiểu số. Thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX) về kiện toàn,
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cơ sở; kiên quyết khắc phục tình trạng quan
liêu, xa dân của một số cán bộ; thực hiện tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi
dưỡng, sử dụng, đãi ngộ, luân chuyển cán bộ. Đẩy mạnh phát triển đảng viên
trong đồng bào dân tộc, khắc phục tình trạng cơ sở không có tổ chức đảng và
đảng viên. Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực, đào tạo đội ngũ trí thức, cán bộ
người dân tộc thiểu số,... Tạo mọi điều kiện để phát huy đầy đủ quyền làm chủ
của nhân dân, thực hiện nghiêm quy chế dân chủ ở cơ sở. Tiếp thu ý kiến của
nhân dân, phát huy vai trò của những người có uy tín trong cộng đồng (già làng,
trưởng bản, trưởng họ v.v...), khơi dậy tiềm năng và nội lực của đồng bào và địa
phương trong quản lý nhà nước và phát triển kinh tế xã hội.
Thực hiện bình đẳng, đoàn kết dân tộc.
Nhà nước và chính quyền các cấp thực hiện bình đẳng giữa các dân tộc
trên lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Nhân dân các dân tộc đều có
quyền bình đẳng ngang nhau trong tư cách công dân, trước pháp luật Nhà
nước, bình đẳng trong làm chủ chế độ chính trị và xã hội đất nước, bình đẳng
về cơ hội phát triển. Đẩy mạnh tuyên truyền và thực hiện các biện pháp nhằm


23


thực hiện đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống nhân nghĩa, khoan dung…để tập hợp,
đoàn kết mọi người vào mặt trận chung, tăng cường đồng thuận xã hội. Thực
hiện bình đẳng, đoàn kết, phát triển dân tộc phải gắn liền với việc đấu tranh
làm thất bại mọi âm mưu, hành động thù địch, chia rẽ dân tộc.
Tăng cường công tác tuyên truyền vận động nhân dân, đổi mới công
tác dân vận.
Nâng cao chất lượng tuyên truyền, vận động nhân dân, góp phần nâng
cao nhận thức về chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; phát huy sức mạnh
của cả hệ thống chính trị làm công tác dân vận. Đề cao và phát huy có hiệu
quả vai trò của người có uy tín trong tôn giáo và đồng bào dân tộc thiểu số;
tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân làm công tác dân vận, thúc đẩy phong
trào thi đua yêu nước; tạo nên sức mạnh tổng hợp để phát triển kinh tế - xã
hội. Các cấp, các ngành trong hệ thống chính trị kịp thời giải quyết những bức
xúc từ cơ sở, giữ vững ổn định an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Đặc
biệt đẩy mạnh công tác vận động quần chúng, làm cho quần chúng không
nghe, không tin, không làm theo các luận điệu xuyên tạc, kích động bọn phản
động nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết và gây mất ổn định về chính trị, xã hội;
giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
* Về văn hóa – xã hội
Đẩy mạnh các chính sách an sinh xã hội
Trong thời kỳ mới, Đảng và Nhà nước đã đề ra nhiều chủ trương, chính
sách lớn về an sinh xã hội đối với vùng dân tộc miền núi về xóa đói giảm
nghèo, nâng cao dân trí, bảo tồn văn hóa... thông qua hàng loạt chương trình
dự án quốc gia như: chương trình 133, chương trình 134, chương trình 135,
chương trình 30a vv... Các chính sách phát triển an sinh xã hội tập trung nâng


24


cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào các dân tộc đã bao quát hầu
hết các lĩnh vực từ sản xuất đến giáo dục đào tạo, y tế, văn hóa, thông tin...
Về y tế, dân số - kế hoạch hóa gia đình, tập trung xây dựng, củng cố,
mở rộng cơ sở y tế, khám chữa bệnh; bảo đảm thuốc phòng và chữa bệnh cho
đồng bào các dân tộc ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn. Thực
hiện chương trình chăm sóc sức khỏe, bảo hiểm y tế cho đồng bào dân tộc
thiểu số theo quy định của pháp luật. Hỗ trợ việc bảo tồn, khai thác, sử dụng
những bài thuốc dân gian và phương pháp chữa bệnh cổ truyền có giá trị của
đồng bào các dân tộc. Bảo đảm nâng cao chất lượng dân số, phát triển dân số
hợp lý của từng dân tộc theo quy định của pháp luật. Đẩy mạnh sự nghiệp xã
hội hóa y tế, thực hiện chính sách ưu tiên đối với các tổ chức, cá nhân tham
gia vào các hoạt động đầu tư, phát triển y tế ở vùng dân tộc thiểu số.
Ưu tiên phát triển giáo dục đào tạo cho vùng dân tộc miền núi
Thực hiện chương trình phổ cập giáo dục trung học cơ sở và các
chương trình giáo dục miền núi, nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục,
đào tạo, nhất là hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú các cấp; đẩy mạnh
việc tổ chức các trường mẫu giáo công lập; mở rộng việc dạy chữ dân tộc.
Nhà nước chủ trương đa dạng hóa, phát triển nhanh các loại hình đào
tạo, bồi dưỡng, dạy nghề ở vùng dân tộc; đưa chương trình dạy nghề vào các
trường dân tộc nội trú; tiếp tục thực hiện tốt chính sách ưu tiên, cử tuyển dành
cho con em các dân tộc vào học tại các trường đại học và cao đẳng; mở thêm
trường dự bị đại học dân tộc ở khu vực miền Trung, Tây Nguyên. Phát triển
giáo dục vùng dân tộc bằng nhiều cơ chế, chính sách phù hợp, như chính sách
cử tuyển ưu tiên tuyển sinh vào các trường đại học, cao đẳng, chính sách đối
với trường dân tộc nội trú, chính sách miễn giảm học phí, cấp miễn phí sách
giáo khoa, giấy vở, thực hiện chế độ cho giáo viên, hỗ trợ cho học sinh nghèo

học bán trú và học sinh mẫu giáo vùng đặc biệt khó khăn, tăng cường cơ sở
vật chất trường học thông qua Chương trình 135, Quyết định số

25


×