HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH
QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
VIỆN TRIẾT HỌC
TRƯƠNG VĂN THÀNH
GIÁO DỤC Ý THỨC MÔI TRƯỜNG CHO SINH VIÊN
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC GIANG TRONG
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Chuyên ngành : Triết học
Mã số
: 60 22 80
luËn v¨n th¹c sÜ TRIÕT HäC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS. Nguyễn Thị Lan Hương
HÀ NỘI - 2012
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên
cứu của riêng tôi. Nội dung trích dẫn trong luận văn có
nguồn gốc xuất xứ rõ ràng, đảm bảo tính trung thực; nội
dung nghiên cứu khách quan và chưa được công bố trong
bất cứ công trình nào khác.
Hà Nội, ngày 06 tháng 06 năm 2012
Tác giả luận văn
Trương Văn Thành
MỤC LỤC
Điều kiện tự nhiên-------------------------------------------------------------------------------------------------------------36
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Muốn thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, đưa đất nước trở thành một nước công nghiệp đủ sức vượt qua
những thách thức và nguy cơ trên con đường phát triển hiện nay, chúng ta
phải có những đảm bảo vững chắc về chất lượng con người. Đó là chất lượng
toàn diện về sự phát triển thể lực, năng lực trí tuệ, phẩm chất đạo đức, ý thức
và nhân cách nói chung của con người Việt Nam, nhất là thế hệ trẻ.
Nước ta đang từng bước tiến vào thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại
hóa đất nước đẩy mạnh phát triển kinh tế, nhưng bên cạnh đó là môi trường
đang bị xuống cấp một cách trầm trọng. Nguồn tài nguyên bị khai thác một
cách bừa bãi, triệt để, môi trường tự nhiên bị hủy hoại. Nguyên nhân của vấn
đề này, ngoài sự tăng trưởng về kinh tế, con người chỉ quan tâm đến lợi
nhuận, còn một nguyên nhân nữa đó là ý thức của con người về việc bảo vệ
môi trường, về trách nhiệm của mình với môi trường. Một bộ phận không
nhỏ người dân hiện nay còn thờ ơ với môi trường sống, vô cảm với sự suy
thoái của môi trường, thiếu trách nhiệm với chính cuộc sống của mình và cả
thế hệ tương lai.
Sinh viên là một trong những đối tượng có ảnh hưởng lớn đến môi
trường. Trong đó có một phần không nhỏ là sinh viên. Nhưng ý thức của sinh
viên về trách nhiệm của mình đối với môi trường như thế nào? Sinh viên cần
phải hành động ra sao để bảo vệ môi trường sống xung quanh con người khi
mà hàng ngày, hàng giờ chúng ta đang chứng kiến cảnh môi trường tự nhiên cái nôi cho sự sống của chúng ta - đang bị tàn phá nghiêm trọng.
Đây là lý do thứ nhất thôi thúc chúng tôi nghiên cứu về vấn đề giáo dục
ý thức môi trường cho sinh viên hiện nay.
2
Lý do thứ hai, kinh tế thị trường đã và đang được thực hiện trên phạm
vi toàn cầu đã ngày càng bộc lộ những hạn chế và mâu thuẫn vốn có của nó
trong đối sách trực tiếp với những định hướng giá trị của chủ nghĩa xã hội.
Tại Việt Nam, việc phát triển các nhà máy, khu công nghiệp, làng nghề đến
chóng mặt, hàng năm thải ra môi trường hàng chục ngàn tấn chất thải chưa
qua xử lý. Các khu dân cư, du lịch, chợ, đường giao thông có những nơi ngập
tràn trong rác thải, môi trường sống ô nhiễm trầm trọng. Bởi vậy, đẩy mạnh
giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho sinh viên sẽ góp phần quan trọng vào
công cuộc xây dựng và phát triển đất nước theo hướng công nghiệp hóa - hiện
đại hóa, đồng thời khắc phục những mặt trái của kinh tế thị trường.
Lý do thứ ba, thôi thúc tác giả lựa chọn vấn đề “Giáo dục ý thức môi
trường cho sinh viên” làm đề tài luận văn là ở chỗ, bấy lâu nay, giáo dục ý thức
môi trường cho sinh viên tuy đã được đề cập đến và công bố trong một số công
trình nghiên cứu trong nước, song nhìn chung vẫn còn tản mạn và dừng ở mức
độ nghiên cứu, mà chưa được ứng dụng và luận giải trong một tình hình cụ thể.
Cuối cùng, hiện trạng về ý thức và giáo dục ý thức môi trường cho sinh
viên tại tỉnh Bắc Giang trong giai đoạn hiện nay càng lôi cuốn và hối thúc tác
giả luận giải đúng hiện trạng, xác định rõ nguyên nhân, nhận diện các vấn đề,
các tình huống mới xuất hiện, từ đó đề xuất giải pháp nhằm đổi mới nội dung
và phương pháp giáo dục ý thức môi trường trong các trường Đại học, Cao
đẳng ở Bắc Giang, góp phần tạo chuyển biến tích cực trong chất lượng đào
tạo nguồn nhân lực cho tỉnh và đất nước.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Những vấn đề liên quan đến môi trường hiện đã có rất nhiều nghiên
cứu, cả từ góc độ lý luận và thực tiễn, cả từ góc độ đơn ngành đến liên ngành.
Tuy vậy, từ góc độ khoa học xã hội nhân văn trong đó có triết học có thể thấy
đã có những công trình cơ bản sau đây:
3
Một số vấn đề sinh thái nhân văn Việt Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội
1995; Nguyễn Viết Chức (chủ biên), Văn hoá ứng xử của người Hà Nội với
môi trường thiên nhiên, Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội, 2002; Hà Huy
Thành (chủ biên), Một số vấn đề xã hội, nhân văn trong việc sử dụng hợp lý
tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2001; Hồ Sỹ Quý (chủ biên), Mối quan hệ giữa con người và tự
nhiên trong sự phát triển xã hội, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000; Trần
Lê Bảo (chủ biên), Văn hoá sinh thái nhân văn, Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà
Nội 2001, Phạm Thị Ngọc Trầm “Môi trường sinh thái: Vấn đề và giải pháp”
xuất bản năm 1997; Phạm Thị Ngọc Trầm (chủ biên), Quản lý nhà nước đối
với tài nguyên và môi trường vì sự phát triển bền vững dưới góc nhìn xã hội –
nhân văn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2006; Phạm Thị Ngọc Trầm, Nhân
tố xã hội nhân văn trong quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường, Tạp
chí Tài nguyên và Môi trường, tháng 2/2008; Bùi Văn Dũng với đề tài “Mối
quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường cho sự phát triển lâu
bền” năm 1999; Bảo vệ môi trường cần ý thức trong mỗi cá nhân, Báo
Vietnamnet 12/8/2008; “Giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho học sinh”,
Báo Quân đội nhân dân, ngày 10/9/2007; Bài phỏng vấn TS. Trần Hồng Hà,
“Cần tạo chuyển biến trong nhận thức trách nhiệm và đạo đức về môi
trường”, Tạp chí tài nguyên và Môi trường, tháng 2/2007.
Gần đây trực tiếp bàn đến những vấn đề liên quan đến xây xựng ý thức
môi trường có các công trình: Phạm Thị Ngọc Trầm, Đạo đức sinh thái: từ lý
luận đến thực tiễn, Tạp chí triết học số 2/1999; Phạm Thị Ngọc Trầm, Các
giá trị văn hoá sinh thái truyền thống Việt Nam trước xu thế toàn cầu hoá,
Tạp chí triết học số 7/2001; Phạm Thị Ngọc Trầm, Vấn đề xây dựng đạo đức
sinh thái trong điều kiện kinh tế thị trường, Tạp chí triết học số 3/2002; tác
giả Phạm Văn Boong với tác phẩm “Ý thức sinh thái và vấn đề phát triển lâu
4
bền” năm 2002; tác giả Hồ Sỹ Quý, Về đạo đức môi trường, Tạp chí triết học
số 9/2005; Nguyễn Thị Lan Hương, Trách nhiệm môi trường-một phương
diện của trách nhiệm xã hội, tạp chí Triết học số 9/2009; Phạm Thị Ngọc
Trầm, Xây dựng đạo đức sinh thái-một trách nhiệm xã hội của con người đối
với giới tự nhiên, tạp chí Triết học số 6/2009; Nguyễn Văn Phúc, Bảo vệ môi
trường nhìn từ góc độ đạo đức, Tạp chí Triết học số 4/2010.
Trong các công trình nghiên cứu trên đã giải quyết được một số vấn đề sau:
Sự phát triển của nền kinh tế thị trường, tạo ra khối lượng sản phẩm
khổng lồ như hiện nay đang tạo ra mâu thuẫn sâu sắc giữa xã hội và tự nhiên.
Các công trình nghiên cứu trên đã xác định được nội dung của khái niệm
“phát triển lâu bền” và vấn đề ý thức sinh thái cho con người trong quá trình
phát triển. Bởi vì muốn bảo vệ được môi trường thì trước hết phải xây dựng
được ý thức sinh thái đối với toàn xã hội. Giải quyết mâu thuẫn giữa nền sản
xuất vật chất với tình trạng xuống cấp nghiêm trọng của môi trường tự nhiên.
Xây dựng ý thức bảo vệ môi trường cho từng cá nhân trong xã hội, cần phải
giáo dục ý thức môi trường, nâng cao trách nhiệm và đạo đức môi trường tự
nhiên cho học sinh, sinh viên.
Ngoài ra các công trình trên cũng đã đề cập đến các vấn đề đặt ra trong
công tác giáo dục ý thức môi trường và giải pháp. Vấn đề quản lý nhà nước
trong khai thác, bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên và vấn đề bảo vệ môi
trường. Trách nhiệm của các nhà quản lý trong việc xây dựng ý thức bảo vệ
nguồn tài nguyên và môi trường tự nhiên. Các yếu tố tồn tại trong quản lý nhà
nước về tài nguyên môi trường.
Các nghiên cứu đã giải quyết được một số vấn đề liên quan đến bảo vệ
tài nguyên môi trường, xây dựng ý thức bảo vệ môi trường, vấn đề quản lý
nhà nước trong bảo vệ môi trường. Tuy nhiên nhìn chung đây là những công
trình mang tính lý luận cơ bản. Trên thực tế cần có những nghiên cứu mang
5
tính ứng dụng nhằm góp phần nhằm giải quyết những vướng mắc, những vấn
đề đã đang nảy sinh từ thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
3.1. Mục đích
Trên cơ sở làm rõ tầm quan trọng về mặt lý luận của việc giáo dục ý
thức môi trường cho sinh viên, đề tài sẽ đi vào phân tích thực trạng giáo dục ý
thức môi trường cho sinh viên tỉnh Bắc Giang, từ đó đề xuất một số giải pháp
thích hợp nhằm nâng cao ý thức bảo vệ môi trường, xây dựng môi trường
xanh sạch đẹp, bảo vệ cuộc sống của chính mình và những người chung
quanh vì sự phát triển bền vững của đất nước.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ sau:
- Làm rõ cơ sở lý luận của việc giáo dục ý thức môi trường đối với sinh
viên trong giai đoạn hiện nay.
- Phân tích thực trạng giáo dục ý thức môi trường cho sinh viên tại tỉnh
Bắc Giang, từ đó đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả
giáo dục ý thức môi trường cho sinh viên tại tỉnh Bắc Giang trong giai đoạn
hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Giáo dục ý thức môi trường cho sinh viên nói chung và ở địa bàn tỉnh
Bắc Giang nói riêng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung chủ yếu vào vấn đề giáo dục ý thức bảo vệ môi
trường tự nhiên với tư cách là nội dung cơ bản của giáo dục ý thức môi
trường nói chung chứ không đi sâu xem xét những vấn đề liên quan đến môi
trường xã hội.
6
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được tiến hành trên cơ sở phép biện chứng duy vật; những tư
tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa
con người và tự nhiên; những quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam cũng
như những chủ trương, đường lối, chính sách của Nhà nước cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam về giáo dục ý thức môi trường.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận văn là logic và lịch
sử, phân tích, tổng hợp, và so sánh.
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn làm rõ tầm quan trọng đặc biệt của việc giáo dục ý thức môi
trường cho sinh viên trong giai đoạn hiện nay.
- Phân tích thực trạng và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao ý thức
bảo vệ môi trường cho sinh viên trên địa bàn tỉnh Bắc Giang.
7. Kết luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được cấu trúc 2 chương và 5 tiết.
7
Chương 1
GIÁO DỤC Ý THỨC MÔI TRƯỜNG CHO SINH VIÊN MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Môi trường
Môi trường, là “một tổ hợp các yếu tố tự nhiên và xã hội bao quanh bên
ngoài của một hệ thống nào đó. Chúng tác động lên hệ thống này, xác định xu
hướng và tình trạng tồn tại của nó. Môi trường có thể được coi là một tập hợp, trong
đó hệ thống đang xem xét là một tập hợp con. Môi trường của một hệ thống đang
xem xét cần phải có tính tương tác với hệ thống đó.” Đối với con người, môi trường
có thể được hiểu cụ thể hơn là “tập hợp tất cả các yếu tố tự nhiên và xã hội bao
quanh con người, ảnh hưởng tới con người và tác động đến các hoạt động sống của
con người như: không khí, nước, độ ẩm, sinh vật, xã hội loài người và các thể chế”.
Như vậy, “nói chung, môi trường của một khách thể bao gồm các vật chất, điều
kiện hoàn cảnh, các đối tượng khác hay các điều kiện nào đó mà chúng bao quanh
khách thể này và các hoạt động của khách thể diễn ra trong chúng” [69].
Về khái niệm “môi trường”, tác giả Hoàng Phê trong cuốn “Từ điển
tiếng Việt” cho rằng: Môi trường là “toàn bộ nói chung những điều kiện tự
nhiên, xã hội, trong đó con người hay một sinh vật tồn tại phát triển, trong
quan hệ với con người, với sinh vật ấy” [46, tr.635].
Ngày nay, trong sách báo khoa học, người ta thường gặp các cách hiểu
khác nhau về khái niệm “môi trường”. Tùy theo mục đích và nội dung nghiên
cứu mà các khái niệm “môi trường” được phân tách thành các khái niệm hẹp
như “môi trường tự nhiên”, “môi trường xã hội”, “môi trường nhân tạo”, v.v.
Tuy vậy, khái niệm “môi trường” là thuật ngữ dùng để chỉ mọi thứ
xung quanh chúng ta gồm môi trường tự nhiên, môi trường xã hội và cả môi
trường nhân tạo.
8
Về môi trường tự nhiên, trong cuốn “Môi trường và tài nguyên Việt
Nam” các tác giả quan niệm “Môi trường tự nhiên” bao gồm “các yếu tố tự
nhiên và phi tự nhiên tồn tại vận động và phát triển gắn bó hữu cơ trong một
thể thống nhất, có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp, xấu hoặc tốt đến con
người; và chính con người cũng là một yếu tố môi trường quan trọng tác động
tới quá trình vận động và phát triển của chủ thể của nó” [52, tr.7].
Tác giả Đỗ Thị Ngọc Lan trong cuốn “Môi trường tự nhiên trong hoạt
động sống của con người” thì cho rằng: “Môi trường tự nhiên là một tổng hòa
những yếu tố tự nhiên vô cơ và hữu cơ, có ý nghĩa sống còn đối với sự tồn tại
và phát triển của mọi sinh vật” [38, tr.20]. Tuy cách định nghĩa có khác nhau
nhưng các tác giả đều đã khẳng định môi trường tự nhiên bao gồm các yếu tố
tự nhiên, các hiện tượng tự nhiên, các tài nguyên thiên nhiên trong sự thống
nhất với nền sản xuất xã hội. Trong môi trường tự nhiên, giữa các yếu tố tự
nhiên, các hiện tượng tự nhiên, các tài nguyên thiên nhiên thường xuyên có sự
tác động qua lại với nhau và có những ảnh hưởng nhất định đối với sự tồn tại
và sự phát triển của mọi sinh vật. Nếu một yếu tố nào đó thay đổi sẽ kéo theo
sự thay đổi các yếu tố khác.
Về Môi trường nhân tạo và Môi trường xã hội. Môi trường nhân tạo là
hệ thống môi trường do con người lợi dụng tự nhiên, cải tạo tự nhiên tạo ra.
“Môi trường nhân tạo bao gồm những nhân tố vật lý, sinh học, xã hội do con
người tạo nên và chịu sự chi phối của con người” [26, tr.15]. Còn môi
trường xã hội là môi trường bao gồm các mối quan hệ giữa người và người
với nhau.
Trong phạm vi nghiên cứu các vấn đề môi trường, từ góc độ triết học,
tác giả Phạm Thị Ngọc Trầm lại nhấn mạnh đến khái niệm sinh thái và cùng
với nó là thuật ngữ môi trường sinh thái, theo đó thì khái niệm “môi trường
sinh thái là bao gồm tất cả những điều kiện xung quanh có liên quan đến sự
9
sống của sinh thể. Đối với con người, môi trường sinh thái là tất cả những
điều kiện tự nhiên và xã hội, cả vô cơ và hữu cơ, có liên quan đến sự sống của
con người, sự tồn tại và phát triển của xã hội” [56, tr.16].
Như vậy, có thể thấy rằng nội hàm của khái niệm môi trường nói
chung không thể tách rời nội hàm của khái niệm sinh thái.
Sinh thái theo tiếng Hy Lạp là “oikos” với hai cách hiểu, thứ nhất, nó
có nghĩa là nhà ở, nơi cư trú, nơi sinh sống; thứ hai, có nghĩa là tồn tại sự
sống. Song một trong những đặc trưng căn bản nhất của sự sống là quá trình
trao đổi chất thường xuyên giữa cơ thể sống với môi trường, từ đó có thể hiểu
sinh thái theo nghĩa thứ ba là mối quan hệ giữa cơ thể sống với môi trường
xung quanh [2, tr.38].
Tác giả Phạm Thị Ngọc Trầm còn đưa ra khái niệm môi trường sinh
thái nhân văn với ý nghĩa là môi trường của mối quan hệ qua lại và tác động
lẫn nhau giữa con người, xã hội và tự nhiên, được hiểu là môi trường sống
của con người hay môi trường tự nhiên - người hóa. Tuy nhiên, trong các
nghiên cứu của mình, tác giả thường sử dụng thuật ngữ môi trường, hoặc môi
trường sống với nội hàm của khái niệm môi trường sinh thái nhân văn. Lý
giải điều này tác giả cho rằng, ngày nay, môi trường sống đã và đang trở
thành một trong những vấn đề được quan tâm nhất và cũng là một trong
những thách thức lớn nhất của nhân loại trong quá trình phát triển. Bởi lẽ, môi
trường sống gắn bó hữu cơ với cuộc sống của mỗi con người, cũng như với sự
tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Hơn nữa, vấn đề môi trường sống
còn quan hệ mật thiết với những vấn đề toàn cầu của thời đại, đặc biệt là các
vấn đề như dân số, sức khỏe và bệnh tật; lương thực và thực phẩm; chiến
tranh hủy diệt, v.v.. mà để giải quyết được chúng cần phải có sự hợp lực của
tất cả các dân tộc, các quốc gia và vùng lãnh thổ trên toàn thế giới [58, tr.32].
Theo chúng tôi, khái niệm sinh thái và những cách hiểu môi trường
như trên về cơ bản đều đề cập đến một nội dung rất quan trọng đó là mối quan
10
hệ giữa con người với môi trường sống xung quanh con người. Bởi vậy, trong
phạm vi luận văn này chúng tôi sẽ sử dụng thuật ngữ môi trường với nội hàm
như đã được định nghĩa trong “Luật bảo vệ môi trường” đã được Quốc hội
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa IX, kỳ họp thứ tư thông qua
ngày 27 tháng 12 năm 1993, theo đó thì: “Môi trường bao gồm các yếu tố tự
nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con
người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con
người và thiên nhiên” [15, tr.5-6].
1.1.2. Ý thức môi trường
Ngày nay, khi những vấn nạn về môi trường như lụt lội, sóng thần, cạn
kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên, ô nhiễm đất đai, không khí… và hơn
hết là sự biến đổi khí hậu đang diễn ra, ảnh hưởng trực tiếp đến sự sinh tồn
của bản thân con người thì những lời kêu gọi con người phải hành động để
bảo vệ môi trường ngày càng trở nên khẩn thiết. Các hoạt động bảo vệ môi
trường, cả ở qui mô quốc gia, khu vực và toàn cầu ngày nay không còn chỉ
dừng lại ở các phong trào vận động, kêu gọi mà đã thực sự trở thành mối quan
tâm, là tiêu chí trong hoạch định chính sách của các quốc gia. Nhưng làm thế
nào để những hoạt động bảo vệ môi trường trở thành hành động thực tiễn
không chỉ của mỗi cá nhân mà còn của cả toàn thể cộng đồng, của toàn xã
hội. Đây là vấn đề đã được không ít các nghiên cứu đơn ngành cũng như liên
ngành đề cập tới. Song từ góc độ triết học, chúng tôi cho rằng, để có được
những hành vi bảo vệ môi trường thì con người không chỉ dừng lại ở việc
nhận thức được tầm quan trọng của môi trường đối với sự sống của mình mà
còn phải ý thức được vai trò trách nhiệm của mình đối với môi trường. Ý thức
môi trường chính là nhân tố cần thiết cho việc đảm bảo điều khiển một cách
có ý thức hành vi của con người, và xa hơn là điều khiển một cách có ý thức
mối quan hệ giữa con người với môi trường sống xung quanh con người.
11
Theo chúng tôi, ý thức môi trường, nói chung, là tập hợp các quan niệm
của con người về tự nhiên (môi trường sống) chung quanh con người và ý thức
trách nhiệm đối với môi trường đó. Từ đó con người ý thức được tầm quan trọng
của môi trường đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội, biến những quan điểm
đó thành hành động cụ thể để xây dựng ý thức cộng đồng về bảo vệ môi trường.
Từ góc độ triết học, có thể nhìn nhận về ý thức môi trường từ một số
điểm căn bản sau:
Thứ nhất, với tư cách là ý thức của con người nói chung, ý thức môi
trường là một bộ phận của ý thức xã hội. Bởi vậy, về nguyên tắc, nó chịu sự
chi phối của tồn tại xã hội, tức là những điều kiện sinh hoạt vật chất mà trên
đó nó được hình thành. Tuy nhiên, ý thức môi trường cũng mang đặc trưng
của ý thức con người nói chung và ý thức xã hội nói riêng, đó là khả năng
vượt trước của nó đối với tồn tại xã hội trong những phạm vi nhất định. Chính
vì vậy, việc xây dựng ý thức môi trường, một mặt, không thể tách rời những
điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội nhưng mặt khác cũng không thể đóng
khung trong phạm vi những điều kiện đó.
Thứ hai, về mặt cấu trúc, ý thức môi trường được thể hiện ở ý thức cá
nhân và ý thức xã hội. Như vậy, ý thức môi trường không chỉ bó hẹp trong phạm
vi ý thức trách nhiệm đối với môi trường của từng cá nhân mà hơn thế, nó phải là
ý thức trách nhiệm đối với môi trường của toàn thể cộng đồng và xã hội.
Thứ ba, ý thức môi trường, về cơ bản, được thể hiện qua ý thức pháp
luật đối với môi trường và ý thức đạo đức đối với môi trường. Nói cách khác
đây là hai khía cạnh hay hai phương diện quan trọng nhất của ý thức môi
trường, khía cạnh pháp luật và khía cạnh đạo đức. Hai khía cạnh này là cơ sở
để điều chỉnh hành vi của con người đối với môi trường.
Ngoài ra ý thức môi trường cũng còn được nhìn nhận từ phương diện
thẩm mỹ nữa. Đặc trưng của khía cạnh này là nó cho ta thấy được nhận thức
12
và đánh giá của con người về cái đẹp của tự nhiên, của môi trường. Từ đó
hướng hoạt động của con người tới mục tiêu giữ gìn và tái tạo vẻ đẹp của tự
nhiên và xã hội.
Tuy nhiên, do mục tiêu đặt ra trong luận văn là xây dựng ý thức môi
trường nhằm tạo dựng được một ý thức trách nhiệm của các cá nhân nói
chung cũng như của cộng đồng nói riêng nên chúng tôi sẽ chỉ tập trung chủ
yếu vào khía cạnh giáo dục ý thức pháp luật và ý thức đạo đức đối với môi
trường mà thôi.
1.2. Tính tất yếu của việc giáo dục ý thức môi trường
Bên cạnh những phân tích bên trên từ phương diện lý luận thì trên thực
tế cũng có thể khẳng định rằng giáo dục ý thức môi trường là một tất yếu
khách quan, một nhu cầu cấp thiết không chỉ của một quốc gia, một dân tộc
mà là của toàn thế giới. Sở dĩ như vậy là vì:
Trên bình diện toàn cầu, có thể nhận thấy, ngày nay, những cải biến
khoa học và công nghệ hiện đại, một mặt tạo điều kiện nâng cao chất lượng
cuộc sống con người, song mặt khác, sự phát triển mạnh mẽ của nó cũng đang
kích thích tâm lý tiêu dùng thái quá; sự phát triển không đồng đều giữa các
quốc gia trên thế giới mà ở đó vẫn tồn tại những công nghệ còn lạc hậu; sự
không thống nhất về lợi ích giữa các quốc gia, dân tộc… tựu trung lại là
những rào cản về mặt kinh tế, xã hội, cũng như văn hóa đang ảnh hưởng trực
tiếp đến ý thức của con người đối với môi trường.
Với Việt Nam, vấn đề về ô nhiễm môi trường cũng đã và đang là vấn
đề nổi cộm. Ở Việt Nam, ô nhiễm môi trường đang ở mức nghiêm trọng. Do
quá trình phát triển công nghiệp hóa đã làm cho những vấn đề như: ô nhiễm
nguồn nước, không khí, sa mạc hóa đất đai,… đang trở thành những vấn đề
cấp bách được coi là những nhiệm vụ trọng điểm cần giải quyết của quốc gia.
13
Tình hình này cũng là đòi hỏi cấp thiết cần phải có ý thức đúng đắn trong việc
giữ gìn, bảo vệ môi trường của mọi thành viên và tổ chức trong xã hội.
Việc giáo dục ý thức môi trường cho con người biết bảo vệ môi trường
có ý nghĩa rất quan trọng. Bởi vì, môi trường chính là nơi cư trú của con
người và xã hội loài người, bảo vệ môi trường là bảo vệ sự sinh tồn của loài
người khỏi bị ô nhiễm và khỏi bị phá hoại, qua đó khiến cho môi trường tự
nhiên ngày càng phù hợp với sản xuất và đời sống của loài người, đồng thời
bảo vệ tốt các loài sinh vật trong thế giới tự nhiên.
Giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cũng có nghĩa là bảo vệ sức sản
xuất. Môi trường sản xuất, môi trường xã hội và môi trường tự nhiên tốt đẹp
chính là cơ sở của sự phát triển kinh tế - xã hội. Nếu cơ sở này bị phá hoại thì
không những sẽ ảnh hưởng tới phát triển kinh tế mà còn ảnh hưởng đến ổn
định xã hội. Nói cách khác, “bảo vệ môi trường là một vấn đề sống còn của
đất nước, của nhân loại; là nhiệm vụ có tính chất xã hội sâu sắc, gắn liền với
cuộc đấu tranh xóa đói giảm nghèo ở mỗi nước, với cuộc đấu tranh vì hòa
bình và tiến bộ xã hội trên phạm vi toàn thế giới” [27, tr.6-7]. Chính vì vậy,
bảo vệ môi trường là nhu cầu để phát triển kinh tế, là nhu cầu trong cuộc sống
thường ngày của con người.
Cùng với tiến triển của lịch sử, con người ngày càng nhận thức được
rằng môi trường đóng vai trò hết sức quan trọng đối với sự tồn tại và phát
triển của con người, bởi môi trường không chỉ cung cấp các nguồn tài nguyên
đầu vào cho sản xuất, đáp ứng nhu cầu sinh sống hàng ngày cho con người
mà còn là nơi chứa và hấp thụ nguồn chất thải do chính sản xuất và con người
tạo ra. Do đó, để bảo vệ môi trường phải duy trì các quy trình sinh thái chủ
yếu và các hệ sinh thái quyết định đến đời sống con người, phải sử dụng hợp
lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên, nhất là các tài nguyên sinh vật, tránh làm
14
cạn kiệt hoặc hủy diệt tài nguyên, đảm bảo có một chiến lược phát triển lâu
bền và ổn định. Vì lẽ đó “bảo vệ là có ý nghĩa tích cực, nó bao gồm cả sự bảo
quản duy trì, sử dụng hợp lý, hồi phục và nâng cao hiệu suất của môi trường
tự nhiên, bao gồm cả các nguồn tài nguyên tái tạo và không tái tạo” [5, tr.14].
Ở nước ta, Luật bảo vệ môi trường đã khẳng định: Bảo vệ môi trường
“là những hoạt động giữ cho môi trường trong lành, sạch đẹp, cải thiện môi
trường, bảo đảm cân bằng sinh thái, ngăn chặn, khắc phục các hậu quả xấu do
con người và thiên nhiên gây ra môi trường, khai thác, sử dụng hợp lý và tiết
kiệm tài nguyên thiên nhiên” [15, tr.6].
Như vậy, để bảo vệ môi trường tốt, nhất thiết phải chú trọng tới việc
giáo dục con người ngay từ còn nhỏ cho tới tuổi trưởng thành và đặc biệt là
khi kết thúc quá trình học tập trong nhà trường, chuẩn bị bước vào đời, trực
tiếp tham gia sản xuất của cải vật chất cho xã hội.
Bên cạnh đó, để thực hiện tốt việc giáo dục ý thức môi trường của
người dân thì không có cách gì tốt hơn là cho họ thấy những lợi ích thiết thực
của những hành vi bảo vệ môi trường trong từng hoạt động của đời sống.
Việc cải thiện và bảo vệ môi trường không chỉ là vấn đề kỹ thuật và
luật pháp mà đòi hỏi sự tham gia của những người sống trong môi trường ấy,
vì các cá nhân, cộng đồng là những tác nhân có ảnh hưởng đến môi trường,
tích cực hay tiêu cực tùy theo nhận thức, thái độ, hành vi của những tác nhân
ấy. Ở Việt Nam, giáo dục môi trường còn ở giai đoạn bắt đầu. Phần lớn
những người tham gia giáo dục môi trường là những người đã học về môi
trường nhưng chưa nắm vững phương pháp tập huấn nâng cao nhận thức cho
các đối tượng khác nhau trong xã hội. Hoặc họ là những người được đào tạo
về sư phạm và sau đó chuyên môn hóa trong giảng dạy về môi trường. Do
vậy, việc đẩy mạnh giáo dục đạo đức môi trường cho mọi tầng lớp nhân dân
là vô cùng cần thiết đặc biệt là tầng lớp trong học sinh, sinh viên.
15
1.3. Nội dung và phương pháp giáo dục ý thức môi trường cho sinh viên
1.3.1. Mục tiêu của giáo dục ý thức môi trường
Về vai trò và ý nghĩa của công tác giáo dục môi trường nói chung, năm
1987, tại Hội nghị về môi trường ở Moscow do UNEP và UNESCO đồng tổ
chức, đã đưa ra kết luận về tầm quan trọng của giáo dục môi trường: “Nếu
không nâng cao được sự hiểu biết của công chúng về những mối quan hệ mật
thiết giữa chất lượng môi trường với quá trình cung ứng liên tục các nhu cầu
ngày càng tăng của họ, thì sau này sẽ khó làm giảm bớt được những mối nguy
cơ về môi trường ở các địa phương cũng như trên toàn thế giới. Bởi vì, hành
động của con người tùy thuộc vào động cơ của họ và động cơ này lại tùy
thuộc vào chính nhận thức và trình độ hiểu biết của họ. Do đó, giáo dục môi
trường là một phương tiện không thể thiếu để giúp mọi người hiểu biết về môi
trường” [67, tr.37]. Hội nghị quốc tế về Giáo dục môi trường của Liên hợp
quốc tổ chức tại Tbilisi vào năm 1977 đã đưa ra khái niệm: “Giáo dục môi
trường có mục đích làm cho cá nhân và các cộng đồng hiểu được bản chất
phức tạp của môi trường tự nhiên và môi trường nhân tạo là kết quả tương tác
của nhiều nhân tố sinh học, lý học, xã hội, kinh tế và văn hóa; đem lại cho họ
kiến thức, nhận thức về giá trị, thái độ và kỹ năng thực hành để họ tham gia
một cách có trách nhiệm và hiệu quả trong phòng ngừa và giải quyết các vấn
đề môi trường và quản lý chất lượng môi trường” [67, tr37].
Trong những năm gần đây trên toàn thế giới nói chung, ở Việt nam nói
riêng, các hiện tượng biến đổi khí hậu toàn cầu, thiên tai, bão lũ diễn ra bất thường
và rất nặng nề; môi trường nước, không khí, đất đai… bị ô nhiễm nghiêm trọng;
các nguồn tài nguyên thiên nhiên bị khai thác quá mức, thiếu quy hoạch… đã gây
ảnh hưởng không nhỏ đến cuộc sống và sức khoẻ của con người. Do đó, việc giáo
dục ý thức môi trường cho mỗi người dân đã trở thành đòi hỏi bức thiết nhằm tạo
ra trong họ có những suy nghĩ và hành động vì sự toàn vẹn của môi trường.
16
Trong giáo dục ý thức môi trường nói chung, dù cho đối tượng tiếp
nhận là người dân, hay học sinh trong các trường phổ thông, sinh viên trong
các trường đại học hay trung học chuyên nghiệp… đều phải nhằm mục tiêu
đem lại cho các đối tượng được giáo dục có cơ hội:
+ Hiểu biết bản chất của các vấn đề môi trường: tính phức tạp, quan hệ
nhiều mặt, nhiều chiều, tính hạn chế của tài nguyên thiên nhiên và khả năng
chịu tải của môi trường, mối quan hệ chặt chẽ giữa môi trường và phát triển,
giữa môi trường địa phương, vùng, quốc gia với môi trường khu vực và toàn
cầu. Mục tiêu này thực chất là trang bị cho các đối tượng được giáo dục các
kiến thức về môi trường [67, tr.37].
+ Nhận thức được ý nghĩa, tầm quan trọng của các vấn đề môi trường
như một nguồn lực để sinh sống, lao động và phát triển, đối với bản thân họ
cũng như đối với cộng đồng, quốc gia của họ và quốc tế, từ đó có thái độ,
cách ứng xử đúng đắn trước các vấn đề môi trường, xây dựng cho mình quan
niệm đúng đắn về ý thức trách nhiệm, về giá trị nhân cách để dần hình thành
các kỹ năng ứng xử và phát triển sự đánh giá thẩm mỹ. Mục tiêu này nhằm tới
định hướng xây dựng thái độ, cách đối xử thân thiện với môi trường.
+ Có tri thức, kỹ năng, phương pháp hành động để nâng cao năng lực
trong việc lựa chọn phong cách sống thích hợp với việc sử dụng một cách hợp
lý và khôn ngoan các nguồn tài nguyên thiên nhiên, để họ có thể tham gia
hiệu quả vào việc phòng ngừa và giải quyết các vấn đề môi trường cụ thể nơi
họ ở và làm việc. Đây là mục tiêu về khả năng hành động cụ thể.
Ba mục tiêu của giáo dục môi trường.
17
Như vậy, vai trò của giáo dục môi trường nói chung và giáo dục ý thức
môi trường nói riêng là vô cùng cần thiết. Giờ đây, nó không chỉ là sự quan
tâm của mỗi quốc gia mà còn là sự quan tâm của toàn thế giới. Mục tiêu của
giáo dục ý thức môi trường là nhằm hình thành ở mỗi cá nhân, mỗi con người
các chuẩn mực hành vi đạo đức môi trường thể hiện ở thái độ và hành vi ứng
xử tích cực đối với các vấn đề môi trường cụ thể; xây dựng tình yêu thiên
nhiên, sống thân thiện với môi trường thiên nhiên, bồi dưỡng lòng yêu thương
con người, đảm bảo sự hài hoà giữa quyền lợi của chính mình với quyền lợi
của người khác và cộng đồng.
Có thể thấy, giáo dục ý thức môi trường, về thực chất là giáo dục con
người có những nhận thức đúng đắn về môi trường, từ đó giáo dục và nâng cao ý
thức pháp luật và ý thức đạo đức của cá nhân, cộng đồng đối với môi trường
nhằm hình thành nên ở mỗi cá nhân cũng như cộng đồng ý thức, chuẩn mực và
hành vi đúng đắn đối với môi trường cả về phương diện pháp luật và đạo đức.
Như vậy, nội dung của giáo dục ý thức môi trường, về cơ bản phải tập
trung vào ba vấn đề chính, đó là giáo dục tri thức về môi trường; giáo dục ý
thức pháp luật về môi trường (ý thức tuân thủ pháp luật về bảo vệ môi
trường); và giáo dục ý thức đạo đức đối với môi trường (tinh thần trách
nhiệm, bổn phận đạo đức trong các ứng xử với môi trường).
1.3.2. Nội dung và phương pháp của giáo dục ý thức môi trường đối
với sinh viên
Trong giáo dục môi trường thì phương thức và cách tiếp cận là điều hết
sức quan trọng. Giáo dục môi trường có nhiều phương thức, được phân chia
thành các bộ phận phù hợp với trình độ nhận thức và tính chất đặc thù của
cương vị công tác như:
+ Giáo dục môi trường cho cộng đồng còn gọi là nâng cao nhận thức về
môi trường cho cộng đồng được thực hiện chủ yếu thông qua các phương tiện
18
thông tin đại chúng, các đợt tập huấn ngắn hạn, các hoạt động văn hóa, truyền
thông và các cuộc vận động quần chúng rộng rãi.
+ Giáo dục môi trường cho các nhà quản lý các cấp, các cán bộ ra
quyết định được thực hiện bằng nhiều biện pháp phù hợp.
+ Giáo dục môi trường trong hệ thống giáo dục và đào tạo ở các trường
từ các trường mẫu giáo đến các trường cao đẳng và đại học.
+ Đào tạo nhân lực chuyên môn về môi trường, bao gồm công nhân
lành nghề, kỹ thuật viên, kỹ sư, cán bộ nghiên cứu, giảng dạy.
Như vậy, rõ ràng công tác đào tạo và nâng cao nhận thức môi trường
cho cộng đồng đều là những bộ phận vô cùng quan trọng không thể thiếu
trong giáo dục môi trường, thực hiện những mục tiêu chiến lược của giáo dục
môi trường. Kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới cho thấy rằng, giáo dục
môi trường thường được thực hiện theo 3 cách tiếp cận sau đây:
* Giáo dục về môi trường: xem môi trường là một đối tượng khoa học,
người dạy truyền đạt cho người học các kiến thức của bộ môn khoa học về
môi trường, cũng như phương pháp nghiên cứu về đối tượng đó. Cụ thể là:
- Cung cấp những hiểu biết về hệ thống tự nhiên và hoạt động của nó.
- Cung cấp những hiểu biết tác động của con người tới môi trường.
* Giáo dục trong môi trường: xem môi trường thiên nhiên hoặc nhân
tạo như một địa bàn, một phương tiện để giảng dạy, học tập, nghiên cứu. Với
cách tiếp cận này, môi trường sẽ trở thành “phòng thí nghiệm thực tế” đa
dạng, sinh động cho người dạy và người học. Xét về hiệu quả học tập kiến
thức, kỹ năng, nghiên cứu có thể hiệu quả rất cao [67, tr.39].
* Giáo dục vì môi trường: truyền đạt kiến thức về bản chất, đặc trưng của môi
trường hình thành thái độ, ứng xử, ý thức trách nhiệm, quan niệm giá trị nhân cách, đạo
đức đúng đắn về môi trường, cung cấp tri thức kỹ năng, phương pháp cần thiết cho
những quyết định, hành động bảo vệ môi trường và phát triển bền vững [67, tr.39].
19
Giáo dục môi trường có hiệu quả nhất khi kết hợp cả 3 cách tiếp cận
trên, tức là giáo dục kiến thức về môi trường trong môi trường cụ thể nhằm
hướng đối tượng giáo dục có hành động vì môi trường [67, tr.39].
Với từng loại đối tượng có những phương pháp và nội dung giáo dục phù
hợp chẳng hạn:
- Đối với các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp: Giáo dục thông qua các Hội
nghị, Hội thảo, Hội thi tìm hiểu, thông báo chuyên đề, thông tin chuyên đề.
- Đối với các cơ quan, tổ chức cần phải quyết tâm và cam kết xây dựng
hệ thống tổ chức quản lý môi trường đáp ứng được yêu cầu. Khẩn trương rà
soát, chỉnh sửa, bổ sung hệ thống văn bản pháp luật bảo vệ môi trường theo
hướng phù hợp với kinh tế trị trường và thông lệ quốc tế. Có cơ chế, chính
sách thỏa đáng nhằm đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về môi trường
đủ về số lượng và mạnh về chất lượng.
- Đối với các doanh nghiệp, phải xây dựng các chế tài buộc các doanh
nghiệp phải áp dụng công nghệ sản xuất sạch hơn. Có cơ chế để các doanh
nghiệp tiếp cận được các chính sách cũng như các yêu cầu về môi trường của
các thị trường và bạn hàng tiềm năng. Thúc đẩy việc áp dụng các hệ thống
quản lý môi trường theo ISO 14001 và các mô hình quản lý môi trường hỗ trợ
hội nhập kinh tế quốc tế khác.
- Đối với học sinh, sinh viên: Giáo dục thông qua các môn học và các
hoạt động ngoại khóa ở các bậc học. Nội dung và phương pháp được xây
dựng phù hợp với từng cấp học, cụ thể là:
+ Giáo dục bảo vệ môi trường trong trường mầm non: Giáo dục mầm
non nằm trong hệ thống giáo dục quốc dân, là cơ sở quan trọng đặt nền móng
ban đầu cho việc hình thành nhân cách con người Việt Nam. Giai đoạn từ 0 –
6 tuổi là giai đoạn rất quan trọng trong cuộc đời mỗi con người. Trong giai
đoạn này, trẻ phát triển rất nhanh về mặt thể chất, nhận thức, tình cảm. Các
mối quan hệ xã hội, những nét tính cách, phẩm chất và các năng lực chung,…
20
nếu không được hình thành ở trẻ trong lứa tuổi này, thì khó có cơ hội hình
thành ở lứa tuổi sau. Hiện nay, cả nước có trên 10.000 trường mẫu giáo, mầm
non với gần 3 triệu trẻ em và trên 15.000 giáo viên. Một lực lượng khá đông
đảo sẽ được trang bị những kiến thức, kỹ năng về môi trường và bảo vệ môi
trường nếu đưa giáo dục bảo vệ môi trường vào trường mầm non [67, tr.39].
+ Giáo dục bảo vệ môi trường ở bậc tiểu học: Tiểu học là bậc học cơ
bản, là cơ sở ban đầu hết sức quan trọng cho việc đào tạo trẻ em trở thành
công dân tốt cho đất nước. Mục đích quan trọng của giáo dục bảo vệ môi
trường không chỉ làm cho các em hiểu rõ tầm quan trọng của bảo vệ môi
trường mà quan trọng là phải hình thành thói quen, hành vi ứng xử văn
minh, thân thiện với môi trường. Nếu ở cấp học này các em chưa hình thành
được tình yêu thiên nhiên, sống hòa đồng với thiên nhiên, quan tâm tới thế
giới xung quanh, có thói quen sống ngăn nắp, vệ sinh thì ở các cấp sau khó
có thể bù đắp được. Vì vậy, nội dung và cách thức bảo vệ môi trường trong
trường tiểu học mang tính quyết định đối với việc hình thành những phẩm
chất đó [67, tr.39-40].
+ Giáo dục ý thức bảo vệ môi trường ở bậc trung học: Ở cấp học này,
nội dung giáo dục môi trường phải được coi là nội dung chính thống, có hệ
thống, có chất lượng và phải hiệu quả. Cách thức đưa vào chương trình phổ
thông và phương thức đào tạo có thể mềm dẻo nhưng việc đánh giá kết quả
phải được đặt ra một cách tương xứng với tầm quan trọng của vấn đề. Cần
phải giúp cho các em tự mình chiếm lĩnh được tri thức, kỹ năng và tự thân
các học sinh xác định thái độ phải đối xử đúng đắn với thiên nhiên như
chính ngôi nhà của mình [67, tr.40].
+ Giáo dục ý thức bảo vệ môi trường ở bậc đại học và sau đại học:
Giáo dục bảo vệ môi trường ở bậc đại học và sau đại học có thể được thực
hiện theo 3 phương thức:
21
Thứ nhất: Tiến hành như một môn học mới, hoặc một chuyên đề mới
được đưa vào chương trình: Phương thức này tương đối rõ ràng, đơn giản,
nhưng gặp khó khăn do chương trình đào tạo đang có không còn thời lượng
cho môn học mới.
Thứ hai: Lồng ghép với các môn học khác: Phương thức này sẽ thuận lợi
cho tính chất liên ngành, không đòi hỏi việc sắp xếp lại khung chương trình. Tuy
nhiên lại gặp khó khăn lớn là phải đào tạo giáo viên mới và huấn luyện bồi dưỡng
giáo viên đương chức về mục tiêu, nội dung và phương pháp lồng ghép.
Thứ ba: Giáo dục môi trường qua các hoạt động ngoại khóa: Phương
thức này được vận dụng để giải quyết khó khăn về quỹ thời gian học tập của
học sinh. Giáo dục ngoại khóa có ưu điểm là sinh động, dễ gắn liền với thực
tế, vừa cung cấp được kiến thức, kỹ năng, vừa có tác dụng rèn luyện nhận
thức, thái độ. Tuy nhiên có khó khăn là không liên tục, không hệ thống và bị
động với nhiều nhân tố bên ngoài [67, tr.40].
Vì mục tiêu phát triển bền vững, vì sức khoẻ cộng đồng, việc giáo dục
môi trường trong giai đoạn hiện nay cần đặt lên hàng đầu, thực hiện thường
xuyên và liên tục cho mọi đối tượng, mọi tầng lớp dân cư giúp cho mọi người
nhận thức một cách đúng đắn về tầm quan trọng công tác bảo vệ môi trường
và có trách nhiệm với môi trường [72].
Có thể nói, việc giáo dục ý thức môi trường cho sinh viên không thể
tách rời với việc giáo dục ý thức môi trường tại các cấp học trước đó. Chính
vì vậy mà giáo dục ý thức môi trường cần phải được xây dựng thành hệ
thống, có sự liên kết chặt chẽ giữa các cấp học. Chỉ khi đó giáo dục ý thức
môi trường cho sinh viên mới đạt được hiệu quả mong muốn.
1.3.2.1 Giáo dục tri thức môi trường
Để xây dựng được ý thức môi trường thì việc đầu tiên là phải cung cấp
cho con người những tri thức khoa học, hiểu biết đúng đắn về mối quan hệ
22
giữa con người với tự nhiên, về sự thích nghi của con người với những biến
đổi của môi trường tự nhiên nhằm đảm bảo sự thống nhất biện chứng giữa
con người với tự nhiên, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững vì cả giới tự
nhiên và con người, giúp con người có được tri thức đúng đắn về giá trị của
môi trường tự nhiên đối với cuộc sống của chính mình. Đồng thời, giáo dục
con người những tình cảm yêu quý, tôn trọng tự nhiên, thân thiện với thiên
nhiên, có thái độ, trách nhiệm và lối sống văn hoá đối với tự nhiên, sống hòa
thuận với thiên nhiên [72].
Giáo dục tri thức môi trường nhằm giúp cho cộng đồng hiểu được bản
chất phức tạp của hệ thống môi trường thiên nhiên cũng như nhân tạo để từ đó
giúp con người có những hành vi đối xử “thân thiện” hơn đối với môi trường.
Mục tiêu của giáo dục tri thức môi trường cũng nhằm trang bị cho cộng đồng
những kỹ năng hành động bảo vệ môi trường một cách hiệu quả hơn. Phương
pháp giáo dục tri thức môi trường hiệu quả nhất là giáo dục kiến thức về môi
trường trong một môi trường cụ thể nhằm hướng đối tượng giáo dục có hành
động bảo vệ môi trường. Nhận thức được tầm quan trọng của việc giáo dục tri
thức môi trường trong công tác bảo vệ môi trường, Đảng và Nhà nước đã có
những chính sách, những chương trình hành động cụ thể, và đã đạt được
những thành tựu đáng kể. Các chương trình giáo dục tri thức môi trường bao
gồm cả chính khóa và ngoại khóa đã được triển khai tới tất cả các cấp học
trong hệ thống giáo dục của Việt Nam. Các chiến dịch nâng cao nhận thức
cộng đồng, và vận động quần chúng cũng như các tổ chức xã hội khác tham
gia vào việc bảo vệ môi trường tiến hành hàng năm. Hệ thống thông tin và dữ
liệu môi trường cũng đã được xây dựng và ngày càng hoàn thiện hơn. Tuy
vậy, hiện vẫn còn những hạn chế, tồn tại trong công tác giáo dục, đào tạo và
nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường.