Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Buổi thảo luận thứ sáu QUY ĐỊNH VỀ DI CHÚC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.85 KB, 16 trang )

BUỔI THẢO LUẬN THỨ SÁU: QUY ĐỊNH VỀ DI CHÚC.

I. Phần thứ nhất: Hình thức của di chúc.
Câu 1: Điều kiện về hình thức để di chúc tự viết tay có giá trị pháp lý? Nêu cơ sở pháp lý khi
trả lời.
Điều kiện về hình thức để di chúc tự viết tay có giá trị được thể hiện ở Điều 655, BLDS 2005
quy định về Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng:
“Người lập di chúc phải tự tay viết và ký vào bản di chúc.
Việc lập di chúc bằng văn bản không có người làm chứng phải tuân theo quy định tại Điều
653 của Bộ luật này.”
Câu 2: Nếu di chúc của ông Này là di chúc phải có người làm chứng thì những người đã làm
chứng di chúc của ông Này có là người làm chứng hợp pháp không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả
lời.
- Nếu di chúc của ông Này là di chúc phải có người làm chứng thì chỉ có em gái, em trai của
ông Này là người làm chứng hợp pháp; còn cha ông Này không là người làm chứng hợp pháp.
- Vì căn cứ theo Điều 654, BLDS 2005 quy định về Người làm chứng cho việc lập di chúc
“Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người sau đây:
1. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc;
2. Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc;
3. Người chưa đủ mười tám tuổi, người không có năng lực hành vi dân sự.”
Theo đó, cha của ông Này là người thừa kế theo pháp luật, thuộc hàng thừa kế thứ nhất theo
quy định của Điểm a, Khoản 1, Điều 676, BLDS 2005 về Người thừa kế theo pháp luật nên cha
ông Này đã rơi vào trường hợp của Khoản 1, Điều 654, BLDS 2005 về Người làm chứng cho
việc lập di chúc. Vì vậy, cha ông Này không là người làm chứng hợp pháp.
Những người làm chứng còn lại khi ông Này lập di chúc là em gái, em trai của ông Này mà
nội dung di chúc của ông Này là chuyển quyền thừa kế toàn bộ nhà đất thuộc quyền sở hữu
chung của ông Này và bà Trọng cho Nguyễn Thành Hiếu là con riêng của ông Này, do đó
những người làm chứng nêu trên không là người thừa kế theo di chúc của ông Này, cũng không
là người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc và không mất năng lực hành
1



vi dân sự hay chưa đủ 18 tuổi. Thêm vào đó, cha ông Này – là hàng thừa kế thứ nhất theo pháp
luật thì còn sống và di sản thừa kế chỉ được chia cho một hàng thừa kế và tuân theo trình tự ưu
tiên là 1, 2, 3. Vì vậy, họ là những người làm chứng hợp pháp.
Câu 3: Di chúc của ông Này có là di chúc do ông Này tự viết tay không? Vì sao?
- Di chúc của ông Này là di chúc do ông tự viết tay.
- Vì di chúc đã tuân thủ theo những quy định về hình thức được quy định tại Điều 655, BLDS
2005 về Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng: “Người lập di chúc phải tự tay viết
và ký vào bản di chúc”. Thêm vào đó, lúc lập di chúc ông Này còn minh mẫn, sáng suốt, không
bị lừa dối, đe doạ hoặc cưỡng ép và nhiều người làm chứng.
Câu 4: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến hình thức di
chúc của ông Này khi đây là di chúc do ông Này tự viết tay.
- Hướng giải quyết trên của Toà án hoàn toàn hợp lý. Bởi vì di chúc của ông Này được tự tay
ông Này viết và có 2 người làm chứng hợp pháp làm em trai và em gái. Di chúc được lập trong
lúc ông Này hoàn toàn minh mẫn, sáng suốt không hề bị ép buộc hay lừa dối.
Câu 5: Di chúc của cụ Hựu đã được lập như thế nào?
- Di chúc của cụ Hựu được lập bằng cách: Ngày 25/11/1998, cụ Hựu đọc cho ông Vũ viết, cụ
Hựu điểm chỉ, ông Vũ và bà Đỗ Thị Quý (là mẹ của ông Vũ) ký tên làm chứng, sau đó ngày
9/1/1999 bà Lựu mang di chúc đến cho ông Hoàng Văn Thưởng (là Trưởng thôn) và Uỷ ban
nhân dân xã Mai Lâm xác nhận.
Câu 6: Cụ Hựu có biết chữ không? Đoạn nào của Quyết định số 874 cho câu trả lời?
- Cụ Hựu là người không biết chữ.
- Đoạn của Quyết định số 874 cho câu trả lời: “Ông Quang xác định cụ Hựu là người không
biết chữ”.
Câu 7: Di chúc của người không biết chữ phải thỏa mãn các điều kiện nào để có hình thức phù
hợp với quy định của pháp luật?
2


- Di chúc của người không biết chữ phải thỏa mãn các điều kiện được quy định tại Khoản 1, 3,

5, Điều 652 về Di chúc hợp pháp để có hình thức phù hợp:
“1. Di chúc được coi là hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ
hoặc cưỡng ép;
b) Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái
quy định của pháp luật.
3. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người
làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực”.
Câu 8: Các điều kiện nào nêu trên đã được đáp ứng đối với di chúc của cụ Hựu?
Các điều kiện nào nêu trên đã được đáp ứng đối với di chúc của cụ Hựu
- Di chúc của cụ Hựu đã được lập thành văn bản (do cụ Hựu đọc cho ông Vũ viết).
- Di chúc của cụ Hựu đã được công chứng hoặc chứng thực (được Trưởng thôn là ông Thưởng
và Uỷ ban nhân dân xã Mai Lâm xác nhận).
Câu 9: Các điều kiện nào nêu trên đã không được đáp ứng đối với di chúc của cụ Hựu?
- Điều kiện không được đáp ứng đối với di chúc của cụ Hựu là: Qua giám định dấu vân tay của
cụ Hựu tại bản di chúc thì Viện khoa học hình sự Tổng cục cảnh sát kết luận dấu vân tay mờ
không thể hiện rõ các đặc điểm riêng nên không đủ yêu tố giám định.
Câu 10: Theo anh/chị, di chúc nêu trên có thỏa mãn điều kiện về hình thức không? Vì sao?
- Di chúc trên chưa hoàn toàn thoả mãn điều kiện về hình thức.
- Vì qua giám định dấu vân tay của cụ Hựu tại bản di chúc thì Viện khoa học hình sự Tổng cục
cảnh sát kết luận dấu vân tay mờ không thể hiện rõ các đặc điểm riêng nên không đủ yêu tố
giám định. Thêm vào đó, người làm chứng và người mang đi công chứng là hai người khác
nhau. Do vậy, không có đủ yếu tố xác định di chúc này thể hiện đúng ý chí ý của cụ Hựu.
Câu 11: Suy nghĩ của anh/chị về các quy định trong BLDS liên quan đến hình thức di chúc của
người không biết chữ.
3


- Quy định trong BLDS liên quan đến hình thức di chúc của người không biết chữ còn rất sơ
sài, chưa quy định kĩ.

- BLDS quy định về việc công chứng và chứng thực của di chúc nhưng không nêu người đi
công chứng hoặc chứng thực là ai. Vì vậy, nên bổ sung thêm quy định này vào chế định di chúc
của người không biết chữ. Theo đó, người đi công chứng hoặc chứng thực phải là người lập di
chúc hoặc là người thể hiện ý chí của người lập di chúc thành văn bản để đảm bảo sự rõ ràng,
chính xác của di chúc, để tránh sự thay đổi di chúc không đúng với ý chí của người lập di chúc,
từ đó tránh các tranh chấp xảy ra trên thực tế.
- BLDS cần quy định thêm về thời hạn công chứng hoặc chứng thực di chúc của người không
biết chữ. Ta có thể áp dụng trường hợp của di chúc miệng vào trong trường hợp này là trong
thời hạn 5 ngày, di chúc phải được công chức hoặc chứng thực kể từ ngày người lập di chúc thể
hiện ý chí cuối cùng.

II. Phần thứ hai: Di chúc tài sản của người khác.
Câu 1: Cụ Hương đã định đoạt tài sản nào? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời.
- Cụ Hương đã định đoạt toàn bộ nhà đất là tài sản chung của cụ Hương và cụ Quý.
- Đoạn của Quyết định cho câu trả lời:
“Ngày 16/01/2009, cụ Hương di chúc toàn bộ nhà đất cho các con là Nguyễn Ngọc Đức,
Nguyễn Hữu Nghĩa, Nguyễn Ngọc Hiếu, Nguyễn Hữu Dũng, Quảng Thị Kiều (Vợ ông Nguyễn
Hữu Trí)”.
Câu 2: Đoạn nào của Quyết định cho thấy tài sản cụ Hương định đoạt trong di chúc là tài sản
chung của vợ chồng cụ Hương?
Đoạn của Quyết định cho thấy tài sản cụ Hương định đoạt trong di chúc là tài sản chung của
vợ chồng cụ Hương:
“Tuy nhiên, về nội dung thì di chúc chỉ có giá trị một phần bởi nhà đất trên là tài sản chung
của vợ chồng cụ Hương và cụ Quý”.
Câu 3: Toà án đã công nhận phần nào của di chúc? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời.
4


- Toà án đã công nhận một phần của di chúc. Cụ thể là một phần đối với tài sản của cụ Hương
(½ nhà đất).

- Đoạn của Quyết định cho câu trả lời.
“Vì vậy, Toà án cấp sơ thẩm xét xử di chúc của cụ Nguyễn Văn Hương có hiệu lực một phần
đối với phần tài sản của cụ Hương (1/2 nhà đất) nên được chia đều cho 5 người con là các ông
bà Nguyễn Ngọc Đức, Nguyễn Hữu Nghĩa, Nguyễn Ngọc Hiếu, Nguyễn Hữu Dũng, Quảng Thị
Kiều (vợ ông Nguyễn Hữu Trí)…”
Câu 4: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Toà giám đốc thẩm.
- Việc Toà án quyết định chia di sản của cụ Quý trên phù hợp với quy định của pháp luật.
- Xét dưới góc độ của Bộ luật Dân sự năm 2005, Điều 634 của Bộ luật này quy định về di sản:
“Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản
chung với người khác”.
Trong trường hợp của cụ Quý và cụ Hương, tài sản thuộc sở hữu chung của cả hai người.
Trước khi chết, cụ Hương cũng không có tài sản riêng nên chỉ có phần tài sản trong tài sản
chung với cụ Quý của cụ Hương mới được coi là di sản. Cụ Hương chỉ có quyền định đoạt phần
đó. Vì vậy, việc Toà xác định chỉ có ½ nhà đất được chia cho 5 người thừa kế là phù hợp với
quy định trên của pháp luật.
Khoản 1 Điều 669 của Bộ luật này cũng quy định về Người thừa kế không phụ thuộc vào nội
dung của di chúc:
“Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người
thừa kế theo pháp luật, nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được
người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó,
trừ khi họ là những người từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 642 hoặc họ là những
người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 643 của Bộ luật này:
1. Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
2. Con đã thành niên mà không có khả năng lao động”.
Cụ Quý không thuộc trường hợp tại Điều 642 và Khoản 1, Điều 643 của Bộ luật Dân sự năm
2005. Khi cụ Hương chết, cụ Quý là vợ của cụ Hương cũng không được cụ Hương là người lập
di chúc cho hưởng di sản.
5



Vì vậy, việc Toà án xác định chia cho cụ Quý 2/3 suất thừa kế theo pháp luật là hoàn toàn phù
hợp.
Câu 5: Nếu cụ Quý chết trước cụ Hương, phần nào của di chúc có giá trị pháp lý? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời.
- Nếu cụ Quý chết trước cụ Hương thì toàn bộ phần di chúc của cụ Hương có giá trị pháp lý đối
với phần tài sản của cụ Hương được hưởng từ phần thừa kế theo pháp luật khi cụ Quý chết.
- Vì căn cứ theo Khoản 1, Điều 27, Luật Hôn nhân và gia đình 2000 quy định:
“Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt
động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn
nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản
khác mà vợ chồng thoả thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng.
Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài
sản chung khi vợ chồng có thoả thuận.
Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất”.
Theo đó, sau khi cụ Quý chết, đối với tài sản chung của vợ chồng thì ½ sẽ là của cụ Hương và
½ còn lại là của cụ Quý. Căn cứ vào quy định của Điểm a, Khoản 1, Điều 675, BLDS 2005 về
Những trường hợp thừa kế theo pháp luật:
“1. Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong những trường hợp sau đây:
a) Không có di chúc;”
Và quy định của Điểm a, Khoản 1, Điều 676, BLDS 2005 về Hàng thừa kế thứ nhất theo pháp
luật:
“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con
nuôi của người chết;”
Theo đó, cụ Quý chết trước cụ Hương và không có để lại di chúc, do vậy phần tài sản của cụ
Quý sẽ được chia đều cho cụ Hương và các con của cụ Quý – là những người thuộc hàng thừa
kế thứ nhất theo pháp luật. Như vậy, tài sản của cụ Hương là phần được hưởng thừa kế theo
pháp luật và ½ trong số tài sản chung với cụ Quý; sau khi cụ Hương chết, thì cụ Hương có
6



quyền lập di chúc để lại di sản cho những người chỉ định trong di chúc với phần tài sản của
mình.
Câu 6: Nếu tài sản được định đoạt trong di chúc chỉ thuộc sở hữu của cụ Hương vào đầu tháng
4/2009 thì di chúc của cụ Hương có giá trị pháp lý không? Vì sao?
- Trong trường hợp tài sản được định đoạt trong di chúc chỉ thuộc sở hữu của cụ Hương vào đầu
tháng 4/2009 thì di chúc của cụ Hương có giá trị pháp lí.
- Về hình thức, bản di chúc này có công chứng của Phòng công chứng số 4, thành phố Hồ Chí
Minh. Tại thời điểm lập di chúc, cụ Hương có giấy chứng nhận sức khoẻ của bệnh viện Phú
Nhuận xác nhận cụ Hương minh mẫn.
- Về nội dung, toàn bộ phần di chúc đều có giá trị pháp lí vì tài sản lúc này thuộc chỉ sở hữu
của cụ Hương vào đầu tháng 4/2009 nên cụ có quyền định đoạt theo quy định tại Điều 631 của
Bộ luật Dân sự năm 2005 về Quyền thừa kế của cá nhân:
“Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho
người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật”.
Nếu tài sản là sở hữu chung với cụ Quý thì di chúc chỉ có giá trị pháp lí một phần. Đó là phần
tài sản thuộc sở hữu của cụ Hương.
Vì vậy, căn cứ vào Khoản 1, Điều 652 và Điều 631 của Bộ luật Dân sự năm 2005 thì di chúc
của cụ Hương lúc này hoàn toàn có giá trị pháp lí.

III. Phần thứ ba: Di chúc chung của vợ chồng.
Câu 1: Đoạn nào của bản án số 11 và Quyết định số 18 cho thấy di chúc là di chúc chung của
vợ chồng?
- Đoạn của bản án số 11 cho thấy di chúc là di chúc chung của vợ chồng:
“Ngày 10/12/1998, vợ chồng ông Nguyễn Bá Rong và bà Bùi Thị Sỏi lập di chúc để lại nhà
và đất tại số 137 Nguyễn Bá Loan cho ông Nguyễn Bá Hải (cháu nội của vợ chồng ông Rong)
quản lý, sử dụng bà thờ phụng ông bà, không được bán, nếu bán phải có chữ ký của các bác, cô
của Hải”.
- Đoạn của Quyết số 18 cho thấy di chúc là di chúc chung của vợ chồng:

7


“Ngàu 21-8-1995 cụ Quy, cụ Thế đã lập di chúc phân chia nhà đất nêu trên. Di chúc của cụ
Quy và cụ Thế là hợp pháp”.
Câu 2: Các điều kiện để di chúc chung của vợ chồng có giá trị pháp lý? Nêu cơ sở pháp lý khi
trả lời.
Điều kiện để di chúc chung của vợ chồng có giá trị pháp lý cũng phải thoả mãn các điều kiện
sau nhưng của cả 2 vợ chồng:
- Căn cứ vào Điều 652, BLDS 2005 về Di chúc hợp pháp:
“1. Di chúc được coi là hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ
hoặc cưỡng ép;
b) Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy
định của pháp luật.
3. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người
làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.
4. Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu có
đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Ðiều này.
5. Di chúc miệng được coi là hợp pháp, nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của
mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau đó những người làm chứng ghi chép
lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày người di chúc miệng thể
hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng hoặc chứng thực”.
- Căn cứ vào Điều 688, BLDS 20005 quy định về Hiệu lực pháp luật của di chúc chung của vợ,
chồng:
“Di chúc chung của vợ, chồng có hiệu lực từ thời điểm người sau cùng chết hoặc tại thời điểm
vợ, chồng cùng chết”.
Nếu di chúc chung của vợ chồng đáp ứng đủ những điều đã được quy định trên thì di chúc
chung của vợ chồng có giá trị pháp lý.


8


Câu 3: Di chúc trong hai vụ việc trên có thỏa mãn các điều kiện để di chúc chung của vợ chồng
có giá trị pháp lý không? Đánh giá từng điều kiện của di chúc chung của vợ chồng với hoàn
cảnh có trong bản án và Quyết định.
- Di chúc trong hai vụ việc trên có thỏa mãn các điều kiện để di chúc chung của vợ chồng có
giá trị pháp lý.
- Đối với bản án số 11:
Di chúc của ông Rong và bà Sỏi là di chúc có hiệu lực pháp lí vì theo bản án số
11/2009/DSPT có đoạn:
“Xét bản di chúc ngày 10/12/1998 của vợ chồng ông Nguyễn Bá Rong tuy chưa có chứng
thực của UBND chính quyền sở tại nhưng có hai người làm chứng xác nhận trong bản di chúc
là bà Nguyễn Thị Thu Nguyệt và bà Nguyễn Thị Dung đều ở gần nhà ông Rong, bà Sỏi. Khi lập
di chúc, vợ chồng ông Rong, bà Sỏi đều minh mẫn, sáng suốt, tự nguyện thể hiện ý chí của
mình không bị ai lừa dối, cưỡng ép. Hình thức và nội dung bản di chúc không trái với quy định
của pháp luật và đạo đức xã hội, nên bản di chúc của vợ chồng ông Rong là di chúc hợp pháp”.
Theo Điều 652 và Điều 656, BLDS 2005 thì di chúc trên có hiệu lực. Sau khi vợ chồng ông
Rong chết thì phần tài sản này là di sản chung của vợ chồng ông.
- Đối với Quyết định số 18/2009/DS-GĐT thì “Bản di chúc” có chữ ký của cụ Thế, cụ Quy, có
xác nhận của UBND phường Bà Triệu. Do vậy, căn cứ vào Điều 657 và Điều 652, BLDS 2005
bản di chúc trên là di chúc hợp pháp, bản di chúc còn có chữ kí cụ thể của cả cụ Thế và cụ Quy,
có xác nhận của UBND phường bà Triệu. Và bản di chúc này thỏa mãn điều kiện để di chúc
này là di chúc chung của vợ chồng.
Câu 4: Ở thời điểm nào di chúc chung của vợ chồng có hiệu lực pháp luật? Nêu cơ sở pháp lý
khi trả lời (theo BLDS năm 1995 và BLDS năm 2005).
- Căn cứ vào Điều 671, BLDS 1995 quy định về Hiệu lực pháp luật của di chúc chung của vợ,
chồng thì:
“Trong trường hợp vợ, chồng lập di chúc chung mà có một người chết trước, thì chỉ phần di
chúc liên quan đến phần di sản của người chết trong tài sản chung có hiệu lực pháp luật; nếu


9


vợ, chồng có thoả thuận trong di chúc về thời điểm có hiệu lực của di chúc là thời điểm người
sau cùng chết, thì di sản của vợ, chồng theo di chúc chung chỉ được phân chia từ thời điểm đó.”
- Căn cứ vào Điều 668, BLDS 2005 quy định về Hiệu lực pháp luật của di chúc chung của vợ,
chồng thì:
“Di chúc chung của vợ, chồng có hiệu lực từ thời điểm người sau cùng chết hoặc tại thời điểm
vợ, chồng cùng chết”.
Câu 5: Trong hai vụ việc trên di chúc của vợ chồng đã có hiệu lực pháp luật chưa? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời (đối chiếu với các quy định của BLDS năm 1995 và cả với BLDS năm 2005).
- Bản án số 11/2009/DSPT ngày 23/02/2009 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi thì di chúc
chung của vợ chồng đã có hiệu lực pháp luật vì cụ Nguyễn Bá Rong chết năm 2004, cụ Nguyễn
Thị Sỏi chết năm 2005. Theo Điều 668, BLDS 2005 quy định:
“Di chúc chung của vợ, chồng có hiệu lực từ thời điểm người sau cùng chết hoặc tại thời điểm
vợ, chồng cùng chết”.
Do đó, trong vụ án này di chúc đã có hiệu lực từ năm 2005.
- Quyết định số 18/2008/DS-GĐT ngày 29/7/2008 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao sẽ xảy ra hai trường hợp:
+ Căn cứ vào Điều 671, BLDS 1995 quy định về Hiệu lực pháp luật của di chúc chung của vợ,
chồng thì:
“Trong trường hợp vợ, chồng lập di chúc chung mà có một người chết trước, thì chỉ phần di
chúc liên quan đến phần di sản của người chết trong tài sản chung có hiệu lực pháp luật; nếu
vợ, chồng có thoả thuận trong di chúc về thời điểm có hiệu lực của di chúc là thời điểm người
sau cùng chết, thì di sản của vợ, chồng theo di chúc chung chỉ được phân chia từ thời điểm đó.”
Trong trường hợp này thì di chúc có hiệu lực nhưng chỉ có hiệu lực phần di sản của cụ Quy.
+ Căn cứ vào Điều 668, BLDS 2005 quy định về Hiệu lực pháp luật của di chúc chung của vợ,
chồng thì:
“Di chúc chung của vợ, chồng có hiệu lực từ thời điểm người sau cùng chết hoặc tại thời

điểm vợ, chồng cùng chết”.
Trong trường hợp này thì di chúc chưa có hiệu lực vì cụ Thế còn sống.
10


Câu 6: Đoạn nào của Quyết định số 18 cho thấy cụ Thế đã thay đổi ý chí đối với di chúc chung
của vợ chồng cụ Thế? Cho biết cụ Thế đã thay đổi ý chí như thế nào?
- Đoạn của Quyết định số 18 cho thấy cụ Thế đã thay đổi ý chí đối với di chúc chung của vợ
chồng cụ Thế:
“Ngày 03-11-2000, cụ Thế và các con gồm ông Dương, ông Phú, bà Thịnh, bà Loan, bà
Phượng, bà Hồng và bà Hoàng lập biên bản họp hội đồng gia tộc thống nhất để lại toàn bộ căn
nhà 2 tầng trên diện tích 42 m2 đất cho bà Phượng toàn quyền sở hữu và được làm thủ tục sang
tên bà Phượng. Ngày 03-11-2000, giữa bà Phượng với bà Hoàng lập bản tổng thanh toán bao
gồm các khoản: tiền bà Hoàng nợ bà Hồng, tiền bà Hồng phải trả cho bà Hoàng về giá trị căn
nhà 2 tầng, về 7 m2 đất vợ chồng bà Hoàng mua thêm và về các khoản chi phí khác của bà
Hồng; sau khi đối trừ bà Hồng đã thanh toán cho bà Hoàng 183.194.000 đồng. Sự thoả thuận tại
Biên bản họp hội đồng gia tộc ngày 03-11-2000 đã có sự tham gia của cụ Thế và các thừa kế
của cụ Quy, nhưng ở thời điểm thoả thuận thì nhà đất đã có thay đổi trong đó có phần đóng góp
của ông Biên nên ông Biên phải được tham gia vào việc định đoạt tài sản. Tuy vậy, gia đình ông
Biên đã có bà Hoàng đại diện tham gia, nếu ông Biên biết về sự thoả thuận ngày 03-11-2000
nêu trên, không phản đối, để cho bà Hoàng thực hiện theo thoả thuận thì thoả thuận ngày 03-112000 vẫn hợp pháp.”
- Cụ Thế đã thay đổi ý chí theo hướng là chuyển quyền sở hữu căn nhà cho bà Phượng chứ
không phải là chuyển quyền sở hữu căn nhà cho bà Nguyễn Thanh Hoàng như trong di chúc của
cụ Quy và cụ Thế trước đó.
Câu 7: Sự thay đổi trên của cụ Thế có được pháp luật cho phép không? Nêu cơ sở pháp lý khi
trả lời (đối chiếu với các quy định của BLDS năm 1995 và cả với các quy định của BLDS năm
2005).
- Sự thay đổi trên của cụ Thế không được pháp luật cho phép.
- Bộ luật Dân sự năm 1995 và 2005 quy định về Sửa đổi, bổ sung, thay thế huỷ bỏ di chúc
chung của vợ chồng không có sự khác biệt. Do vậy, căn cứ vào Điều 667, BLDS 1995 và Điều

644, BLDS 2005 thì:
“1. Vợ, chồng có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung bất cứ lúc nào.
11


2. Khi vợ hoặc chồng muốn sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung, thì phải được sự
đồng ý của người kia; nếu một người đã chết, thì người kia chỉ có thể sửa đổi, bổ sung di chúc
liên quan đến phần tài sản của mình”.
Như vậy, cụ Thế muốn thay đổi di chúc trên thì phải có sự đồng ý của cụ Quy. Tuy nhiên, cụ
Quy đã chết, cụ Thế chỉ có thể sửa đổi di chúc liên quan đến phần tài sản của mình. Do vậy,
việc cụ Thế thay đổi di chúc chung của mình và cụ Quy là không có cơ sở pháp luật.
Câu 8: Đoạn nào của Quyết định số 18 cho thấy Tòa án đã chia thừa kế theo di chúc đối với di
sản của cụ Quy?
Đoạn nào của Quyết định số 18 cho thấy Tòa án đã chia thừa kế theo di chúc đối với di sản
của cụ Quy:
“Căn cứ vào nội dung bản di chúc lập ngày 21-8-1995 thì phần bà Hoàng được hưởng là:
+ 1/2 của phần 21/40 là di sản của cụ Quy;
+ 7/40 là phần thanh toán cho ông Dương và ông Phú;
+ 1/40 là một nửa phần 2/19 bà Hoàng được cho;
Như vậy, bà Hoàng được hưởng 18,5/40 giá trị nhà đất cụ Quy và cụ Thế; được thanh toán chi
phí xây dựng mới và chuyển nhượng 7 m2 ; nhưng bà Hoàng có nghĩa vụ thanh toán cho các
thừa kế chưa được thanh toán của phần 19/40 theo giá nhà ở giai đoạn xét xử sơ thẩm mới đảm
bảo quyền lợi hợp pháp của các đương sự là bà Thịnh, bà Lợi, bà Loan, bà Phượng, bà Hồng.
Trường hợp ông Hoàng Đình Biên (chồng bà Hoàng đã chết) khi giải quyết lại vụ án, phải đưa
những người thừa kế của ông Biên vào tham gia tố tụng.
Mặt khác, bà Nguyễn Thị Lợi đã chết năm 1994 là chết trước cụ Quy, nhưng Toà án cấp sơ
thẩm và Toà án cấp phúc thẩm vẫn xác định bà Lợi là người thừa kế hưởng thừa kế là không
đúng (lẽ ra phải xác định các con bà Lợi là người được hưởng thừa kế thế vị)”.
Câu 9: Việc Tòa án quyết định chia di sản của cụ Quy trên có phù hợp với quy định của pháp
luật không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời (đối chiếu với các quy định của BLDS năm 1995 và

cả với các quy định của BLDS năm 2005).
- Việc Toà án quyết định chia di sản của cụ Quy trên không phù hợp với quy định của pháp
luật.
12


- Điều 668 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định:
“Di chúc chung của vợ chồng có hiệu lực từ thời điểm người sau cùng chết hoặc tại thời điểm
vợ, chồng cùng chết”.
Trong trường hợp của cụ Quy, cụ Quy và cụ Thế có lập di chúc chung vào ngày 21-8-1995
phân chia nhà đất và di chúc này là hợp pháp. Tháng 11-1995, cụ Quy chết. Tuy nhiên, tại thời
điểm này, cụ Thế vẫn còn sống nên di chúc chung của hai vợ chồng chưa thể có hiệu lực pháp
luật.
Và căn cứ vào Điều 664, BLDS 2005 quy định về Sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc
chung của vợ, chồng thì:
“1. Vợ, chồng có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung bất cứ lúc nào.
2. Khi vợ hoặc chồng muốn sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung, thì phải được sự
đồng ý của người kia; nếu một người đã chết, thì người kia chỉ có thể sửa đổi, bổ sung di chúc
liên quan đến phần tài sản của mình”.
Theo đó, cụ Thế đã tự mình thay đổi di chúc chung của vợ chồng là không phù hợp với Quy
định của pháp luật.
Câu 10: Vợ chồng có thể lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung sau ngày 1/1/2007
không? Vì sao?
- Vợ chồng có thể lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung sau ngày 1/1/2007.
- Vì căn cứ vào Điều 663 của Bộ luật Dân sự 2005 quy định về Di chúc chung của vợ chồng:
“Vợ chồng có thể lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung”.
Tuy nhiên, về hiệu lực pháp luật của di chúc chung của vợ, chồng theo quy định tại Điều 668
Bộ luật Dân sự năm 2005 thì có sự khác biệt với BLDS 1995:
“Di chúc chung của vợ, chồng có hiệu lực từ thời điểm người sau cùng chết hoặc tại thời
điểm vợ chồng cùng chết”.

IV. Phần thứ tư: Di sản dùng vào việc thờ cúng.
Câu 1: Trong điều kiện nào di sản dùng vào việc thờ cúng có giá trị pháp lý? Nêu cơ sở pháp lý
khi trả lời.
Căn cứ vào Điều 670, BLDS 2005 quy định về Di sản dùng vào việc thờ cúng thì:
13


“1. Trong trường hợp người lập di chúc có để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì
phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho một người đã được chỉ định trong di
chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc
hoặc không theo thoả thuận của những người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao
phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng.
Trong trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản thờ cúng thì
những người thừa kế cử một người quản lý di sản thờ cúng.
Trong trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã chết thì phần di sản
dùng để thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong số những người thuộc
diện thừa kế theo pháp luật.
2. Trong trường hợp toàn bộ di sản của người chết không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản
của người đó thì không được dành một phần di sản dùng vào việc thờ cúng.”
Câu 2: Đoạn nào của bản án cho thấy di sản có tranh chấp được di chúc vào việc thờ cúng?
- Đoạn văn của bản án cho thấy di sản có tranh chấp được di chúc dùng vào việc thờ cúng là:
“Tại tờ di chúc ngày 08 tháng 7 năm 2004 bà Lùng để lại nhà đất cho 7 người con đồng thừa
hưởng để thờ cúng cha mẹ, anh Được là người quản lý di sản, hiện tại 5/7 anh chị em của anh
Được đồng ý chia di sản và giao cho anh Được sở hữu di sản là có cơ sở chấp nhận.”
Câu 3: Các điều kiện để di sản dùng vào việc thờ cúng một cách hợp pháp có được thỏa mãn
trong vụ việc đang nghiên cứu không?
- Các điều kiện để di sản dùng vào việc thờ cúng một cách hợp pháp không thoả mãn vụ việc
đang nghiên cứu.
- Theo Khoản 1, Điều 670, BLDS 2005 quy định:
“1. Trong trường hợp người lập di chúc có để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì

phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho một người đã được chỉ định trong di
chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc
hoặc không theo thoả thuận của những người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao
phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng.
14


Trong trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản thờ cúng thì
những người thừa kế cử một người quản lý di sản thờ cúng.
Trong trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã chết thì phần di sản
dùng để thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong số những người thuộc
diện thừa kế theo pháp luật”.
Nhưng trên thực tế phần tài sản đó đã được chia ra cho 7 anh chị em. Và mỗi người nhận
được 37.423.857đ (trong đó anh Thảo, anh Xuân, anh Nhành, chị Hoa không nhận mà cho lại
anh Được; còn anh Tân và chị Hương nhận số tiền đó). Mặt khác trong bản án chưa đề cập đến
vấn đề là khi lập bản di chúc bà Tân có chỉ định người quản lý hay không. Nên nó không phù
hợp với quy định của BLDS 2005.
Câu 4: Ai đồng ý và ai không đồng ý chia di sản dùng vào việc thờ cúng trong vụ tranh chấp
này? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
- Anh Thảo, anh Xuân, anh Nhành, chị Hoa, anh Được là những người đồng ý chia di sản. Còn
anh Tân, chị Hương không đồng ý chia di sản dùng vào việc thờ cúng trong vụ tranh chấp.
- Đoạn của bản án cho câu trả lời:
“Tại tờ di chúc ngày 08 tháng 7 năm 2004 bà Lùng để lại nhà đất cho 7 người con đồng thừa
hưởng để thờ cúng cha mẹ, anh Được là người đang quản lý di sản, hiện tại 5/7 anh chị em cuả
anh Được đồng ý chia di sản và giao cho anh Được sở hữu di sản là có cơ sở chấp nhận”.
Câu 5: Cuối cùng Tòa án có chấp nhận chia di sản đã được di chúc dùng vào việc thờ cúng
không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
- Cuối cùng tòa án chấp nhận chia di sản đã được di chúc dùng vào việc thờ cúng.
- Đoạn cho câu trả lời:
“Giao cho anh Được được quyền sở hữu, sử dụng căn nhà diện tích 57, 25 m2 kết cấu móng

cột xây gạch, tường xây gạch, mái lợp tole xi măng, xà gồ gỗ, nền lát gạch ceranic, cửa sắt trên
diện tích 86 m2 đất thửa số 27 – tờ bản đồ số 25 – Thị trấn Long Thành – Huyện Long Thành –
Tỉnh Đồng Nai giới hạn bởi các điểm 1, 2 …8, 1 có tứ cận:…”.

15


Câu 6: Suy nghĩ của anh/chị về chế định di sản dùng vào việc thờ cúng trong BLDS và giải
pháp của Tòa án trong vụ việc đang được nghiên cứu.
- Suy nghĩ về chế định di sản dùng vào việc thờ cúng trong BLDS:
Có thể thấy để đơn giản hóa việc thờ tự, thể hiện nguyên tắc bình đẳng trong việc hưởng dụng
di sản dùng vào việc thờ cúng, pháp luật hiện hành không quy định về những điều kiện bắt buộc
quá khắt khe như trong cổ luật, mà chỉ xem việc lập người thờ tự cũng giống như việc chia di
sản theo nguyên tắc chung thông thường. Tuy nhiên những quy định về di sản dùng vào việc
thờ cúng trong BLDS vẫn còn sơ sài, không đáp ứng được yêu cầu điều chỉnh một quan hệ xã
hội hết sức đa dạng và phức tạp như quan hệ thừa kế di sản dùng vào việc thờ cúng. Không kể
sự khác biệt về tập quán và tục lệ thờ cúng tổ tiên ở các vùng, miền thì tục lệ chung về thờ cúng
đã hết sức phức tạp. Do đó với các nội dung như trong tinh thần của luật thì pháp luật không thể
điều chỉnh hết các vấn đề của xã hội - pháp lí được đặt ra trong loại việc này. Để làm tốt vấn đề
này, nhà làm luật cần có những sửa đổi, bổ sung thích hợp các quy định về hương hỏa và di sản
thờ cúng.
- Suy nghĩ về giải pháp của Toà án trong vụ việc đang được nghiên cứu.
+ Thứ nhất: Tòa án cho rằng 5/7 anh chị em của anh Được đồng ý chia di sản và giao cho anh
Được sở hữu di sản là có cơ sở chấp nhận nhưng Tòa lại chưa nêu rõ đó là cơ sở nào để chấp
nhận, như vậy là chưa thuyết phục.
+ Thứ hai: Theo BLDS thì di sản dùng vào việc thờ cúng không được chia nhưng Tòa vẫn
đồng ý chia di sản hoặc có chia thì Tòa phải xác định đâu là di sản dùng vào việc thờ cúng và
phần còn lại mới chia cho 7 người con nhưng Tòa chưa xác định rõ, như vậy là chưa thuyết
phục.


16



×