Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Thực trạng pháp luật quy định về di chúc chung của vợ, chồng và kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.75 KB, 22 trang )

MỤC LỤC
Lời mở đầu………………………………………………………………………….2
Nội dung…………………………………………………………………….……..2
I. Khái quát chung về thừa kế theo di chúc và di chúc chung của vợ chồng….…..2
1. Khái niệm về thừa kế theo di chúc…………………….………..…………..….2
2. Khái niệm di chúc chung của vợ chồng…………………..……………...…….3
3. Quy định về di chúc chung của vợ chồng trong pháp luật dân sự Việt Nam qua
từng thời kỳ………………………………………………………………………..7
II. Quy định của pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành về di chúc chung của vợ,
chồng………………………………………………….…………………………..8
1. Hiệu lực pháp luật của di chúc chung của vợ, chồng………………………….8
2. Nội dung của di chúc chung của vợ chồng……………………………………11
3. Hình thức của di chúc chung của vợ chồng…………………………………..12
4. Sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung của vợ chồng……………..13
III. Thực trạng pháp luật quy định về di chúc chung của vợ, chồng và kiến nghị
hoàn thiện quy định của pháp luật………………………………………………14
1. Nhận xét chung……………………………………………………………….14
2. Một số kiến nghị………………………………………………………………19
Kết luận………………………………………………………………….……….21
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………….22

~1~


LỜI MỞ ĐẦU
Thừa kế là một quan hệ pháp luật phổ biến trong đời sống xã hội. Ở nước ta,
pháp luật ghi nhận hai hình thức thừa kế là thừa kế theo di chúc và thừa kế theo
pháp luật, trong đó hình thức thừa kế theo di chúc ngày càng phổ biến vì di chúc
thể hiện được ý chí và tôn trọng quyền định đoạt của cá nhân, ngay cả khi người đó
chết. Di chúc chung của vợ chồng là một trường hợp đặc thù trong chế định thừa
kế của pháp luật dân sự Việt Nam, được dùng để định đoạt tài sản chung hợp nhất


của vợ, chồng trong thời kì hôn nhân. Quy định về vấn đề này là do truyền thống
văn hóa trọng gia đình đã ảnh hưởng sâu sắc đến văn hóa pháp lý của Việt Nam,
nhằm củng cố tính bền vững khi quan hệ hôn nhân đang tồn tại cũng như thể hiện ý
chí thống nhất của vợ chồng trong việc định đoạt tài sản chung ngay cả khi chết đi.
Tuy nhiên, dưới góc độ lý luận và thực tiễn, pháp luật Việt Nam hiện hành còn khá
nhiều điểm bất cập dẫn đến việc áp dụng trong thực tế không khả thi và nảy sinh
nhiều dạng tranh chấp.
NỘI DUNG
I. Khái quát chungvề thừa kế theo di chúc và di chúc chung của vợ chồng.
1. Khái niệm về thừa kế theo di chúc.
Thừa kế là một chế định quan trọng trong BLDS bao gồm tổng hợp các quy
phạm pháp luật do nhà nước đặt ra nhằm nhằm điều chỉnh quá trình dịch chuyển
những lợi ích vật chất từ người chết cho người sống. Nếu quá trình dịch chuyển
này được thực hiện dựa trên ý chí của người đã chết thể hiện trong di chúc mà họ
để lại thì được gọi là thừa kế theo di chúc. Mặt khác, nếu sự dịch chuyển trên được
thực hiện theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế theo quy định của pháp
luật thì sẽ được gọi là thừa kế theo pháp luật.
~2~


Như vậy, thừa kế theo di chúc là quá trình dịch chuyển di sản của người chết
cho người còn sống theo sự định đoạt tự nguyện của người để lại di sản đã được
thể hiện trong một di chúc có hiệu lực pháp luật. Thừa kế theo di chúc là sự tôn
trọng của pháp luật về quyền định đoạt của người để lại di chúc.
2.Khái niệm di chúc chung của vợ chồng.
2.1. Định nghĩa di chúc chung của vợ chồng.
Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển dịch tài sản của mình
cho người khác sau khi chết.Thông qua bản di chúc, người chết đã thực hiện quyền
định đoạt đối với tài sản thuộc quyền sở hữu của mình, vì vậy thừa kế là hệ luận
của quyền sở hữu, có sở hữu mới có thừa kế. Xuất phát từ lý luận này mà pháp luật

nước ta quy định trường hợp di chúc chung của vợ, chồng, bởi chế độ sở hữu của
vợ, chồng là chế độ sở hữu chung hợp nhất. Và theo quy định của Điều 217 BLDS
2005 về sở hữu chung hợp nhất:
“1. Sở hữu chung hợp nhất là sở hữu chung mà trong đó phần quyền sở hữu
của mỗi chủ sở hữu chung không được xác định đối với tài sản chung.
Sở hữu chung hợp nhất bao gồm sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia và
sở hữu chung hợp nhất không phân chia.
2. Các chủ sở hữu chung hợp nhất có quyền, nghĩa vụ ngang nhau đối với
tài sản thuộc sở hữu chung.”
Theo quy định trên thì sở hữu chung hợp nhất là sở hữu chung mà trong đó
quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu không được xác định đối với tài sản chung. Như
vây, quyền sở hữu của vợ, chồng đối với khối tài sản chung không được xác định
và họ có quyền và nghĩa vụ ngang nhau đối với khối tài sản chung đó, trong đó có

~3~


quyền lập di chúc chung để định đoạt khối tài sản chung của vợ chồng sau khi họ
chết.
Tóm lại, ta có thể hiểu di chúc chung của vợ chồng là di chúc thể hiện thống
nhất ý chí của vợ chồng trong việc định đoạt khối tài sản chung sau khi vợ, chồng
chết.
2.2. Đặc điểm của di chúc chung của vợ chồng.
Di chúc chung của vợ chồng là một trường hợp đặc biệt của di chúc do cá
nhân lập vì khi vợ, chồng lập di chúc chung thì được pháp luật bảo vệ và một số
quy định về di chúc chung của vợ, chồng được dẫn chiếu tới những quy định chung
về di chúc do cá nhân lập. Vì vậy di chúc chung của vợ chồng sẽ mang những đặc
điểm của di chúc do cá nhân lập như di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân khi
lập di chúc, việc lập di chúc nhằm mục đích định đoạt khối tài sản thuộc sở hữu
của mình, và di chúc có hiệu lực pháp luật sau khi cá nhân đó chết. Bên cạnh đó di

chúc chung của vợ chồng cũng có một số đặc điểm riêng:
Thứ nhất, di chúc chung của vợ chồng là sự thể hiện thống nhất ý chí của cả
hai vợ chồng, dựa trên quan hệ hôn nhân đang còn hiệu lực.
Nếu như thừa kế theo di chúc là hành vi pháp lí đơn phương của một cá
nhân nhằm chuyển dịch khối tài sản của mình cho người khác sau khi chết thì di
chúc chung của vợ chồng lá sự thể hiện thống nhất ý chí của cả người vợ và chồng
cùng quyết định việc chuyển dịch tài sản chung của hai vợ chồng cho ai, mỗi người
được hưởng bao nhiêu, ai sẽ là người quản lý khối tài sản đó,… Tuy nhiên, xét về
bản chất, di chúc chung của vợ chồng vẫn mang tính chất quyết định đơn phương
bởi dù di chúc thể hiện ý chí của nhiều người (của vợ và chồng) nhưng những
người đó vẫn chỉ là một bên trong quan hệ dân sự và khi lập di chúc chung, cũng
không cần có sự đồng ý của những người được hưởng thừa kế.
~4~


Hơn nữa, di chúc chung của vợ, chồng lập ra phải dựa trên cơ sở hôn nhân
hợp pháp của họ. Quan hệ hôn nhân hợp pháp là quan hệ hôn nhân đáp ứng được
những quy định về điều kiện kết hôn và thủ tục kết hôn theo đúng quy định của
luật hôn nhân và gia đình.
Thứ hai, di chúc chung của vợ chồng được lập dùng để định đoạt tài sản
chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân.
Điều 27 luật Hôn Nhân và Gia Đình năm 2000 quy định: “tài sản chung của
vơ, chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản
xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kì hôn
nhân, tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc tặng cho chung và những tài
sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung”
Điều 8 Luật HNGĐ 2000 quy định: “thời kì hôn nhân là khoảng thời gian
tồn tại quan hệ vợ chồng, tính từ ngày đăng kí kết hôn đến ngày chấm dứt hôn
nhân”.
Như vậy, mọi tài sản trong gia đình trong gia đình có được trong thời kì hôn

nhân đều được coi là tài sản chung của vợ, chồng và vợ chồng có quyền bình đẳng
trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt mà không phụ thuộc vào khả năng trực
tiếp tạo ra tài sản hay công sức đóng góp của mỗi bên. Vì vậy, khi lập di chúc
chung của vợ chồng, họ có quyền định đoạt khối tài sản được hai vợ chồng tạo lập
ra được tính từ ngày đăng kí kết hôn trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền đến
ngày chấm dứt hôn nhân và những tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc
được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản
chung.
Thứ ba, thời điểm có hiệu lực của di chúc chung của vợ chồng là thời điểm
người sau cùng chết hoặc tại thời điểm vợ, chồng cùng chết.
~5~


Đây cũng là một đặc trưng của di chúc chung của vợ, chồng làm nó khác
biệt hơn so với di chúc do một cá nhân lập. Bởi thời điểm di chúc do cá nhân lập
theo quy định của pháp luật chỉ có hiệu lực khi cá nhân đó chết, còn thời điểm có
hiệu lực của di chúc chung của vợ chồng được xác định theo hai trường hợp.
Trường hợp thứ nhất là di chúc chung của vợ chồng có hiệu lực khi người sau cùng
chết và trường hợp thứ hai là di chúc chung của vợ chồng có hiệu lực tại thời điểm
vợ, chồng cùng chết.
Thứ tư, di chúc chung của vợ chồng chỉ được sửa đổi, bổ sung khi có sự
đồng ý của cả vợ và chồng trong trường hợp cả hai còn sống, và chỉ được sửa đổi
riêng phần di chúc trong giới hạn phần tài sản của mình trong khối tài sản chung
(nếu một bên đã chết).
Đây cũng là một điểm đặc trưng khác biệt so với di chúc của cá nhân lập bởi
đối với di chúc do cá nhân lập, họ có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc
do mình lập ra bất cứ lúc nào mà không cần sự đồng ý của ai (trừ trường hợp di
chúc do người từ đủ mười lăm tuổi đến dưới mười tám tuổi lập di chúc thì cần có
sự đồng ý của cha mẹ hoặc người giám hộ đồng ý) còn đối với di chúc chung của
vợ, chồng họ chỉ có thể sửa đổi, bổ sung, thay thể di chúc trước đó đã lập nếu có sự

đồng ý của hai bên. Trường hợp khi một người chết trước thì họ cũng chỉ có thể
sửa đổi, bổ sung phần di chúc liên quan đến phần tài sản của họ.
Như vậy, di chúc chung của vợ, chồng lập ra mang những đặc điểm của di
chúc do cá nhân lập, nhưng nó cũng có những đặc trưng riêng của nó bởi di chúc
chung của vợ, chồng được lập là xuất phát từ hệ quả của chế độ sở hữu chung hợp
nhất về tài sản của vợ, chồng trong thời kì hôn nhân. Trong chế độ sở hữu chung
hợp nhất đó, vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau đối với khối tài sản
chung và không xác định được phạm vi quyền và nghĩa vụ một cách rõ ràng, cụ thể
~6~


được, do vậy khi muốn định đoạt khối tài sản chung đó pháp luật đã quy định
quyền được lập di chúc chung của vợ, chồng.
3. Quy định về di chúc chung của vợ chồng trong pháp luật dân sự Việt Nam
qua từng thời kỳ.
3.1.Trước năm 1990.
Do điều kiện lịch sử Việt Nam, trước năm 1990 là giai đoạn mà pháp luật
chưa thực sự hoàn thiện, các quy định về thừa kế nói chung là không nhiều và nằm
rất rải rác trong các văn bản pháp luật khác nhau. Các quy phạm cũng chưa thể dự
liệu được hết các quan hệ xã hội nảy sinh. Việc áp dụng pháp luật nói chung, pháp
luật về thừa kế nói riêng còn nhiều khó khăn. Đây là thực trạng chung của pháp
luật Việt Nam và pháp luật về thừa kế là một phần trong đó. Pháp luật về thừa kế
thời gian này chưa dự liệu được hết các tình huống xảy ra trên thực tế mà chỉ chủ
yếu là quy định về một số vấn đề cơ bản.
3.2. Từ năm 1990 đến năm 1995.
Pháp lệnh thừa kế năm 1990 được áp dụng trong một thời gian dài và đạt
được hiệu quả nhất định.Nhưng cùng với sự phát triển của xã hội và sự hình thành
nền kinh tế thị trường hoàn toàn mới mẻ ở nước ta, sự tồn tại của Pháp lệnh này
không còn phù hợp để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội nữa. Kế thừa những quy
định của Pháp lệnh về thừa kế năm 1990 một cách có chọn lọc cùng với sự sáng

tạo của nhà làm luật không chỉ trong lĩnh vực thừa kế mà ở mọi lĩnh vực của giao
lưu dân sự, năm 1995 BLDS đầu tiên được ra đời.Các chế định tại BLDS năm
1995 đã có rất nhiều điểm được điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện kinh tế - xã
hội lúc bấy giờ.

~7~


3.3. Giai đoạn từ sau 1995 đến nay.
Đây là giai đoạn đất nước đổi mới với xu thế hội nhập quốc tế.Có rất nhiều
vấn đề cần được pháp luật điều chỉnh nhằm bình ổn đời sống kinh tế - xã hội. Bên
cạnh những văn bản pháp luật đã được ban hành đang được áp dụng thì thực tế đòi
hỏi cần có những văn bản mới, những văn bản sửa đổi, bổ sung các văn bản cũ để
theo kịp sự biến động của các quan hệ xã hội.Kế thừa các quy định của BLDS năm
1995, BLDS năm 2005 đã có nhiều quy định mới.Quy định về di chúc chung của
vợ chồng là một trong số quy định mới đó. Về cơ bản quy định về di chúc chung
của vợ chồng không có thay đổi nhiều, điểm thay đổi quan trọng nhất là quy định
về hiệu lực của di chúc chung của vợ chồng. Điều 668 BLDS 2005 quy định như
sau: “Di chúc chung của vợ, chồng có hiệu lực từ thời điểm người sau cùng chết
hoặc tại thời điểm vợ, chồng cùng chết”. Kể từ thời điểm BLDS năm 2005 có hiệu
lực đến nay không có thêm văn bản nào điều chỉnh về di chúc chung của vợ,
chồng.
II. Quy định của pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành về di chúc chung của
vợ, chồng.
1.Hiệu lực pháp luật của di chúc chungcủa vợ, chồng.
1.1. Điều kiện có hiệu lực của di chúc chung của vợ chồng.
Vợ chồng là chủ thể cùng lập di chúc chung.
Di chúc chung là sự thể hiện ý chí thống nhất của cả hai người: vợ - chồng vì
thế cả vợ và chồng đều phải đáp ứng những yêu cầu về mặt chủ thể để di chúc
chung có hiệu lực pháp luật. Di chúc chung của vợ chồng có hiệu lực pháp luật khi

cả vợ và chồng đều là người có năng lực hành vi dân sự. “Năng lực hành vi dân sự
của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện
~8~


quyền,nghĩa vụ dân sự”. Một người chỉ được coi là có năng lực hành vi dân sự để
tham gia các giao dịch khi người đó bằng khả năng của mình tiến hành các hành vi,
qua đó bằng khả năng của mình để thực hiện các quyền và gánh vác các nghĩa vụ
dân sự. Như vậy, vợ và chồng – là hai chủ thể độc lập phải tự mình quyết định việc
định đoạt khối tài sản chung, sau đó đi đến sự thống nhất ý kiến khi lập di chúc
chung của cả hai vợ, chồng.
Năng lực hành vi dân sự của người vợ và chồng phải đáp ứng cả hai điều
kiện sau:
+ Yêu cầu về độ tuổi: Khoản 1 Điều 647 BLDS 2005 quy định về độ tuổi của
người lập di chúc như sau:
“Người đã thành niên có quyền lập di chúc, trừ trường hợp người đó bị bệnh tâm
thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ được hành vi của
mình”
Và theo quy định tại Điều 18 BLDS 2005: “Người từ đủ mười tám tuổi trở
lên là người thành niên”. Người đã thành niên được coi là người có đầy đủ năng
lực hành vi dân sự. Như vậy, trong trường hợp vợ, chồng cùng lập di chúc chung
thì cả hai vợ chồng phải đáp ứng điều kiện là người đã thành niên, không bị mắc
bệnh tâm thần hoặc có mắc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức điều khiển
hành vi của mình.
+ Quyền tự do định đoạt tài sản của vợ, chồng trong di chúc chung.
Độ tuổi và khả năng nhận thức là hai tiêu chí để xác định năng lực hành vi
dân sự của cá nhân. Năng lực hành vi dân sự của một người trước hết là phụ thuộc
vào độ tuổi của người đó. Tuy nhiên, nếu một người trên mười tám tuổi vẫn bị coi
là không có năng lực hành vi dân sự nếu họ không thể nhận thức, làm chủ được
~9~



hành vi của mình. Vì vậy, bên cạnh yếu về tuổi tác, yếu tố nhận thức là một điều
kiện không thể thiếu trong việc xác định năng lực hành vi dân sự của người lập di
chúc. Nếu trong lúc lập di chúc người đó không thể nhận thức, làm chủ được hành
vi của mình thì di chúc sẽ bị coi là không hợp pháp. Khi lập di chúc chung của vợ
chồng thì cần có yêu cầu về khả năng nhận thức của cả hai người là vợ chồng.
Điều 652 BLDS 2005 quy định: “Người lập di chúc minh mẫn, sang suốt
trong khi lập di chúc, không bị lừa dối, đe dọa hoặc cưỡng ép”
Như vậy, những di chúc được lập ra do bị tác động của sự lừa dối, cưỡng ép
hoặc do vợ, chồng khi lập di chúc không còn minh mẫn, sáng suốt đều là những di
chúc không phản ánh một cách trung thực về ý chí tự nguyện của chủ thể lập ra nó.
Vì vậy chúng đều bị coi là di chúc không hợp pháp.
1.2. Hiệu lực của di chúc chung của vợ chồng.
Hiệu lực pháp luật của di chúc chung là di chúc được thực hiện trên thực tế
theo đúng nội dung của di chúc do vợ chồng cùng lập, phù hợp với các quy định
của pháp luật. Đối với di chúc chung của vợ chồng theo Điều 668 BLDS 2005 quy
định: “Di chúc chung của vợ, chồng có hiệu lực từ thời điểm người sau cùng chết
hoặc tại thời điểm vợ, chồng cùng chết”. Đây là một điểm khác biệt và đặc trưng
của di chúc chung do vợ chồng lập so với di chúc do cá nhân lập, bởi di chúc do cá
nhân lập có “hiệu lực pháp luật kể từ thời điểm mở thừa kế” mà thời điểm mở thừa
kế đối với di chúc do cá nhân lập được xác định từ thời điểm người đó chết.
Còn đối với di chúc chung do vợ chồng lập thì thời điểm có hiệu lực của nó
lại được xác định theo hai trường hợp: trường hợp thứ nhất; di chúc chung có hiệu
lực từ lúc người sau cùng chết hoặc trường hợp thứ hai; di chúc chung có hiệu lực
tại thời điểm vợ chồng cùng chết.
~ 10 ~


*Hiệu lực của di chúc chung của vợ chồng trong trường hợp một bên chết

trước.
Trong trường hợp này, khi có một bên vợ hoặc chồng chết trước thì di chúc
vẫn chưa có hiệu lực, những người thừa kế vẫn chưa được xin mở thừa kế để
hưởng phần di sản do người chết để lại, họ chỉ có quyền xin mở thừa kế khi người
còn lại chết. Xét về mặt lý luận, việc pháp luật quy định như vậy, để bảo vệ quyền
lợi cho một bên vợ, chồng còn lại đang sống (Điều 667 và Điều 671)
* Hiệu lực của di chúc chung của vợ chồnglà thời điểm cả hai người cùng
chết.
Trường hợp này là tường hợp có khả năng xảy ra trên thực tế khi mà vợ,
chồng có thể cùng bị tai nạn và cùng chết trong vụ tai nạn đó. Trong trường hợp
này thời điểm có hiệu lực của di chúc chung của vợ, chồng được xác lập là trùng
với thời điểm có hiệu lực di chúc do cá nhân lâp. Vì vây, trong trường hợp này thời
điểm có hiệu lực của di chúc do vợ chồng lập được mang những đặc điểm và hệ
quả giống như thời điểm có hiệu lực của di chúc do cá nhân lập. Tuy nhiên thực tế
rất ít khi xảy ra trường hợp này.
2. Nội dung của di chúc chung của vợ chồng.
Ngoài điều kiện về chủ thể, để xác định một di chúc chung của vợ, chồng có
được xem là hợp pháp hay không, cần phải xem xét đến nội dung của di chúc
chung đó. Khoản 2 Điều 652 BLDS 2005 quy định; “Nội dung của di chúc không
trái pháp luật, đạo đức xã hội”.
Nội dung của di chúc là tổng hợp các vấn đề mà vợ, chồng thống nhất ý kiến
về việc định đoạt khối tài sản chung như chỉ định người thừa kế, truất quyền hưởng
di sản của người thừa kế,…được thể hiện trong di chúc đó. Vì vậy, một di chúc
~ 11 ~


chung chỉ được coi là hợp pháp nếu sự thể hiện trên không vi phạm những điều
pháp luật cấm, không trái với những điều pháp luật đã quy định.
Ngoài ra, di chúc muốn được coi là hợp pháp nếu nội dung của nó phù hợp
với đạo đức xã hội.Đạo đức là cơ sở xã hội của pháp luật.Một nền pháp luật nhất

định được hình thành nếu không phù hợp với đạo đức xã hội thì tính khả thi của nó
sẽ bị hạn chế rất nhiều. Việc lập di chúc có nội dung không trái pháp luật của một
người mới chỉ là việc họ thực hiện bổn phận của một công dân. Ngoài bổn phận
công dân, họ còn phải thực hiện bổn phận làm người.Đạo làm người đòi hỏi các cá
nhân khi lập di chúc phải luôn luôn hướng tới phong tục tập quán, truyền thống
nhân bản và tinh thần tương thân tương ái trong cộng đồng gia đình cũng như cộng
đồng dân tộc. Vì thế nếu di chúc có nội dung trái với đạo đức xã hội cũng sẽ bị coi
là không hợp pháp.
Thêm nữa, nội dung của di chúc chung của vợ chồng còn phải tuân theo các
điều kiện được quy định tại Điều 653 BLDS 2005.
3. Hình thức của di chúc chung của vợ chồng.
Về hình thức của di chúc chung của vợ chồng, từ trước đến nay pháp luật
không có quy định trực tiếp nên vấn đề này được áp dụng tương tự như đối với di
chúc cá nhân thông thường.Có hai hình thức để thể hiện di chúc chung của vợ
chồng, di chúc bằng văn bản hoặc di chúc miệng. Việc lựa chọn hình thức thể hiện
cũng cần có sự thoả thuận của hai vợ chồng. Tuy vậy, dù di chúc được lập theo
hình thức nào nó cũng phải tuân theo những quy định cụ thể của pháp luật. Trong
trường hợp phải lập di chúc miệng thì trong thời hạn năm ngày kể từ ngày người
lập di chúc thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải công chứng, chứng thực và
nếu sau ba tháng kể từ thời điểm di chúc miệng mà vợ, chồng còn sống, minh mẫn,
sáng suốt thì di chúc miệng mặc nhiên bị huỷ bỏ.
~ 12 ~


Xét về mặt thực tế, việc vợ chồng cùng lập di chúc chung dưới hình thức
miệng là một trường hợp vô cùng hy hữu. Tuy nhiên, về mặt lý luận thì việc vợ
chồng lập di chúc chung bằng miệng là một sự kiện rất đặc biệt để xác định tính
hiệu lực của di chúc miệng do vợ, chồng lập chung.(Điều 651, khoản 5 Điều 652)
Như vậy, việc cho phép di chúc chung của vợ chồng được lập dưới cả hình
thức bằng văn bản và bằng miệng đã thể hiện sự tôn trọng cao của nhà nước đối

với ý chí của vợ chồng trong việc lập di chúc chung.
4. Sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung của vợ chồng.
Khoản 2 Điều 664 BLDS 2005 qui định: “Khi vợ hoặc chồng muốn sửa đổi,
bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung thì phải được sự đồng ý của người kia;
nếu một người đã chết thì người kia chỉ có thể sửa đổi, bổ sung di chúc liên quan
đến phần tài sản của mình”.
Như vậy, việc sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung của vợ chồng
phải dựa trên nguyên tắc nhất trí. Chỉ khi vợ, chồng cùng nhau thống nhất về việc
sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung thì mới thực hiện được các công
việc trên.
Đây là một điểm khác biệt so với di chúc do cá nhân lập, bởi nếu cá nhân lập
di chúc họ có quyền sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ bản di chúc họ lập trước đó
bất cứ lúc nào, còn đối với bản di chúc chung do vợ chồng lập, nếu một bên vợ
hoặc chồng muốn sửa đổi, bổ sung, thay thế hủy bỏ di chúc chung thì cần phải có
sự bàn bạc và đồng ý của người còn lại.
Khi một người đã chết thì người kia chỉ được tác động đến phần di chúc liên
quan đến phần tài sản của mình chứ không được tác động đến phần tài của người
đã chết.
~ 13 ~


III. Thực trạng pháp luật quy định về di chúc chung của vợ, chồng và kiến nghị
hoàn thiện quy định của pháp luật.
1. Nhận xét chung.
1.1. Quyền lập di chúc chung của vợ - chồng và nguyên tắc tự nguyện cá
nhân trong việc lập di chúc.
Điều 646 BLDS 2005 qui định rõ: “Di chúc làsự thể hiện ý chí của cá nhân
nhằm chuyển dịch tài sản của mình cho người khác sau khi chết”.Bằng quy định
này, BLDS 2005 đã thừa nhận nguyên tắc: “Di chúc thể hiện ý chí của cá nhân”.
Di chúc thể hiện ý chí của một chủ thể, một cá nhân chứ không phải là ý chí của

nhiều chủ thể hay của nhiều người. Người lập di chúc phải minh mẫn, sáng suốt
trong khi lập di chúc và phải hoàn toàn tự nguyện khi lập di chúc, không bị lừa dối,
đe dọa hoặc cưỡng ép. Thế nhưng, nguyên tắc này đã bị “phá vỡ” bởi Điều 663
BLDS 2005 quy định: “Vợ chồng có thể lập di chúc chung để định đoạt tài sản
chung”. Quy định cho phép vợ chồng lập di chúc chung đã tạo ra sự mâu thuẫn với
Điều 646 nêu trên. Bởi vì, khi vợ chồng cùng lập di chúc chung thì ý chí cá nhân
thể hiện trong di chúc có thể sẽ không còn trung thực và khách quan nữa. Ví dụ
như: Trong trường hợp tính mạng người vợ hoặc người chồng bị cái chết đe dọa do
bệnh tật hoặc nguyên nhân khác thì ý chí của người đó thể hiện trong di chúc có
thể bị chi phối bởi người kia, thậm chí nội dung di chúc có thể bị quyết định bởi
một bên. Như vậy, tính tự nguyện và thể hiện ý chí cá nhân của di chúc sẽ không
còn được đảm bảo.
1.2. Về di sản chia thừa kế.
Di chúc chung chỉ dùng để định đoạt tài sản chung của vợ chồng.
Điều 663 BLDS 2005 quy định: “Vợ, chồng có thể lập di chúc chung để định đoạt
tài sản chung”.
~ 14 ~


Thứ nhất, trong trường hợp di chúc chung của vợ, chồng chỉ dùng để định
đoạt tài sản chung thì hậu quả sẽ dẫn tới là một bên vợ, hoặc chồng sẽ phải lập
thêm một di chúc nữa để định đoạt khối tài sản riêng của mình. Như vậy sẽ dẫn tới
trường hợp là một bên vợ hoặc chồng hoặc cả hai người có hai bản di chúc trở lên.
Điều này làm cho việc chia thừa kế của một bên vợ hoặc chồng chết trước trở nên
phức tạp hơn vì đối với bản di chúc riêng thì sẽ được chia ngay sau khi người đó
chết, còn đối với bản di chúc chung sẽ phải đợi người lúc người sau cùng chết
(trong trường hợp một bên chết trước) thì mới được chia.
Thứ hai, trong bản di chúc chung sẽ có một phần nội dung của bản di chúc
dùng để định đoạt khối tài sản riêng của vợ hoặc chồng. Trong trường hợp này sẽ
giúp cho một bên vợ, chồng đỡ phải lập thành nhiều bản di chúc để định đoạt tài

sản của mình.Tuy nhiên, điều này sẽ dẫn tới hệ quả là dựa vào một tờ di chúc,
người ta phải chia thừa kế nhiều lần trên cùng một sản nghiệp của một người. Từ
đó sẽ phát sinh ra nhiều vấn đề khác, như việc xác định người thừa kế bắt buộc,
người thừa kế thế vị, sự ra đời của những người mới nằm trong hàng thừa kế sau
khi một bên vợ hoặc chồng chết mà di chúc chung vẫn chưa phát sinh hiệu lực, cơ
sở để xác định những giá trị một suất di sản bắt buộc, …là những vấn đề pháp lý
không dễ dàng giải quyết.
1.3. Việc thừa kế lẫn nhau giữa vợ và chồng.
BLDS 2005 không quy định rõ những trường hợp bị cấm khi lập di chúc
chung. Điều này sẽ tạo nên những tình huống pháp lý rất khó xử, như việc hai bên
lập di chúc để thừa kế lẫn nhau, thì di chúc đó có hiệu lực pháp luật không. Di
chúc vốn là một giao dịch pháp lý đơn phương và không mang tính chất đền bù.
Việc cho phép vợ, chồng khi lập di chúc chung để thừa kế lẫn nhau, đã biến loại
giao dịch này thành giao dịch pháp lý song phương và mang tính chất có đền bù,
làm thay đổi bản chất pháp lý của di chúc. Việc pháp luật hiện hành không cấm
~ 15 ~


đoán vợ, chồng lập di chúc chung thừa kế lẫn nhau, chẳng những sẽ không đạt
được mục đích tăng cường tình yêu thương, đoàn kết trong gia đình, mà có thể gây
nên nhiều hệ lụy không thể lường trước được, như: sự thông đồng giữa vợ, chồng
lập di chúc giả để che đậy những hành vi trái pháp luật, hoặc làm gia tăng nguy cơ
khiến các bên phản bội, lừa dối, giả mạo di chúc, hoặc thậm chí, tạo cơ hội cho các
bên thực hiện âm mưu xấu nhằm trục lợi bất chính di sản của nhau.
-Xâm phạm đến quyền lợi của những người thừa kế bắt buộc.
Vấn đề thừa kế bắt buộc đối với di sản của cá nhân được quy định rõ tại
Điều 699BLDS 2005. Theo đó, những người thuộc diện thừa kế bắt buộc (cha, mẹ,
vợ hoặc chồng, con chưa thành niên và con đã thành niên mà không có khả năng
lao động) có quyền được hưởng 2/3 một suất thừa kế theo pháp luật, nếu họ không
được hưởng hoặc thực tế được hưởng ít hơn 2/3 của một suất thừa kế theo pháp

luật. Tình huống đặt ra là, di chúc chung chỉ để lại thừa kế cho một số người mà
không dành phần di sản cho những người thừa kế bắt buộc kể trên và cũng không
dành phần di sản cho một bên vợ hoặc chồng, thì những người đó có được chia
thừa kế bắt buộc không? Nếu họ vận dụng qui định tại Điều 699 để xin được
hưởng thừa kế bắt buộc thì giải quyết thế nào.
1.4. Về hình thức của di chúc chung của vợ - chồng.
Đối với di chúc miệng:
Theo quy định tại Đ649 BLDS năm 2005 thì di chúc phải được lập thành
văn bản, nếu không thể lập di chúc được bằng văn bản thì có thể lập di chúc miệng.
BLDS năm 2005 không có đề cập gì riêng về hình thức của di chúc chung của vợ,
chồng nên có thể hiểu nhà làm luật ngầm định di chúc chung của vợ, chồng được
lập theo hình thức của di chúc cá nhân. Nhưng không phải lúc nào cũng có thể lập
di chúc chung của vợ, chồng theo trình tự thủ tục và hình thức của di chúc cá nhân.
~ 16 ~


Việc lập di chúc miệng được quy định: “trong trường hợp tính mạng một
người bị cái chết đe doạ do bệnh tật hoặc nguyên nhân khác mà không thể lập di
chúc bằng văn bản thì có thể lập di chúc miệng”. Áp dụng quy định này đối với
việc lập di chúc chung của vợ, chồng ta có thể nhận thấy có rất nhiều điểm bất hợp
lý.
Khi vợ chồng cùng nhau lập di chúc miệng thì di chúc đó sẽ không thể phản
ánh đầy đủ, trung thực và khách quan nhất ý chí của mỗi người. Việc lập di chúc
miệng có thể dẫn đến việc một bên tự quyết định nội dung di chúc theo ý muốn chủ
quan của mình. Hơn nữa, khi lập di chúc miệng, hai người không thể cùng đồng
thời phát biểu ý chí của mình do đó, dễ dẫn đến trường hợp một người phát biểu
rồi người kia đồng ý với ý kiến đó. Điều này là không khách quan và vi phạm
nguyên tắc về lập di chúc, ý chí của người để lại di chúc không được thể hiện một
cách trực tiếp.
Đối với di chúc viết tay không có người làm chứng:

Điều 655 BLDS qui định: “Người lập di chúc phải tự tay viết và ký vào bản
di chúc”. Về mặt lôgic thì hai vợ chồng không thể cùng một lúc viết cùng một nội
dung trên tờ di chúc mà phải từng người viết rồi ký tên hoặc điểm chỉ vào bản di
chúc đó.
Pháp luật cần qui định hình thức riêng cho di chúc chung của vợ chồng, chứ
không thể áp dụng giống như di chúc của cá nhân. BLDS 2005 chưa qui định cụ
thể vấn đề này là một thiếu sót cần được khắc phục.Chỉ nên thừa nhận vợ, chồng
được lập di chúc bằng hình thức văn bản có người làm chứng hoặc văn bản có
công chứng, chứng thực.

~ 17 ~


1.5.Việc thay thế, bổ sung, huỷ bỏ di chúc chung của vợ, chồng.
Khoản 2 Điều 664 BLDS quy định: “Khi vợ hoặc chồng muốn sửa đổi, bổ
sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung thì phải được sự đồng ý của người kia; nếu
một người đã chết thì người kia chỉ có thể sửa đổi, bổ sung di chúc liên quan đến
phần tài sản của mình”
Điều này được hiểu việc sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung
được thực hiện trên nguyên tắc nhất chí, một bên không thể thực hiện được những
việc này nếu không có sự nhất trí của bên kia. Khi xem xét quy định này trong
tương quan với các quy định khác về thừa kế nhận thấy có nhiều điểm chưa thực
sự phù hợp với nhau.
1.6.Chấm dứt sự tồn tại của di chúc chung của vợ, chồng.
Di chúc chung được hình thành dựa trên hai yếu tố quan trọng của quan hệ
vợchồng, đó là tình cảm vợ chồng và tài sản chung của vợ chồng. Nếu hai yếu tố
này mất đi thì di chúc chung cũng không còn ý nghĩa. Trên thực tế sẽ phát sinh
nhiều tình huống pháp lý khiến cho hai yếu tố trên bị thay đổi, như trường hợp: các
bên vợ chồng ly hôn; chia tài sản chung trong khi hôn nhân đang tồn tại; một bên
mất tích hoặc bị toà án tuyên bố chết và người còn lại đã kết hôn với người khác,

sau đó người bị tuyên bố chết còn sống trở về, nhưng không thể tái hợp quan hệ vợ
chồng; hoặc sau khi có di chúc chung, vợ chồng lại định đoạt tài sản chung vào
một mục đích khác, như tặng cho, bán; vợ hay chồng còn sống đã kết hôn với
người khác hoặc có những quyết định làm ảnh hưởng tới hiệu lực hoặc sự tồn tại
của di chúc chung (như quyết định sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ phần di chúc
chung liên quan tới phần tài sản của họ trong tài sản chung của vợ, chồng...). Đây
là những trường hợp dẫn đến việc chấm quan hệ vợ chồng, hoặc chấm dứt tình
trạng sở hữu chung đối với tài sản, hoặc trực tiếp làm chấm dứt di chúc chung. Tuy
vậy, những tình huống này không được dự liệu của pháp luật, nên sẽ dẫn tới sự
~ 18 ~


lúng túng trong việc thực thi di chúc chung, vì không ai dám chắc là di chúc chung
có đương nhiên bị mất hiệu lực, trong những tình huống đó hay không.
2. Một số kiến nghị.
2.1. Tách các quy định về di chúc chung của vợ, chồng ra khỏi quy định
chung về di chúc cá nhân và tạo một mục riêng.
Nên tách riêng và quy định di chúc chung của vợ, chồng là một loại di chúc
đặc biệt bên cạnh di chúc cá nhân. Di chúc chung của vợ, chồng có những đặc thù
riêng nên cần quy định thành một mục riêng hoặc quy định những ngoại lệ cho loại
di chúc này. Sự tách biệt giữa hai loại di chúc chung và di chúc của cá nhân sẽ giải
quyết được một số điểm khúc mắc khi áp dụng quy định về di chúc chung của vợ,
chồng.
2.2. Đối với quy định về hiệu lực của di chúc chung của vợ, chồng.
Nên quay lại tinh thần của quy định tại BLDS 1995 theo đó trong trường
hợp vợ, chồng lập di chúc chung mà một người chết trước, thì chỉ phần di chúc liên
quan đến phần di sản của người chết trong tài sản chung có hiệu lực pháp luật; nếu
vợ chồng có thoả thuận trong di chúc về thời điểm có hiệu lực của di chúc chung là
thời điểm người sau cùng chết, thì di sản của vợ, chồng theo di chúc chung chỉ
được phân chia từ thời điểm đó.

2.3. Đối với hình thức của di chúc chung của vợ, chồng.
Như đã phân tích việc lập di chúc chung bằng hình thức di chúc miệng hoặc lập
bằng văn bản nhưng không có người làm chứng là không khả thi. Vì vậy, riêng di
chúcchungphải được lập bằng văn bản và có người làm chứng. Có như vậy mới đảm
bảo được sự tự do ý chí, tránh sự lợi dụng của cả hai bên. Và cũng dễ dàng hơn cho
chủ thể khi lập di chúc chung mà không phải băn khoăn về việc lựa chọn hình thức di
chúc.
~ 19 ~


2.4. Đối với việc sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung của vợ, chồng.
Để đảm bảo quyền tự do định đoạt của cá nhân, đảm bảo di chúc chung phản
ánh được sự thoả thuận của hai vợ chồng thì bên cạnh việc quy định vợ, chồng cần
cùng nhau thoả thuận khi muốn sửa đổi, bổ sung, thay thế hay huỷ bỏ di chúc thì
cũng cần phải quy định cho vợ, chồng được quyền tự do trong việc định đoạt tài
sản riêng trong khối tài sản chung. Do vậy, nên quy định: “khi vợ, chồng muốn sửa
đổi, bổ sung, thay thế hay huỷ bỏ di chúc chung thì cần có sự đồng ý của bên kia.
Ngoài ra, các bên có quyền tự sửa đổi, bổ sung di chúc chung trong phạm vi phần
tài sản của mình. Việc sửa đổi, bổ sung theo ý chí của bên nào thì có giá trị đối với
phần tài sản của người đó trong khối tài sản chung.”
2.5. Đối với việc công chứng, chứng thực di chúc chung của vợ, chồng.
Theo tinh thần của pháp luật thừa kế hiện hành vợ, chồng sau khi lập di chúc
có thể yêu cầu công chứng hoặc chứng thực di chúc.Việc yêu cầu công chứng,
chứng thực hay không hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của vợ, chồng. Tuy nhiên, do
các đặc thù của di chúc chungcủa vợ, chồng luôn có hai chủ thể là vợ và chồng lập
di chúc và tài sản được định đoạt là tài sản thuộc sở hữu chung vợ, chồng, vì vậy
nên quy định bắt buộc phải công chứng hoặc chứng thực. Việc công chứng hoặc
chứng thực này sẽ đảm bảo được sự thỏa thuận của hai bên là hoàn toàn tự nguyện,
bình đẳng.
2.6. Đối với sự chấm dứt đương nhiên của di chúc chung của vợ, chồng

Do chưa có một quy định nào về việc này nên cần phải bổ sung những
trường hợp làm đương nhiên chấm dứt hiệu lực của di chúc chung. Có quy định cụ
thể như vậy mới có căn cứ để giải quyết tình huống, tránh được cách hiểu không
thống nhất và những tranh chấp không đáng có.

~ 20 ~


KẾT LUẬN
Pháp luật về thừa kế đã hình thành và tồn tại rất lâu, qua quá trình tồn tại
và phát triển, pháp luật về thừa kế có nhiều sự sửa đổi, bổ sung trên cơ sở kế thừa
các quy định trước và các chuẩn mực đạo đức. Đặc biệt là thừa kế theo di chúc, với
đặc thù là sự thể hiện ý chí của cá nhân sở hữu tài sản, pháp luật tôn trọng và bảo
vệ sự tự do đó. Bên cạnh di chúc cá nhân còn có sự tồn tại của một loại di chúc đặc
biệt là di chúc chung của vợ, chồng. Di chúc chungcủa vợ, chồng có đặc điểm và
quá trình hình thành phát triển riêng của nó. Qua phân tích các vấn đề về bản chất,
nội dung, hình thức, hiệu lực… của di chúc chungcủa vợ, chồng giúp chúng ta có
cái nhìn bao quát về di chúc chung vợ, chồng. Từ đó hiểu được bản chất của di
chúc chungvợ, chồng. Tuy nhiên do các quy định của pháp luật về vấn đề này chưa
thật cụ thể, rõ ràng, còn nhiều bất cập nên vẫn còn nhiều vướng mắc khi áp dụng
các quy định này vào thực tiễn.

~ 21 ~


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật Dân Sự Việt Nam Tập1; NXB Công An Nhân Dân HN-2006;
Chủ biên – PGS.TS Đinh Văn Thanh – ThS. Nguyễn Minh Tuấn;
2. Bộ Luật Dân Sự; NXB Tư Pháp HN – 2009;
3. Trường Đại học Luật Hà Nội, Khóa luận tốt nghiệp: "Di chúc chung của vợ,

chồng" năm 2011, Trần Ngọc Thanh
4. Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, năm 2000
5. Giáo trình luật dân sự Việt Nam, tập 1, NXB Giáo dục, chủ biên TS. Lê
Đình Nghị.
6. www.hcmulaw.edu.vn.

~ 22 ~



×