Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

BÀI tập THÁNG THỨ NHẤT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.65 KB, 12 trang )

BÀI TẬP THÁNG THỨ NHẤT.

I. Phần thứ nhất: Đối tượng điều chỉnh của pháp luật dân sự.
Câu 1: Những quan hệ nào thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật dân sự?
Đối tượng điều chỉnh của pháp luật Dân sự Việt Nam là một lĩnh vực nhất định bao gồm :
- Quan hệ tài sản: là quan hệ giữa người với người về lợi ích vật chất được tạo ra trong quá trình
hoạt động sản xuất của xã hội.
- Quan hệ nhân thân: là quan hệ giữa người với người về những lợi ích tinh thần tức là những lợi
ích không có giá trị kinh tế, không tính ra được bằng tiền và không thể di chuyển được vì nó gắn
liền với những cá nhân với những tổ chức nhất định.
Câu 2: Quan hệ giữa A và B trên có thuộc phạm vi điều chỉnh của BLDS 2005 và BLDS 2015
không? Vì sao?
- Quan hệ giữa A và B trên thuộc phạm vi điều chỉnh của BLDS 2005 và BLDS 2015.
- Vì việc A đe doạ để ép B xác lập một giao dịch dân sự đã vi phạm cả quan hệ tài sản nên cần
có sự can thiệp của pháp luật dân sự.
II. Phần thứ hai: Quan hệ dân sự và quan hệ pháp luật dân sự.
Câu 1: Quan hệ giữa anh Giáp và anh Phú liên quan đến con trâu đực có thuộc đối tượng điều
chỉnh của pháp luật dân sự không?
- Quan hệ giữa anh Giáp và anh Phú liên quan đến con trâu đực thuộc đối tượng điều chỉnh của
pháp luật dân sự.
- Vì quan hệ giữa anh Giáp và anh Phú là tranh chấp có liên quan đến tài sản (là con trâu cái) nên
Câu 2: Quan hệ tài sản thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật dân sự có những đặc điểm gì?
Đặc điểm của quan hệ tài sản thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật dân sự:
- Đa dạng, phong phú là bởi các yếu tố cấu thành nên nó gồm chủ thể tham gia, khách thể được
tác động và nội dung của các quan hệ đó.
1


- Mang tính ý chí. Phản ánh và ghi nhận ý chí của chủ thể trong các quan hệ tài sản như xác lập
hay chấm dứt quan hệ tài sản và chịu sự tác động của ý chí Nhà nước.
- Mang tính chất hàng hóa và tiền tệ vì đối tượng phải là hàng hóa có giá trị và được xác định


thông qua trao đổi mua bán .
- Có tính chất đền bù tương đương trong trao đổi.
Câu 3: Cho biết những thành phần của một quan hệ pháp luật dân sự. Những thành phần này
được thể hiện như thế nào trong quan hệ giữa anh Giáp và anh Phú về con trâu cái?
- Những thành phần của một quan hệ pháp luật dân sự:
+ Chủ thể quan hệ pháp luật dân sự là những người tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự, có
quyền và nghĩa vụ trong quan hệ pháp luật dân sự đó. Bao gồm: cá nhân (công dân Việt Nam,
người nước ngoài, người không quốc tịch), pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác và Nhà nước
CHXHCN Việt Nam tham gia với tư cách là chủ thể đặc biệt.
+ Khách thể quan hệ pháp luật dân sự là một trong các yếu tố để cấu thành quan hệ pháp luật nói
chung và quan hệ pháp luật dân sự nói riêng. Khách thể của quan hệ pháp luật dân sự gồm:
 Tài sản là khách thể trong quan hệ pháp luật về sở hữu.
 Hành vi trong quan hệ nghĩa vụ là hợp đồng.
 Các giá trị nhân thân trong quan hệ nhân thân.
 Kết quả của quá trình hoạt động tinh thần sáng tạo.
+ Nội dung quan hệ pháp luật dân sự là tổng hợp các quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự của các
chủ thể trong một quan hệ pháp luật dân sự cụ thể. Trong quan hệ pháp luật dân sự, quyền và
nghĩa vụ của các chủ thể phát sinh do quy định của pháp luật hoặc do các chủ thể chủ động tạo ra
thông qua các giao dịch phù hợp với quy định của pháp luật.
 Quyền dân sự: là khả năng được phép xử sự theo một cách nhất định hoặc được yêu cầu
người khác thực hiện một hoặc nhiều hành vi nhất định trong khuôn khổ do pháp luật quy định để
thoả mãn lợi ích của bản thân và khả năng đó được đảm bảo thực hiện bằng biện pháp cưỡng chế
của nhà nước.

2


 Nghĩa vụ dân sự: là việc mà theo quy định của pháp luật thì một hoặc nhiều chủ thể phải làm
một công việc hoặc không được thực hiện công việc nhất định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ
thể có quyền.

- Trong quan hệ giữa anh Giáp và anh Phú về con trâu, những thành phần của quan hệ pháp luật
được thể hiện:
+ Chủ thể của quan hệ trên là anh Giáp và anh Phú.
+ Khách thể của quan hệ đó là tài sản, cụ thể là con trâu.
+ Nội dung của quan hệ trên là quyền và nghĩa vụ được xác lập từ việc chiếm hữu tài sản (con
trâu) không có căn cứ pháp luật.
Câu 4: Cho biết quan hệ pháp luật dân sự có những đặc điểm nào?
Quan hệ pháp luật dân sự có những đặc điểm như sau:
- Thứ nhất, quan hệ pháp luật dân sự tồn tại ngay cả trong trường hợp không có quy phạm pháp
luật nào trực tiếp điều chỉnh.
Trong quá trình xây dựng pháp luật dân sự, các nhà làm luật luôn cố gắng dự liệu hết những
điều kiện, hoàn cảnh có thể xảy ra trong đời sống thực tế cần được điều chỉnh bằng pháp luật.
Nhưng do phạm vi điều chỉnh rất rộng, các quan hệ dân sự rất đa dạng, phức tạp, thay đổi rất
nhanh, không ngừng phát triển dẫn đến việc ban hành các văn bản pháp luật, các nhà lập pháp
không dự liệu được hết các quan hệ xã hội cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật dân sự. Tình
trạng này đã tạo ra “lỗ hổng” trong pháp luật dân sự. Trong trường hợp thiếu pháp luật để điều
chỉnh các quan hệ xã hội, phương pháp giải quyết mang tính nguyên tắc là phải xây dựng pháp
luật. Nhưng trong khi chưa xây dựng kịp, để bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của cá nhân và tổ chức, nhằm để các quan hệ xã hội được điều chỉnh bằng pháp luật.
- Thứ hai, địa vị pháp lý của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật dân sự đều bình đẳng.
Sự bình đẳng giữa các chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự là một đặc điểm không thể tồn tại
đối với các chủ thể trong quan hệ hành chính và quan hệ hình sư. Đây là đặc điểm quan trọng
nhất của quan hệ pháp luật dân sự khi so sánh với các quan hệ pháp luật của các ngành luật
“công”. Địa vị pháp lý của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật dân sự đều bình đẳng được thể
hiện ở các nội dung sau:
3


+ Bình đẳng về khả năng tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự: mọi chủ thể đều có quyền
tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự theo các điều kiện do luật định.

+ Bình đẳng trong việc hưởng quyền và thực hiện nghĩa vụ dân sự phát sinh từ các quan hệ mà
các chủ thể tham gia.
+ Bình đẳng trong việc chịu trách nhiệm dân sự do hành vi vi phạm nghĩa vụ. Các trường hợp
được miễn trách nhiệm dân sự hoàn toàn không có căn cứ vào yếu tố về địa vị xã hội, giới tính,
tôn giáo, trình độ văn hoá hay nghề nghiệp,…
- Thứ ba, quan hệ dân sự rất đa dạng về chủ thể, khách thể và phương pháp bảo vệ.
+ Về chủ thể: Chủ thể đa dạng và phong phú bao gồm tất cả chủ thể của quan hệ pháp luật nói
chung: cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác và nhà nước.
+ Về khách thể: Các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật dân sự đều có những mục đích nhất
định và khi tham gia vào những quan hệ pháp luật dân sự khác nhau về nội dung thì các chủ thể
có những quan hệ pháp luật dân sự khác nhau về nội dung thì các chủ thể có mục đích khác nhau.
Khách thể của pháp luật dân sự có thể là tài sản, hành vi, lợi ích nhân thân hoặc kết quả của hoạt
đọng sáng tạo tinh thần.
+ Về phương pháp bảo vệ: Tất cả các quyền dân sự của cá nhân , pháp nhân, chủ thể khác đều
được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.
Câu 5: Cho biết những căn cứ làm phát sinh quan hệ pháp luật dân sự. Quan hệ giữa anh Giáp
và anh Phú về con trâu cái được phát sinh trên căn cứ nào?
- Sự xuất hiện cũng như thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật sẽ xảy ra khi có đủ ba yếu tố: quy
phạm pháp luật, chủ thể và sự kiện pháp lí.
+ Quy phạm pháp luật tác động tới các quan hệ xã hội nhất định và “biến” chúng “thành” quan
hệ pháp luật. Tuy nhiên,quy phạm pháp luật chỉ có thể làm phát sinh quan hệ pháp luật nếu gắn
liền với những sự kiện pháp lí.
+ Sự kiện pháp lí là những sự kiện, hoàn cảnh, tình huống của đời sống thực tế được chỉ ra trong
phần giả định của quy phạm pháp luật mà nhà làm luật gắn sự xuất hiện,thay đổi và chấm dứt
của quan hệ pháp luật với sự tồn tại của nó. Nói một cách đơn giản thì sự kiện pháp lí trong quan

4


hệ pháp luật dân sự là những sự kiện xảy ra trong thực tế được pháp luật dân sự dự liệu, quy định

làm phát sinh hậu quả pháp lí: phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật dân sự.
Sự kiện pháp lí có thể được phân loại thành nhiều loại khác nhau dựa trên những tiêu chí khác
nhau:
 Sự biến pháp lí: là những sự kiện mà quá trình hình thành, diễn biến hay chấm dứt của các sự
kiện ấy hoàn toàn không phụ thuộc vào ý chí của chủ thể trong quan hệ.
 Hành vi pháp lí: là hành vi của các chủ thể nhằm làm phát sinh hậu quả pháp lí.
 Xử sự pháp lí: là hành vi của các chủ thể không nhằm làm phát sinh hậu quả pháp lí nhưng
do quy định của pháp luật mà hậu quả pháp lí phát sinh.
 Thời hạn và thời hiệu: là một trong những sự kiện pháp lí làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt
quan hệ pháp luật dân sự.
Như vậy, căn cứ để làm phát sinh quan hệ pháp luật dân sự là sự kiện pháp lí.
- Trong tình huống, quan hệ giữa anh Giáp và anh Phú về con trâu cái được phát sinh trên căn cứ
sự kiện pháp lí mà cụ thể là hành vi pháp lý như sau:
Đó là tình huống xảy ra trong thực tế ngày 7/5/2004, anh Phú thả trâu trong rừng và khi kiểm
tra anh thấy thiếu 2 con (đực và cái). Do đó, ngày 17/5/2004, anh đi tìm trâu tại trang trại nhà anh
Giáp và phát hiện ra hai con còn thiếu của mình. Anh Giáp trả lại cho anh Phú con trâu đực
nhưng không đồng ý trả con trâu cái với lí do trâu này của anh.
Vụ việc này đã dẫn tới quan hệ phát sinh giữa hai bên đó là quan hệ tranh chấp và phải nhờ đến
sự can thiệp của Toà án.
III. Phần thứ ba: Tuyên bố cá nhân đã chết.
Câu 1: Những điểm giống và khác nhau giữa tuyên bố một người mất tích và tuyên bố một người
đã chết.
- Điểm giống nhau giữa tuyên bố một người mất tích và một người đã chết là:
+ Là việc Toà án nhân dân ra quyết định tuyên bố theo yêu cầu của những người lợi ích liên quan khi có đủ
những điều kiện luật định (Khoản 1, Điều 78, BLDS 2005 và Khoản 1, Điều 81, BLDS 2005).
+ Về hình thức: quy định về thời gian, về thủ tục và yêu cầu của người có quyền lợi ích liên quan (Khoản 1,
Điều 78, BLDS 2005 và Khoản 1, Điều 81, BLDS 2005).
+ Về nội dung: Đều phải giải quyết vấn đề về mặt tài sản và nhân thân.
5



+ Khi người bị tuyên bố mất tích, tuyên bố là đã chết khi trở về hoặc có tin tức xác thực là người đó còn sống thì
theo yêu cầu của người đó hoặc người có quyền lợi ích liên quan Toà án ra quyết định huỷ bỏ quyết định tuyên bố
người đó mất tích và huỷ quyết định tuyên bố cá nhân đã chết (Khoản 1, Điều 80, BLDS 2005 và Khoản 1, Điều
83, BLDS 2005).
- Điểm khác nhau giữa tuyên bố một người mất tích và một người đã chết:

Điều kiện

Tuyên bố một người mất tích.
Biệt tích 2 năm liền trở lên tính

Tuyên bố một người đã chết.
- Sau 3 năm, kể từ ngày quyết định tuyên bố mất

từ ngày biết tin tức cuối cùng về

tích của Toà án có hiệu lực pháp luật mà vẫn

người đó mà không có tin tức

không có tin tức xác thực là còn sống;

xác thực là còn sống hay đã chết

- Biệt tích trong chiến tranh sau 5 năm, kể từ

thì bị tuyên bố mất tích (Khoản

ngày chiến tranh kết thúc mà vẫn không có tin


1, Điều 78, BLDS 2005).

tức xác thực là còn sống;
- Bị tai nạn hoặc thảm họa thiên tai mà sau một

về mặt thời

năm kể từ ngày tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai

gian

đó chấm dứt vẫn không có tin tức xác thực là
còn sống, trừ trường hợp pháp luật có quy định
khác;
- Biệt tích 5 năm liền trở lên mà không có tin tức
xác thực là còn sống;
Tài sản được giao cho cá nhân,

Về tài sản

(Khoản 1, Điều 81, BLDS 2005).
Tài sản được chia ra cho những người thừa kế

tổ chức quản lí theo quy định của của người này theo quy định của pháp luật thừa
pháp luật (Điều 79, BLDS 2005). kế (Khoản 2, Điều 82 , BLDS 2005).
Trường hợp vợ chồng của người - Được giải quyết như đối với một người đã chết
tuyên bố mất tích xin ly hôn thì

Trong quan Toà án giải quyết cho ly hôn

nhân thân

(Khoản 1, Điều 82, BLDS 2005).
- Người vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố

(Khoản 3, Điều 80, BLDS 2005). chết có thể kết hôn với người khác mà không
phải làm thủ tục ly hôn (Khoản 2, Điều 83,
Người bị tuyên bố mất tích trở

BLDS 2005).
Khi người bị tuyên bố chết quay trở về được

về được nhận lại tài sản do người nhận lại tài sản từ những người thừa kế trên cơ
6


quản lí tài sản chuyển giao sau

sở tài sản hiện còn hoặc giá trị tài sản hiện còn.

khi đã thanh toán chi phí quản lí

(Khoản 3, Điều 83, BLDS 2005).

(Khoản 2, Điều 80, BLDS 2005).
Câu 2: Một người biệt tích và không có tin tức xác thực là còn sống trong thời hạn bao lâu thì có
thể bị yêu cầu Tòa án tuyên bố là đã chết?
Một người biệt tích và không có xác thực là còn sống trong những trường hợp sau thì có thể bị
yêu cầu Toà án tuyên bố đã chết là:
- Biệt tích trong chiến tranh sau 5 năm, kể từ ngày chiến tranh kết thúc mà vẫn không có tin tức

xác thực là còn sống;
- Biệt tích 5 năm liền trở lên và không có tin tức xác thực là còn sống;
(Căn cứ điểm b, d Khoản 1, Điều 81 BLDS 2005).
Câu 3: Trường hợp của ông Hùng và ông Phúc có được coi là người biệt tích và không có tin tức
xác thực là còn sống không? Đoạn nào của hai Quyết định trên cho câu trả lời?
- Ông Hùng và ông Phúc được coi là người biệt tích và không có tin tức xác thực là còn sống.
- Đối với trường hợp của ông Hùng, điều này được thể hiện trong đoạn sau của Quyết định số
01/2007/QĐST-VDS: “Theo xác nhận của công an phường 08, quận 4, tính thời gian bà Thảo báo
công an khu vực biết từ năm 1995 và xoá hộ khẩu ông Hùng từ năm 2003. Ngoài ra theo bản tự
khai ngày 23/10/2006 của bà Mai Thị Lan đã xác nhận con bà là ông Hùng đã bỏ nhà đi từ năm
1995, tính đến nay ông Hùng đã bỏ nhà đi đã biệt tích hơn 5 năm. Như vậy căn cứ Điều 81 Bộ
luật Dân sự thì xác định ông Mai Văn Hùng, sinh năm 1968 hiện đã chết”.
- Trường hợp của ông Phúc được coi là người biệt tích và không có tin tức xác thực là còn sống
thể hiện thông qua Quyết định số 10/2009/QĐ-VĐS của Toà án nhân dân quận 6 TP.hồ Chí Minh
trong đoạn:
“Theo xác nhận của Công an phường 8, Quận 6 thì: “Đương sự Nguyễn Khoa Phúc, sinh
năm:1947 từ ngày 21/6/1975 đến nay không có ở địa phương”.
Theo điểm d khoản 1 Điều 81, Điều 82 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì:

7


1. Người có quyền, lợi ích liên quan có thể yêu cầu Toà án ra quyết định tuyên bố một người là
đã chết trong các trường hợp sau đây:
d - Biệt tích năm năm liền trở lên và không có tin tức xác thực là còn sống;
Như vậy Toà án đã có đủ cơ sở tuyên bố ông Nguyễn Khoa Phúc đã chết”.
Câu 4: Theo quy định hiện hành, kể từ ngày nào ông Hùng và ông Phúc được coi là người biệt
tích và không có tin tức xác thực là còn sống để tính thời hạn cho phép tuyên bố họ đã chết?
Căn cứ vào điểm d, Khoản 1, Điều 81:
“1. Người có quyền, lợi ích liên quan có thể yêu cầu Toà án ra quyết định tuyên bố một người

là đã chết trong các trường hợp sau đây:
d) Biệt tích năm năm liền trở lên và không có tin tức xác thực là còn sống; thời hạn này
được tính theo quy định tại khoản 1 Điều 78 của Bộ luật này.”
và Khoản 1, Điều 78, Bộ luật Dân sự 2005:
“1. Khi một người biệt tích hai năm liền trở lên, mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện pháp
thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự nhưng vẫn không có tin tức xác
thực về việc người đó còn sống hay đã chết thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên
quan, Toà án có thể tuyên bố người đó mất tích. Thời hạn hai năm được tính từ ngày biết được
tin tức cuối cùng về người đó; nếu không xác định được ngày có tin tức cuối cùng thì thời hạn
này được tính từ ngày đầu tiên của tháng tiếp theo tháng có tin tức cuối cùng; nếu không xác
định được ngày, tháng có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của năm
tiếp theo năm có tin tức cuối cùng.”
- Kể từ ngày 1 tháng 1 năm 1996 ông Hùng được coi là người biệt tích và không có tin tức xác
thực là còn sống để tính thời hạn cho phép ông Hùng đã chết. Bởi vì ông Hùng đã biệt tích hai
năm liên trở lên, mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của
pháp luật tố tụng đan sự nhưng vẫn không có tin tức xác thực về việc người còn sống hay đã chết
thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Toà án có thể tuyên bố người đó mất tích.
Trường hợp của ông Hùng lại không xác định được tháng có tin tức cuối cùng nên thời hạn này
được tính từ ngày đầu tiên của năm tiếp theo năm có tin tức cuối cùng, mà năm có tin tức cuối
cùng là năm 1995.
8


- Kể từ ngày 21 tháng 6 năm 1975 ông Phúc được coi là người biệt tích và không có tin tức xác
thực là còn sống để tính thời hạn cho phép ông Phúc đã chết. Bởi vì theo Khoản 1 Điều 78 Bộ
luật Dân sự 2005, thời hạn hai năm được tính từ ngày biết được tin tức cuối cùng về người đó.
Ngày có tin tức cuối cùng về ông Phúc là ngày 21 tháng 6 năm 1975.
Câu 5: Tòa án có tuyên ông Hùng và ông Phúc đã chết không? Đoạn nào của hai Quyết định trên
cho câu trả lời?
- Toà án đã tuyên ông Hùng và ông Phúc mất tích.

- Đoạn trong Quyết định của Toà án tuyên ông Hùng và ông Phúc đã chết trong hai bản án số
01/2007/QĐST-VDS và số 10/2009/QĐ-VDS lần lượt là:
+ Đối với Quyết định 01/2007/QĐST-VDS:
“1. Chấp nhận yêu cầu của bà CHUNG MAI NGỌC THẢO.
- Tuyên bố ông MAI VĂN HÙNG, sinh năm 1968 có nơi cư trú cuối cùng tại số
129F/123/120F Bến Vân Đồn, Phường 08, Quận 4 là đã chết”.
+ Đối với Quyết định số 10/2009/QĐ-VDS:
“a. Tuyên bố ông Nguyễn Khoa Phúc - Sinh năm 1947 - Nơi cư trú cuối cùng: 602 Phạm Văn
Chí, Phường 8, Quận 6, TP.Hồ Chí Minh là đã chết”.
Câu 6: Tòa án xác định ông Hùng và ông Phúc chết vào ngày nào? Đoạn nào của hai Quyết định
trên cho câu trả lời?
- Tòa án xác định ông Hùng chết vào ngày quyết định có hiệu lực pháp luật tức là ngày
03/1/2007.
Đoạn trong Quyết định của Toà án tuyên ông Hùng đã chết trong Quyết định số
01/2007/QĐST-VDS là: “Ngày chết của ông MAI VĂN HÙNG là ngày quyết định có hiệu lực
pháp luật”.
- Toà án xác định ông Phúc chết vào ngày ông Phúc bỏ đi, tức là vào ngày 21/6/1975.
Đoạn trong Quyết định của Toà án tuyên bố ông Phúc đã chết trong Quyết định số
10/2009/QĐ-VDS là: “Ngày chết được xác định là ngày 21 tháng 6 năm 1975”.

9


Câu 7: Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án xác định ngày ông Hùng và ông Phúc chết trong hai
Quyết định trên.
- Trong trường hợp của ông Hùng, Toà án tuyên ngày chết của ông là ngày Quyết định tuyên bố
ông Mai Văn Hùng đã chết có hiệu lực pháp luật. Như vậy, là đúng với quy định tại Điểm d,
Khoản 1, Điều 81, BLDS 2005:
“1. Người có quyền, lợi ích liên quan có thể yêu cầu Toà án ra quyết định tuyên bố một người là
đã chết trong các trường hợp sau:

d - Biệt tích năm năm liền trở lên và không có tin tức xác thực là còn sống”.
- Còn trường hợp của ông Nguyễn Khoa Phúc, ngày chết được Toà án xác định là ngày
21/6/1975, tức là thời điểm mà ông đã đột ngột bỏ nhà đi, gia đình tìm kiếm nhiều nơi nhưng
không gặp. Quyết định này của Toà án là không đúng với quy định tại Điểm d, Khoản 1, Điều 81,
BLDS 2005 và với thực tế. Bởi vì tại thời điểm một người bỏ nhà đi thì chưa có thể coi là người
đã chết nên không thể xác định ngày chết của ông Phúc là ngày ông đột ngột bỏ nhà đi.

IV. Phần thứ tư: Tổ hợp tác.
Câu hỏi: Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về tổ hợp tác và suy nghĩ của
anh/chị về những điểm mới này.
* Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về tổ hợp tác:
- Chủ thể trong quan hệ dân sự có sự tham gia của tổ hợp tác không có tư cách pháp nhân, được
quy định tại Điều 101, BLDS 2015; Quy định này cụ thể và chi tiết hơn so với quy định đại diện
của tổ hợp tác tại BLDS 2005:
“1. Trường hợp hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân tham gia quan
hệ dân sự thì các thành viên của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp
nhân là chủ thể tham gia xác lập, thực hiện GDDS hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia
xác lập, thực hiện GDDS.
Việc ủy quyền phải được lập thành văn bản, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Khi có sự thay
đổi người đại diện thì phải thông báo cho bên tham gia quan hệ dân sự biết.
10


Trường hợp thành viên của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân
tham gia quan hệ dân sự không được các thành viên khác ủy quyền làm người đại diện thì thành
viên đó là chủ thể của quan hệ dân sự do mình xác lập, thực hiện.
2. Việc xác định chủ thể của quan hệ dân sự có sự tham gia của hộ gia đình sử dụng đất được
thực hiện theo Luật đất đai.”
- Có quy định thêm về hậu quả pháp lý đối với giao dịch dân sự do thành viên không có quyền
đại diện hoặc vượt quá phạm vi đại diện xác lập, thực hiện. Đây là quy định mới của BLDS 2015;

được quy định tại Điều 104, BLDS 2015.
“1. Trường hợp thành viên không có quyền đại diện mà xác lập, thực hiện giao dịch dân sự
nhân danh các thành viên khác của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp
nhân hoặc người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện thì hậu quả pháp lý của
giao dịch được áp dụng theo quy định tại các Điều 130, 142 và 143 của Bộ luật này.
2. Giao dịch dân sự do bên không có quyền đại diện hoặc vượt quá phạm vi đại diện xác lập,
thực hiện mà gây thiệt hại cho thành viên khác của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không
có tư cách pháp nhân hoặc người thứ ba thì phải bồi thường cho người bị thiệt hại.”
* Suy nghĩ của anh/chị về sự thay đổi này:
- Như vậy, tổ hợp tác là chủ thể hạn chế của quan hệ pháp luật dân sự. Sự hạn chế về mặt chủ thể
của tổ hợp tác được thể hiện:
+ Tổ hợp tác không được tham gia đầy đủ mọi quan hệ pháp luật, mà chỉ được phép tham gia
một cách hạn chế vào một số quan hệ, một số loại hoạt động mà pháp luật quy định. Như vậy, tổ
hợp tác không tham gia đầy đủ các lĩnh vực của đời sống xã hội. Số lượng các quan hệ pháp luật
mà nó được phép tham gia là hạn chế hơn so với pháp nhân, cá nhân.
+ Tổ hợp tác không thường xuyên các quan hệ pháp luật, mà chỉ khi hộ gia đình tham gia vào
một quan hệ pháp luật cụ thể nào đó thì nó mới được coi là chủ thể của riêng mỗi quan hệ pháp
luật đó mà thôi.
Từ đó cho ta thấy, tư cách chủ thể của tổ hợp tác vì thế cũng không ổn định và không trọn vẹn
như các chủ thể truyền thống của Luật Dân sự.

11


- Với sự điều chỉnh lần này của BLDS năm 2015 về phạm vi điều chỉnh và chủ thể, vẫn kế thừa
tinh thần của BLDS năm 2005. Một mặt, vẫn thừa nhận tổ hợp tác là những thực thể pháp lý đang
tồn tại trong đời sống xã hội, tham gia vào nhiều quan hệ pháp luật dân sự như quan hệ sử dụng
đất, điện, nước… phù hợp với các điều kiện đặc thù về kinh tế, văn hóa, xã hội, gia đình và lịch
sử của Nhà nước ta. Tuy nhiên, điều đáng ghi nhận trong sửa đổi của BLDS năm 2015, đó là đưa
ra quy định việc tham gia của tổ hợp tác vào quan hệ dân sự là thông qua cá nhân đại diện. Điểm

mới này của BLDS năm 2015 đã giải quyết được những vướng mắc, bất cập kéo dài trong nhiều
năm qua liên quan đến việc tham gia các quan hệ dân sự của tổ hợp tác trong quá trình giải quyết
tranh chấp tại Tòa án và cơ quan nhà nước khác.
- Với quy định về hậu quả pháp lý đối với giao dịch dân sự do thành viên không có quyền đại
diện hoặc vượt quá phạm vi đại diện xác lập, thực hiện (Điều 104, BLDS 2015) đã nhằm hạn chế
được việc tổ hợp tác phải chịu trách nhiệm đối với hành vi của những người đại diện bất hợp
pháp thực hiện, làm tổn hại đến tài sản của tổ hợp tác.

12



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×