Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ LỊCH sử ĐẢNG ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM LÃNH đạo GIẢI QUYẾT mối QUAN hệ GIỮA xây DỰNG và bảo vệ MIỀN bắc xã hội CHỦ NGHĨA GIAI đoạn từ 1965 đến 1968

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (395.93 KB, 96 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975) của dân tộc Việt Nam,
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã thắng lợi hoàn toàn, Tổ quốc
thống nhất, cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Suốt 21 năm tiến hành cuộc kháng
chiến, chúng ta đã đánh thắng bốn chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ. Trong
đó giai đoan từ năm 1965 đến năm 1968 đế quốc Mỹ triển khai chiến lược “Chiến
tranh cục bộ”, đưa quân Mỹ trực tiếp vào miền Nam và tiến hành leo thang đánh
phá miền Bắc Việt Nam. Lúc này, cả nước có chiến tranh với mức độ khác nhau.
Miền Bắc chuyển từ trạng thái thời bình sang trạng thái thời chiến và đứng trước
những thách thức lớn lao. Trong hàng loạt các vấn đề cần giải quyết nổi lên vấn đề
Đảng lãnh đạo giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội
chủ nghĩa từ năm 1965 đến năm 1968. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng
sản Việt Nam, quân và dân miền Bắc đã khắc phục khó khăn vừa chiến đấu vừa
sản xuất, tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội, đồng thời chi viện sức người sức của
cho tiền tuyến miền Nam. Để đảm bảo cho miền Bắc đứng vững trước mưa bom
bão đạn của kẻ thù, thực sự là nhân tố quyết định thắng lợi trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước. Đúng như Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng
(1976) đã tổng kết: “Không thể nào có thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước nếu không có miền Bắc xã hội chủ nghĩa, suốt mười sáu năm qua,
luôn luôn cùng một lúc phải làm hai nhiệm vụ chiến lược”. Giải quyết tốt mối
quan hệ giũa xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa đã thể hiện rõ bản
lĩnh chính trị, tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, tự lực, tự cường của Đảng trong
hoàn cảnh cả nước có chiến tranh vô cùng ác liệt của đế quốc Mỹ. Qua đó đã để lại
cho Đảng ta nhiều bài học kinh nghiệm lãnh đạo quý có ý nghĩa khoa học và thực
tiễn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa hiện nay. Mặt


2
khác đã bổ sung vào kho tàng lý luận Mác - Lênin về giải quyết mối quan hệ giữa


xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Từ việc nghiên cứu Đảng Cộng sản Việt Nam giải quyết mối quan hệ
giữa xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa từ năm 1965 đến năm
1968 có ý nghĩa khoa học và thực tiễn, góp phần tổng kết kinh nghiệm lịch sử
của Đảng để tiếp tục vận dụng sáng tạo vào công cuộc đổi mới xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa hiện nay. Chính vì vậy tôi chọn vấn đề:
“Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng
và bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa từ năm 1965 đến năm 1968” làm đề
tài luận văn thạc sĩ lịch sử , chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Sau thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đã có nhiều tác
phẩm, nhiều bài viết và nhiều công trình khoa học nghiên cứu về sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và vai trò hậu phương miền Bắc đối
với cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước với các thể loại khác nhau. Cuốn
sách Miền Bắc xã hội chủ nghĩa trong quá trình thực hiện hai nhiệm vụ chiến
lược của Nguyễn Duy Trinh, do Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội xuất bản năm
1976, đề cập đến vai trò của miền Bắc trong quá trình thực hiện hai nhiệm vụ
chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và chi viện đắc lực cho tiền
tuyến miền Nam, góp phần vào sự nghiệp chung đấu tranh thống nhất đất
nước. Qua nội dung cuốn sách, tác giả đã trình bày một cách gián tiếp quá
trình giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội chủ
nghĩa. Cuốn Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thắng lợi và bài
học của Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị, do Nhà xuất
bản Chính trị Quốc gia xuất bản năm 1995, đã khái quát toàn bộ cuộc kháng
chiến, cuốn sách dành một phần đề cập đến kết hợp giữa xây dựng và bảo vệ
miền Bắc trong điều kiện có chiến tranh. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên
soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh tổ chức biên soạn Giáo trình lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà xuất



3
bản Chính trị Quốc gia xuất bản năm 2004, dành hẳn chương IV viết về xây
dựng và bảo vệ miền Bắc. Trong chương IV có một phần đề cập đến chuyển
hướng xây dựng miền Bắc, đánh thắng chiến lược “chiến tranh cục bộ” (1965
- 1968). Xoay quanh nội dung này đã trình bày chiến lược “chiến tranh cục
bộ” của đế quốc Mỹ và những chủ trương, chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam đối với chuyển hướng xây dựng miền Bắc, đánh thắng cuộc chiến tranh
phá hoại lần thứ nhất của không quân, hải quân Mỹ. Thông qua đó ta thấy
được cách giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội
chủ nghĩa của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cuốn Hỏi đáp lịch sử Đảng Cộng
sản Việt Nam, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân Hà Nội 2004 của Học viện
Chính trị quân sự. Trong câu hỏi 46, Đảng lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc trong hoàn cảnh đế quốc Mỹ mở rộng chiến xâm lược
trên cả nước

(1965 - 1972), ý nghĩa lịch sử, toàn bộ nội dung đã trình bày

tình hình, chủ trương chiến lược của Đảng và quá trình Đảng chỉ đạo xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Thông qua phần trình bày cho ta thấy chủ trương
và sự chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc trong điều kiện có chiến tranh phá hoại của đế quốc
Mỹ. Viện nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh tổ chức
biên soạn cuốn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, tập 2 (1954 -1975) do Nhà
xuất bản Chính trị Quốc gia xuất bản năm 1995. Từ chương VIII đến chương
XII, cuốn sách đã dựng lên bức tranh tương đối hoàn chỉnh của cuộc kháng
chiến. Trong chương X, các tác giả tập trung trình bày sự chỉ đạo của Đảng và
cuộc đấu tranh của quân và dân ta từ năm 1965 đến năm 1968. Công trình Mấy
vấn đề chỉ đạo chiến lược trong 30 năm chiến tranh giải phóng (1945 - 1975),
Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân năm 1999 đề cập đến sự chỉ đạo của Đảng trên
tất cả các lĩnh vực. Năm 1991, Nhà xuất bản Sự thật xuất bản cuốn Lịch sử

kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, tập 2 của Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam.
Cuốn sách đã đề cập đến sự chỉ đạo của Đảng trên tất cả các lĩnh vực.


4
Ngoài ra còn có rất nhiều công trình nghiên cứu của các địa phương tổng kết
chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ như cuốn: Lịch sử
Đảng bộ thành phố Hà Nội xuất bản năm 1995. Lịch sử Đảng bộ tỉnh Nam Định do
Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia xuất bản năm 2001. Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hà Tây,
tập III (1954 -1975), Tỉnh uỷ Hà Tây 2002. Tất cả các công trình nghiên cứu đã nêu
trên đã khái quát cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta, trong đó có
viết về đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ, đẩy
mạnh sản xuất tích cực chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam (1965 - 1968).
Luận văn thạc sĩ lịch sử của Nguyễn Công Loan viết về Sự chi viện của
hậu phương lớn miền Bắc cho tiền tuyến lớn miền Nam trong sự nghiệp chống
Mỹ, cứu nước (1954 - 1975) luận văn gián tiếp đề cập đến mối quan hệ giữa xây
dựng và bảo vệ miền Bắc trong giai đoạn có chiến tranh phá hoại. Luận văn thạc
sĩ lịch sử của Đỗ Đức Tính viết về Đảng lãnh đạo miền Bắc tiếp tục xây dựng
chủ nghĩa xã hội và chi viện miền Nam chống Mỹ, cứu nước giai đoạn 1965 1968, luận văn đã đề cập một phần đến mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ
miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Luận văn thạc sĩ lịch sử của Nguyễn Ngọc Dương
viết về Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo chuyển hướng xây dựng kinh tế ở
miền Bắc trong điều kiện có chiến tranh phá hoại từ 1965 đến 1968. luận văn đề
cập đến chuyển hướng xây dựng kinh tế để hướng tới đánh thắng hoàn toàn đế
quốc Mỹ xâm lược giai đoạn 1965 - 1968. Thông qua đó đã giải quyết một phần
Đảng lãnh đạo giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội
chủ nghĩa. Luận văn thạc sĩ lịch sử của Lê Ngọc Khuyến viết về Vai trò của Chủ
tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo đánh thắng chiến lược “chiến tranh cục bộ” của đế
quốc Mỹ từ năm 1965 đến năm 1968. Luận văn làm rõ Chủ tịch Hồ Chí Minh
cùng Trung ương Đảng xây dựng quyết tâm đánh thắng chiến lược “chiến tranh
cục bộ” của đế quốc Mỹ (1965 - 1968) và Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Trung

ương Đảng chỉ đạo đánh thắng chiến lược “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ
(1965 - 1968).

Những vấn đề vận dụng trong giai đoạn hiện nay. Trong luận

văn tác giả đề cập một phần đến chủ trương tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội ở


5
mìên Bắc trong điều kiện có chiến tranh. Miền Bắc vừa sản xuất, xây dựng kinh
tế, vừa xây dựng phát triển lực lượng cả về số lượng và chất lượng, nhằm bảo vệ
miền Bắc xã hội chủ nghĩa, đồng thời không ngừng bổ sung, chi viện tăng cường
sức mạnh chiến đấu cho cách mạng miền Nam. Với chủ trương phát động một
cuộc chiến tranh nhân dân và xây dựng nền quốc phòng toàn dân nhằm đánh bại
chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân của đế quốc Mỹ, bảo vệ thành
quả của miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, chuẩn bị mọi mặt sẵn sàng đánh
thắng địch nếu chúng liều lĩnh mở rộng chiến tranh, đưa lực lượng lục quân ra
xâm lược miền Bắc. Quân và dân miền Bắc sẵn sàng chi viện sức người, sức của
cho cách mạng miền Nam, đáp ứng kịp thời nhu cầu cuộc kháng chiến của nhân
dân miền Nam, nhằm giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, đi đến thống nhất
nước nhà. Thông qua nội dung tác giả trình bày đã đề cập gián tiếp đến việc
Đảng Cộng sản Việt Nam giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ miền
Bắc xã hội chủ nghĩa từ năm 1965 đến năm 1968.
Ngoài ra còn có nhiều công trình, bài viết của các nhà khoa học, các vị
lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các vị tướng lĩnh Quân đội trực tiếp tham gia chỉ
đạo cuộc kháng chiến đã viết về vấn đề này được xuất bản thành sách, hoặc
đăng trên các báo, tạp chí như: Phó giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Trọng Phúc (2007)
Sự chi viện của miền Bắc đối với miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ cứu
nước, Tạp chí Lịch sử Đảng số 3/ 2007, từ trang 20 - 24. Tác giả đã nêu tình
hình miền Bắc sau tháng 7/1954 đến hết năm 1975. Trong đó tác giả trình bày

khái quát chủ trương xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa và ra sức chi viện
cho chiến trường miền Nam, tích cực giúp đỡ cách mạng Lào, Campuchia. Bài
báo cho ta những số liệu quý về sự chi viện sức người, sức của của miền Bắc
đối với tiền tuyến miền Nam, đánh thắng chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của
đế quốc Mỹ. Đây là tư liệu quý để tác giả nghiên cứu làm rõ Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ miền Bắc
xã hội chủ nghĩa trong điều kiện có chiến tranh từ năm 1965 đến năm 1968.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp (2005), Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước


6
thắng lợi vĩ đại của bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam, Báo Quân đội nhân dân,
ngày 14/4/2005, bài báo chỉ rõ: Năm tháng sẽ trôi đi, những thắng lợi của
nhân dân ta trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử
dân tộc ta như một trong những chiến công chói lọi nhất, một biểu tượng sáng
ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người
và đã đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự
kiện có tầm quan trọng quốc tế và có tính chất thời đại sâu sắc. Tác giả dựng
lại toàn cảnh cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta, phân tích
khá sâu sắc những thắng lợi vĩ đại của bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam, đặc biệt
làm rõ chủ trương, chỉ đạo xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa, đánh thắng
chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ buộc chúng phải tuyên bố
chấm dứt ném bom miền Bắc vào ngày 01/11/1968. Đây là tư liệu quý để tác
giả kế thừa và nghiên cứu làm rõ Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo giải
quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa từ năm
1965 đến năm 1968. Tác giả Thiện Thuật (2005), Tất cả để chiến thắng - Tất
cả vì tiền tuyến lớn, thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người,
Báo Quân đội nhân dân, ngày 15/4/2005, trang 4. Tác giả đã đề cập tới phong
trào ở tỉnh Thái Bình trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Đây là quê
hương giàu truyền thống cách mạng, trong cuộc kháng chiến cũng như trong

lao động sản xuất. Thái Bình luôn là tỉnh đi đầu trong cả nước về đóng góp
sức người, sức của cho tiền tuyến, nhất là trong cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước với 151.993 quân và 65 vạn tấn lương thực, thực phẩm, hơn một
triệu ngày công chi viện cho tiền tuyến miền Nam. Nội dung bài báo tác giả
còn làm rõ không khí nô nức tòng quân nhập ngũ của tuổi trẻ tỉnh Thái Bình
và cách thức tổ chức vừa sản xuất vừa chiến đấu của quân và dân tỉnh Thái
Bình. Đây là tư liệu quý ở địa phương góp lên bức tranh chung cả nước thực
hiện chủ trương giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã
hội chủ nghĩa đã thấm sâu vào từng người dân miền Bắc nói chung, quân và
dân tỉnh Thái bình nói riêng.


7
Những công trình nêu trên đề cập đến nhiều khía cạnh về sự lãnh đạo, chỉ
đạo của Đảng đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Đặc biệt các
công trình nêu trên phần nào đã đề cập tới nội dung Đảng Cộng sản Việt Nam
giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa.
Đây là nguồn tài liệu quý để tác giả kế thừa, vận dụng trong quá trình nghiên
cứu đề tài. Tuy nhiên chưa có công trình nào đề cập trực tiếp hoặc đi sâu
nghiên cứu toàn diện Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo giải quyết mối quan
hệ giữa xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa từ năm 1965 đến năm
1968. Nghiên cứu đề tài này tác giả hy vọng sẽ góp phần làm rõ tính độc lập,
tự chủ, sáng tạo trong giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ miền
Bắc xã hội chủ nghĩa từ năm 1965 đến năm 1968, trên cơ sở đó tin tưởng vào sự
lãnh đạo của Đảng trong công cuộc đổi mới, tiếp tục kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
Mục đích:
Khẳng định sự đúng đắn sáng tạo trong chủ trương và chỉ đạo của Đảng
về giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa

từ năm1965 đến năm 1968.
Nhiệm vụ:
+ Làm rõ tính tất yếu khách quan Đảng Cộng sản Việt Nam giải quyết
mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa từ năm 1965
đến năm 1968.
+ Trình bày có hệ thống quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo chỉ
đạo giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội chủ
nghĩa từ năm 1965 đến năm 1968, đưa ra những thành tựu, hạn chế và nguyên
nhân.
+ Nêu ra một số kinh nghiệm chủ yếu về giải quyết mối quan hệ giữa
xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa từ năm 1965 đến năm


8
1968, làm cơ sở vận dụng vào công cuộc đổi mới xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:
Những hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam giải
quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa trong
điều kiện cả nước có chiến tranh.
Phạm vi nghiên cứu:
Sự lãnh đạo của Đảng trong giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và
bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa từ năm 1965 đến năm 1968.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:
Cơ sở lý luận:
- Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, về chiến tranh
cách mạng, về bạo lực cách mạng, về chiến tranh và quân đội, về vai trò của hậu
phương trong chiến tranh ... Bám sát những quan điểm, đường lối, chủ trương của
Đảng được thể hiên trong các Văn kiện, Nghị quyết của Đảng trong cuộc kháng

chiến chống Mỹ cứu nước cùng với những bài nói, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí
Minh.
Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng phương pháp lịch sử, phương pháp lô gích là chủ yếu,
và sự kết hợp hai phương pháp trên, đồng thời vận dụng một số phương pháp
khác như thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh để thực hiện nhiệm vụ nghiên
cứu.
6. Đóng góp về mặt khoa học của luận văn
- Luận văn trình bày một cách có hệ thống đường lối chủ trương và sự
chỉ đạo của Đảng trong giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ miền
Bắc xã hội chủ nghĩa từ năm 1965 đến năm1968. Kết quả nghiên cứu của luận


9
văn phần nào làm sáng tỏ vai trò và sự tài tình sáng tạo của Đảng trong lãnh
đạo giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội chủ
nghĩa vào những năm đế quốc Mỹ điên cuồng đánh phá miền Bắc. Từ đó làm
cơ sở củng cố niềm tin vào Đảng, vào thắng lợi của công cuộc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu phục vụ cho nghiên cứu, giảng dạy
lịch sử Đảng Cộng sản Việt nam ở các nhà trường trong Quân đội.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn gồm 2 chương 4 tiết.

CHƯƠNG 1
CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VỀ GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ
GIỮAXÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ MIỀN BẮC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
TỪ NĂM 1965 ĐẾN NĂM 1968
1.1. Yêu cầu khách quan giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ

miền Bắc xã hội chủ nghĩa trong những năm 1965 -1968

1.1.1. Cơ sở lý luận
* C.Mác và Ph Ănghen đề cấp đến việc kết hợp nhiệm vụ xây dựng và
bảo vệ trong cách mạng vô sản.
Khi C. Mác và Ph. Ăngghen nghiên cứu chủ nghĩa tư bản trong thời kỳ
chưa chuyển sang giai đoạn phát triển tột cùng là chủ nghĩa đế quốc. Hai ông
đã chỉ ra rằng: giai cấp công nhân phải giành lấy chính quyền từ tay giai cấp
tư sản và xây dựng xã hội mới thiết lập sự thống trị cuả mình với toàn thể dân
tộc, đồng thời phải biết bảo vệ thành quả cách mạng. Để hoàn thành nhiệm vụ
đó, giai cấp công nhân phải vũ trang toàn dân để chống lại sự phản công của
chủ nghĩa tư bản. Công xã Pa ri (1871) ở Pháp là cuộc các mạng đầu tiên của


10
giai cấp vô sản giành chính quyền theo tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen.
Tuy nhiên, do không biết vũ trang toàn dân và liên minh giữa các giai cấp
công nhân với toàn thể nhân dân lao động để bảo vệ thành quả cách mạng,
cho nên công xã Pa ri đã bị kẻ thù thủ tiêu nhanh chóng. Từ thất bại của Công
xã Pa ri, C.Mác và Ph.Ăngghen đã tổng kết và rút ra những bài học kinh
nghệm quý để truyền lại cho giai cấp vô sản thế giới tiếp tục con đường đấu
tranh thủ tiêu chế độ áp bức bóc lột và xây dựng chế độ mới… Trong khi đó,
hai ông đặc biệt quan tâm đến những nguyên tắc bảo vệ thành quả cách mạng
như: Sự cần thiết phải vũ trang toàn dân và tiến hành chiến tranh chính nghĩa
chống xâm lược của chủ nghĩa tư bản, bảo vệ thành quả cách mạng, sự lãnh
đạo của giai cấp công nhân đối với chiến tranh giải phóng dân tộc. Tuy chưa
có điều kiện đề cập nhiều đến quốc phòng, đến bảo vệ Tổ quốc nhưng những
tư tưởng quân sự của hai ông là bó đuốc soi đường, là phương pháp luận cho
giai cấp công nhân giành chính quyền và giữ chính quyền, bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa, là cơ sở lý luận để Đảng ta giải quyết mối quan hệ giữa xây

dựng với bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa từ năm1965 đến năm 1968.
* Lê nin kế thừa, phát triển tư tưởng của Mác và Ănghen về nội dung kết
hợp xây dựng và bảo vệ cách mạng xã hội chủ nghĩa.
V.I.Lênin là học trò xuất sắc của C.Mác và Ph.Ăngghen, Người đã
đứng ra bảo vệ toàn diện và phát triển một số nội dung học thuyết Mác trong
điều kiện chủ nghĩa tư bản chuyển sang chủ nghĩa đế quốc. Một trong những
nội dung mà Lênin phát triển đó là việc kết hợp xây dựng và bảo vệ trong cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Đối với vấn đề này Lênin đã kế thừa và phát triển một
cách sáng tạo tư tưởng vũ trang quần chúng bảo vệ cách mạng xã hội chủ
nghĩa của C.Mác và Ph.Ăngghen phù hợp với những điều kiện lịch sử mới. Từ
thực tiễn công cuộc đấu tranh bảo vệ chính quyền Xô Viết vừa mới giành
được, Lênin đã tổng kết thành lý luận, đã bổ sung những quan điểm của
C.Mác và Ph.Ăngghen về nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ trong cách mạng vô
sản. Đây là cơ sở giúp cho Đảng ta đề ra đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ


11
quốc xã hội chủ nghĩa nói chung, giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và
bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa từ năm 1965 đến năm 1968 nói riêng.
Khi bàn về tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa trên thế giới, trong tác
phẩm Cương lĩnh quân sự của cách mạng vô sản viết cuối năm 1916, Lênin đã
chỉ rõ: “chủ nghĩa xã hội không thể đồng thời thắng lợi trong tất cả các nước.
Trước hết, nó thắng lợi trong một nước, trong khi các nước khác, trong một
thời gian dài nào đó, vẫn còn là những nước tư bản hay tiền tư bản. Tình trạng
đó không những sẽ gây ra những va chạm, mà còn làm cho giai cấp tư sản các
nước khác trực tiếp muốn tiêu diệt giai cấp vô sản chiến thắng của nước xã hội
chủ nghĩa”[28,tr.178]. Vì vậy, Lênin khảng định: “Không cầm vũ khí bảo vệ
nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa, thì chúng ta không thể tồn tại được. Giai cấp
thống trị không bao giờ nhường chính quyền cho giai cấp bị trị. Nhưng giai
cấp bị trị phải chứng minh trên thực tế rằng họ không những có khả năng lật

đổ bọn bóc lột, mà còn có khả năng tự tổ chức, huy động hết thảy để bảo vệ
lấy mình”[32, tr. 165 –166].
Bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ tất yếu, rất quan trọng chống lại mọi âm
mưu và hành động can thiệp, xâm lược của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực
thù địch. Chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội đấu tranh cùng tồn tại trong thế
giới, suy cho cùng là giải quyết vấn đề “ai thắng ai”. Chủ nghĩa xã hội chỉ có
thể thắng chủ nghĩa tư bản bằng “năng suất, chất lượng”. Chính tiền đề cơ bản
đó đòi hỏi phải xây dựng nội lực tự mình vươn lên bảo vệ lấy chính mình và
chiến thắng kẻ thù trong cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc. Với cách
tiếp cận trên Lênin đã khảng định giai cấp thống trị không bao giờ từ bỏ lợi
ích của chúng. Do vậy, những người vô sản phải cầm vũ khí giành lại quyền
lợi của chính mình, và bảo vệ quyền lợi của cộng đồng mình sinh sống, bảo vệ
chế độ tốt đẹp mình vừa xây dựng lên. Theo Lênin, nhưng để duy trì xã hội tốt
đẹp đó phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa.


12
Ngay sau khi cách mạng Tháng Mười thắng lợi, Lênin đã nêu lên sự
cần thiết phải tỏ rõ thái độ của giai cấp công nhân đối với vấn đề xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, Người khảng định tính tất yếu khách quan
phải giải quyết mối quan hệ giữ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa,
Lênin tuyên bố: “Kể từ ngày 25 Tháng mười 1917. Chúng ta tán thành “ bảo
vệ Tổ quốc”, những cuộc chiến tranh giữ nước mà chúng ta đang đi tới là một
cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chủ nghiã xã hội với
tính cách là một đơn vị trong đạo quân thế giới của chủ nghĩa xã hội”[30, tr.102].
Trong phát triển lý luận về giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo
vệ cách mạng vô sản của Mác - Ăngghen, Lênin đã trình bày khá toàn diện
đến khả năng phòng thủ đất nước, đặc biệt là vấn đề xây dựng và củng cố
quốc phòng. Theo Người muốn bảo vệ được Tổ quốc xã hội chủ nghĩa phải

tăng cường khả năng phòng thủ đất nước trong thời gian hoà bình, càng phải
đầu tư thích đáng trong thời chiến. Người khẳng định: “Chính vì chúng ta chủ
trương bảo vệ Tổ quốc, nên chúng ta đòi hỏi phải có một thái độ nghiêm túc
đối với vấn đề khả năng quốc phòng và đối với vấn đề chuẩn bị chiến đấu của
nước nhà.”[29, tr. 480 – 484] . Lênin chỉ rõ, xây dựng và củng cố quốc phòng
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là một việc làm vô cùng quan trọng của Nhà
nước chuyên chính vô sản và cũng là nghĩa vụ của toàn dân, chứ không phải
của một tổ chức cá nhân nào. Chỉ có giải quyết tốt mối quan hệ giữa xây dựng
và củng cố quốc phòng bảo vệ Tổ quốc thì chúng ta mới chiến thắng kẻ thù,
do vậy mọi người phải có thái độ nghiêm túc trong giải quyết mối quan hệ
này:
Người nhấn mạnh: “ Nghĩa vụ tuyệt đối của toàn thể quần chúng lao động là
đem hết sức mình ra để khôi phục và tăng cường khả năng quốc phòng của đất
nước”[29, tr.36], “Mọi người phải có thái độ nghiêm túc đối với quốc
phòng”[29, tr358].
Để giải quyết được mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa theo Lênin phải đặc biệt coi trọng phát huy bản chất chế độ xã


13
hội chủ nghĩa, mặt khác phải thực hiện thắng lợi công cuộc cải tạo và xây
dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật mới, có khả
năng không ngừng hiện đại hoá vũ khí trang bị để bảo vệ đất nước. Bởi lẽ chủ
nghĩa đế quốc đem quân xâm lược, chúng mang theo quân đội nhà nghề với
các loại vũ khí trang bị hiện đại hơn nước chúng định xâm chiếm đến nhiều
lần, muốn bảo vệ nền độc lập vững chắc, theo Lênin phải thành lập quân đội
công nông thường trực, chính quy và quy mô lớn để tiến hành chiến tranh
chống kẻ thù, nếu không làm điều đó chắc chắn chúng ta sẽ bị diệt vong.
Lênin đã đặt nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa đi đôi với nhiệm vụ
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bởi vì, việc thực hiện thắng lợi cách mạng bạo

lực, đập tan nhà nước tư sản, thiết lập chuyên chính vô sản là một thắng lợi có
ý nghĩa quyết định đối với cách mạng vô sản. Giành chính quyền đã khó, giữ
chính quyền lại khó hơn. Theo Lênin việc giành được chính quyền mới chỉ là
bước đầu của nhiệm vụ cách mạng xã hội chủ nghĩa. Giai cấp công nhân còn
phải tổ chức và lãnh đạo toàn dân xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa đầy đủ về
mọi mặt: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội. Mục đích làm cho phương thức
sản xuất xã hội chủ nghĩa được xác lập, ăn sâu bám chắc vào đời sống xã hội.
Như vậy, bảo vệ Tổ quốc không phải chỉ khi chiến tranh xảy ra mà cần
phải chuẩn bị nghiêm túc trong thời bình, sẵn sàng giành thế chủ động. Sự
nghiệp xây dựng đất nước, tăng cường khả năng quốc phòng và bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa phải được kết hợp chặt chẽ với nhau, và là yêu cầu tất
yếu. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, là hai
nhiệm vụ riêng biệt, mỗi nhiệm vụ đều có mục tiêu cụ thể riêng, có lĩnh vực
thực hiện riêng, có sự khác nhau về nội dung và hình thức cụ thể của cuộc đấu
tranh “ai thắng ai” giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, nhưng chúng có
mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau, cả hai nhiệm vụ đều nhằm
mục đích chiến lược cơ bản chung là: đảm bảo cho chủ nghĩa xã hội trong
nước tồn tại vững chắc, ngày càng phát triển và đi đến thắng lợi hoàn toàn.
Chính vì vậy trong quá trình tiến hành phải luôn luôn gắn liền xây dựng chủ


14
nghĩa xã hội với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Thực hiện tốt nhiệm vụ này
là điều kiện thuận lợi đảm bảo cho việc thực hiện nhiệm vụ kia và ngược lại.
Chính nhờ có sự tác động qua lại đó mới dẫn tới sự đảm bảo cho chủ nghĩa xã
hội tồn tại và phát triển vững chắc, đi đến thắng lợi hoàn toàn.
Trong quá trình thực hiện hai nhiệm vụ này phải vận dụng sáng tạo lý
luận vào thực tiễn, kịp thời, kiên quyết điều chỉnh vị trí của từng nhiệm vụ
trong từng giai đoạn thích hợp sát với thực tiễn của giai đoạn đó. Làm như vậy
mới đảm bảo cho chủ nghĩa xã hội được xây dựng và bảo vệ vững chắc. Với

lý luận trên được Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng một cách sáng tạo vào
định ra chủ trương đường lối đúng đắn giải quyết tốt mối quan hệ giữa xây
dựng với bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa từ năm 1965 đến năm 1968.
* Chủ tịch Hồ Chí Minh bàn về mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ
đất nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người con ưu tú nhất của dân tộc Việt Nam đã
tiếp thu truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc và nâng lên một tầm
cao mới. Người đã giải quyết tốt mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa.
Thấu suốt quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc, sau khi nhân dân ta giành được chính quyền, trong Tuyên ngôn độc
lập ngày 2/ 9/ 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố: “Toàn thể dân tộc Việt
Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ
vững quyền tự do, độc lập ấy”[43, tr.555]. Khi kẻ thù trở lại xâm lược nước ta
một lần nữa, Người kêu gọi: “Tất cả quốc dân Việt Nam phải đứng dậy bảo vệ
Tổ quốc” [44, tr.484]. Hai tháng sau khi đồng bào miền Nam bước vào kháng
chiến, ngày 25 tháng 11 năm 1945, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh ra chỉ
thị “ Kháng chiến kiến quốc”. Thực dân Pháp và các thế lực phản động đang
âm mưu thôn tính nước ta, “cuộc cách mạng Đông Dương lúc này vẫn là cuộc
cách mạng dân tộc giải phóng... Giai cấp vô sản vẫn phải hăng hái, kiên quyết
hoàn thành nhiệm vụ thiêng liêng ấy. Khẩu hiệu vẫn là “Dân tộc trên hết”, “Tổ


15
quốc trên hết”, kẻ thù chính của chúng ta lúc này là thực dân Pháp xâm lăng,
phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng”[66, tr.21].
Chỉ thị đề ra những nhiệm vụ cụ thể về nội dung chính trị, quân sự,
ngoại giao, kinh tế, tài chính, cứu tế, về văn hoá... Đặc biệt chỉ thị nêu rõ
những nội dung về xây dựng Đảng, cải tổ chính phủ, về kháng chiến ở miền
Nam và đoàn kết với nhân dân Lào và Campuchia.

Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc” thể hiện rõ tư tưởng trong khi đặt
nhiệm vụ kháng chiến lên hàng đầu, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn
đặc biệt coi trọng nhiệm vụ xây dựng đất nước về mọi mặt, rằng xây dựng chế
độ mới phải đi đôi với bảo vệ chế độ mới. Phải vừa kháng chiến, vừa kiến
quốc. Kháng chiến để đánh bại thế lực đế quốc xâm lược, kiến quốc để xoá bỏ
tàn dư chế độ cũ, phát triển đất nước, củng cố hậu phương vững chắc. Hai nhiệm vụ
chiến lược này sẽ được giải quyết thấu đáo trong suốt quá trình chiến tranh.
Để tăng cường kiến quốc phục vụ kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh
phát động phong trào tăng gia sản xuất. Người viết: “ Vì cứu quốc, các chiến
sĩ đấu tranh ở ngoài mặt trận, vì kiến quốc, nhà nông phấn đấu ngoài đồng
ruộng. Chiến sĩ ra sức giữ gìn nước non. Nhà nông ra sức giúp đỡ chiến sĩ. Hai
bên công việc khác nhau, nhưng thật ra là hợp tác. Cho nên hai bên đều có
công với dân tộc, đều là anh hùng”[44, tr.114].
Thực hiện chủ trương vừa kháng chiến vừa kiến quốc, Người chỉ đạo
quân và dân ta đã giải quyết cả ba nhiệm vụ diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt
giặc ngoại xâm. Không ngừng củng cố và tăng cường hệ thống chính trị nhằm
thúc đẩy cả hai mặt xây dựng và bảo vệ. Chính vì thế, vùng tự do được bảo vệ,
vùng giải phóng ngày càng được mở rộng, theo đó vùng tạm chiếm bị thu hẹp,
từng bước xây dựng và bảo vệ vững chắc chế độ mới trong vùng ta kiểm soát,
thực hiện được thực túc binh cường và giải quyết vấn đề vũ khí trang bị, kỹ
thuật cho lực lượng vũ trang.
Lực lượng vũ trang của ta từ nhân dân mà ra, đánh giặc bằng các vũ khí
sẵn có, Hồ Chí Minh chỉ đạo cướp súng của địch đánh địch, phát động nhân


16
dân tự tạo, sắm sửa vũ khí, đồng thời xây dựng các công trình, xưởng sản
xuất, sửa chữa vũ khí để chủ động đánh địch. Với khẩu hiệu “Tất cả cho tiền
tuyến, tất cả để chiến thắng”, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương:
“Các mặt công tác chính trị, kinh tế, văn hoá đều nhằm mục đích làm cho

quân sự thắng lợi, đồng thời đấu tranh quân sự phải kết hợp với đấu tranh
chính trị, kinh tế”.
Với chủ trương vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, Đảng ta và Chủ tịch
Hồ Chí Minh giải quyêt đúng đắn mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ đất
nước trong từng thời điểm lịch sử cụ thể, đưa cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp đi tới thắng lợi.
Sau khi miền Bắc hoàn toàn giải phóng, miền Nam vẫn dưới ách thống
trị của đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã giải quyết mối quan hệ giữa cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân miền Nam hết sức sâu sắc. Ngay trong
báo cáo “Tình hình mới, nhiệm vụ mới” tại Hội nghị Trung ương 6, ngày 17
tháng 7 năm 1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Hiện nay đế quốc Mỹ là
kẻ thù lớn của nhân dân thế giới và đang trở thành kẻ thù chính, trực tiếp của
nhân dân Đông Dương, cho nên mọi việc của ta đều nhằm chống đế quốc
Mỹ”[45, tr.319]. Như vậy theo Hồ Chí Minh cách mạng Việt Nam trong giai
đoạn này cần phải tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng, xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh đánh đuổi đế quốc, tay sai để hoàn
thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước. Vị trí vai trò của
mỗi miền khác nhau, nhưng chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động
qua lại với nhau, nhưng đều tập trung vào nhiệm vụ thống nhất nước nhà.
Người chỉ rõ vai trò của miền Bắc trong sự nghiệp đấu tranh thống nhất đất
nước. Trong báo cáo trước Quốc hội ngày 21 tháng 9 năm 1955, Người nhấn
mạnh: “... Nền có vững, nhà mới chắc, gốc có mạnh cây mới tốt. Miền Bắc là
nền tảng, là gốc rễ lực lượng đấu tranh của toàn dân ta, cho nên chúng ta phải
làm cho nó thật vững mạnh”[48, tr.71]. Đối với cách mạng miền Nam, đế


17
quốc Mỹ và chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm trắng trợn phá hoại hiệp định
Giơnevơ đàn áp dã man những người cộng sản và đồng bào yêu nước. Đáp

ứng với yêu cầu của cách mạng miền Nam, Đảng ta ra nghị quyết Trung ương
15 (1959), sau đó là Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III (1960)
đã khảng định hai nhiệm vụ cách mạng Việt Nam. Trong lời khai mạc Đại hội,
Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ Đại hội lần này là “ Đại hội xây dựng chủ nghĩa
xã hội và đấu tranh hoà bình thống nhất nước nhà”[50, tr.198]. Đại hội đã xác
định những nhiệm vụ chung của cách mạng Việt Nam, chỉ rõ nhiệm vụ của
miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội, thuộc chiến lược cách mạng xã hội chủ
nghĩa. Nhiệm vụ của miền Nam là tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân, thuộc chiến lược cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Song cách mạng
hai miền đều có mục tiêu chung là hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân trong cả nước, thực hiện hoà bình thống nhất đất nước và đều nhằm
giải quyết mâu thuẫn tồn tại trong phạm vi cả nước là mâu thuẫn giữa nhân
dân ta với đế quốc Mỹ xâm lược cùng bè lũ tay sai của chúng. Hai nhiệm vụ
chiến lược nói trên có quan hệ mật thiết, biện chứng, thúc đẩy lẫn nhau. Trong
đó, nhiệm vụ cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là nhiệm vụ quyết định
nhất đối với sự phát triển của toàn bộ sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Cách
mạng miền Nam có tác dụng quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng
miền Nam và hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ trong cả nước. Đến thời
điểm này, tư tưởng Hồ Chí Minh về giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và
bảo vệ đất nước đã phát triển lên một tầm cao mới đó là tiến hành đồng thời
hai chiến lược cách mạng và trở thành đường lối cách mạng của Đảng. Chủ
tịch Hồ Chí Minh cùng Đảng ta đã vận dụng và xử lý hài hoà quan hệ giữa xây
dựng và bảo vệ đất nước trong điều kiện lịch sử cụ thể.
Thực hiện đường lối tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng của
Đảng, miền Bắc xã hội chủ nghĩa đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình
“vừa là căn cứ địa cách mạng của cả nước, vừa là hậu phương lớn của cuộc


18
kháng chiến chống Mỹ, vừa là tiền tuyến trực tiếp chiến đấu ác liệt với máy

bay và tàu chiến Mỹ”[3, tr.215].
Tư tưởng Hồ Chí Minh về kháng chiến và kiến quốc, xây dựng và bảo
vệ đất nước đã thể hiện trong đường lối cách mạng của Đảng trong suốt nửa
thế kỷ qua. Quán triệt tư tưởng của Người, Đảng ta đã giải quyết nhuần
nhuyễn, sáng tạo quan hệ giữa hai lĩnh vực xây dựng và bảo vệ, trong những
điều kiện lịch sử cụ thể. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm
lược, chúng ta mới giành được độc lập, chính quyền còn non trẻ và kẻ thù hãy
còn đang ở trên đất nước ta. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nói
chung, những năm 1965 -1968 nói riêng, tư tưởng của Người về giải quyết
mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ đất nước được toả sáng trong điều kiện
miền Bắc hoàn toàn giải phóng, miền Nam vẫn trong sự thống trị của đế quốc
Mỹ và tay sai. Việc Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam giải quyết mối
quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ đất nước ở từng thời điểm đó có sự khác
nhau và không ngang nhau. Bởi lẽ nhiệm vụ giải phóng dân tộc chúng ta chưa
hoàn thành, do vậy theo Người phải được đặt lên hàng đầu. Trong những năm
1965 - 1968, Hồ Chí Minh và Đảng ta chủ trương tiếp tục xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở miền Bắc trong điều kiện có chiến tranh. Theo Người có thực hiện
như vậy mới tạo ra tiềm lực, sức mạnh để đánh thắng kẻ thù xâm lược, mặt
khác đây chính là cơ sở để ta xây dựng chế độ mới cơ bản lâu dài. Thực hiện
bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa đó chính là tổ chức phòng thủ, bảo vệ thành
quả cách mạng, vừa tổ chức đánh trả các hoạt động phá hoại của địch bảo vệ
chế độ mới, vừa đưa sức người, sức của ra tiền tuyến để đánh thắng đế quốc
Mỹ. Qua nghiên cứu tư tưởng của Người ta thấy xây dựng và bảo vệ đất nước
có mối quan hệ biện chứng với nhau, vị trí vai trò của từng nhiệm vụ cụ thể
trong từng giai đoạn lịch sử có sự khác nhau. Có xây dựng được vùng tự do,
xây dựng được miền Bắc xã hội chủ nghĩa vững mạnh mới có đủ sức mạnh
chiến thắng kẻ thù. Ngược lại, có đánh bại được mọi âm mưu chiến lược của
địch mới có thể bảo vệ vững chắc vùng tự do và hậu phương chiến lược, tiến



19
tới giải phóng hoàn toàn Tổ quốc. Đây là cơ sở lý luận để Đảng ta lãnh đạo
giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa
trong giai đoạn 1965 –1968.
1.1.2. Cơ sở thực tiễn
* Truyền thống dựng nước đi đôi với giữ nước của dân tộc Việt Nam.
Đất nước Việt Nam, đất không rộng, người không đông, nhưng có vị trí
chiến lược vô cùng quan trọng, là cửa ngõ của Đông Nam Á, là đầu mối giao
thông thuận tiện kể cả đường thuỷ và đường bộ từ Bắc xuống Nam, từ Đông
sang Tây. Mặt khác lại có tài nguyên thiên nhiên vô cùng phong phú, khí hậu
nhiệt đới gió mùa, cây cối quanh năm xanh tốt. Chính vì thế mà nước ta
thường xuyên bị kẻ thù nhòm ngó và tiến hành xâm lược.
Lịch sử nước ta đã ghi lại nhiều triều đại phong kiến phương Bắc đem
hàng chục vạn quân sang xâm lược nước ta để mở rộng bờ cõi, tấn công xuống
Đông Nam Á. Chúng đều bị Ông cha ta đánh bại buộc phải rút về nước. Bước
sang thời kỳ cận đại và hiện đại, nhiều đế quốc, thực dân muốn xâm lược nước
ta, điển hình như: Anh, Nhật, Pháp, Mỹ, tiên phong trong hàng loạt các tên đế
quốc, thực dân đó là thực dân Pháp.
Dân tộc Việt Nam mang trong mình dòng máu Lạc Hồng, không sợ hy
sinh gian khổ, anh dũng đấu tranh chống lại kẻ thù xâm lược cho dù chúng
mạnh hơn ta gấp nhiều lần, quyết giành và giữ vững nền độc lập tự do của đất
nước. Qua hàng nghìn năm đấu tranh như vậy nó đã trở thành truyền thống giữ
nước của dân tộc Việt Nam.
Dân tộc Việt Nam không chỉ có truyền thống giữ nước mà còn có bề
dày truyền thống dựng nước. Để xây dựng non sông đất nước ngày càng đàng
hoàng hơn, to đẹp hơn, Ông cha ta phải thường xuyên chống chọi với thiên
nhiên hết sức khắc nhiệt. Từ trong khó khăn đó, ông cha ta đã đoàn kết một
lòng, động viên nhau hăng hái tham gia sản xuất, xây dựng đất nước. Trong
quá trình xây dựng đất nước, Ông cha ta đã không ngừng chăm lo xây dựng
lực lượng vũ trang vững mạnh, xây thành đắp luỹ chống lại sự xâm lăng của



20
bọn đế quốc thực dân. Chính vì ông cha ta đã chuẩn bị kỹ trong thời bình, tích
cực xây dựng lực lương cho nên khi giặc đến Ông cha ta đã đánh thắng được
chúng bảo vệ non sông đất nước.
Lịch sử dân tộc Việt Nam đã chứng minh Ông cha ta thường xuyên giải
quyết tốt mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ đất nước.
Mở đầu cho cuộc chiến tranh bảo vệ đất nước của Ông cha ta là thời Âu
Lạc đã đánh thắng nhà Tần năm 210 trước công nguyên. Tiếp đó nhân dân ta
không chịu khuất phục trước ách đô hộ của bọn phong kiến phương Bắc đã
nổi dậy tiến công chúng bằng tất cả những thứ vũ khí hiện có. Tiêu biểu là các
cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, lý Bí, Triệu Quang Phục, Mai Thúc Loan,
Khúc Thừa Dụ... Dưới sự lãnh đạo của Ngô Quyền năm (938), nhân dân ta đã
đánh bại quân Nam Hán giành độc lập dân tộc. Tiếp đó sau chiến thắng quân
xâm lược nhà Tống, Lê Hoàn lên ngôi đã không ngừng chăm lo xây dựng
củng cố đất nước tạo ra tiềm lực quân sự, kinh tế mạnh làm cho kẻ thù không
dám sang xâm lược.
Thời kỳ Lý, Trần, dưới sự trị vì của các Vua anh minh đã giải quyết tốt
mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ đất nước đạt được những thành tựu vô
cùng to lớn. Trong thời bình động viên nhân dân hăng say sản xuất phát triển
kinh tế. Quan điểm của các vị vua rất rõ ràng: “Thực túc binh cường”. Nhà
nước phong kiến tập trung giải quyết các vấn đề trước mắt đảm bảo đời sống
cho nhân dân. Tích cực đắp đê chống lũ lụt, làm thuỷ lợi, khai hoang phục
hoá, xây dựng các vùng chiến lược sẵn sàng đánh thắng khi giặc sang xâm
lược nước ta. Bên cạnh đó Nhà nước phong kiến đã chủ động phát triển các
làng nghề vừa phục vụ cho đời sống nhân dân, vừa sản xuất vũ khí, phương
tiện phục vụ cho tình huống đất nước có giặc ngoại xâm. Về chiến thuật của
ông cha ta cũng thể hiện vừa xây dựng vừa bảo vệ. Khi có chiến tranh thực
hiện kế “vườn không nhà trống” tích cực đánh phá các khu vực hậu cần của

địch, làm cho chúng suy yếu, tạo cơ hội cho ta đánh thắng chúng.


21
Một trong những kế sách giữ nước mà Hưng Đạo Vương Trần Quốc
Tuấn căn dặn cho đời sau đó là: Nên dùng tướng giỏi, Vua tôi đồng lòng, anh
em hoà thuận, cả nước góp sức, lấy khoan thư sức dân làm kế sâu gốc bền rễ.
Để có nhiều nhân lực tăng gia sản xuất, Triều đại Lý, Trần đã thực hiện chính
sách: “Ngụ binh ư nông” tức là gửi quân vào trong nhà dân vừa đảm bảo đời
sống cho nhân dân, vừa huy động lực lượng khi có chiến tranh xẩy ra. Chính
sách “Ngụ binh ư nông” đã giúp cho triều đình tổ chức xây dựng lực lượng tạo
nên sức mạnh phù hợp với nghệ thuật “lấy nhỏ thắng lớn, lấy ít địch nhiều”,
“lấy đoản chế trường, lấy yếu trị mạnh”. Chính vì có chính sách đúng đắn như
vậy cho nên đã xây dựng đất nước khá vững chắc, bảo vệ nền độc lập trong
thời gian tương đối dài. Kế tiếp theo các đời Vua sau đó rất chăm lo xây dựng
và bảo vệ đất nước.
Quy luật của chiến tranh là mạnh được yếu thua, chiến tranh là cuộc đọ
sức toàn diện của các bên tham chiến, lịch sử dân tộc Việt Nam chứng minh
khi nào Ông cha ta giải quyết tốt mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ đất
nước thì nền độc lập dân tộc được vững chắc bền lâu. Khi nào giải quyết
không tốt mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ đất nước thì đất nước suy
vong, lòng dân ly tán, giai cấp thống trị không thể phát huy sức mạnh tổng
hợp để xây dựng và bảo vệ đất nước. Hồ Quí Ly là một điển hình trong lịch sử
dân tộc Việt Nam, chỉ chăm lo xây thành đắp luỹ, rèn binh luyện tướng, không
chú ý đến xây dựng thế trận lòng dân, không biết sử dụng người hiền tài, chỉ
lo vun vén lợi ích của giai cấp thống trị nên đã bị giặc Minh xâm lược một
cách dễ ràng. Cuối thế kỷ XIX, triều đình nhà Nguyễn đã không giải quyết tốt
mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ đất nước, do vậy đã bị thực dân Pháp
từng bước thôn tính nước ta.
Từ những thành công và thất bại trong lịch sử dựng nước và giữ nước

của dân tộc ta đã để lại những bài học có tính lịch sử.
Nhận thức đúng quy luật dựng nước và giữ nước, vận dụng vào từng
thời kỳ lịch sử phù hợp đặt nhiệm vụ giữ nước hay dựng nước lên trên.


22
Chăm lo xây dựng thế trận lòng dân, khơi dậy lòng yêu nước, ý chí tự
lực tự cường của dân tộc Việt Nam.
Giai cấp thống trị phải có đường lối chính sách phù hợp với lòng dân,
chăm lo đời sống, vật chất tinh thần của nhân dân, phát huy sức mạnh tổng
hợp giải quyết tốt mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ đất nước.
Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng và phát triển những kinh
nghiệm của ông cha ta trong dựng nước và giữ nước lên một tầm cao mới,
đánh đuổi đế quốc, thực dân làm nên những trang sử hào hùng của dân tộc.
Sau khi cả nước thống nhất quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, truyền thống dựng
nước và giữ nước được Đảng vận dụng và xác định: Xây dựng chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam
trong giai đoạn mới.
* Thực tiễn miền Bắc từ giữa năm 1964 đến đầu năm 1965.
Sau năm 1954, miền Bắc đã cơ bản hoàn thành cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân, bước vào thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Miền Nam
nằm trong ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động tay
sai. Kể từ sau phong trào Đồng khởi (1960), lực lượng cách mạng miền Nam
phát triển mạnh mẽ. Nhân dân miền Nam kết hợp đấu tranh chính trị với đấu
tranh vũ trang, đánh đổ chính quyền địch ở nhiều nơi, giành quyền làm chủ,
hình thành vùng giải phóng rộng lớn, xây dựng nên Mặt trận dân tộc giải
phóng miền Nam Việt Nam. Cách mạng miền Nam phát triển nhẩy vọt,
chuyển từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công, đồng thời làm cho cuộc
“chiến tranh đơn phương”của Mỹ bị thất bại. Để cứu vãn tình thế suy sụp, đế
quốc Mỹ chuyển sang thực hiện chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, đây là một

hình thức của chiến tranh thực dân kiểu mới với hai thủ đoạn chính là: Tăng
cường lực lượng nguỵ quân do cố vấn Mỹ chỉ huy để tiêu diệt lực lượng vũ
trang cách mạng và ra sức thiết lập “ấp chiến lược” để gom dân, bình định
nông thôn. Bằng cách đó, chúng hy vọng tạo ra ba chỗ dựa cơ bản cho “ Chiến
tranh đặc biệt là:


23
+Nguỵ quyền mạnh lên.
+Hệ thống “ấp chiến lược rộng khắp”.
+Các đô thị ổn định.
Nhưng đến năm 1964, đứng trước một thực tế phong trào cách mạng
miền Nam ngày càng phát triển mạnh mẽ, nguỵ quyền Sài gòn khủng hoảng
triền miên, “Chiến tranh đặc biệt” có nguy cơ thất bại. Bộ trưởng Quốc phòng
Mỹ Macnamara đã đến Việt Nam để khảo sát tình hình nhằm tháo gỡ khó
khăn cho quân ngụy. Qua khảo sát tình hình Bộ Quốc phòng Mỹ dự kiến hai khả
năng:
Một là: Tăng cường sử dụng quân sự của chúng để tiêu diệt lực lượng
cách mạng miền Nam làm cho tình hình miền Nam có lợi cho đế quốc Mỹ và
tay sai.
Hai là: Thông qua con đường thương lượng để cứu vãn tình hình, duy
trì được lực lượng quân nguỵ, biến miền Nam thành căn cứ quân sự và thuộc
địa kiểu mới của chúng.
Căn cứ vào tình hình cụ thể, Mỹ chọn khả năng tăng cường lực lượng
quân sự ở miền Nam Việt Nam, bằng cách đưa quân đội viễn chinh vào trực
tiếp xâm lược miền Nam Việt Nam. Từ tháng 3/ 1965, Hội đồng an ninh quốc
gia Mỹ quyết định đẩy mạnh việc đưa quân Mỹ sang miền Nam nước ta, tung
vào miền Nam những lực lượng tinh nhuệ nhất của chúng. Cùng với việc đổ
quân vào miền Nam Việt Nam, đế quốc Mỹ đã tiến hành chiến tranh phá hoại
miền Bắc, với mục đích làm cho chính quyền ngụy ở miền Nam đứng vững,

đồng thời ngăn chặn sự chi viện từ miền Bắc cho miền Nam.
Thực hiện âm mưu đó, ngày 12/6/1964 Mỹ cho máy bay trinh thám phá
hoại thuộc địa bàn của huyện Tĩnh Gia Thanh Hoá, ngày 30/6/1964 chúng tập
kích vào nhà máy điện Đồng Hới (Quảng Bình). Đêm 4/8 rạng ngày 5/8/1964
chúng gây ra “sự kiện vịnh Bắc bộ”, mở màn đánh phá miền Bắc và đến đầu
tháng 2 năm 1965, chúng đánh một cách liên tục, có hệ thống cho đến đầu
tháng 11 năm 1968. Thời kỳ hoà bình miền Bắc chấm dứt, miền Bắc bước vào


24
thời kỳ gay go quyết liệt, thời kỳ vừa làm nhiệm vụ hậu phương của cách
mạng miền Nam, lại vừa làm nhiệm vụ của tiền tuyến, trực tiếp đánh trả
những hành động chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế
quốc Mỹ.
Tuy ngày 5/8/1964 là ngày mở màn, nhưng đế quốc Mỹ đã có những
âm mưu và hành động phá hoại miền Bắc nước ta từ rất sớm. Ngay từ năm
1961, Tổng thống Mỹ Kennơđi đã liên tiếp cử các tướng Mỹ sang miền Nam
nước ta để nghiên cứu tại chỗ về khả năng đưa quân Mỹ vào miền Nam và leo
thang chiến tranh đối với miền Bắc. Trên thực tế, chúng đã đề ra những biện
pháp phá hoại miền Bắc Việt Nam bằng việc thả biệt kích, đưa người vào thu
thập tình báo, gây chiến tranh tâm lý...Trong những năm tiến hành “chiến
tranh đặc biệt”(1961 - 1964), chúng đã tung vào miền Bắc khoảng 60 toán
gián điệp, biệt kích hoạt động phá hoại. Ngày 22/1/1964, Hội đồng an ninh
quốc gia Mỹ thông qua Kế hoạch tác chiến 34- A bí mật hoạt động tình báo,
gây chiến tranh tâm lý, phá hoại, đồng thời dùng máy bay bắn phá vùng giải
phóng Lào, dọc đường Trường Sơn để đe doạ ta và ngăn chặn sự chi viện của
miền Bắc cho cách mạng miền Nam. Tháng 2 năm 1964, kế hoạch tác chiến
được Mỹ chính thức thực hiện. thực hiện kế hoạch A - 34 đánh phá miền Bắc
bằng không quân và hải quân đã tiến triển tới mức có sẵn danh sách các mục
tiêu có thể lựa chọn để đánh ngay trong năm 1964.

Trước tháng 8/ 1964, tức là trước khi mở màn gây ra chiến tranh phá
hoại, đế quốc Mỹ đã do thám bằng máy bay U.2, bắt cóc nhân dân miền Bắc
để lấy tin, cho quân nhẩy dù hoặc thả biệt kích từ ngoài biển vào để phá hoại
đường sắt, cầu cống và nhiều cơ sở khác. Chúng cho tàu biệt kích, tàu tuần tra
bắn phá dọc bờ biển nhằm gây ra thiệt hại về kinh tế cho ta và gây rối loạn về
mọi mặt. Nhịp độ các vụ tiến công đó nâng dần, theo ý đồ của chúng là để tiến
tới đánh phá mạnh các mục tiêu thuộc nền kinh tế và công nghiệp ở miền Bắc.
Song song với quá trình khiêu khích, đế quốc Mỹ tiến hành thăm dò dư luận,
gây sức ép, đe doạ. Với những hành động mới trên đây đã đánh dấu cuộc


25
“chiến tranh đặc biệt” của Mỹ bị thất bại và chúng bắt đầu thực hiện cuộc
“chiến tranh cục bộ”. Từ chỗ dựa vào lực lượng nguỵ quân là chủ yếu, nay
phát triển thành một cuộc chiến tranh dựa vào hai lực lượng là quân đội viễn
chinh Mỹ và nguỵ quân tay sai được trang bị hiện đại, trong đó quân viễn
chinh Mỹ đóng vai trò chủ yếu tại chiến trường miền Nam.
Trước hành động chiến tranh mới của đế quốc Mỹ, đã đẩy chiến tranh ra
miền Bắc, như vậy cả nước trong trạng thái có chiến tranh với hình thức và
mức độ khác nhau ở mỗi miền.
Miền Bắc bước vào thời kỳ gay go quyết liệt, thời kỳ vừa thực hiện
nhiệm vụ hậu phương của miền Nam, vừa làm tròn nhiệm vụ tiền tuyến, trực
tiếp đánh trả những hành động leo thang chiến tranh phá hoại bằng không
quân, hải quân của đế quốc Mỹ. Về phía Mỹ coi chiến tranh ở miền Bắc là
một bộ phận nhằm bổ sung cho cuộc “chiến tranh cục bộ”. Theo đó ngày 17/2
đến ngày13/6/1965, Mỹ đã thực hiện kế hoạch “Sấm rền” đánh phá từ vĩ tuyến
17 đến vĩ tuyến 20, các mục tiêu đánh phá gồm: doanh trại quân đội, kho tàng
quân sự hậu cần, các trục đường giao thông, một số công trường, nông trường
xí nghiệp từ Vinh đến Thanh hoá. Từ ngày 16/6/1965 đến ngày 21/2/1967, đế
quốc Mỹ phối hợp và mở hai cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965 - 1966

và 1966 -1967 ở miền Nam, thực hiện leo thang đánh phá ra miền Bắc, chủ
yếu đánh vào hai khu vực Hà Nội và Hải Phòng. Các mục tiêu tấn công là các
khu trung tâm công nghiệp: Việt Trì, Thái Nguyên, Mỏ than Đông Bắc, các
trục đường giao thông chính ở Hà Nội - Hải Phòng, Hà Nội - Lạng Sơn, Hà
Nội - Lào Cai.
Trước hành động mở rộng chiến tranh đánh phá ngày càng ác liệt miền
Bắc của đế quốc Mỹ đã làm cho miền Bắc từ hoà bình chuyển sang có chiến
tranh. Miền Bắc đứng trước những thử thách khắc nhiệt, tiếp tục xây dựng chủ
nghĩa xã hội hay tạm dừng và nếu tiếp tục thì bằng cách nào. Nhiệm vụ xây
dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa đặt ra nhiều vấn đề đòi hỏi Đảng ta
và Chủ tịch Hồ Chí Minh cần giả quyết, mà trước hết là phải nhận thức và giải


×