Tải bản đầy đủ (.pdf) (37 trang)

Phương pháp luận nghiên cứu khoa học (Tài liệu dùng cho các lớp cao học thạc sĩ) Phần 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (765 KB, 37 trang )

Chương III
TIẾP CẬN VÀ SÁNG TẠO KHOA HỌC

I. PHƯƠNG PHÁP LUẬN VỚI TƯ CÁCH LÀ THẾ GIỚI KHÁCH
QUAN
Sự phát triển của khoa học hiện đại không những đem lại cho con người
những hiểu biết sâu sắc về thế giới, mà còn đem lại cho con người cả những hiểu
biết về phương pháp nhận thức thế giới, ngày nay cùng với bản thân khoa học
người ta chú ý tới phương pháp nhận thức khoa học.
Nghiên cứu khoa học là hoạt động tìm tòi khám phá bản chất và các quy
luật vận động của thế giới, quá trình này được tổ chức hết sức chặt chẽ, luôn
phải chọn lọc và sử dụng các phương pháp nghiên cứu. Phương pháp gắn liền
với hoạt động có ý thức của con người, là một trong những yếu tố quyết định sự
thành công của hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới.
Phương pháp là phạm trù phức tạp, có phạm vi bao quát rộng, với nhiều
cấp độ và rất phong phú về nội dung và chủng loại. Phương pháp nghiên cứu
khoa học có ba đặc trưng quan trọng:
+ Một là: Phương pháp luôn gắn với những tư tưởng cơ bản, có tính
nguyên tắc, định hướng chỉ đạo hoạt động, đó chính là các quan điểm tiếp cận
đối tượng, là thế giới quan của nhà nghiên cứu.
+ Hai là: Phương pháp là một hệ thống các phương thức hoạt động, bao
gồm thủ pháp, các thao tác hoạt động có tính kỹ thuật. Đó là các phương pháp
cụ thể.
+ Ba là: Phương pháp là hệ thống các quy trình hoạt động, là trình tự các
bước đi, bao gồm logíc tiến trình và lôgíc nội dung của hoạt động. Phương pháp
có tính quy trình.
Như vậy, phương pháp nghiên cứu khoa học có liên quan tới ba vấn đề
quan trọng. Phương pháp luận, phương pháp cụ thể và lôgíc tiến hành các công
trình khoa học.
Trong nghiên cứu khoa học phương pháp và phương pháp luận là hai khái
niệm gần nhau nhưng không đồng nhất, Phương pháp luận là hệ thống các quan


điểm, nguyên tắc chỉ đạo chủ thể xác định con đường và phạm vi nghiên cứu.
Phương pháp là cách thức, thủ đoạn hoạt động cụ thể của chủ thể. Cái thứ nhất

45


thuần túy lý luận, cái thứ hai vừa lý luận vừa thực tiễn, cái thứ nhất chỉ đạo cái
thứ hai, cái thứ hai xuất phát từ cái thứ nhất trong sự thống nhất chung.
Các quan điểm phương pháp luận nghiên cứu khoa học có tính lý luận cho
nên thường mang màu sắc Tiết học, tuy nhiên nó kkhông đồng nhất với Triết
học. Phương pháp luận nghiên cứu khoa học là sự vận dụng các quan điểm Triết
học (như thế giới quan) để tiếp cận và nhận thức thế giới.
Các quan điểm phương pháp luận là một hệ thống, tồn tại với ba cấp độ:
+ Có những quan điểm chung nhất chỉ dẫn hoạt động nhận thức đối với tất
cả lĩnh vực khoa học, đó chính là các quan điểm duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử, nó là nền tảng của mọi tư tưởng học thuật. Quan điểm duy vật biện
chứng là cơ sở xuất phát cho các quan điểm Phương pháp luận chung và Phương
pháp luận chuyên ngành.
+ Có những quan điểm phương pháp luận chung áp dụng cho một nhóm
ngành hay một số lĩnh vực khoa học, thí dụ phương pháp luận nghiên cứu khoa
học xã hội, phương pháp luận nghiên cứu khoa học Tự nhiên hay Kỹ thuật…
+ Có những quan điểm riêng dùng cho bộ môn, một chuyên ngành cụ thể.
Thí dụ: Phương pháp luận nghiên cứu Toán học, phương pháp luận nghiên cứu
Kinh tế, phương pháp luận nghiên cứu Tâm lý học…
Sau đây chúng ta sẽ nghiên cứu các quan điểm phương pháp luận chung
nhất cho các lĩnh vực khoa học.
II. CÁC QUAN ĐIỂM PHƯƠNG PHÁP LUẬN CHUNG NHẤT
TRONG NGHIÊN CỨU KHOA HọC.
1- Phép biện chứng duy vật là cơ sở chung của mọi nhận thức khoa học.
Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất hữu cơ giữa phép duy vật và

phép biện chứng trong nhìn nhận thế giới. Phép biện chứng duy vật là sự kết tinh
của các thành tựu khoa học và các tư tưởng Triết học nhân loại. Phép duy vật là
sự khẳng định vật chất là cái có trước quyết định ý thức, ý thức là sự phản ánh
hiện thực khách quan vào bộ não của con người. Phép biện chứng trình bày một
cách hệ thống tính biện chứng của thế giới bằng các phạm trù và những quy luật
chung của thế giới tự nhiên và rút ra những quan điểm, những quy tắc chỉ đạo
hoạt động của con người.
Phép biện chứng duy vật bao gồm hai nguyên lý, những cặp phạm trù và
những quy luật cơ bản, chúng vừa là cơ sở lý luận và là phương pháp nhận thức
thế giới.

46


+ Hai nguyên lý cơ bản của phép duy vật biện chứng là:
- Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của thế giới chỉ ra cho các nhà nghiên
cứu tính vô hạn của thế giới và tính hữu hạn của các sự kiện, hiện tượng cụ thể
và các mối quan hệ phức tạp của chúng. Nguyên lý này đòi hỏi sự quán triệt tính
hệ thống và toàn diện trong nghiên cứu các hiện tượng của thế giới.
- Nguyên lý về tính phát triển của thế giới chỉ ra rằng mọi sự vật, hiện
tượng đều vận động và biến đổi không ngừng và đều có xu hướng phát triển.
Nghiên cứu khoa học đòi hỏi phải xem xét các sự kiện trong trạng thái vận động
phát triển và biến đổi không ngừng của chúng.
+ Các cặp phạm trù nội dung và hình thức, cái chung và cái riêng, tất nhiên
và ngẫu nhiên, nguyên nhầ và kết quả…là cơ sở phương pháp luận cho việc
nghiên cứu tính toàn diện, chính xác, sâu sắc về các hiện tượng của thế giới.
+ Ba quy luật: đấu tranh và thống nhất giữa các mặt đối lập, quy luật
chuyển hóa từ những biến đổi về lượng thành những biến đổi về chất, quy luật
phủ định của phủ định chỉ đạo quá trình nghiên cứu theo quan điểm toàn diện,
phát triển của lsịch sử để tìm ra nguồn gốc, động lực, con đường và xu hướng

phát triển của thế giới.
Các nguyên lý, phạm trù, quy luật của phép biện chứng duy vật có ý nghĩa
phương pháp luận cực kỳ quan trọng, chúng cần được vận dụng vào cả trong
nhận thức khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và hoạt động thực tiễn. Các nhà
khoa học chỉ có đứng trên lập trường duy vật biện chứng để nghiên cứu thế giới
mới có thể đạt tới chân lý khách quan.
2 – Quan điểm hệ thống cấut trúc trong nghiên cứ khoa học.
Quan điểm hệ thống cấu trúc là một luận điểm quan trọng của phương pháp
luận nhận thức. Để hiểu rõ và vận dụng đúng đắn quan điểm này ta cần xem xét
các khái niệm sau đây:
+ Hệ thống là tập hợp các thành tố tạo thành một chỉnh thể trọn vẹn, ổn
định và vận động theo quy luật tổng hợp.
Một hệ thống bao giờ cũng có một cấu trúc gồm nhiều thành tố, mỗi thành
tó lại có những cấu trúc nhỏ hơn. Như vậy hệ thống nhỏ bao giờ cũng nằm trong
một hệ thống lớn đó chính là môi trường, giữa hệ thống và môi trường có mối
quan hệ tác động hai chiều.
Mỗi thành tố của hệ thống là một bộ phận có vị trí độc lập, có chứng năng
riêng và luận vận động theo quy luật của toàn hệ thống. Các thành tố của hệ

47


thống có quan hệ biện chứng với nhau bằng quan hệ vật chất và quan hệ chức
năng.
Như vậy thành tố là một bộ phận của một hệ thống, có tính xác định về
chất, có chứng năng riêng. Các thành tố có mối quan hệ, tác động qua lại với
nhau tạo thành một thể thống nhất. Tính chỉnh thể là tính chất cơ bản nhất của
hệ thống bởi vì mỗi thành tố chỉ tồn tại trong mối quan hệ với các thành tố khác
trong hệ thống chung.
Tính hệ thống là thuộc tính, quan trọng của thế giới và chính nó lại là một

trong số quan trọng để đánh giá trình độ phát triển của thế giới. Chính vì vậy,
nghiên cứu khoa học có nhiệm vụ quan trọng là phát hiện tính hệ thống của các
đối tượng.
Tính hệ thống có khía cạnh phương pháp luận và khía cạnh ứng dụng.
Nhận thức đầy đủ về chúng có ý nghía quan trọng đối với cả thực tiễn. Tính hệ
thống trước hết là công cụ phương pháp luận, bởi vì việc nghiên cứu đầy đủ các
thuộc tính và các quy luật có tính hệ thống là cơ sở để xã hội quy trình nhận thức
cho mọi đối tượng phức tạp. Tính hệ thống giá trịn thực tiễn vì nó đem lại giá
trịn thực sự, có thể vận dụng vào thực tiễn sản xuất, nghiên cứu khoa học, kỹ
thuật và quản lý xã hội.
Phương pháp hệ thống là con đường nghiên cứu các đối tượng phức tạp
trên cơ sở phân tích đối tượng thành các bộ phận để nghiên cứu một cách sâu
sắc, để tìm ra tính hệ thống, tính toàn diện của đối tượng. Phương pháp hệ thống
là công cụ phương pháp luận, nó giúp ta nghiên cứu các đối tượng phức tạp và
cho ta một sản phẩm khoa học có cấu trúc lôgíc chặt chẽ.
Quan điểm hệ thống cấu trúc là một luận điểm quan trọng của phương pháp
luận, nó yêu cầu phải xem xét các đối tượng một cách tonà diện nhiều mặt,
nhiều mối quan hệ, trong trạng thái vận động và phát triển, trong những điều
kiện hoàn cảnh cụ thể để tìm ra bản chất và các quy luật vận động của đối tượng.
Quan điểm này chỉ dẫn quá trình nghiên cứu các đối tượng phức tạp bằng
phương pháp hệ thống để tìm ra cấu trúc, phát hiện ra tính hệ thống theo quy
luật của cái toàn thể.
Bản chất của quan điểm hệ thống, cấu trúc có thể tập trung ở mấy điểm:
+ Nghiên cứu các đối tượng phức tạp phải xem hữu cơ của các thành tố
trong hệ thống để tìm ra quy luật phát triển nội tại của hệ thống.
+ Nghiên cứu đối tượng trong mối quan hệ với môi trường, thấy được mối
quan hệ chi pohois giữa đối tượng và môi trường, thấy được tính quy định của
48



môi trường và phát triển những điều kiện cần thiết cho sự phát triển thuận lợi
của đối tượng.
+ Kết quả nghiên cứu phải được trình bày rõ ràng khúc triết, tạo thành một
hệ thống chặt chẽ, có tính logíc cao.
Như vậy nghiên cứu khoa học theo quan điểm hệ thống – cấu trúc cho ta tri
thức đầy đủ toàn diện, khách quan về đối tượng, thấy được mối quan hệ của hệ
thống với các hiện tượng khác, từ đó mà thấy được cái triệt để, khách quan của
tri thức khoa học.
3- Quan điểm lịch sử lôgíc trong nghiên cứu khoa học
Quan điểm lịch sử lôgíc trong nghiên cứu khoa học là một luận điểm quan
trọng của phương pháp luận nghiên cứu khoa học.
Thực hiện quan điểm này một mặt cho phép ta nhìn thấy toàn bộ sự pott
của đối tượng nghiên cứu; sự xuất hiện quá trình diễn biến, phát triển và kết thúc
sự kiện. Giúp ta phát hiện các quy luật phát triển tất yếu của đối tượng, điềm mà
bất cứ hoạt động khoa học nào cũng hướng tới như một mục đích quan trọng
nhất.
Lịch sử là sự vận động có thực của các đối tượng trong thế giới khách
quan. Sự diễn biến lịch sử bao giờ cũng phức tạp, quanh co và đầy mâu thuẫn,
trong những điều kiện hoàn cảnh cụ thể nhất định. Lịch sử có những diễn biến
thành công và có cả những thất bại. Sự diễn biến lịch sử bao giờ cũng xuất phát
từ những nguyên nhân, từ nguyên nhân dẫn đến hệ quả. Điều kiện lịch sử thuận
lợi thúc đẩy nhanh quá trình phát triển của các sự kiện. Sự phát triển của lịch sử
là sự diễn biến khách quan.
Lôgíc là sự phản ánh quá trình phát triển của thực tiễn lịch sử vào ý thức
của con người. Lôgíc là cái tất yếu, là trật tự diễn biến, là con đường ngắn nhất
của sự phát triển lịch sử. Lôgíc là kết quả nhận thức của con người về sự diễn
biến có quy luật của đối tượng. Nghiên cứu khoa học về bản chất là những cố
gắng nhằm phát hiện ra cái lôgíc tất yếu ấy của hiện thực.
Quan điểm lịch sử - lôgic trong nghiên cứu khoa học yêu cầu phải nghiên
cứu đối tượng bằng phương pháp lịch sử. Phát hiện nguồn gốc nảy sinh, quá

trình diễn biến của đối tượng trong những thời gian. Phát hiện nguồn gốc nảy
sinh, quá trình diễn biến của đối tượng trong những thời gian, không gian với
những điều kiện hoàn cảnh cụ thể.

49


Lịch sử và lôgic tuy là hai phạm trù nhưng thống nhất với nhau. Ngiên cứu
khoa học đi từ cái lịch sử để phát hiện cái tất yếu của lịch sử, đó là cái lôgic
khách uqna của sự phát triển lịch sử đó.
Bảo đảm sự thống nhất giữa tính lịch sử và tính lôgic trong nghiên cứu
khoa học chính là tôn trọng lịch sử khách quan, là hiểu triệt để những điều kiện
có thật của mọi sự diễn biến của đối tượng nghiên cứu. Phải phát hiện ra các quy
luật phát triển chung của sự thật lịch sử. Điều đó nói lên ý nghĩa lý luận và ý
nghĩa thực tiễn của quan điểm lịch sử và lôgíc.
4 – Quan điểm thực tiễn trong nghiên cứu khoa học
Quan điểm thực tiễn là luận điểm quan trọng của phương pháp luận, nó yêu
cầu nghiên cứu khoa học phải bám sát sự phát triển của thực tế sinh động.
Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất có tính chất lịch sử - xã hội
của con người làm biến đổi tự nhiên và xã hội. Diễn biến của hiện thực là diễn
biến khách quan, với những sự kiện đa dạng, phức tạp, phát triển nhiều khuynh
hướng, có những thực tiễn tiên tiến, có những thực tiễn yếu kém và có những
mâu thuẫn, những xu hướng chống đối nhau cần giải quyết, khắc phục.
Các sự kiện của thực tiễn là những gợi ý rất quan trọng cho những ý tưởng
của các đề tài khoa học. Nhu cầu giải quyết những mâu thuẫn của thực tiễn là
động lực thúc đẩy quá trình triển khai mọi hoạt động nghiên cứu khoa học.
Nghiên cứu khoa học thực chất là hướng vào khám phá các sự kiện, phát
hiện các quy luật phát triển của hiện thực. Những tri thức này có ý nghĩa to lớn
bởi vì nó hướng tới phục vụ trực tiếp cho cuộc sống của con người. Chính vì thế
mà mọi đề tài nghiên cứu khoa học phải có tính cấp thiết xuất phát từ thực tiễn

và phải có ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn.
Mục đích của nghiên cứu khoa học suy cho cùng về thực chất là tìm ra
phương pháp tốt nhất để cải tạo thực tiễn phục vụ cho cuộc sống của con người.
Nghiên cứu khoa học luôn bám sát thực tiễn, coi thực tiễn là tiêu chuẩn để đánh
giá các sản phẩm khoa học. Khoa học là chân lý chỉ khi nào nó phù hợp với thực
tiến và có giá trị cải tạo thực tiến. Như vậy, thực tiễn vừa là nguồn gốc, vừa là
động lực, vừa là mục tiêu, vừa là tiêu chuẩn để đánh giá sản phẩm nghiên cứu
khoa học.
Quan điểm thực tiễn trong nghiên cứu khoa học có ý nghĩa to lớn, quán
triệt quan điểm thực tiễn vừa có lợi cho khoa học, vừa có lợi cho thực tiễn. Công
cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đang đặt ra cho khoa học rất nhiều

50


vấn đề để nghiên cứu và ngược lại nghiên cứu khoa học phải nhằm vào giải
quyết những vấn đề của thực tiễn, phục vụ cho sự phát triển của nước ta.
III – CƠ CHẾ SÁNG TẠO KHOA HỌC (MECHANISM)
Nghiên cứu khoa học là hoạt động sáng tạo của các nhà khoa học, thường
bắt đầu từ việc xuất hiện những ý tưởng về chủ đề, tiếp đến là những diễn biến
đặc biệt trong tư duy và cuối cùng dẫn đến phát minh. Một vấn đề quan trọng
được đặt ra là cơ chế sáng tạo khoa học nảy sinh và phát triển như thế nào trong
hoạt động tư duy của các nhà khoa học?
Phân tích quá trình phát minh của các nhà khoa học có tên tuổi trong lịch
sử khoa học thế giới và tổng kết các quá trình nghiên cứu sáng tạo trong thực
tiễn hiện đại, ta thấy có ba loại cơ chế sáng tạo sau đây:
1 – Cơ chế trực giác (Intuition)
Trong nghiên cứu khoa học, với các nhà bác học tài năng nhiều khi có các
ý tưởng độc đáo xuất hiện hết sức đột ngột, bỏ qua tất cả các bước, các thao tác
tư duy theo lôgíc thông thường và ngay tức khắc họ nhìn thấy rõ mọi điều cần

thiết. Trong trường hợp này bản thân các nhà khoa học không giải thích được vì
sao và từ đâu nó tới. Họ chỉ biết rằng ở thời điểm ấy ý tưởng xuất hiện như một
“tia chớp” họ rơi vào thời điểm “bừng sáng” nhìn rõ chân lý. Việc “bất ngờ”
xuất hiện một ý tưởng khoa học, một cách giải quyết vấn đề, mà các nhà khoa
học phải vật lộn nhiều năm chưa ra, đó là cái nhảy vọt của tư duy được gọi là
trực giác (hay còn gại là trực cảm).
Trong lịch sử phát minh khoa học có rất nhiều trường hợp như thế. Nhờ
trực giác, con người khám phá nhiều điều kỳ diệu, với những phát minh vĩ đại.
Niutơn phát hiện ra Định luật vạn vật hấp dẫn nhờ quan sát hiện tượng quả táo
rơi. Acsimet ngay trong bồn tắm phát hiện ra quy tắc tính lực đẩy của nước đối
với một vận nhấn chìm trong đó. Gaoxơ nhà toán học nổi tiếng tự thuật: “Việc
giải một bài toán mà toi loay hoay vài năm không xong, bỗng cuối cùng nó đã
đến… nhưng không phải bằng sự cố gắng vất vả… cách giải quyết bất ngờ như
một tia chớp…” (xem: Khái lực về lịch sử và lý luận phát triển khoa học. NXB
Khoa học Xã hội. Hà Nội 1975 tr.128).
Giải thích và đánh giá hiện tượng trực giác này có nhiều cách khác nhau.
Những người theo chủ nghĩa duy tâm, tuyệt đối hóa trực giác, họ khoa họcẳng
định tất cả các phát minh khoa học đều nhờ trực giác. Họ cho rằng trực giác là gì
đó phi lý tính, ngoài lôgíc, đó là sự thành công của cảm hứng, một món quà của
“Thượng đế”.

51


Các nhà khoa học duy vật cho rằng “món quà” này chính là kết quả lao
động không mệt mỏi của bản thân con người, là bước nhảy vọt của tư duy, đã
giải phóng sự kìm hãm của phương pháp cũ, xuất hiện năng lực trí tuyệ đặc biệt
và dẫn đến phát minh. Trực giác là kết quả của sự dồn nén trí tuệ và kiến thức, là
sự “bùng nổ” dựa trên nhiều thao tác tư duy đã phát triển ở nhiều trình độ khác
nhau.

Trực giác là sản phẩm của tài năng, là kết quả của sự tích lũy kiến thức,
đồng thời là kết quả của sự say mê, sự kiên trì lao động sáng tạo. Không có một
phát minh nào lại ngẫu nhiên nằm ngoài tâm hoạt động kiên trì với một định
hướng khoa học nghiêm túc.
2 – Cơ chế Algôrit (Algorithm)
Trong quá trình nghiên cứu khoa học, đặc biệt là trong sáng tạo kỹ thuật, có
thể đạt tới kết quả, khi tư duy của các nhà nghiên cứu tuân thủ các bước đi với
một nguyên tắc, một trật tự tạo thành chuỗi thao tác lôgíc hợp lý. Bản ghi chính
xác trật tự các bước đi để giải bài toán sáng tạo như thế được gọi là một Algôrit
sáng tạo (hay còn gọi là thuật toán).
Theo quan điểm này thì các phát minh khoa học Tự nhiên và kỹ thuật về
thực chất là phát hiện ra các algôrit sáng tạo. Khi ý thức được một bản ghi chính
xác các bước đi lôgíc của một loại công việc, thì cũng có nghĩa là sẽ thực hiện
thành công loại công việc đó.
Tư tưởng cơ bản của algôrit sáng tạo là: các hệ kỹ thuật hình thành và phát
triển không phải ngẫu nhiên, mà theo những quy tắc nhất định, ta có thể nhận
thức được các quy tắc ấy và sử dụng chúng một cách có ý thức, sẽ tránh được
những phép thử - sai một cách vô ích.
Cơ sở để giải quyết một bài toán sáng tạo ly quy luật biện chứng về sự phát
triển của các hệ kỹ thuật. Bài toán sáng tạo được giải bằng cách phân tích một
khối lượng lớn, có khi hàng nghìn các thông tin (Patent) về một giải pháp.
Algôrit giải các bài toán sáng tạo với hệ thống các quy tắc (các thuật chuẩn)
là các cơ chế chủ yếu để hoàn thiện các hệ kỹ thuật. Điều quan trọng là khó
thông tin luôn được bổ sung và chỉnh lý thường xuyên.
Việc giải quyết các bài toán sáng tạo được tiến hành không thể bằng các
phép thử - sai mà phải được tiến hành có kế hoạch. Người ta áp dụng các thuật
toán với những biến đổi đặc biệt bằng các thủ thuật chuyên môn để phá vớ sức ì
tâm lý của lối tư duy truyền thống và tạo nên quá trình tưởng tượng mới có tính
sáng tạo.
52



Nắm vững các quy tắc phát triển của các hệ kỹ thuật cho phép ta không chỉ
giải thích được các bài toán có sẵn, mà còn dự đoán được các khoa họcả năng
xuất hiện các bài toán mới. Các dự đoán này chính xác hơn nhiều so với những
dự đoán nhờ các phương pháp chủ quan. Giải các bài toán sáng tạo gắn liền với
sự phát triển của các hệ kỹ thuật.
Như vậy, các alôrit sáng tạo được chuyển thành lý thuyết phát triển của các
hệ kỹ thuật. Algôrit các công nghệ sáng tạo, một công nghệ quan trọng nhất
trong các công nghệ hiện đại.
3 – Cơ chế Ơristie (Heuristies)
Thông thường nghiên cứu khoa học bắt đầu từ việc phát hiện đề tài. Đề tài
là một vấn đề khoa học được hình thành do phát hiện các mâu thuẫn, các mặt
thiếu sót của lý thuyết hay thực tiễn nào đó. Các mâu thuẫn này không thể giải
quyết được bằng những điều đã biết, đặt các nhà khoa học vào một tình huống
phải nghiên cứu tìm tòi.
Trên cơ sở phân tích nhiều hiện tượng, sự kiện tương tự với hiện tượng mới
phát hiệu, người ta tìm thấy những điều giống nhau và những khác nhau của
chúng. Bằng những tri thức và kinh nghiệm đã có, bằng phép tương tự
(Anology) và trí tưởng tượng mà phỏng đoán bản chất hiện tượng, sự kiện vừa
phát hiện, tức là hình thành một giả thuyết khoa học (Hypothesis)
Từ giả thuyết khoa học, như là một dự báo định hướng, giúp ta tìm cách
chứng minh để khẳng định chính điều phỏng đoán ban đầu ấy. Vậy là quá trình
nghiên cứu khoa học được thực hiện bằng con đường đề xuất và chứng minh
một giả thuyết khoa học về một sự kiện, hiện tượng mới. Con đường sáng tạo
như thế được gọi là sáng tạo theo cơ chế Ơristic.
Vấn đề trung tam của cơ chế sáng tạo Ơristic là đề xuất giả thuyết khoa
học. Giả thuyết khoa học là một giả định, một dự đoán hết sức độc đáo về bản
chất đối tượng nghiên cứu. Để đề xuất một giả thuyết, nhà khoa học phải có
chuyên môn vững chắc, phải có kinh nghiệm hoạt động sáng tạo phong phú và

đặc biệt và phải có năng lực dự đoán.
IV. KỸ NĂNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Bất cứ hoạt động nào, chủ thể hoạt động cũng phải là người thạo việc,
nghiên cứu khoa học là lao động đặc biệt lại càng đòi hỏi sự thành thạo ở mức
độ cao hơn. Sự thành thạo trong nghiên cứu khoa học chính là sự nắm vững các
kỹ năng nghiên cứu.

53


Nghiên cứu khoa học ngoài việc đòi hỏi các nhà khoa học phải có một năng
lực đặc biệt, một uyên bác về kiến trúc, sắc sảo và nhậy cảm trong tư duy, còn
đòi hỏi các nhà phải có một quan điểm tiếp cận đối tượng, có một chiến lược nv
đúng đắn, nắm vững các quy trình lôgic khách quan và sự thành thạo trong sử
dụng các phương tiện kỹ thuật để thu thập, xử lý thông tin và các trình bày các
kết quả nghiên cứu, nghĩa là phải có kỹ năng nghiên cứu. Kỹ năng nghiên cứu
khoa học là khả năng thực hiện thành công các công trình khoa học trên cơ sở
nắm vững các quan điểm phương pháp luận, sử dụng thành thạo phương pháp
và kỹ thuật nghiên cứu.
Kỹ thuật nghiên cứu khoa học bao gồm một tổ chức các cách thức các con
đường nghiên cứu, với nhiều mức độ phức tạp, mà nhà khoa học phải thực hiện
thành thạo. Hệ thống kỹ năng này có thể phân thành ba nhóm sau đây:
Nhóm thứ nhất: Nhóm kỹ năng nắm vững lý luận khoa học và phương
pháp luận nghiên cứu. Ở nhóm này các kỹ năng các kỹ thuật nghiên cứu thể hiện
bắt đầu từ phát hiện đề tài, xây dựng chiến lược và chiến thuật nghiên cứu. Xác
định các cách tiếp cận đối tượng, các quan điểm giải quyết vấn đề, lập đề cương,
xây dựng giả thuyết, tìm lôgic mới, tạo hệ thống mới.
Nhóm thứ hai: Nhóm kỹ thuật sử dụng thành thạo các phương tiện nghiên
cứu cụ thể. Các nhà khoa học phải nắm vững các phương pháp nghiên cứu trong
phạm vi chuyển môn và biết sử dụng chúng một cách hợp lý vào đề tài của

mình. Phương pháp nghiên cứu khoa học là phạm trù phức tạp, nó gao gồm
nhiều thao tác, đơn giản nhất như tìm tư liệu, đến những phương pháp phức tạp
hơn là tác động vào đối tượng thực.
Nhóm thứ ba: Nhóm kỹ năng sử dụng kỹ thuật nghiên cứu, đó là việc các
nhà khoa học phải thành thạo trong việc sử dụng các phương tiện, công cụ kỹ
thuật để thu thập, xử lý và trình bày thông tin khoa học. Việc thu thập thông tin
có thể bằng kỹ thuật quan sát, điều tra, bằng sử dụng các thiết bị máy móc hay
tra cứu các tài liệu lưu trữ… Xử lý thông tin có thể bằng thống kê toán học, có
thể bằng máy vi tính… trình bày thông tin phải đảm bảo đúng các yêu cầu kỹ
thuật, các sơ đồ, biểu đồ chính xác… Nghĩa là trong nghiên cứu khoa học kỹ
thuật cũng cần phải thành thạo.
Tóm lại: kỹ năng nghiên cứu là một hệ thống phức tạp, nhiều thành phần.
Các kỹ năng là điều kiện thiết yếu để thực hiện thành công các công trình nghiên
cứu khoa học.

54


Chương IV
NỘI DUNG CỦA NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

Dù nghiên cứu khoa học thuộc lĩnh vực nào (khoa học tự nhiên, khoa học
kỹ thuật và công nghệ, khoa học xã hội và nhân văn,v.v…), thì suy cho cùng
trong nghiên cứu khoa học cũng đều phải thực hiện một trình tự thao tác sau:
thiết lập và quan sát sự kiện, phát hiện vấn đề nghiên cứu, xây dựng khái niệm,
đặt giả thuyết nghiên cứu và kiểm chứng giả thuyết nghiên cứu.
I. THIẾT LẬP SỰ KIỆN
Vai trò của sự kiện trong nghiên cứu khoa học rất quan trọng. Sự kiện tồn
tại ngay trong tự nhiên và trong đời sống xã hội. Người nghiên cứu thu thập sự
kiện nhừ quan sát, trong hàng loạt trường hợp, người nghiên cứu phải chủ động

là để quan sát. Quan sát đóng một vai trò để xây dựng khái niệm; quan sát để đặt
giả thuyết, và quan sát để kiểm chứng giả thuyết.
II. PHÁT HIỆN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Vấn đề nghiên cứu là những điều chưa biết, hoặc chưa biết thấu đáo về bản
chất sự vật hoặc hiện tượng, cần được là sáng rõ trong quá trình nghiên cứu.
Khi nói đến nghiên cứu khoa học là sự tìn tòi nhằm khám phá quy luật bản
chất của sự vật hoặc hiện tượng, hoặc sáng tạo những giải pháp mới cho mục
đích cải tạo thế goới, thì cũng có nghĩa, nghiên cứu khoa học, trong mọi trường
hợp đều nhằm vào những điều chưa biết (một quy luật chưa biết được khám phá,
một giải pháp chưa được sáng tạo, một hình mẫu chưa được kiểm chứng). Vì
vậy, vấn đề nghiên cứu là một câu hỏi cần được giải đáp trong nghiên cứu. Khi
phát hiện được vấn đề ở người nghiên cứu tất yếu sẽ nảy sinh hàng loạt ý tưởng
giải quyết. Ý tưởng đó được gọi là ý tưởng nghiên cứu, hoặc còn gọi là ý tưởng
khoa học. Đây chính là cơ sở ban đầu đi đến những giả thuyết nghiên cứu.
Con đường hình thành ý tưởng nghiên cứu: Cuối cùng, vấn đề được đặt ra
về mặt phương pháp luận là làm thế nào phát hiện được những vấn đề nghiên
cứu để đến được ý tưởng nghiên cứu? Đối với người nghiên cứu đã có một bề
dày kinh nghiệm, thì rất có thể luôn có những ý tửng nv thường trực trong đầu.
Tuy nhiên, đối với những người nghiên cứu mới bước chân vào con đường
nghiên cứu, thì cách thức hình thành ý tưởng nghiên cứu là một vấn đề đáng
được quan tâm. Đại thể có thể có những con con đường dau đây dẫn đến ý tưởng
nghiên cứu:

55


+ Phát hiện những kẻ hở trong khoa học: Loại ý tưởng này xuất hiện khi
người nghiên cứu bất chợt nhận ra chỗ yếu hoặc những nội dung chưa được giải
quyết trọn vẹn về mặt khoa học trong các tài liệu khoa học trong quá trình viết
nhận xét phản biên cho một công trình khoa học của đồng nghiệp.

+ Nhận dạng những bất đồng trong tranh luận khoa học: Loại ý tưởng này
xuất hiện trong khi tham dự những hội nghị khoa học. Do sự vận động của bộ
não mà trong đầu người nghiên cứu nảy ra những suy luận liên tục trước những
ý kiến tranh luận, những nhận xét phản biện, dẫn đến những ý tưởng hoàn toàn
mới lạ mang bản sắc riêng biệt của mình.
+ Nghĩ ngược lại những quan điểm thông thường: Loại ý tưởng này xuất
hiện tương tự như khi hình thành khách ngồi trên xe chạy với tốc độ nhanh có
cảm giác như mọi vật đều chạy ngược lại hướng xe chuyển động. Về mặt logic
học, đây là sự tìm kiếm môt khái niệm đối lập với khái niệm đang tồn tại, nghĩa
là, đi tìm kiếm một cách phân đôi khái niệm. Dự hình thành nàyvề mọi sự vật
dẫn đến những ý tưởng nghiên cứu thường rất độc đáo cả trong khoa học tự
nhiên, khoa học kỹ thuật và trong khoa học xã hội.
+ Sự nhận dạng những vướng mắc trong hoạt động kinh tế: Nhiều khó khăn
nảy sinh trong hoạt động sản xuất, hoạt động xã hội, không thể sử dụng những
biện pháo thông thường để xử lý. Thực tế này đã đặt trước người nghiên cứu
những câu hổi phải trả lời (xuất hiện vấn đề nghiên cứu), đòi hỏi người nghiên
cứu phải đề xuất những giải pháp mới xuất phát từ việc nghiên cứu tận gốc rễ
những quy luật của sự vật hiện tượng.
+ Sự kêu ca phàn nàn của người không am hiểu: Đôi khi nhiều ý tưởng
nghiên cứu được xuất hiện nhờ sự bắt gặp những lời phàn nàn của những những
người không am hiểu trong lĩnh vực mà người nghiên cứu quan tâm. Khi người
nghiên cứu đã thai nghén những ý tưởng sáng tạo khác nhau, sự bắt gặp nguồn
này đôi khi đưa đến những ý tưởng nghiên cứu sáng tạo bất ngờ.
+ Những ý tưởng khoa học bất chợt xuất hiện: Đây là những ý tưởng khoa
học xuất hiện một cách ngẫu nhiên trong đầu người nghiên cứu không phục
thuộc bất cứ lý do, thời gian hoặc không gian nào.
Điều này cuối cùng đối với người nghiên cứu là:
1) Các ý tưởng khoa học thường xuyên xuất hiện rất nhanh, đôi khi chỉ như
một ý nghĩ thoảng qua trong tư duy về một vấn đề khác. Vì vậy, người nghiên
cứu cần ghi lại ngay vì bộ nhớ sinh học sẽ xóa nhòa đi rất nhanh mọi thông tin

quý giá đó nếu như nó không được giao nhiệm vụ tiếp tục xử lý.

56


2) Ý tưởng nghiên cứu như mang một ý nghĩa thực tế đối với khoa học. Nó
phải được người nghiên cứu tiếp tục phát triển tư duy để nâng lên đến một trình
độ cao hơn. Đó là giả thuyết nghiên cứu.
III- XÂY DỰNG KHÁI NIỆM
Xây dựng khái niệm là công việc đầu tiên của người nghiên cứu, bởi vì
không có sự thống nhất khái niệm thì không thể có ngôn ngữ chung trong tranh
luận khoa học. Trong bất cứ nghiên cứu nào, người nghiên cứu cũng cần phải
chuẩn hóa nhỡng khái niệm vốn đã được sử dụng trong các lĩnh vực khác, thống
nhất hóa những khái niệm được hiểu biết khác nhau trong các lĩnh vực khác
nhau và phải xây dựng những khái niệm hòan toàn mới để đáp ứng cho sự đòi
hỏi của nhiệm vụ nghiên cứu mới.
1. Khái niệm là gì ?
Khái niệm là một hình thức tư duy phản ánh những thuộc tính bản chất và
chúng của một nhóm sự vật trong thế giới quan.
Khái niệm là kết quả của quá trình trừu tượng hóa và khái quát hóa một
nhóm vật trong thế thời khách quan.
Trừu tượng hóa là một phương pháp của tư duy, trong đó chúng ta tách một
mặt riêng lẻ của sự vật ra khỏi những mặt khác, nhằm nhận thức sâu sắc từng
mặt riêng lẻ, trên cơ sở đó tư duy của chúng ta phân tích, so sánh, lựa chọn để
phát hiện ra được mặt của bản chất sự vật hiện tượng.
Nhưng tư duy của con người không dừng lại ở trừu tượng hóa. Sau khi phát
hiện ra được những thuộc tính bản chất của sự vật, tư duy con người có xu
hướng nhìn ra xung quanh xem còn có những sự vật nào nữa cũng có những
thuộc tính bản chất mà ta phát hiện được ở sự vật có chung thuộc tính bản chất.
Đó là sự khái quát của quá trình trừu tượng hóa và khái quát hóa đợpc ghi lại

dưới hình thức khái niệm. Như vậy, khái niệm là sự phản ánh trong nhận thức
cái chung và cái bản chất của một nhóm sự vật mà ta nhận được sau khi trừu
tượng hóa và khái quát hòa tài liệu do thực tiễn cung cấp. Chính vì vậy, khái
niệm là sản phẩm cao nhất của bộ óc con người.
2- Khái niệm và từ
Mỗi khái niệm được biểu hiện dưới ngôn ngữ bằng một cụm từ (tên gọi).
Cần chú ý rằng tên gọi là cái chủ quan và người ta quy ước với nhau. Còn nội
dung của khái niệm là cái khách quan. Nội dung đó của sự vật khách quan quy
định. Nội dung đó không phụ thuộc vào ý muốn của chủ quan. Đó là nội dung

57


khách quan vốn có của sự vật.Chính vì vậy, tên gọi có thể thay đổi, nhưng
không vì thế mà nội dung của khái niệm phải thay đổi theo.
3- Nội hàm và ngoại diên của khái niệm.
Khái niệm gồm 2 bộ phận chính là: Nội hàm và ngoại diên.
Nội hàm: Nội hàm của khái niệm là những hiểu biết về toàn thể thuộc tính
bản chất của sự vật được phản ánh trong khái niệm.
Ngoại diên: Ngoại diên của khái niệm là toàn thể những sự vật có chứa các
thuộc tính bản chất được phản ánh trong khái niệm.
Giữa nội hàm và ngoại diên có quan hệ tỷ lệ nghịch: khi mở rộng ngoại
diên của khái niệm thì những dấu hiệu đặc trưng trong nội hàm của khái niệm bị
thu hẹp và ngược lại, khi thu hẹp ngoại diên của khái niệm thì nội hàm khái
niệm được mở rộng ra.
Thí dụ, khi mở rộng ngoại diện của khái niệm la “bông hoa” ta có hoa
hồng, hoa huệ, hoa lan,v.v… Nhưng nếu ta thu hẹp ngoại diên của khái niệm chỉ
là “hoa hồng” thì ta có hồng nhung, hồng bạch, hồng vàng…
4- Phương pháp định nghĩa một khái niệm:
Công việc của nghiên cứu khoa học buộc người nghiên cứu phải định nghĩa

các kinh nghiệm.
Có nhiều hình thức định nghĩa khái niệm khoa học:
1- Lôgíc hình thức đặc biệt chú ý đến phương pháp định nghĩa một khái
niệm bằng cách quy vào một khái niệm có ngoai diên rộng hơn.
Ví dụ, trong định nghĩa “triết học khoa học về quy luật chung nhất của thế
giới và sự nhận thức thế giới” ta có thể thấy: “triết học” – sự vật cần định nghĩa;
“khoa học” – sự vật gắn bó và có ngoại diên rộng hơn; : quy luật chung nhất” –
nội hàm của sự vật cần định nghĩa.
Tuy nhiên, phương pháp này là vạn năng, bời vì, phương pháp này không
thể sử dụng được khi ta định nghĩa những khái niệm mà không có các khái niệm
khác có ngoại diên rộng hơn. Thí dụ khi định nghĩa các khái niệm phạm trù.
Chẳng hạn như khi ta định nghĩa khái niệm về phạm trù vật chất. Phương pháp
định nghĩa phạm trù vật chất của Lênin là một đóng góp cho khoa học lôgic.
2- Định nghĩa phát sinh là loại định nghĩa trình bày nguồn gốc hình thành
đối tượng. Thí dụ: “Đường tròn là đường cong khép kín được tạo nên bởi điểm
A quay quanh điểm O với khoảng cách không đổi”.

58


3- Định nghĩa mô tả là loại hình định nghĩa làm rõ đối tượng bằng cách liệt
kê các ngoại diên của khái niệm. Thí dụ: “Người thừa kế là những người có
quan hệ hôn nhân hay huyết thống với chủ tài sản, như cha mẹ, vợ chồng, con
cái, anh em ruột…”
Tài sử dụng, phương pháp định nghĩa khái niệm trên, cần chú ý đến các
quy tắc sau đây:
Quy tắc 1: Định nghĩa phải cân đối. Điều đó có nghĩa là ngoại dien của
khái niệm được định nghĩa phải cân đối với ngoại diên của khái niệm để dùng
định nghĩa.
Quy tắc 2: Trong định nghĩa không được nói vòng quanh.

Quy tắc 3: Trong định nghĩa phải chỉ ra những thuộc tính bản chất của đối
tượng dưới hình thức khẳng đinhk.
Thí dụ: Nếu ta định nghĩa: “Lôgic học là khoa học về tư duy”. Đây là một
định nghĩa không cân đối, quá rộng. bởi vị ngoại diên của khái niệm “khoa học
về tư duy” quá rộng so với khái niệm lôgic học.
Nếu ta định nghĩa: “Lôgic học là khoa học về từ duy đúng đắn”, thì một
câu hỏi đặt ra là : “Tư duy đúng đắn là gì?”. Nếu câu trả lời là: “Tư duy đúng
đắn là sự tư duy tuân theo những quy tắ của logic học”. Thì đây là một định
nghĩa nói vòng quanh, ở đây không làm rõ được nội hàm của khái niệm cần
được định nghĩa.
ĐẶT GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU
I- Khái niệm về giả thuyết nghiên cứu
Cũng như việc xây dựng khái niệm, đặt giả thuyết và kiểm chứng giả
thuyết là công việc thiết yếu số một của nghiên cứu khoa học. Thiết những thao
tsac lôgic này thì không co nghiên cứu khoa học. “Giả thuyết là khởi điểm của
mọi nv khoa học, không có khoa học nào mà lại không có giả thuyết”*.
Một giả thuyết có thể được đặt ra phù hợp với quy luật vận động của sự
vật hoặc hiện tượng, song rất có khả năng là giả thuyết được đặt ra không phù
hợp và bị bác bỏ hoàn toàn sau một quá trình nghiên cứu, nhưng đối với nghiên
cứu khoa học, “có một giả thuyết sai còn hơn không có một giả thuyết nào cả”**.
II- Đặc trưng khoa học các giả thuyết nghiên cứu
Giả thuyết nghiên cứu là một kết luận giả định về bản chất của sự vật hiện
tượng mang tính chất định hướng, cần được tiếp tục kiểm chứng. Giả thuyết
không phải chỉ là một mềnh đề đơn giản, mà đồng thời còn là một chân lý, một
59


luận điểm – chân lý được kiểm chứng các sự kiện và luận cứ, và như vậy, giả
thuyết sẽ phải được kiểm chứng”.
Tuy nhiên, một giả thuyết nghiên cứu chỉ có thể mang tính khoa học khi

hội đủ những điều kiện sau:
+ Giả thuyết phải được xây dựng trên cơ sở các sự kiện được quan sát. Nói
như Claude Berarde, giả thuyết phải có điểm tựa trong tự nhiên.
+ Giả thuyết không được trái với những lý thuyết đã được xác nhận tính
đúng đắn về mặt khoa học. Đương nhiên điều này đôi khi lại có thể trở thành
một bi kịch cho khoa học nếu có những quan niệm bị ngộ nhận là đã được xác
nhận về mặt khoa học. Không có cách nào khắc phục khó khăn này tốt hơn là sự
nhẫn nại, tập trung mọi nỗ lực nghiên cứu đế chứng minh giả thuyết một cách
đầy đủ luận cứ khoa học.
+ Giả thuyết được kiểm chứng bằng lý thuyết hay bằng thực nghiệm. Tuy
nhiên không phải giả thuyết nào cũng có thể chứng minh hoặc bị bác bỏ ngay
trong thời đại của nó.
III- Quan hệ giả thuyết nghiên cứu và phán đoán và suy luận lôgic
Về mặt lôgic học, giả thuyết được trình bày dưới dạng một phán đoán khoa
học. Vì vậy, để có thể đạt được giả thuyết một cách đúng đắn, người nghiên cứu
cần nắm vững những kiến thức lôgic học phán đoán. Phán đoán là một thao tác
lôgic nhờ đó người ta nối liền các khái niệm khẳng định khái niệm này là hoặc
không phải là khái niệm kia.
3.1- Phán đoán
a) Phán đoán đơn
Phán đoán là một hình thức của tư duy nhằm khẳng định hay phủ định một
thuộc tính nào đó của sự vật hay hiện tượng trong thế giới khách quan.
Lôgic hình thức phân chia phán đoán đơn thành 4 loại sau:
+ Phán đoán khẳng định toàn thể, có hình thức lôgic là: Mọi S và P.
+ Phán đoán khẳng định một bộ phận, có hình thức lôgic là: Một số S là P.
+ Phán đoán phủ định toàn thể, có hình thức lôgic là: Không S nào là P.
+ Phán đoán phủ định một bộ phận, có hình thức lôgic là : Một số D không
là P.

60



Người ta quy ước lấy chữ cái A và I để chỉ các phán đoán khẳng định toàn
thể và khẳng định bộ phận, lấy chữ cái E và O để chỉ các phán đoán phủ định
toàn thể và phủ định bộ phận:
A = mọi S là P; I = Một số S là P; E = Không S nào là P; O = Một số S
không là P.
Mối quan hệ các phán đoán trên được biểu diễn trên hình như sau:
Từ sơ đồ trên ta thấy quan hệ giữa A với I (cũng như E với O) như sau:
A

đ

s

s

I

đ

?

s

Tương tự ta suy ra các quan hệ khác giữa A và E; I và O; A và O; E và I.
b) Phán đoán phức
Trong phần này ta nghiên cứu việc kết hợp các phán đoán đờn thành phán
đoán phức. Ta ký hiệu các phán đoán bằng các chữ cái A,B,C,… Mỗi phán đoán
đơn này có giá trị lôgic hoặc là đúng, hoặc lài sai. Các phán đoán phức có giá trị

lôgic đúng hay sai phụ thuộc vào các giá trị của các phán đoán thành phần.
Lôgic hình thức nghiên cứu các phán đoán sau:
a) A ∧ B (đọc là : A và B) được định nghĩa như hình (hình 1):
b) A ∨ B (đọc là: A hoặc B) được định nghĩa như sau (hình 2):
A
đ
đ
s
s

B
đ
s
đ
s
Hình 1

A∧B
đ
s
s
s

A
đ
đ
s
s

B

đ
s
đ
s
Hình 2

A∨B

đ
đ
đ
s

c) A ∨ B (đọc là: A hoặc B) được định nghĩa như sau (Hình 3):
d) A → B (đọc là: nếu A thì B) được định nghĩa như sau (Hình 4):
A
B
A∨B
đ
đ
s
đ
s
đ
s
đ
đ
s
s
s

e) Điều kiện cần và đủ:

A
đ
đ
s
s

Chúng ta nghiên cứu một số định nghĩa sau:
61

B
đ
s
đ
s

A→B

đ
s
s
đ


- Định nghĩa 1: A gọi là Điều kiện cần của B
Có định nghĩa là, nếu không có A thì không có B ( A → B ).
- Định nghĩa 2: A gọi là Điều kiện đủ của B, có nghĩa là nếu có A thì tất
yếu của B (A → B).
- Định nghĩa 3: A gọi là Điều kiện cần nhưng không đủ của B, có nghĩa là,

nếu không có A thì không có B, những nếu có A thì chưa hẳn đã có B.
Thí dụ: Không có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách mạng.
A

B

A→B

B→A

A→B

A (B → A)

đ

đ

đ

đ

đ

đ

s

s


đ

s

s

đ

đ

s

s

s

s

đ

đ

đ

Biểu thức (A → B) A (B → A) được ký hiệu là A⇔B, cho nên ta có bảng
định nghĩa sau:
A

B


A⇔B

đ

đ

đ

+ A là điều kiện cần và đủ của B

đ

s

s

+ B là điều kiện cần và đủ của A

s

đ

s

+ Có A khi và chỉ khi có B

s

s


đ

+ Có B khi và chỉ khi có A

Chú ý: A⇔B có thể đọc là:

Trong thực tế, điều kiện cần và đủ của một hiện tượng A nào đó thường tập
hợp của một số điều kiện : A ⇔ (B1, B2, B3, Bn)
Trong đó mỗi điều kiện B1, B2, B3, Bn chỉ mới là điều kiện cần nhưng
không đủ của A.
Nghiên cứu định nghĩa trên nhằm đáp ứng tư duy phân biệt được trong thực
tế, cáci nào là điều kiện cần và đủ; cái nào mới chỉ là điều kiện cần nhưng chưa
đủ ; hay đủ nhưng không cần. Điều đó giúp tư duy được chính xác, chặt chẽ, góp
phần giúp tư duy nhận thức chân lý.
c) Các quy luật lôgic

62


Để đảm bảo tính chính xác của các suy luận ta còn phải tuân thủ các quy
luật tư duy sau đây:
+ Luật đồng nhất: Trong suốt quá trình tư duy không được tự ý thay đổi nội
hàm và ngoại diên của khái niệm, nói cách khác không được tự ý thay đổi đối
tượng tư duy. Trong một công trình khoa học đối tượng nghiên cứu phải nắm
vững trong suốt quá trình, vi phạm điều này làm cho đề tài sẽ trở thành hỗn loạn,
phức tạp không bao giờ đạt tới mục đích đã đề ra.
+ Luật mưu thuẩn: Nếu có hai phán đoán mưu thuẩn nhau thì không thể cả
hai điều đúng. Luật này liên quan tới hai cặp phán đoán: A-E và O-I.
+ Luật bài trung: Nếu hai phán đoán phủ định nhau thì nhất thiết có một
trong hai phán đoán đó là đúng, phán đoán còn lại là sai, không thể có trường

hợp thứ ba nào khác. Luật này có liên quan tới hai cặp phán đoán : O-A và E-I.
+ Luật lý do đầy đủ: Để rút ra kết luận khoa học, quá trình suy luận phải
dựa vào các căn cứ xác đáng, với số lượng cần và đủ. Nói cách khác suy luận
khoa học không được kết luận vội vàng thiếu các lý do xác thực.
Nghiên cứu khoa học là quá trình tư duy các quy tắc và quy luật của tư suy
lôgic. Không nắm vững quy tắc mà dẫn đến các kết luận sai lầm đó là ngộ nhận,
cố tình vi phạm các quy tắc suy luận sẽ trở thành ngụy biện khoa học. Cả hai
đều rất có hại cho khoa học, vì điều đó không bao giờ đưa khoa học tới chân lý.
3.2- Suy luận
Suy luận là một hình thức tư duy nhằm rút ra một phán đoán mới (gọi là kết
luận) từ những phán đoán đã so (gọi là những tiền đề).
Có thể chia suy luận ra thành nhiều loại: Suy luận diễn dịch (gọi tắt là suy
diễn) và suy luận quy nạp (gọi tắt là quy nạp).
1. Suy diễn: Người ta thường hiểu suy diễn là loại suy lý đi từ những tri
thức về cái chung đến những tri thức về cái riêng. Đặc trưng của suy diễn là ở
chỗ: Trong suy diễn cái chúng ta dựa vào những quy tắc lôgic, mà ta gọi những
quy tắc suy diễn. Ở đây, tư suy tuân theo các quy tắc suy diễn, và nếu như tất cả
các tiền đề đều là những phán đoán chân thực thì kết luận được rút ra nhất đinh
là chân thực.
Như vậy, muốn cho kết luận chân thực thì phải đảm bảo hai điều kiện. Thứ
nhất là các tiền đề phải chân thực. Thứ hai là phải tuân theo các quy tắc suy
diễn. Hai đk đó là hai điều kiện cần và đủ cho kết luận của suy diễn là chân thực.

63


Lôgic là hình thức nghiên cứu một hệ thống những quy tắc suy diễn, mà tư
duy cần phải tuân theo. Đó là:
+ Quy tắc kết luận:
A→B

A

A→B

(1)

(2)

B

B

A

Ở đay A gọi là cơ sở; B gọi là hệ quả.
Tư duy chỉ chính xác khi:
- Đi từ khẳng định cơ sở đến khẳng định hệ quả.
- Đi từ phủ định hệ quả đến phủ định cơ sở.
Các quy tắc (1) và (2) ở trên là những tất yếu lôgic.
Trong thực tế, tư duy thường mắc phải những sai lầm sau đây:
A→B

A→B

B

A

A


B

+ Quy tắc bán cầu:
A→B
B→C
A→C
+ Quy tắc lựa chọn:
AVB
A
B

AVB
A
B

Tương tự ta có thể mở rộng: A V B V C
A B

A
C

Ở đây cần chú ý rằng: A V B không phải là tất yếu của lôgic.
B

Nhưng A V B lại là một tất yếu của lôgic.
B

64



+ Một nội dung rất quan trọng của suy diễn mà lôgic hình thức nghiên cứu,
đó là Tam đoạn luận. Nội dung của nguyên tắc này như sau:
Mọi M là P
Mọi S là M
Mọi S là P
Trong đó S,M,P là 3 thuật ngữ; M là thuật ngữ trung gian. Đây là một sơ đồ
lôgic, một quy tắc lôgic được biểu diễn như sau:
Thí dụ: Mọi kim loại đều dẫn điện.
Vật này là kim loại.

P
M

Vật này dẫn điện.

S

Nhưng nếu ta lập luận: Mọi kim loại dẫn điện.
Vật này dẫn điện.
Vật này là kim loại.
Thì lại không logic và có thể dẫn đến kết luận sai lầm. Bởi vì, ta đã lập luận
theo sơ đồ:
Mọi P là M
S là M
S là P
Mà sơ đồ này không phải là tất yếu logic.
Ta có thể minh họa lập luận trên bằng hình vẽ sau:
M

M

P

P
S

S

2. Quy nạp
Quy nạp là lọai suy lý từ những tri thức về các hiện tượng đơn lẻ, từ những
kinh nghiệm riêng lẻ, đến sự khái quát những nguyên lý chung.

65


Có thể chia quy nạp thành: Quy nạp không hoàn toàn và Quy nạp hoàn
toàn.
a) Quy nạp hoàn toàn
a có t.

a*

b có t.
b*

c có t.

S

d có t.


d*

c*

Mọi S có t
Đây là loại quy nạp mà trong các tiêu đề người ta đã nêu được tri thức về
tất cả các đối tượng riêng lẻ của lớp đối tượng mà người ta đang xem xét. Tập
hợp S có các phần tử a,b,c,d. Người ta đã phát hiện ra rằng, mỗi phần tử của tập
hợp S đều có thuộc tính t. Từ đó người ta đã khái quát thành nguyên lý chung.
Với phương pháp tư duy này, kết luận của quy nạp là hoàn toàn đáng tin cậy.
Tuy nhiên, phạm vi áp dụng của loại quy nạp này là rất hạn chế. Nó chỉ được áp
dụng với những nhóm sự vật hay hiện tượng mà số lượng đối tượng là có hạn.
Trong khi đó thực tế đã đặt ra yêu cầu phải nhận thức, phải khái quát những lớp
hiện tượng mà số hiện tượng lại nhiều vô kể, khiến người ta không thể áp dụng
phương pháp quy nạp hoàn toàn, mà phải áp dụng phương pháp quy nạp không
hoàn toàn.
b) Quy nạp không hoàn toàn.
a có t.
a*

b có t.
c có t.

b*
S

d có t.

d*


c*

Mọi S có t
Trong đó, tập hợp S có vô số các hiện tượng riêng lẻ a,b,c,d,…
Qua nghiên cứu chúng ta thấy rằng, một số đối tượng của lớp S có được
thuộc tính t và ta cũng chưa thấy và chưa phát hiện ra được một đối tượng nào
của lớp S lại không có thuộc tính t. Từ đó ta đưa ra kết luận khái quát: mọi S có
t.
66


Rõ ràng kết luận ở đây chưa đảm bảo chắc chắn. Bởi vì, chỉ cần phát hiện
ra một đối tượng của lớp S không mang thuộc tính t thì kết luận sẽ bị bác bỏ.
Kết luận càng đáng tin cậy khi số đối tượng của lớp S được nghiên cứu tăng.
Chính vì vậy, kết luận đó chưa thể có giá trị khoa học. Nó chỉ mới gợi mở cho ta
hướng phát hiện ra cái chung.
Suy diễn và quy nạp là 2 phương pháp khác nhau, nhưng lại gắn liền với
nhau và quy định lẫn cho nhau trong quá trình nhận thức. Thử hỏi cái chung mà
suy diễn dùng làm điểm xuất phát, lấy ở đâu ra? Rõ ràng cái chung đó là kết quả
của quá trình quy nạp. Điều đó có nghĩa là suy diễn phải dựa vào quy nạp. Tuy
nhiên, như ta đã biết, quy nạp có trường hợp không thể tự chứng minh được kết
luận của mình. Chúng ta không thể dừng lại ở kết luận của quy nạp, mà phải giải
thích kết luận đó để vạch ra được tính quy nạp của kết luận đó. Chính suy diễn
đã tham gia vào giải thích kết luận của quy nạp.
3.3. Chứng minh và bác bỏ giả thuyết:
Trong thực tế, để giải thích một sự kiện mới, người ta đưa ra không phải
chỉ có một, mà có thể đưa ra nhiều giả thuyết. Những giả thuyết này về sau hoặc
là được bác bỏ, hoặc là được xác nhận, được chứng minh và trở thành những tri
thức mới. Giả thuyết là một khâu tất yếu trong quá trình tìm tòi tri thức mới.
Một giả thuyết nghiên cứu cần phải được kiểm chứng bằng lý thuyết, quan sát

hoặc thực nghiệm. Nội dung kiểm chứng bao giờ cũng dẫn đến một trong hai
trường hợp sau:
+ Chứng minh tính chân xác, tính đúng đắn của giả thuyết, hoặc
+ bác bỏ tính phi chân xác của một giả thuyết.
Về mặt logic học, chứng minh hoặc bác bỏ là những hình thức của suy
luận.
a) Bác bỏ giả thuyết.
Sự bác bỏ giả thuyết được thực hiện bằng cách phát hiện ra các sự kiện
mâu thuẫn với hệ quả rút ra từ giả thuyết. Nếu thực tế bác bỏ hệ quả của giả
thuyết, thì điều đó cũng có nghĩa là giả thuyết bị bác bỏ.
G → h.

ở đây G là giả thuyết.

h

H là hệ quả của giả thuyết
G

b) Chứng minh giả thuyết.

67


Việc chứng minh giả thuyết thường được diễn ra rất phức tạp.
Nếu như hệ quả của giả thuyết được xác nhận, được chứng minh, thì điều
đó chưa có nghĩa là giả thuyết được chứng minh. Bởi vì, sơ đồ:
G → h.
h
G


Không là tất yếu logic

Như vậy, nếu như mối quan hệ giữa giả thuyết G và hệ quả h của nó mới
chỉ là G → h; thì việc h được xác nhận, chưa đủ để xác nhận G.
Giả thuyết G chỉ được xác nhận, chỉ được chứng minh khi mối quan hệ
giữa G và h được xác lập là G ⇔ h (h là điều kiện cần và đủ của G), và h đã
được thực tế xác nhận. Bởi vì sơ đồ:
G ⇔h
h
G

là tất yếu logic

Trong thực tế, việc xác nhận G diễn ra rất phức tạp. Để chứng minh giả
thuyết G, người ta thường tìm cách rút ra từ giả thuyết G, không phải chỉ là một
hệ quả, mà là một số hệ quả, trong đó tập hợp các hệ quả này là điều kiện cần và
đủ của giả thuyết G. G ⇔ (h1,h2,h3,…). Và nếu tất cả các hệ quả h1,h2,h3,… đã
được xác nhận, thì điều đó cũng có nghĩa là giả thuyết G được chứng minh, Bởi
vì: G ⇔ (h1,h2,h3,…)
(h1, h2, h3,...)
là tất yếu logic
G

Tuy vậy, từ việc nghiên cứu trên, chúng ta có thể rút ra mấy đặc điểm nổi
bật nhất, cơ bản nhất của logic hình thức trong quá trình chứng minh hay bác bỏ
một giả thuyết là:
- Đặc điểm thứ 1: Những quy luật của logic hình thức mới chỉ phản ánh
được sự vật trong tính ổn định tương đối về chất, mà chưa phản ánh được sự
biến đổi và phát triền của sự vật và hiện tượng.

- Đặc điểm thứ 2: Logic hình thức mới chỉ quan tâm đến tính chính xác về
mặt hình thức logic của các tư tưởng, mà chưa quan tâm đến nội dung cụ thể của
các tư tưởng.
Chính vì vậy, để chứng minh hay bác bỏ một giả thuyết, ngoài việc vận
dụng lý luận của logic hình thức ta còn phải dựa vào logic biện chứng.
68


Toàn bộ quá trình nghiên cứu khoa học là quá trình thu thập và xử lý thông
tin để chứng minh hoặc bác bỏ các giả thuyết, nghiên cứu. Khi một giả thuyết
nghiên cứu được chứng minh, thì quá trình nghiên cứu kết thúc. Ngược lại, khi
một giả thuyết nghiên cứu bị bác bỏ, thì người nghiên cứu phải tiếp tục thu thập
và xử lý thông tin để chứng minh giả thuyết, hoặc phải xem xét lại giả thuyết và
thậm chí, phải đặt lại một giả thuyết khác.

69


×