Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

KẾ HOẠCH HÀNH ĐỘNG THỰC HIỆN ĐỀ ÁN TÁI CƠ CẤU NGÀNH LÂM NGHIỆP TỈNH LÂM ĐỒNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.38 MB, 83 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

KẾ HOẠCH HÀNH ĐỘNG THỰC HIỆN ĐỀ ÁN TÁI
CƠ CẤU NGÀNH LÂM NGHIỆP TỈNH LÂM ĐỒNG
(Dự thảo 2)

Ngày……tháng 02 năm 2015
SỞ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
TỈNH LÂM ĐỒNG

1


CÁC CHỮ VIẾT TẮT
LSNG
PCCCR
BV&PTR
Công ty lâm nghiệp
nhà nước
UBND
NN& PTNT

Lâm sản ngoài gỗ
Phòng cháy chữa cháy rừng
Bảo vệ và phát triển rừng
Công ty trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên do
Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ
Ủy ban nhân dân
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...........................................................................................................4
I. CĂN CỨ PHÁP LÝ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HÀNH ĐỘNG………..7
II. THỰC TRẠNG NGÀNH LÂM NGHIỆP TỈNH LÂM ĐỒNG………..7
1. Dịên tích rừng và đất lâm nghiệp………………………………………….7
2. Hệ thống tổ chức quản lý lâm nghiệp.......................................................10
3. Chế biến và thương mại lâm sản……………………………………….....16
4. Giá trị sản xuất lâm nghiệp……………………………………………......17
5. Tình hình triển khai các chính sách bảo vệ và phát triển rừng............17
6. Đánh giá chung.........................................................................................19
III. KẾ HOẠCH HÀNH ĐỘNG THỰC HIỆN ĐỀ ÁN TÁI CƠ CẤU
NGÀNH LÂM NGHIỆP……………………………………………………..23
1. Bối cảnh, dự báo.........................................................................................23.
2. Mục tiêu, phạm vi và đối tượng…………………………………………..26
3. Nội dung kế hoạch hành động……………………………………………26
3.1. Nâng cao giá trị gia tăng trong ngành lâm nghiệp.....................................26
3.1.1. Quản lý, bảo vệ, phát triển hệ sinh thái rừng tự nhiên hiện có, đặc biệt hệ
sinh thái rừng Thông kết hợp với việc khai thác, sử dụng bền vững giá trị dịch
vụ môi trường rừng.........................................................................................27
3.1.2. Nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị rừng sản xuất là rừng trồng. 30
3.1.3. Nâng cao giá trị gia tăng sản phẩm gỗ và lâm sản ngoài gỗ qua chế
biến.................................................................................................................32.
3.2. Tái cơ cấu các tổ chức quản lý và sản xuất kinh doanh rừng...................36
3.2.1. Các công ty lâm nghiệp........................................................................36
3.2.2. Ban quản lý Vườn quốc gia..................................................................39
3.2.3. Ban quản lý rừng phòng hộ.................................................................41
3.2.4. Phát triển kinh tế hợp tác, kinh tế trang trại và các hình thức liên kết, liên
doanh giữa trồng rừng, chế biến lâm sản và tiêu thụ sản phẩm......................42
3.2.5. Triển khai Đề án kiện toàn tổ chức, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động

của Kiểm lâm giai đoạn 2014-2020...............................................................42
3.2.6. Kiện toàn Ban lâm nghiệp xã và bố trí cán bộ chuyên trách lâm nghiệp
cấp xã........................................................................................................... ..42
3.3. Phát triển thị trường lâm sản....................................................................42
3.3.1. Hỗ trợ hoạt động quảng cáo, tiếp thị sản phẩm trong nước...................43
3.3.2. Tìm kiếm thị trường mới cho xuất khẩu đồ gỗ......................................43


4.4. Xây dựng cơ sở dữ liệu quản lý rừng và đất lâm nghiệp..........................45
4.5. Huy động và sử dụng các nguồn lực tài chính........................................45
4.6. Cơ chế, chính sách................................................................................45
5. Tổ chức thực hiện……………………………………………………......46
6. Kiến nghị………………………………………………………………….46
PHỤ LỤC 01: Khung logic kế hoạch hành động thực hiện đề án tái cơ cấu
ngành lâm nghiệp tỉnh Lâm Đồng..............................................................49
PHỤ LỤC 02: Giá trị sản xuất lâm nghiệp tỉnh Lâm Đồng..........................89
PHỤ LỤC 03: Tổng hợp nguồn kinh phí cho công tác BV & PTR 5 năm( 20092013)……………….................................................................................90


MỞ ĐẦU
Lâm Đồng là tỉnh miền núi phía Nam Tây Nguyên với diện tích tự nhiên
977.354 ha, trong đó diện tích đất quy hoạch cho lâm nghiệp là 591.476ha,
chiếm tỷ lệ 60,5%. Đây là địa bàn đầu nguồn hết sức quan trọng về môi trường
sinh thái không chỉ cho khu vực Tây Nguyên mà còn đối với các tỉnh Duyên
hải miền Trung, miền Đông Nam bộ - Thành phố Hồ Chí Minh và vùng hạ lưu
sông Mê Kông, là một khu vực có tiềm năng lớn về tài nguyên rừng, có nhiều
lợi thế về phát triển lâm nghiệp, địa bàn chiến lược quan trọng đối với quốc
phòng, an ninh chung của cả nước,
Trong thời gian qua, ngành Lâm nghiệp tỉnh Lâm Đồng đã có những
chuyển đổi quan trọng, từ nền lâm nghiệp chủ yếu dựa vào khai thác, lợi dụng

rừng tự nhiên sang quản lý, bảo vệ, phát triển hệ sinh thái rừng tự nhiên và gây
trồng rừng; khai thác giá trị dịch vụ môi trường rừng nhằm tạo nguồn tài chính
bển vững cho bảo vệ và phát triển rừng; thực hiện đổi mới cơ chế tổ chức quản
lý theo hướng từng bước xã hội hóa nghề rừng; bước đầu thực hiện gia công chế
biến tinh chế và nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm gỗ và lâm sản ngoài gỗ.
Hoạt động lâm nghiệp đã góp phần tạo việc làm, cải thiện đời sống cho một bộ
phận người dân, bảo vệ môi trường sinh thái và đảm bảo quốc phòng, an ninh
trên địa bàn.
Tuy nhiên, ngành Lâm nghiệp tỉnh Lâm Đồng cũng đang đứng trước
những thách thức, đó là:
1. Lâm Đồng là tỉnh có diện tích rừng tự nhiên lớn nhưng đang đứng
trước nguy cơ có thể bị suy giảm cả về diện tích, trữ lượng và chất lượng rừng
nếu như không có các giải pháp tác động hữu hiệu.
2. Lâm nghiệp ở tỉnh Lâm Đồng là nền lâm nghiệp Nhà nước (Lâm
nghiệp quốc doanh) là chủ yếu. Nếu xem xét dưới khía cạnh quản lý đất đai,
lâm nghiệp nhà nước chiếm tới 80%. Nhận thức một nền lâm nghiệp Nhà nước
(Lâm nghiệp quốc doanh) hoạt động khép kín hiện đang hiện hữu, nhưng bộc lộ
những hạn chế rõ rệt trong tổ chức quản lý rừng, trong khi nhận thức về xã hội
hoá nghề rừng còn hạn chế, lúng túng trong việc xác định bước đi, mô hình và
cơ chế khuyến khích.


4. Lâm Đồng là tỉnh có điểm xuất phát thấp so với bình quân chung cả
nước; dân số toàn tỉnh khoảng 1,235 triệu người, trong đó 21,6% dân số là
người dân tộc thiểu số có trình độ dân trí thấp, đời sống kinh tế còn nhiều khó
khăn; đồng thời là địa phương bị ảnh hưởng bởi di dân tự do của đồng bào dân
tộc từ các tỉnh không những về kinh tế, xã hội, dân tộc mà ảnh hưởng đến bảo
vệ và phát triển rừng.
5. Phát triển lâm nghiệp tỉnh Lâm Đồng đang phải đối mặt với một số
mâu thuẫn cần phải tập trung giải quyết, đó là:

- Mâu thuẫn trước mắt và lâu dài giữa phát triển nông nghiệp với phát
triển lâm nghiệp; áp lực chuyển đổi từ đất lâm nghiệp, đặc biệt từ rừng tự nhiên
sang sản xuất nông nghiệp và trồng cây công nghiệp dài ngày là rất lớn.
- Mâu thuẫn giữa việc khai thác, sử dụng rừng với bảo vệ, bảo tồn và phát
triển hệ sinh thái rừng tự nhiên hiện còn.
- Mâu thuẫn lợi ích giữa các thành phần kinh tế, đặc biệt giữa tổ chức lâm
nghiệp nhà nước với hộ gia đình, cá nhân và cộng đồng trong quản lý, sử dụng
tài nguyên rừng.
6. Cơ chế, chính sách chưa tạo ra được những cơ sở, nền tảng cần thiết để
quản lý bền vững rừng tự nhiên trong điều kiện kinh tế thị trường, nền kinh tế
nhiều thành phần đang phát triển. Cho đến nay chúng ta vẫn lúng túng trong
nhiều vấn đề cụ thể nhưng rất cơ bản trong việc thiết lập một chế độ quản lý
rừng tự nhiên hiện còn.
Xuất phát từ những vấn đề trên, hướng tới sự phát triển bền vững, thực
hiện tái cơ cấu ngành Lâm nghiệp tỉnh Lâm Đồng là cần thiết và đúng hướng.


I. CĂN CỨ PHÁP LÝ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HÀNH ĐỘNG
- Quyết định số 899/QĐ-TTg ngày 10/6/2013 của Thủ tướng Chính phủ
về việc phê duyệt Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá
trị gia tăng và phát triển bền vững;
- Quyết định số 1565/QĐ-BNN-TCLN ngày 8/7/2013 của Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn về việc phê duyệt Đề án tái cơ cấu ngành lâm
nghiệp;
- Quyết định số 774/QĐ-BNN-TCLN ngày 18/4/2014 của Bộ NN&PTNT
phê duyệt Kế hoạch hành động nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị rừng
trồng sản xuất giai đoạn 2014-2020;
- Quyết định số 1391/QĐ-BNN-TCLN ngày 29/4/2014 của Bộ
NN&PTNT phê duyệt Kế hoạch phát triển kinh tế hợp tác và liên kết theo
chuỗi giá trị sản phẩm trong lâm nghiệp giai đoạn 2014-2020;

- Quyết định số 919/QĐ-BNN-TCLN ngày 05/05/2014 của Bộ
NN&PTNT phê duyệt Kế hoạch nâng cao giá trị gia tăng sản phẩm gỗ qua chế
biến giai đoạn 2014-2020;
- Quyết định số 957/QĐ-BNN-TCLN ngày 08/05/2014 của Bộ
NN&PTNT phê duyệt Kế hoạch hành động phát triển thị trường gỗ và sản
phẩm gỗ giai đoạn 2014-2020;
- Quyết định 450/QĐ-UBND ngày 19/2/2008 của UBND tỉnh Lâm Đồng
phê duyệt kết quả rà soát, quy hoạch 3 loại rừng giai đoạn 2008-2020.
II. THỰC TRẠNG NGÀNH LÂM NGHIỆP TỈNH LÂM ĐỒNG
1. Dịên tích rừng và đất lâm nghiệp
1.1. Cơ cấu diện tích đất quy hoạch cho lâm nghiệp
Tính đến 30/12/2010, diện tích đất lâm nghiệp 581.993 ha chiếm 59,5%
diện tích tự nhiên toàn tỉnh, trong đó: đất rừng đặc dụng 87.710 ha (15%); đất
rừng phòng hộ 197.492 ha (34%); đất rừng sản xuất 296.791 ha (51%). Theo
quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 đã được Chính phủ phê duyệt, diện tích
đất quy hoạch cho lâm nghiệp: 591.476ha chiếm 60,5% diện tích đất tự nhiên
toàn tỉnh, trong đó: đất rừng đặc dụng 84.153 ha (14,2%); đất rừng phòng hộ
172.800 ha (29,2%); đất rừng sản xuất 334.523 ha (56,6%). Như vậy, so với


1.2.1.Tính đến năm 2013, tổng diện tích đất có rừng toàn tỉnh: 512.360,79
ha (tỷ lệ che phủ 52,4%), trong đó: phân theo nguồn gốc hình thành rừng:(1)
Rừng tự nhiên: 454.112 ha (88,6%), Rừng trồng: 58.248,19 ha (11,4%); Về trữ
lượng rừng: tổng trữ lượng gỗ 58.791.989 m 3 và 684.210,1 ngàn cây tre nứa.
Trong đó: rừng tự nhiên với tổng trữ lượng gỗ 52.167.905 m 3chiếm tỷ lệ 88,7
% và 684.210,1 ngàn cây tre nứa; rừng trồng với tổng trữ lượng gỗ 6.624.084
m3, chiếm tỷ lệ 11,3 %.
1.2.2. Thực trạng rừng trồng
a) Đối tượng tham gia trồng rừng: bao gồm các đơn vị chủ rừng thuộc hệ
thống quản lý của Nhà nước, đó là các Công ty lâm nghiệp, Ban quản lý rừng

phòng hộ, Ban quản lý vườn quốc gia và các cơ quan lâm nghiệp liên quan
khác. Quá trình xã hội hóa nghề rừng có thêm sự tham gia của các doanh nghiệp
tư nhân thuê đất trồng rừng, hộ gia đình...Nguồn vốn đầu tư trồng rừng cũng
được đa dạng, như: nguồn ngân sách của địa phương theo kế hoạch bảo vệ và
phát triển rừng hàng năm; nguồn vốn trung ương hỗ trợ từ các chính sách lâm
nghiệp; nguồn vốn hỗ trợ ODA từ các chương trình dự án trong và ngoài nước;
vốn tự có, vốn vay và liên doanh liên kết...
b) Diện tích rừng trồng: toàn tỉnh đến hết năm 2013 là 68.561,6 ha (số
liệu chưa tính đến diện tích tổ chức trồng rừng trong năm 2014 do chưa nghiệm
thu ). Trong đó, các chủ rừng Nhà nước: 32.683,35ha chiếm tỷ lệ 47,7% (08
công ty lâm nghiệp: 13.285,3ha; 15 ban quản lý rừng: 16.507,4ha; Hạt Kiểm
lâm và Vườn quốc gia: 1.659,1ha; các đơn vị lâm nghiệp khác liên quan:
1.231ha); các doanh nghiệp tư nhân thuê đất trồng rừng, đến thời điểm hiện nay
đã triển khai trồng 14.667,3 ha chiếm tỷ lệ 24,4 %; công ty cổ phần Giấy Tân
Mai liên doanh liên kết trồng rừng với diện tích 9.260,55 ha chiếm tỷ lệ 13,5%;
các hộ gia đình tại 70 xã trồng rừng với diện tích 11.951ha, chiếm tỷ lệ 17,4%.
c) Loài cây trồng: trước đây 02 loài cây trồng chiếm ưu thế là Thông 3 lá
và keo. Cây Thông phù hợp với sinh thái và khí hậu á ôn đới ẩm mưa nhiều của
khu vực phía Bắc Lâm Đồng; cây Keo phù hợp với khí hậu tiếp giáp Đông Nam
Bộ thuộc địa bàn 03 huyện phía Nam Lâm Đồng (Đạ Huoai, Đạ Tẻh, Cát Tiên ).
Trong những năm chuyển đổi từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường,
thử nghiệm trồng thêm một số loài cây bản địa tại địa phương, các loài cây du
nhập khác vừa có gía trị kinh tế, vừa có gía trị môi trường thích hợp với điều


nguyên liệu giấy cường độ tỉa thưa kinh doanh sản phẩm nguyên liệu giấy cao
hơn sản lượng tỉa thưa 50m3/ha; năng suất tỉa thưa rừng Keo các loại bình quân
30m3/ha. Năng suất rừng trồng Thông ba lá đến tuổi khai thác trắng khi đạt cấp
tuổi > 20 để làm gỗ nguyên liệu cho chế biến tinh chế từ 100m3 đến 200m3/ha,
bình quân 140m3/ha tương ứng với trữ lượng đạt 210 m 3/ha; năng suất khai thác

trắng rừng Keo các loại bình quân 80m3/ha tương ứng với trữ lượng 115m3/ha.
đ) Đánh giá chung
- Những kết quả đạt được:
+ Diện tích rừng trồng trong thời gian qua là 68.561,6ha đã góp phần làm
tăng độ che phủ trên địa bàn tỉnh lên khoảng 7,01%.
+ Rừng trồng kinh tế và rừng trồng cao su của các doanh nghiệp thuê đất
đầu tư và các hộ gia đình, cá nhân hiện nay khoảng 26.618ha. Đây là diện tích
rừng trồng có tiềm năng lớn tạo nguồn lực kinh tế cho hộ gia đình và các thành
phần kinh tế.
+ Diện tích rừng trồng của các chủ rừng Nhà nước được đầu tư từ các
nguồn vốn của Nhà nước, vốn tự có, vốn liên doanh liên kết giữa các đơn vị chủ
rừng với Công ty nguyên liệu giấy Đồng Nai. Trong tổng diện tích đến hết năm
2013 (chưa tính diện tích trồng năm 2014) là 41.943ha, có 27.140ha rừng trồng
thuộc đối tượng rừng sản xuất và 13.060ha rừng phòng hộ đóng vai trò quan
trọng trong tạo độ che phủ, phòng hộ và là nguồn vốn trong sản xuất kinh doanh
Bình quân hàng năm khai thác 35.200m3 trên diện tích 990ha. Trong đó, khai
thác trắng 170ha với sản lượng 23.000m3;tỉa thưa 820ha với sản lượng
12.200m3;
+ Việc khai thác trắng rừng trồng Thông ba lá ở giai đoạn thành thục
công nghệ (từ 20 - 25 năm tuổi) đã tạo được công việc làm cho cán bộ công
nhân viên và đồng bào địa phương thông qua khai thác, chế biến, trồng lại rừng,
chăm sóc, nuôi dưỡng, bảo vệ rừng; tăng thu nhập cho đồng bào địa phương,
giảm bớt phá rừng làm rẫy, khai thác trái phép trong khu vực. Ngoài ra còn
cung cấp nguồn nguyên liệu phục vụ nhu cầu gỗ xây dựng, dân dụng tại địa
phương, làm giảm áp lực đến rừng tự nhiên.
+ Khai thác trắng rừng trồng sản xuất ngoài hiệu quả kinh tế còn có mặt
tích cực là tăng hiệu quả sử dụng đất. Khai thác trắng rừng trồng tuân thủ đúng


+ Việc chuyển đổi mục đích bố trí đất cho xây dựng các công trình xây

dựng cơ bản như điện, đường, trường học, khu dân cư dẫn đến giảm diện tích
rừng trồng. Ngoài ra diện tích rừng trồng còn bị giảm do bị cháy và sâu bệnh
hại rừng trồng, súc vật cắn phá, người dân nhổ phá rừng trồng trên diện tích
trồng lại sau giải tỏa và những nguyên nhân bất khả kháng khác.
+ Đơn giá ngày công lao động phổ thông cho việc trồng rừng và chăm
sóc rừng trồng còn thấp, vì vậy việc động viên và huy động người dân tham gia
gặp nhiều khó khăn.
+ Diện tích rừng trồng phân bố không tập trung nằm dàn trải trên nhiều
tiểu khu, do đó khó khăn trong việc quy hoạch xây dựng các nhà máy chế biến
gắn với vùng nguyên liệu tập trung. Cơ cấu cây trồng chưa đa dạng để đáp ứng
nhu cầu thị trường tiêu thụ sản phẩm rừng trồng.
+ Qua thực tiễn sản xuất cho thấy, kinh doanh rừng trồng theo phương
thức truyền thống, chủ yếu để lấy gỗ lớn bộc lộ một số nhược điểm như: chu kỳ
kinh doanh quá dài (từ 40 - 50 năm ), ảnh hưởng đến quá trình luân chuyển vốn,
thu hồi vốn đầu tư chậm, hiệu quả kinh tế không cao. Vấn đề xã hội hoá nghề
rừng cũng bị ảnh hưởng do không tạo được công việc làm cho cộng đồng dân
cư địa phương, công tác quản lý bảo vệ rừng, PCCCR hàng năm cũng gặp nhiều
khó khăn, tốn kém. Mặt khác rừng trồng ở cấp tuổi > 20 tăng trưởng chậm.
+ Rừng trồng giao cho các công ty lâm nghiệp chưa có cơ chế thông
thoáng để các công ty tự chủ trong việc kinh doanh rừng; nhà nước chưa có cơ
chế ưu đãi cho vay vốn trồng rừng; đối với diện tích rừng trồng đầu tư từ vốn
của các doanh nhiệp tư nhân, tiến độ trồng rừng triển khai chậm.
+ Rừng trồng của Công ty nguyên liệu giấy Đồng Nai phục vụ cho mục
đích cung ứng nguồn nguyên liệu giấy, tuy nhiên chưa bố trí đầu tư nhà máy
giấy gắn với vùng nhiên liệu.
+ Việc quản lý giống cây trồng lâm nghiệp được quan tâm và theo dõi
chặt chẽ. Tuy nhiên việc khuyến nông, khuyến lâm cho đối tượng tổ chức, cá
nhân tham gia hoạt động trồng rừng chưa triển khai rộng. Đối tượng tham gia
trồng rừng còn nhiều lúng túng và vướng mắc trong việc chọn cơ cấu cây trồng
rừng.

2. Hệ thống tổ chức quản lý lâm nghiệp


Hiện có 15 Ban quản lý rừng, trong đó 14 Ban quản lý rừng trực thuộc
UBND cấp huyện, 01 Ban quản lý rừng trực thuộc Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh; 01
Ban quản lý khu du lịch Hồ Thuyển Lâm; 02 Vườn quốc gia, trong đó một phần
Vườn quốc gia Cát tiên trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng trực thuộc Tổng cục Lâm
nghiệp; Vườn quốc gia Bi Đoup - Núi Bà trực thuộc UBND tỉnh Lâm Đồng; 08
Công ty TNHH một thành viên lâm nghiệp nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ
(công ty lâm nghiệp).
2.2.1. Các ban quản lý rừng
a) Các Ban Quản lý rừng hầu hết hoạt động theo cơ chế đơn vị sự nghiệp.
Tổng diện tích rừng và đất lâm nghiệp được giao theo các quyết định giao đất
của UBND tỉnh Lâm Đồng là 316.193,9ha; tổng diện tích rừng hiện đang còn
quản lý trực tiếp là 289.579,8ha. Như vậy, tổng diện tích rừng và đất lâm nghiệp
đã giao cho các ban quản lý rừng bị giảm 26.614,1ha do chuyển đổi mục đích,
bố trí đất sản xuất, giao rừng, cho thuê rừng cho các thành phần kinh tế khác.
Trong đó, diện tích đất thu hồi để cho các nhà đầu tư, các tổ chức thuê đất
11.099,1ha; xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn và các công trình quốc gia
2.827,3ha; bố trí đất sản xuất 865,2 ha; diện tích giao đất có giấy CNQSDĐ cho
hộ dân:11.469,2ha và giảm do giao, cho thuê cho các tổ chức khác là 372,8ha.
b) Tổng số cán bộ, công nhân viên tham gia quản lý là 426 người, trong
đó biên chế chính thức: 315 người, hợp đồng: 111 người. Bình quân 22 người/
01 đơn vị. Phân theo trình độ chuyên môn gồm: trình độ đại học, cao đẳng: 117
người, trung cấp và sơ cấp: 214 người, lao động phổ thông và lực lượng công
nhân kỹ thuật: 95 người. Lực lượng lao động hiện nay ở các Ban Quản lý rừng
chủ yếu là bộ máy quản lý ở văn phòng, các tiểu khu; lực lượng trực tiếp quản
lý và giám sát thi công các công trình lâm sinh, khai thác lâm sản. Trong quá
trình sắp xếp lại hoạt động các Ban quản lý rừng, tuỳ theo điều kiện lập địa,
diện tích đất lâm nghiệp, mức độ khó khăn và thuận lợi trong công tác quản lý,

bảo vệ rừng mà áp dụng các hệ số điều chỉnh biên chế sự nghiệp quản lý, bảo vệ
rừng tăng hay giảm cho phù hợp để đảm bảo thực hiện nhiệm vụ có hiệu qủa
nhất.
c) Kinh phí hàng năm cho hoạt động của 15 Ban quản lý rừng là 13.793
triệu đồng. Kinh phí Nhà nước đầu tư từ các nguồn vốn để thực hiện trả tiền
công khoán quản lý, bảo vệ rừng cho 191.385,7 ha là 19.385 triệu đồng. Như


d) Kết quả đạt được
- Nhìn chung các Ban quản lý rừng cơ bản hoàn thành được nhiệm vụ
tham mưu chính quyền địa phương trong quản lý, bảo vệ và sử dụng tài nguyên
rừng; đồng thời làm tốt vai trò chủ đầu tư các dự án, nhất là Dự án trồng mới 5
triệu ha rừng.
- Tổng diện tích giao khoán quản lý, bảo vệ rừng là 201.951,2 ha/năm
(chiếm khoảng 70 % diện tích được giao) thu hút trên 7.650 hộ tham gia. Thông
qua các hoạt động lâm nghiệp đã tạo được việc làm, góp phần tăng thu nhập,
giải quyết ổn định đời sống cho đồng bào dân tộc tại chỗ, đồng thời tạo được sự
gắn bó giữa Ban quản lý rừng với chính quyền địa phương huyện, xã, tham gia
có hiệu qủa một số vấn đề xã hội trên địa bàn.
đ) Hạn chế, khó khăn vướng mắc
- Một số Ban quản lý rừng chưa phát huy hết vai trò và thực hiện tốt chức
năng, nhiệm vụ của mình, để xảy ra nhiều vụ vi phạm lâm luật, diện tích đất lâm
nghiệp bị lấn chiếm trái phép nhưng chưa thu hồi được.
- Do cơ chế hoạt động còn nặng về bao cấp nên chưa tự chủ trong hoạt
động quản lý, bảo vệ và sử dụng tài nguyên của mình, làm hạn chế đến tính
năng động, sáng tạo, khai thác thế mạnh (đất đai, tài nguyên rừng...) để tăng
nguồn thu, góp phần nâng cao thu nhập cho người lao động.
- Chính quyền xã, phường chưa thực hiện tốt chức năng quản lý Nhà
nước về lâm nghiệp trên địa bàn.
- Tình trạng di dân tự do lấn chiếm đất rừng, phá rừng trái phép vẫn xảy

ra, còn có biểu hiện lôi kéo một số đông người để chống đối người thi hành
nhiệm vụ quản lý, bảo vệ rừng.
- Kinh phí nhà nước dành cho hoạt động lâm nghiệp của các Ban quản lý
rừng vẫn còn hạn chế, chưa đủ sức để phát triển và thực hiện tốt mục tiêu,
nhiệm vụ đã đề ra. Đối với vườn quốc gia, cơ sở hạ tầng tiếp cận điểm đến chưa
phát triển, cơ sở vật chất chưa hoàn thiện, biên chế nhà nước giao chưa đủ theo
định mức, nguồn tài chính thực hiện các nhiệm vụ luôn thiếu hụt, nguồn thu từ
kinh doanh du lịch sinh thái chưa đáng kể nên phải mất một thời gian dài mới có
thể chuyển sang hình thức tự đảm bảo một phần kinh phí hoạt động.


2.2.2. Các công ty lâm nghiệp nhà nước
a) Tình hình sắp xếp, đổi mới công ty lâm nghiệp: thực hiện Quyết định số
196/2005/QĐ-TTg ngày 14/11/2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt
Đề án sắp xếp, đổi mới lâm trường quốc doanh thuộc tỉnh Lâm Đồng và Quyết
định số 1454/QĐ-TTg ngày 29/10/2007 của Thủ tướng Chính phủ, phê duyệt
phương án sắp xếp, đổi mới công ty nhà nước thuộc UBND tỉnh Lâm Đồng giai
đoạn 2007-2010, năm 2008 UBND tỉnh Lâm Đồng đã thực hiện chuyển đổi 08
lâm trường quốc doanh thành các công ty lâm nghiệp theo Nghị định số
200/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính phủ về sắp xếp, đổi mới và phát
triển lâm trường quốc doanh. Tiếp theo, thực hiện Nghị định số 25/2010/NĐ-CP
ngày 19/3/2010 của Chính phủ về chuyển đổi công ty nhà nước thành công ty
trách nhiệm hữu hạn một thành viên và tổ chức quản lý công ty trách nhiệm hữu
hạn một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu, tháng 6/2010 UBND tỉnh Lâm
Đồng đã quyết định chuyển đổi 08 công ty lâm nghiệp thành 08 Công ty TNHH
1 thành viên lâm nghiệp do nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ. Lĩnh vực hoạt
động chủ yếu: quản lý, bảo vệ rừng, trồng rừng, khoanh nuôi, làm giàu rừng, xây
dựng và phát triển vốn rừng; khai thác, chế biến lâm sản; thực hiện các dịch vụ
về môi trường rừng.
b) Tình hình quản lý, sử dụng đất đai: đến năm 2013, qua quá trình thực

hiện bàn giao cho các tổ chức, cá nhân khác để giải quyết đất sản xuất 8 công ty
lâm nghiệp quản lý 184.066 ha đất tự nhiên, trong đó đất lâm nghiệp 173.102
ha. Phân theo mục dích sử dụng, gồm: (1) Đất rừng sản xuất 154.763 ha
(89,4%);(2) Đất rừng phòng hộ 14.918 ha (10,6%); phân theo nguồn gốc hình
thành rừng, gồm: (1) Rừng tự nhiên 150.810 ha (87,1%); (2) Rừng trồng 18.808
ha (12,9%). Bình quân 23.008ha/1 công ty, trong đó rừng tự nhiên :18.850 ha/1
công ty.
Trong những năm qua các công ty đã phối hợp và thống nhất với các cấp
chính quyền địa phương, xác định rõ ranh giới đất được giao trên bản đồ và trên
thực địa để làm cơ sở cho việc tổ chức quản lý, sử dụng rừng được chặt chẽ và
ngày càng hiệu quả. Tuy chưa nhiều nhưng các đơn vị cũng đã bước đầu thực
hiện rà soát và điều chỉnh lại diện tích đất đai, rừng để giao trả cho các địa
phương. Cơ bản thực hiện việc phủ xanh diện tích đất trống thuộc lâm phần
quản lý, góp phần tăng đáng kể độ che phủ của rừng, hạn chế tình trạng phá


Tổng lao động đến năm 2013 là 446 người, bình quân 56 người/1 công ty.
Lực lượng lao động tham gia thực hiện các hoạt động trồng, chăm sóc, nuôi
dưỡng rừng trồng hàng năm khoảng trên 4.000 lao động chủ yếu là lao động
thời vụ với thời gian tối đa không quá 4 tháng/năm. Ngoài ra còn có các hộ
nhận khoán bảo vệ rừng theo chỉ tiêu kế hoạch nhà nước giao với khoảng 5.000
hộ dân, trong đó có trên 80% là hộ đồng bào dân tộc thiểu số.
d) Tài sản, vốn
- Nguồn vốn chủ sở hữu: tính đến 31/12/2013 là 171.949 triệu đồng (bao
gồm cả nguồn vốn tạo rừng), bình quân 21.943 triệu đồng/1 công ty. Những
đơn vị có nguồn vốn chủ sở hữu lớn nhất là: Công ty lâm nghiệp Bảo Lâm
48.428 triệu đồng, Công ty lâm nghiệp Di Linh 40.560 triệu đồng; những đơn vị
còn lại ở mức từ 8.000 triệu đồng đến 15.000 triệu đồng.Trong tổng số vốn nêu
trên, chủ yếu là vốn tạo rừng (vốn ngân sách đầu tư từ nhiều năm trước đây cho
trồng rừng, chăm sóc rừng trồng) chiếm trên 80% vốn đầu tư cho xây dựng văn

phòng, nhà xưởng, mua sắm phương xe ô tô, máy móc thiết bị chiếm từ 1015%.
- Tài sản trang thiết bị: hầu hết các công ty lâm nghiệp đã đầu tư xây
dựng nhà cửa, văn phòng làm việc, nhà tiểu khu, phân trường và mua sắm
phương tiện đi lại, xây dựng mới xưởng chế biến lâm sản với tổng vốn đầu tư
chiếm khoảng 8-10% tổng giá trị tài sản. Trong đó, có một số đơn vị đã tập
trung đầu tư xưởng chế biến gỗ tinh chế và mở rộng xưởng sản xuất như: Công
ty lâm nghiệp Di Linh, Công ty lâm nghiệp Bảo Lâm, Công ty lâm nghiệp Tam
Hiệp…
- Tài sản rừng trồng sản xuất kinh doanh: bằng các nguồn vốn đầu tư từ
ngân sách, trong nhiều năm qua, các công ty lâm nghiệp đã gây trồng được
18.000 ha rừng trồng. Một số đơn vị có diện tích rừng trồng có trữ lượng, sản
lượng tương đối lớn, đã triển khai tổ chức sản xuất kinh doanh (Công ty lâm
nghiệp Bảo Lâm, Công ty lâm nghiệp Di Linh, Công ty lâm nghiệp Đơn
Dương) trên diện tích rừng trồng thông qua việc thực hiện các giải pháp lâm
sinh, như tỉa thưa, nuôi dưỡng, khai thác cây trung gian và khai thác trắng diện
tích rừng trồng với doanh thu hàng năm chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng
doanh thu của đơn vị.
- Cơ sở hạ tầng giao thông: Nhà nước đầu tư hạ tầng giao thông tại các


thấp của các đơn vị trong giai đoạn này chủ yếu do được giao kế hoạch khai
thác gỗ rừng tự nhiên (năm 2011) và một số đơn vị thực hiện sản xuất kinh
doanh bằng hoạt động khai thác trắng, tỉa thưa nuôi dưỡng rừng trồng kết hợp
với kinh doanh chế biến gỗ.
- Tổng nộp ngân sách bình quân 5 năm của 08 Công ty là 30 tỷ 048 triệu
đồng, bình quân 3 tỷ 756 triệu đồng/01 công ty.
- Lợi nhuận thực hiện bình quân 5 năm của 08 Công ty là 14 tỷ 545 triệu
đồng, bình quân 1 tỷ 818 triệu đồng/01 công ty/năm. Lợi nhuận chủ yếu tập
trung ở các đơn vị, như Công ty lâm nghiệp Di Linh (lợi nhuận trước thuế bình
quân 3 tỷ 709 triệu đồng/năm); Bảo Lâm (lợi nhuận trước thuế bình quân 4 tỷ

712 triệu đồng/năm); Đơn Dương (lợi nhuận trước thuế bình quân 1 tỷ 461 triệu
đồng/năm); những đơn vị khác còn lại, lợi nhuận không đáng kể.
- Mặc dù là doanh nghiệp thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng
do quản lý diện tích rừng tự nhiên lớn, kể từ năm 2012 không được phân bổ chỉ
tiêu khai thác gỗ, nên hàng năm tỉnh Lâm Đồng vẫn bố trí kinh phí từ ngân sách
địa phương cấp cho các Công ty để thực hiện nhiệm vụ quản lý, bảo vệ rừng tự
nhiên hàng năm khoảng 21 tỷ đồng/năm (bình quân khoảng 2,6 tỷ đồng/01 đơn
vị ).
- Việc làm của công nhân viên các đơn vị về cơ bản đã được giải quyết ổn
định,thu nhập tuy chưa cao nhưng ổn định, tỷ trọng thu nhập từ sản xuất lâm
nghiệp trong kinh tế gia đình của họ cũng ngày càng tăng.
e) Hạn chế, khó khăn vướng mắc
- Mô hình tổ chức: trong quá trình thực hiện còn lúng túng giữa việc tổ
chức quản lý tài nguyên rừng là rừng tự nhiên với tổ chức sản xuất kinh doanh,
nên chưa tạo được sự tự chủ cho các doanh nghiệp, việc phân định các hoạt
động công ích với hoạt động sản xuất kinh doanh chưa rõ ràng. Công ty lâm
nghiệp được thành lập với mục tiêu chủ yếu là sản xuất kinh doanh nhưng vẫn
phải quản lý diện tích rừng phòng hộ và một số diện tích lớn rừng tự nhiên
không đưa vào khai thác, kinh doanh được, trong khi kinh phí ngân sách nhà
nước cấp để bảo vệ diện tích rừng này rất hạn chế.
- Quản lý đất đai: nhiều công ty chưa thực hiện được rà soát, đo đạc, cắm
mốc và chưa hoàn chỉnh được hồ sơ thủ tục để giao đất, cho thuê đất, cấp mới,


vay ưu đãi để đầu tư cho sản xuất kinh doanh trung và dài hạn; bên cạnh đó việc
vay vốn của các ngân hàng thương mại để trồng rừng sản xuất cũng rất khó
khăn, lãi suất vay cao, thời hạn cho vay ngắn, trong khi chu kỳ kinh doanh rừng
trồng với chu kỳ dài; nguồn vốn ngân sách giao cho các doanh nghiệp còn hạn
chế, cơ sở vật chất của các đơn vị chủ yếu xây dựng từ lâm trường quốc doanh
giai đoạn trước còn nghèo nàn, giá trị vốn của các đơn vị chủ yếu là văn phòng

làm việc, nhà xưởng chế biến gỗ với máy móc cũ kỹ, lạc hậu và vốn rừng trồng.
- Cơ chế, chính sách đối với các công ty lâm nghiệp còn nhiều bất cập,
như chính sách khai thác rừng, chính sách cho vay vốn tín dụng, chính sách góp
vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất trong liên kết, liên doanh....Chính sách
khoán không đồng bộ rõ ràng, nhất là đối với chính sách khoán rừng tự nhiên,
từ đó dẫn đến các đơn vị chủ yếu thực hiện khoán không đầu tư hoặc khoán bảo
vệ rừng từ nguồn vốn ngân sách nhà nước và nguồn thu từ chi trả dịch vụ môi
trường rừng.
- Một thời gian dài các lâm trường chưa thật sự được chủ động hoạt động
sản xuất kinh doanh, tính năng động, sáng tạo trong sản xuất kinh doanh của các
lâm trường còn yếu. Khi chuyển thành Công ty lâm nghiệp bước đầu vẫn còn
thụ động trong việc tìm kiếm thị trường, mở rộng loại hình sản xuất kinh doanh.
- Trách nhiệm trong công tác quản lý, bảo vệ rừng ở một số địa phương
còn kém gần như khoán trắng cho các đơn vị chủ rừng.
3. Chế biến và thương mại lâm sản
3.1. Kết quả đạt được
- Trong những năm vừa qua, triển khai thực hiện Đề án phát triển chế biến
gỗ trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng đến năm 2015, các cơ sở chế biến gỗ tăng mạnh
về số lượng, từ 58 doanh nghiệp năm 2008 lên 79 doanh nghiệp năm 2012; năng
lực chế biến của các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất tăng từ 120.000 m3
gỗ/năm năm 2008 đến nay đạt khoảng 170.000 m3 gỗ/năm. Giá trị sản phẩm chế
biến gỗ bình quân năm đạt 217 tỷ đồng; tốc độ tăng trưởng giá trị sản phẩm chế
biến gỗ đạt 24%. Tổng số lao động chế biến gỗ bình quân khoảng 3.000 lao
động.
- Đã tổ chức chỉ đạo thực hiện trồng rừng nguyên liệu, trồng thử nghiệm
một số loài cây trồng mới nhằm đa dạng hóa về nguyên liệu phục vụ lâu dài cho


3.2. Hạn chế, tồn tại
- Chưa thực hiện được quy hoạch mạng lưới chế biến gỗ, dẫn đến chưa tham

mưu sắp xếp được theo hướng tập trung thành ngành hàng, từng vùng.

- Tuy số doanh nghiệp tăng cao nhưng năng lực chế biến tăng thấp, cùng
với sự tăng trưởng về số lượng, hiện nay, lĩnh vực chế biến gỗ cũng đang gặp
rất nhiều khó khăn và bộc lộ những điểm yếu kém như: ngành công nghiệp chế
biến gỗ phát triển mang tính tự phát, chưa vững chắc, thiếu quy hoạch và tầm
nhìn chiến lược, tính cạnh tranh chưa cao, sự liên kết và phân công sản xuất
chưa tốt (chưa có sự chuyên môn hoá, chưa có phân công sản xuất theo vùng,
tiểu vùng…). Tuy đã định hướng được trên 20 đơn vị có đầu tư hoạt động sản
xuất chính là chế biến ván ghép thanh và hàng mộc nhưng đa số là đầu tư thiết
bị công nghệ cũ và lạc hậu, chỉ có 03 đơn vị có đầu tư máy móc thiết bị mới
tương đối hiện đại.
- Sản phẩm chế biến tập trung chủ yếu là ván ghép thanh (nguyên liệu gỗ
thông) và hàng mộc, còn lại hầu hết các đơn vị đầu tư với quy mô quá nhỏ sản
xuất đơn chiếc, tỷ lệ gỗ chế biến tinh còn quá thấp (khoảng 15%), vì vậy, giá trị
gia tăng từ hoạt động chế biến gỗ chưa cao. Đối với việc thực hiện chế biến gỗ
tạp lá rộng và sản phẩm gỗ rừng trồng (keo lai, keo tai tượng) đang gặp nhiều
khó khăn, chủ yếu vẫn thực hiện tiêu thụ gỗ tròn ra ngoài tỉnh, chưa có sản
phẩm xuất khẩu trực tiếp.
- Chính sách, giải pháp về nguyên liệu không ổn định, dẫn đến các đơn vị chưa
yên tâm đầu tư công nghệ thiết bị phát triển chế biến gỗ, như; thực hiện giao thầu, chỉ
định bán toàn bộ gỗ tròn nguyên liệu cho các đơn vị có đầu tư máy móc thiết bị tinh
chế, sau thay đổi tổ chức đấu giá toàn bộ khối lượng gỗ tròn nguyên liệu, chưa có quy
hoạch vùng nguyên liệu rừng trồng phục vụ chế biến gắn với xây dựng chứng chỉ
chuỗi hành trình sản phẩm (CoC), chứng chỉ rừng (FSC) phục vụ chế biến sản phẩm
xuất khẩu.

4. Giá trị sản xuất lâm nghiệp
- Giá trị sản xuất lâm nghiệp năm 2013 tính theo giá cố định năm 1994 là:
214 tỷ đồng, chiếm 1,3% gía trị sản xuất toàn ngành nông, lâm, thủy sản tỉnh

Lâm Đồng; tỷ lệ tăng trưởng giá trị sản xuất lâm nghiệp hàng năm, từ năm
2009-2013, dao động từ 20-30%.
- Giá trị sản xuất lâm nghiệp năm 2013 tính theo giá hiện hành là: 605 tỷ


- Giao đất, giao rừng: trong toàn bộ diện tích đất quy hoạch cho lâm
nghiệp đến năm 2020: 591.476 ha, đã giao cho các ban quản lý rừng:
289.579,8ha; các công ty lâm nghiệp nhà nước: 184.066ha; như vậy các tổ chức
nhà nước quản lý khoảng 80% diện tích rừng và đất lâm nghiệp toàn tỉnh. Các
hộ gia đình được giao 8.716 ha diện tích rừng và đất lâm nghiệp chiếm 1,4%. Các chủ
thể khác (UBND thành phố, huyện, xã, các đơn vị hành chính liên quan…) quản lý đất
lâm nghiệp với tổng diện tích là 31.237ha, chiếm 8% diện tích đất lâm nghiệp tỉnh.

- Cho thuê rừng và đất rừng cho 343 doanh nghiệp với tổng diện tích là
61.851ha, chiếm 10% diện tích rừng và đất lâm nghiệp toàn tỉnh.
Như vậy, diện tích rừng và đất lâm nghiệp giao cho hộ gia đình, cá nhân,
cộng đồng dân cư rất nhỏ bé.
5.2. Chính sách giao khoán rừng và đất lâm nghiệp
Đến hết năm 2013, toàn tỉnh đã thực hiện giao khoán quản lý, bảo vệ
rừng với diện tích là 376.136 ha (tăng 25.136 ha so với năm 2010) cho 22.852
hộ nhận khoán (tăng 4.955 hộ so với năm 2010), chiếm 63,5 % diện tích rừng
và đất lâm nghiệp toàn tỉnh. Việc giao khoán rừng kết hợp với thu hút lao động
của địa phương tham gia các hoạt động lâm nghiệp đã góp phần cải thiện sinh
kế cho hơn 18.000 hộ gia đình sống gần rừng, được người dân đồng tình, hưởng
ứng.
5.3. Chính sách tài chính cho bảo vệ và phát triển rừng
- Nguồn kinh phí cho bảo vệ và phát triển rừng tăng nhanh từ năm 2009
đến năm 2013, năm 2009: 185,6 tỷ đồng, năm 2013: 452,6 tỷ đồng; hàng năm
tăng từ 13% đến 30%; năm 2013 so với năm 2012 tăng 23% ( xem Phụ lục 03).
- Nguồn tài chính từ ngân sách nhà nước tương đối ổn định, duy trì hoạt

động tối thiểu cho bộ hoạt động bộ máy của lực lượng kiểm lâm, lâm nghiệp,
chủ rừng là doanh nghiệp nhà nước, các Ban quản lý rừng, vườn quốc
gia…cũng như chi thực hiện công tác phòng cháy chữa cháy rừng, trồng rừng
rừng giải tỏa, trồng rừng trồng cây phân tán…
- Về cơ cấu nguồn vốn: năm 2013, trong 452,6 tỷ đồng đầu tư cho công tác

bảo vệ và phất triển rừng, nguồn vốn từ chi trả dịch vụ môi trường rừng chiếm
39%; doanh nghiệp & hộ gia đình chiếm 26,7% và ngân sách nhà nước: 34,3%.
- Về chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng:


nộp vào Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng từ năm 2011 đến nay là 388,9 tỷ đồng,
riêng năm 2013 là 141,6 tỷ đồng. Diện tích khoán bảo vệ rừng bằng nguồn chi
trả dịch vụ môi trường rừng hàng năm chiếm tỷ lệ bình quân 87% tổng diện
tích khoán bảo vệ rừng toàn tỉnh, góp phần tạo thu nhập cho hơn 15.000 hộ gia
đình sống gần rừng, trong đó đồng bào dân tộc chiếm tỷ lệ 80%.
Chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng là một chính sách khuyến
khích để ngăn chặn mất rừng và suy thoái rừng, làm giảm số vụ phá rừng rõ rệt,
có nơi giảm 50%, Tiền chi trả dịch vụ môi trường rừng là nguồn lực tài chính
mới, bền vững nhất là khi ngân sách địa phương còn hạn hẹp (thu không đủ chi
và thực hiện chủ trương đóng cửa rừng tự nhiên của chính phủ), góp phần giảm
nghèo cho đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng đặc biệt khó khăn.
Tuy nhiên, trong quá trình tổ chức triển khai thực hiện chính sách còn
một số hạn chế, tồn tại, như: quản lý sử dụng nguồn thu chi trả dịch vụ môi
trường rừng còn theo cơ chế tài chính của đơn vị sự nghiệp, chưa thể hiện tính
dịch vụ cao đối với chủ rừng, hệ số K chưa được áp dụng nên chưa tạo tính
cạnh tranh để nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ rừng, phê duyệt kế hoạch chi
trả của địa phương còn chậm.
5.4. Chính sách đối với chế biến lâm sản
Ưu tiên giải quyết gỗ tròn nguyên liệu cho các đơn vị phục vụ sản xuất

chế biến tinh chế gỗ, hỗ trợ vay vốn đầu tư không lãi suất từ quỹ khuyến công
để đầu tư, đổi mới máy móc thiết bị chế biến.
6. Đánh giá chung
6.1. Kết quả đạt được
- Trong thời gian qua, ngành Lâm nghiệp tỉnh Lâm Đồng đã có những
chuyển đổi quan trọng, từ nền lâm nghiệp chủ yếu dựa vào khai thác, lợi dụng
rừng tự nhiên sang quản lý, bảo vệ, phát triển hệ sinh thái rừng tự nhiên và gây
trồng rừng; khai thác giá trị dịch vụ môi trường rừng nhằm tạo nguồn tài chính
bển vững cho bảo vệ và phát triển rừng; thực hiện đổi mới cơ chế tổ chức quản
lý trong các công ty lâm nghiệp, ban quản lý rừng; bước đầu thực hiện gia công
chế biến tinh chế và nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm gỗ và lâm sản ngoài
gỗ.
- Công tác giao khoán rừng và đất lâm nghiệp cho các tổ chức, hộ gia
đình, cá nhân, cộng đồng dân cư được chú trọng. Khả năng thu hút đầu tư trong


khả năng phòng hộ đầu nguồn, bảo tồn tính đa dạng sinh học và gia tăng sản
lượng lâm sản.
- Hoạt động lâm nghiệp đã góp phần tạo việc làm, cải thiện đời sống cho
một bộ phận người dân, bảo vệ môi trường sinh thái, phát triển kinh tế -xã hội
của địa phương.
6.2. Tồn tại, hạn chế và nguyên nhân
6.2.1.Tồn tại, hạn chế
- Tài nguyên rừng vẫn có nguy cơ bị suy giảm cả về diện tích, trữ lượng
và chất lượng rừng; hiện tượng khai thác gỗ trái phép, lấn chiếm đất rừng để sản
xuất nông nghiệp, làm nhà ở vẫn diễn ra ở một số nơi.
- Công tác giao đất, giao rừng; cho thuê rừng, giao khoán rừng và đất lâm
nghiệp chưa thực sự tạo được sự chuyển biến tích cực trong phát triển kinh tế
lâm nghiệp; diện tích rừng và đất lâm nghiệp do các tổ chức nhà nước quản lý
vẫn chiếm tỷ lệ cao (trên 80%) nên hạn chế đến việc huy động các nguồn lực

của xã hội cho bảo vệ và phát triển rừng.
- Phần lớn đất đai và rừng của các công ty lâm nghiệp, các ban quản lý
rừng chưa được rà soát, đo đạc trên thực địa, chưa lập bản đồ địa chính, diện
tích đất được cấp sổ đỏ chiếm tỷ lệ thấp, những vi phạm chính sách và pháp luật
về đất đai dưới nhiều hình thức khác nhau chưa được xử lý dứt điểm (lấn chiếm
đất đai, tranh chấp đất đai...)
- Một số công ty lâm nghiệp chưa có sự thay đổi căn bản về cơ chế quản
lý và quản trị doanh nghiệp, sản xuất kinh doanh hiệu quả thấp, chưa thể hiện rõ
vai trò là trung tâm chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ mới,
cung cấp dịch vụ khuyến nông, khuyến lâm, thông tin thị trường đối với nông
dân trong vùng và chưa thực hiện được vai trò điểm tựa phát triển kinh tế - xã
hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng trên địa bàn.
- Công tác bảo vệ rừng còn thụ động, chưa thực sự vững chắc và hiệu quả
thấp.
- Chưa phát huy hết tiềm năng vốn có của rừng, nhất là đối với hệ sinh
thái rừng tự nhiên. phát triển rừng trồng chưa thực sự tương xứng với tiềm năng
đất đai.


(phần lớn là đồng bào dân tộc) vẫn còn nhiều khó khăn, từ đó tạo áp lực mở rộng
diện tích sản xuất cây nông nghiệp, cây công nghiệp vào đất rừng.
- Đô thị hóa và nhu cầu năng lượng đòi hỏi phát triển cơ sở hạ tầng, các
công trình xây dựng quốc gia, nhất là xây dựng công trình thủy điện, đường giao
thông dẫn đến chuyển đổi mục đích sử dụng rừng, mất rừng tự nhiên. Trong thời
gian từ 2007-2012, mất rừng tự nhiên còn do việc thực hiện chưa tốt chính sách
chuyển đổi từ rừng tự nhiên sang trồng cao su.
- Điều kiện tự nhiên của tỉnh có nhiều bất lợi như vị trí xa các trung tâm
tiêu thụ lâm sản, địa hình phức tạp, chia cắt mạnh, đất trống đồi trọc tuy còn
nhiều nhưng manh mún, nghèo dinh dưỡng, khí hậu cực đoạn nên ảnh hướng
đến hiệu quả kinh doanh rừng trồng.

- Các công ty lâm nghiệp, ban quản lý rừng hoạt động trên địa bàn rộng
lớn, vùng sâu vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người, biên giới; cơ sở hạ tầng
thấp kém; đối tượng sản xuất là cây trồng, vật nuôi và sản xuất phụ thuộc nhiều
vào điều kiện tự nhiên.
- Chưa có quy hoạch mạng lưới chế biến gỗ chung cho toàn tỉnh, đồng thời các
khu, cụm công nghiệp hầu hết chưa hoàn chỉnh về đầu tư hạ tầng nên rất khó thực
hiện. Việc xây dựng quy hoạch các ngành trong những năm qua chưa đồng bộ,

chưa có sự phối hợp chặt chẽ và lồng ghép với hoạt động hạn chế mất rừng, suy
thoái rừng.
- Nhận thức của không ít cán bộ ở các ngành, rừng là tài nguyên quốc gia
do nhà nước quản lý, các lợi ích từ rừng chủ yếu do các cơ quan tài chính điều
tiết, ngành lâm nghiệp chịu trách nhiệm trong quản lý, bảo vệ rừng trong khi
nguồn lực lại hạn chế.
- Lực lượng quản lý, bảo vệ rừng mỏng và trang thiết bị còn lạc hậu. Tại
nhiều địa phương năng lực và trình độ chuyên môn của nhân viên quản lý rừng
thấp, ý thức trách nhiệm và nhiệt tình công việc chưa cao.
- Cơ chế, chính sách lâm nghiệp của Nhà nước ban hành trong thời gian
qua chưa đồng bộ và còn nhiều bất cập, một số chính sách chưa thật sự phù
hợp với đặc thù vùng Tây Nguyên, trong đó có tỉnh Lâm Đồng, như: suất đầu tư
trồng rừng thấp, ngân sách nhà nước cấp không đủ kinh phí để thực hiện bảo vệ
và phát triển rừng phòng hộ, rừng đặc dụng; chính sách tín dụng đối với trồng


6.3. Những vấn đề đặt ra cho phát triển lâm nghiệp
a) Lâm Đồng là tỉnh có diện tích rừng tự nhiên lớn nhưng đang đứng
trước nguy cơ có thể bị suy giảm cả về diện tích, trữ lượng và chất lượng rừng
nếu như không có các giải pháp tác động hữu hiệu.
b) Lâm nghiệp ở tỉnh Lâm Đồng là nền lâm nghiệp Nhà nước (Lâm
nghiệp quốc doanh) là chủ yếu. Nếu xem xét dưới khía cạnh quản lý đất đai,

lâm nghiệp nhà nước chiếm tới 80%. Nhận thức một nền lâm nghiệp Nhà nước
(Lâm nghiệp quốc doanh) hoạt động khép kín hiện đang hiện hữu, nhưng bộc lộ
những hạn chế rõ rệt trong tổ chức quản lý rừng, trong khi nhận thức về xã hội
hoá nghề rừng còn hạn chế, lúng túng trong việc xác định bước đi, mô hình và
cơ chế khuyến khích.
c) Là một địa phương nằm sâu trong nội địa, xa cảng biển, xa các khu vực
trung tâm tiêu thụ lâm sản, cơ sở hạ tầng giao thông thấp kém, trong khi quỹ đất
dành cho trồng rừng sản xuất phân tán, hiệu quả đầu tư trồng rừng thấp, do đó
không hấp dẫn các nhà đầu tư, cũng như người dân tại chỗ, khó khăn trong việc
quy hoạch xây dựng các nhà máy chế biến gắn với vùng nguyên liệu tập trung.
d) Lâm Đồng là tỉnh có điểm xuất phát thấp so với bình quân chung cả
nước; dân số toàn tỉnh khoảng 1,235 triệu người (tính đến 1/7/2012), trong đó
đồng bào dân tộc thiểu số chiếm 21,6% (riêng dân tộc thiểu số gốc Tây Nguyên
chiếm 17% dân số), từ trước đến nay quen với việc hái lượm từ rừng là chủ yếu,
chưa có ý thức phát triển rừng, tuy họ có ý thức về bảo vệ rừng. Xu thế di dân
tự do đến tỉnh Lâm Đồng vẫn rất phức tạp, vẫn đang có tình trạng dân bản địa
lùi sâu mãi vào rừng và khai phá rừng để bán, canh tác nông nghiệp
đ) Phát triển lâm nghiệp tỉnh Lâm Đồng đang phải đối mặt với một số
mâu thuẫn cần tập trung giải quyết, đó là:
- Mâu thuẫn trước mắt và lâu dài giữa phát triển nông nghiệp với phát
triển lâm nghiệp; áp lực chuyển đổi từ đất lâm nghiệp, đặc biệt từ rừng tự nhiên
sang sản xuất nông nghiệp và trồng cây công nghiệp dài ngày là rất lớn. Khác
với nhiều tỉnh khác, lâm nghiệp tỉnh Lâm Đồng có vị trí “yếu thế” so với trồng
và kinh doanh những cây công nghiệp hàng hoá mang lại hiệu quả kinh tế rất
cao như cao su, cà phê
- Mâu thuẫn giữa việc sử dụng rừng với bảo vệ và phát triển hệ sinh thái


e) Cơ chế, chính sách chưa tạo ra được những cơ sở, nền tảng cần thiết để
quản lý bền vững rừng tự nhiên trong điều kiện kinh tế thị trường, nền kinh tế

nhiều thành phần đang phát triển. Cho đến nay chúng ta vẫn lúng túng trong
nhiều vấn đề cụ thể nhưng rất cơ bản trong việc thiết lập một chế độ quản lý
rừng tự nhiên hiện còn.
III. KẾ HOẠCH HÀNH ĐỘNG THỰC HIỆN ĐỀ ÁN TÁI CƠ CẤU
NGÀNH LÂM NGHIỆP
1. Bối cảnh, dự báo
1.1. Cơ hội
a) Tài nguyên rừng nước ta đã và đang diễn biến theo xu thế phục hồi và
phát triển
Giai đoạn 1993- 1998, cả nước thực hiện chương trình phủ xanh đất
trồng, đồi núi trọc (chương trình 327), giai đoạn 1998-2010 thực hiện Dự án
trồng mới 5 triệu ha rừng, tiếp theo từ năm 2011 thực hiện Kế hoạch bảo vệ và
phát triển rừng. Thực hiện chủ trương quản lý, bảo vệ, khôi phục và phát triển
rừng trên phạm vi toàn quốc đã thể hiện cam kết chính trị và quyết tâm cao của
Nhà nước trong việc phục hồi và phát triển rừng của đất nước sau một thời kỳ
dài rừng đã bị tàn phá và suy thoái. Ở nhiều tỉnh, trong đó có tỉnh Lâm Đồng, xu
hướng này đã tạo nên những thuận lợi mới để phát triển ngành lâm nghiệp trong
những thời gian tiếp theo.
b) Nhận thức về phát triển bền vững, trong đó thực hiện quản lý rừng theo
nguyên tắc bền vững đã được nâng lên và thể hiện rõ nét trong chủ trương,
chính sách phát triển lâm nghiệp
- Việt Nam đã xây dựng và đang tổ chức thực thi Chiến lược Tăng trưởng
Xanh (2012), trong đó xác định tăng trưởng xanh là cách thức để có được một
nền kinh tế các bon thấp, giúp làm giàu tài nguyên thiên nhiên và trở thành định
hướng chính trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Việc giảm phát thải khí
nhà kính và tăng cường khả năng hấp thụ khí nhà kính đang dần trở thành các
chỉ tiêu chính trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
- Nhận thức của chính quyền các cấp và toàn xã hội về tầm quan trọng
của rừng đã có nhiều chuyển biến tích cực trong công cuộc ứng phó với biến đổi
khí hậu.. Nhiều chính sách hỗ trợ bảo vệ và phát triển rừng đã được ban hành

đang đi vào cuộc sống như: chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng, chính


Thị trường nội địa tiêu thụ gỗ rừng trồng là rất lớn, ngay tại địa bàn Tây
Nguyên có các nhà máy chế biến lớn như: nhà máy MDF Gia Lai, Nhà máy
giấy Tân Mai, Nhà máy giấy Kon Tum và hàng trăm doanh nghiệp chế biến gỗ
tư nhân. Ngoài ra, rất thuận tiện cho việc vận chuyển nguyên liệu xuống các địa
bàn lân cận như: Đồng Nai, Sài gòn, Đà Nẵng..
d) Thương mại gỗ và đồ gỗ trên thế giới vẫn tiếp tục tăng trưởng, tạo cơ
hội phát triển cho ngành công nghiệp xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam, có nhu cầu
cao về gỗ nguyên liệu trong nước, tạo ra thị trường và động lực cho việc phát
triển rừng trong nước, đặc biệt là rừng trồng.
đ) Hợp tác quốc tế về lâm nghiệp tiếp tục phát triển
Hiện nay Việt Nam đang tăng cường hợp tác với các nước, các tổ chức
quốc tế, kể cả đa phương, song phương, phi chính phủ; các tổ chức tài chính
trong khu vực và trên thế giới để thu hút các hỗ trợ về tài chính và kỹ thuật để
thực hiện chương trình bảo vệ và phát triển rừng giai đoạn 2011-2020. Chuẩn bị
các điểu kiện để tham gia đầy đủ sáng kiến REDD+ mang tính quốc tế (giảm
phát thải khí nhà kính do mất rừng và suy thoái rừng, bảo tồn rừng, quản lý bền
vững tài nguyên rừng, tăng cường trữ lượng các bon) nhằm thích ứng và giảm
nhẹ sự tác động của biến đổi khí hậu; sáng kiến thực thi Luật lâm nghiệp, quản
trị rừng và thương mại lâm sản ( FLEGT); thực hiện cơ chế phát triển sạch, tín
dụng các bon và chi trả dịch vụ môi trường rừng để tăng nguồn thu phục vụ
mục tiêu phát triển bền vững quốc gia.
1.1.2. Thách thức
- Trong xu hướng biến đổi khí hậu toàn cầu hiện nay, Việt Nam được dự
báo là một trong 5 nước chịu sự ảnh hưởng nặng nề của nước biển dâng. Tác
động dài hạn của biến đổi khí hậu có thể dẫn đến thay đổi sinh cảnh gây ảnh
hưởng đến đa dạng sinh học rừng, làm gia tăng sâu bệnh, cháy rừng và sa mạc
hóa.

- Bất cập giữa yêu cầu phát triển ngành nhanh, toàn diện và bền vững với
các nguồn lực của ngành, đặc biệt là vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước cho
ngành lâm nghiệp còn hạn chế (dưới 50 triệu USD/năm). Việt Nam đã trở thành
nước có mức thu nhập trung bình (thấp), nên các nguồn vốn ODA cho lâm nghiệp
cũng giảm, trong khi đó việc huy động các nguồn vốn xã hội hóa còn hạn chế.


- Hiện nay ngành lâm nghiệp chưa xây dựng được quy trình trồng rừng gỗ
lớn cũng như chưa tuyển chọn giống phù hợp cho trồng rừng gỗ lớn nên rất khó
tiến hành trồng rừng gỗ lớn đại trà trong giai đoạn 2015-2020. Trong thời gian
tới, việc ưu tiên đất “tốt” cho phát triển nông nghiệp; đất có độ phì kém, độ dốc
lớn, địa hình chia cắt, khó có điều kiện trồng rừng tập trung, vẫn là một thách
thức khách quan trong việc nâng cao năng suất và chất lượng rừng trồng.
- Ngành chế biến gỗ chủ yếu hướng tới xuất khẩu trong khi phải đáp ứng
với yêu cầu mới của các thị trường nhập khẩu như Luật Lacey của Hoa Kỳ,
FLEGT của Cộng đồng châu Âu về nguồn gốc, xuất xứ của gỗ hợp pháp. Đây là
những thách thức lớn cho quản lý rừng sản xuất bền vững của Việt Nam.
- Chính sách lâm nghiệp chưa tạo được động lực thúc đẩy sự tham gia,
chưa đáp ứng được sinh kế cho người dân đang sống ở vùng gần rừng.
1.2. Dự báo thị trường tiêu thụ sản phẩm nội địa và thị trường thế giới
- Theo dự báo, đến năm 2020 Việt Nam sẽ có dân số khoảng 100 triệu
người, tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân 78%/năm. GDP năm 2020 theo giá so sánh bằng khoảng 2,2 lần so với năm
2010, GDP bình quân đầu người theo giá thực tế đạt khoảng 3.000-3.200 USD.
Nhu cầu tiêu dùng các sản phẩm gỗ nội địa cũng tăng trưởng mạnh, theo ước
tính của một số chuyên gia, giá trị đồ gỗ tiêu thụ nội địa bằng khoảng 30% giá
trị kim ngạch đồ gỗ xuất khẩu. Công nghiệp chế biến gỗ Việt Nam sẽ chuyển
hướng dần sang sản xuất sản phẩm gỗ cung cấp cho tiêu dùng nội địa. Thị
trường gỗ, sản phẩm gỗ quốc tế và trong nước sẽ tạo ra các thuận lợi to lớn cho
phát triển rừng sản xuất và nâng cao giá trị sản xuất lâm nghiệp trong giai đoạn
tới

- Theo dự báo, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu sản phẩm gỗ của Việt Nam
trong thời gian tới khoảng 15% năm, giá trị kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ có thể đạt
7 tỷ USD, kim ngạch xuất khẩu lâm sản ngoài gỗ khoảng 800 triệu USD/năm vào
năm 2020. Gỗ nguyên liệu trong nước đặc biệt là gỗ lớn hiện chưa đáp ứng nên
Việt Nam phải nhập khẩu từ 3-4 triệu m 3/năm. Việt Nam đã gia nhập Tổ chức
thương mại Quốc tế (WTO) các sản phẩm gỗ của Việt Nam cũng chịu sự tác động
của nền kinh tế toàn cầu. Mức độ cạnh tranh các sản phẩm cùng loại của các quốc
gia khác càng trở nên khốc liệt hơn cả trên thị trường quốc tế và thị trường nội
địa. Việt Nam vẫn phải nhập khẩu nguyên liệu gỗ với khối lượng giảm dần đến


×