Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

SKKN NÂNG CAO KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH .

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (237.75 KB, 26 trang )

UBND HUYỆN ĐĂK R’LẤP
TRƯỜNG THCS LƯƠNG THẾ VINH

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đề tài:
VẬN DỤNG CÁC TRÒ CHƠI TRONG GIẢNG DẠY
SINH HỌC 6 NHẰM NÂNG CAO KỸ NĂNG SỐNG
CHO HỌC SINH .

LĨNH VỰC: SINH HỌC
TÁC GIẢ: HUỲNH THỊ VIÊN
GIÁO VIÊN MÔN: SINH HỌC
TRƯỜNG: THCS LƯƠNG THẾ VINH

1


Quảng Tín, năm học 2015 - 2016

MỤC LỤC
Trang
1. MỞ ĐẦU
1.1 Lý do chọn đề tài...............…………………………………………………….... 02
1.2 Mục đích nghiên cứu...............…………………………………………………… 03
1.3 Đối tượng nghiên cứu...............……………………………………………………03
1.4 Phương pháp nghiên cứu..............…………………………………………………03
1.5 Giới hạn phạm vi nghiên cứu..............…………………………………………… .03
2. NỘI DUNG
2.1 Cơ sở lý luận của vấn đề.....………………………………………………… .........04
2.2 Thực trạng nghiên cứu.....………………………………………………… ........ ...04
2.2.1Đối với giáo viên…………………………………….............................................04


2.2.2 Đối với học sinh………………………………………….....................................05
2.2.3.Giải pháp thay thế……………………………………………….........................05
2.3. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề:………………….......................05
2.3.1 Tầm quan trọng của việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 6…................05
2.3.2 Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh qua các trò chơi trong giảng dạy sinh học. 08
2.4 Kết quả đạt được ………………………………......................................................20
3.KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1.Kết luận.………………………………………………............................................22
3.2. Kiến nghị…………………………………………..................................................23
* Tài liệu tham khảo .......................................................................................................25

2


1. MỞ ĐẦU
1.1 Lý do chọn đề tài:
Trong quá trinh dạy môn sinh học 6 tôi đã rút ra được:
Để giờ dạy Sinh học đạt kết quả tốt hơn, gây được hứng thú học tập và phát huy
được tính tích cực của học sinh người thầy phải thường xuyên đổi mới phương pháp
dạy học và hình thức tổ chức các hoạt động dạy học. Một trong những hình thức dạy
học đem lại hiệu quả cao là kết hợp tổ chức các trò chơi trong giờ dạy Sinh học. Hiện
nay theo tôi được biết, việc tổ chức trong giờ học Sinh học ở các trường THCS chưa
được nhiều giáo viên quan tâm. Nhiều giáo viên quan niệm rằng giờ học Sinh học
không nên tổ chức trò chơi vì gây ồn ào dễ ảnh hưởng đến việc học tập của lớp khác.
Giáo viên phải chuẩn bị vất vả mất nhiều thời gian, có thể gây cháy giáo án. Và đôi khi
giáo viên còn cho rằng học sinh THCS đã lớn không như học sinh mẫu giáo, tiểu học
mà còn tổ chức trò chơi. Cũng như các bộ môn khác trong nhà trường, môn Sinh học là
bộ môn khoa học thực nghiệm với phương pháp nghiên cứu chủ yếu là đi từ trực quan
sinh động đến tư duy trừu tượng. Vì vậy trong giờ dạy sinh học nếu người thầy không
tìm cách tổ chức một giờ dạy học sao cho hợp lý sinh động hấp dẫn, thì rất khó lôi cuốn

được học sinh, giờ học sẽ tẻ nhạt, mang tính chất khô khan.
Vì vậy việc xây dựng tổ chức các trò chơi học tập phù hợp với nội dung bài học
trong môn Sinh học, cũng không phải là vấn đề quá khó, chỉ phải cần 5- 7 phút là giáo
viên có thể tổ chức được một trò chơi phù hợp để dẫn dắt học sinh tiếp thu kiến thức,
củng cố kiến thức đã học hoặc thực hiện trong những buổi ngoại khoá Sinh học. Ngoài
ra, còn giáo dục được thái độ của học sinh trong việc học tập Sinh học, gây được hứng
thú học tập bộ môn từ đó đem lại thành công cho tiết dạy Sinh học.
Vì trong giai đoạn của lứa tuổi này học sinh rất là tò mò, ham hiểu biết, thích tìm tòi
cái mới, muốn được tham gia vào các hoạt động một cách độc lập, muốn thử sức mình
nên việc tổ chức các trò chơi trong dạy học Sinh học chắc chắn sẽ gây được hứng thú
3


học tập của học sinh, phát triển ở học sinh kỹ năng quan sát, phân tích tổng hợp khái
quát hoá kiến thức, khả năng suy luận phán đoán, rèn luyện tác phong nhanh nhẹn của
học sinh.
1.2 Mục đích nghiên cứu
- Nhằm tạo sự hứng thú trong quá trình học tập của học sinh.
- Phát triển kỹ nămg phán đoán nhận xét của học sinh trong quá trình học tập
- Rèn luyện tác phong nhanh nhẹn của học sinh.
- Tạo sự thân thiện, đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau giũa các bạn học sinh trong tổ, nhóm, lớp
học.
- Ngoài ra còn giáo dục được thái độ của học sinh trong việc học tập Sinh học, gây được
hứng thú học tập bộ môn từ đó đem lại thành công cho tiết dạy Sinh học.
- Tìm hiểu phương pháp trực quan, tim tòi học hỏi trong dạy học sinh học.
1.3 Đối tượng nghiên cứu
- Học sinh khối 6
- Các em cần tìm hiểu thêm thông tin từ cuộc sông để ứng dụng vào các trò chơi
- Từ đó các em sẽ có thêm nhiều thông tin nhằm giúp tiết học đạt kết quả cao và các em
hiểu biết và vận dụng nhanh.

1.4 Phương pháp nghiên cứu
- Đọc và nghiên cứu sách hướng dẫn và sách giáo viên môn sinh học 6
- Nghiên cứu các tài liệu liên quan như: Phương pháp đổi mới môn sinh học 6, Phát
triển các phương pháp học tập tích cực trong bộ môn sinh hoc 6.
- Tìm hiểu thực trạng của học sinh về môn sinh học trong trường THCS Lương Thế
Vinh để rút ra kinh nghiệm áp dụng.
- Tìm hiểu qua các bài dạy về quá trình học tập và sự hứng thú học tập khi có tham gia
trò chơi và nhằm giáo dục kỹ năng cho các em khi tham gia.
1.5 Giới hạn phạm vi nghiên cứu
- Đề tài áp dụng cho học sinh lớp 6 trong giờ học môn sinh học 6, nhằm tạo không khí
thoải mái và giáo dục kỹ năng sống cho các em khi gặp những tình huống tương tự.
4


- Áp dụng nhằm tạo sự hứng thú học tập cho học sinh
- Thay đổi phương pháp học tập cho học sinh có sự tư duy, nhanh nhẹn sử lí trong các
tình huống học tập.

2.

NỘI DUNG

2.1 Cơ sở lý luận của vấn đề
- Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh là yêu cầu cấp thiết hiện nay vì các em chính
là những chủ nhân tương lai của đất nước, là những con người sẽ và đang là người chủ
góp phần xây dựng sự phát triển của đất nước trong những năm tới vì vậy nếu không
giáo dục kỹ năng sống cho các em ngay từ bây giờ thì các em sẽ không thể thực hiện tốt
trách nhiệm đối với bản thân, gia đình, bạn bè, cộng đồng và đất nước.
- Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh là hình thành và phát triển cho các em khả
năng làm chủ bản thân, khả năng ứng xử với những công việc, con người trong xã hội,

khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống.
- Học phải đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với sản xuất, lí luận gắn liền với thực
tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với với giáo dục gia đình và xã hội vì vậy trong tiết
học môn sinh học 6 giáo viên lồng ghép những trò chơi hữu ích cho các em, qua đó các
em thấy được sự hài hòa giữa việc học lý thuyết với thực hành có sự gắn kết chặt chẽ.
- Xã hội ngày càng phát triển thì nhận thức tri thức và cả những vấn đề xã hội của
các em ngày càng nhạy bén hơn, vì vậy phải giáo dục trong nhà trường ngay từ bây giờ
để các em nhận thức sâu sắc hơn về cuộc sống và ứng xử trong xã hội nhằm đạt được
mục tiêu của giáo dục. Mục tiêu của giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển
toàn diện, có tri thức, có đạo đức, có sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành
với lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH, hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất
và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
2.2.Thực trạng của vấn đề :
2.2.1 Đối với giáo viên:
Mặc dù đã được tập huấn nhiều về đổi mới phương pháp dạy học và cũng đã có
những tài liệu hướng dẫn việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh. Song kết quả của
5


việc dạy học theo hướng đổi mới trên vẫn còn những hạn chế, nhiều giáo viên còn lúng
túng trong việc lồng ghép giáo dục kĩ năng chuyên môn với kĩ năng sống, cũng có giáo
viên chưa thực sự quan tâm sâu sắc đến vấn đề này.
2.2.2 Đối với học sinh:
Các em học sinh trong huyện ĐăkR’lấp nói chung, học sinh trong Trường THCS
Lương Thế Vinh nói riêng, được sinh ra trong hoàn cảnh đất nước đã đổi mới, được
hưởng một nền giáo dục đã hiện đại. Song, so với học sinh ở đồng bằng các em còn rất
nhiều thiệt thòi và đặc biệt kĩ năng sống của các em rất hạn chế.
Với học sinh Trường THCS Lương Thế Vinh, các em sinh ra và lớn lên trong một
vùng thuần nông, cha mẹ các em nói chung phần lớn là làm rẫy, bản thân các em cũng
vậy. Chính vì thế khả năng giao tiếp, khả năng làm chủ bản thân, khả năng ứng phó với

hoàn cảnh… của các em còn nhiều hạn chế.
Xuất phát từ những thực tế trên, Ban giám hiệu nhà trường đã rất quan tâm đến vấn
đề này. Nhiều chương trình hoạt động trong các dịp kỉ niệm các ngày lễ được tổ chức
và các em học sinh rất hào hứng tham gia. Các em nắm bắt vấn đề rất nhanh nhạy. Qua
các hoạt động đó, tôi tin các trò của tôi có khả năng thích ứng với đề tài này.
Xuất phát từ những suy nghĩ trên, trong quá trình giảng dạy bản thân tôi đã đưa ra
một số kinh nghiệm, nhằm nâng cao kỹ năng sống cho học sinh.
2.2.3 Giải pháp thay thế :
Khi nghiên cứu đề tài này đòi hỏi mỗi người giáo viên trong giảng dạy phải áp dụng
tốt các phương pháp, biết lựa chọn các phương pháp phù hợp cho từng học sinh, từng
bài học, từ đó chất lượng dạy học sẽ được nâng lên. Một số phương pháp chung:
- Phương pháp điều tra thực tiễn.
- Phương pháp khảo sát đánh giá.
- Phương pháp phân tích tổng hợp.
- Phương pháp thực nghiệm.
2.3. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề:
2.3.1 Tầm quan trọng của việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 6
6


Việc nhận thức của học sinh về các vấn đề của xã hội và các hành vi ứng xử
của học sinh còn sai lệnh mặc dù có thể học sinh đã nhận thức được vấn đề đó nhưng
khi thực hiện lại sai với chuẩn mực. Chính vì học sinh không có những kỹ năng sống cơ
bản nên các hành vi của các em bị sai lệnh như khi ứng xử với bạn bè hoặc thầy cô giáo
trong nhà trường... các em giải quyết vấn đề còn thiếu chính xác còn sai lệch và không
phù hợp, các em thường bị động trước các tình huống, tỏ ra chậm chạp, lúng túng với
các tình huống. Việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh có vai trò quan trọng đối với
cuộc sống của các em hiện tại và tương lai sau này của chính các em. Đó là điều hết sức
cần thiết và vô cùng quan trọng đối với các em. Là một người giáo viên cần quan tâm
giáo dục cho các em những kỹ năng sống cơ bản nhất là đối với các em học sinh lớp 6.

Học sinh THCS Lương Thế Vinh nói chung và học sinh lớp 6 nói riêng đang
hình thành những giá trị nhân cách, thích thể hiện mình, tìm tòi, khám phá song hiểu
biết chưa sâu sắc về xã hội, còn thiếu kinh nghiệm, dễ bị kích động và lôi kéo vào
những hành động không tốt. Trong tình hình kinh tế xã hội ngày càng phát triển như
như hiện nay các em thường xuyên chịu tác động của các yếu tố tích cực xen lẫn với
các yếu tố tiêu cực, các em phải đứng trước những sự lựa chọn, những khó khăn, áp lực
tiêu cực. Những nguyên nhân dẫn đến các hiện tượng tiêu cực của các em học sinh
trong thời gian qua như bạo lực học đường, game, ăn chơi sa đọa, đua xe, hút thuốc lá
… là do các em thiếu những kỹ năng cần thiết như kỹ năng từ chối, kỹ năng giao tiếp,
kỹ năng kiên định….
Nhiệm vụ đổi mới giáo dục đã được nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn
diện cho thế hệ trẻ, đáp ứng nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hoá hiện đại hoá đất
nước, phù hợp với thực tiễn và truyền thống Việt Nam tiếp cận với trình độ giáo dục
các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới. Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh
là hình thành và phát triển cho các em HS khả năng làm chủ bản thân, khả năng ứng xử
phù hợp với những người khác và với xã hội.
* Những kĩ năng cơ bản có thể lồng ghép giáo dục trong giờ dạy học Sinh học:
7


- Kĩ năng tự nhận thức
- Kĩ năng xác định giá trị
- Kĩ năng kiểm soát cảm xúc
- Kĩ năng ứng phó với căng thẳng
- Kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ
- Kĩ năng thể hiện sự tự tin
- Kĩ năng giao tiếp
- Kĩ năng lắng nghe tích cực
- Kĩ năng thể hiện sự cảm thông
- Kĩ năng thương lượng

- Kĩ năng giải quyết mâu thuẫn
- Kĩ năng hợp tác
- Kĩ năng tư duy phê phán
-Kĩ năng tư duy sáng tạo
- Kĩ năng ra quyết định
- Kĩ năng giải quyết vấn đề
- Kĩ năng kiên định
- Kĩ năng đảm nhiệm trách nhiệm
- Kĩ năng đặt mục tiêu
- Kĩ năng quản lí thời gian
- Kĩ năng tìm kiếm và xử lí thông tin.
Kỹ năng sống bao gồm một loạt các kĩ năng cụ thể, cần thiết cho cuộc sống hàng
ngày của con người. Bản chất của kỹ năng sống là kĩ năng tự quản lí bản thân và kĩ
năng xã hội cần thiết để cá nhân tự lực trong cuộc sống, học tập và làm việc hiệu quả.
Nói cách khác, kỹ năng sống là khả năng làm chủ bản thân của mỗi người, khả năng
ứng xử phù hợp, khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống. Ngày
nay, rèn luyện kỹ năng sống cho thế hệ trẻ mà tiêu biểu là các em học sinh THCS là
trách nhiệm chung của gia đình, nhà trường và xã hội. Trong đó, người giáo viên giữ
8


vai trò quyết định. Đây cũng là một trong những nội dung của phong trào thi đua "Xây
dựng trường học thân thiện - học sinh tích cực" mà Bộ Giáo dục đã đề ra. Người giáo
viên ngoài những yêu cầu về kiến thức chuyên môn, đòi hỏi phải nắm vững kiến thức
kỹ năng sống để giáo dục các em học sinh. Tạo điều kiện để các em cảm nhận được
không khí thân thiện với trường, lớp, với gia đình và với mọi người. Tuy nhiên, tùy theo
lứa tuổi, tâm lý và bậc học mà người giáo viên có những biện pháp giáo dục các em
khác nhau. Giáo dục kỹ năng sống bao gồm giáo dục nhận thức, sự hiểu biết, thái độ,
cách vận dụng và sau cùng là những hành vi mang tính tích cực. Tóm lại, giáo dục kỹ
năng sống cho mọi người nói chung và học sinh nói riêng là điều rất cần thiết. Nó trang

bị đầy đủ những kỹ năng cho các em để các em có được nhận thức cuộc sống ngày càng
tốt đẹp hơn. Để làm được điều đó, mỗi người giáo viên cần nêu cao tinh thần trách
nhiệm của mình ở mọi lúc, mọi nơi, đặc biệt là trong việc giúp những em có thói quen
xấu và hành vi tiêu cực trở thành con ngoan, trò giỏi và là người có ích cho xã hội sau
này.
2.3.2Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh qua các trò chơi trong dạy học Sinh
học.
a.Vai trò của trò chơi học tập trong dạy học Sinh học.
Trò chơi đã có từ lâu và nó là một hoạt động của con người nhằm mục đích trước
tiên là vui chơi giải trí, thư giãn sau những giờ làm việc căng thẳng mệt mỏi. Nhưng
qua trò chơi người chơi được rèn luyện thể lực, trí lực, rèn luyện các giác quan tạo cơ
hội giao lưu với mọi người, cùng hợp tác với bạn bè, đồng đội trong nhóm, trong tổ......
Do vậy trò chơi học tập trong dạy học môn Sinh học có vai trò là:
- Góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn Sinh học. Thông qua các trò chơi
giúp học sinh hiểu được các kiến thức cơ bản của Sinh học, giúp học sinh biết vận dụng
các kiến thức đã học vào thực tiễn sinh động và giáo dục đạo đức cho học sinh.
- Kích thích hứng thú, phát huy tính tích cực, chủ động, tự giác, tư duy sáng tạo và
khả năng hợp tác cao trong học tập cũng như trong cuộc sống của học sinh.
9


- Tạo điều kiện để học sinh có cơ hội được thực hành, được thể hiện khả năng của
bản thân và hiểu biết của mình.
- Giáo dục học sinh tính kỉ luật tự giác, trung thực, sự kiên trì, tinh thần đồng đội
trong học tập cũng như các kỹ năng trong cuộc sống.
b. Tổ chức trò chơi trong giờ dạy Sinh học cần đạt được một số yêu cầu:
b.1 Phù hợp với yêu cầu của việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay.
Nghĩa là trò chơi phải hướng vào học sinh, lấy học sinh làm trung tâm. Thầy chỉ
là người tổ chức, hướng dẫn và điều khiển các trò chơi còn Học sinh là đối tượng trực
tiếp tham gia các trò chơi và tự rút ra kiến thức sau các chò chơi. Giáo viên phải tìm trò

chơi có tác dụng phát huy trí sáng tạo của học sinh, phát huy tối đa tính tích cực của học
sinh, hình thành và phát triển ở học sinh các kỹ năng sống nhất định.
b.2 Phù hợp với đặc điểm tâm lý của học sinh.
Cần chú ý đến đặc điểm tâm lý của học sinh lớp 6 đang trong giai đoạn có sự khủng
hoảng về tâm lý, lứa tuổi có thể rất dễ hình thành các thói quen các kỹ năng sống. Nội
dung trò chơi đưa ra phải phù hợp với tâm lí lứa tuổi thì học sinh mới có thể tham gia
một cách tích cực và phát huy được tính sáng tạo của mình, các em mới phát triển được
các kỹ năng của mình.
b.3 Trò chơi phải đảm bảo mục tiêu của hoạt động dạy và học cũng như của
toàn bộ bài học.
- Giáo viên cần chú ý đến mục đích của trò chơi và cần rèn cho học sinh những kỹ
năng gì? Yêu cầu sau khi học sinh thực hiện trò chơi đó là gì? Học sinh tham gia trò
chơi đó như thế nào để đạt được mục tiêu đó?
- Sau khi kết thúc trò chơi giáo viên càn phải đưa Học sinh vào một tình huống có
vấn đề để tự rút ra kết luận về kiến thức của họat động.
b.4 Trò chơi nên tạo được hứng thú học tập và thu hút được đối tượng học
sinh tham gia.
10


- Giáo viên tổ chức các trò chơi cần chú ý đến đối tượng học sinh, để cho toàn bộ
các em được tham gia một cách nhiệt tình. Chứ trò chơi không phải tổ chức cho một số
học sinh hay một nhóm học sinh nào đó.
- Trong mỗi trò chơi giáo viên nên tạo cơ hội cho mỗi học sinh đều được tham gia
và có vai trò tích cực trong các trò chơi. Để học sinh được tham gia vào các trò chơi thì
các em mới có hứng thú với hoạt động học tập mà giáo viên đưa ra.
b.5 Trò chơi phải được chuẩn bị cẩn thận và chuẩn bị các tình huống trước
giờ học.
- Giáo viên cần chuẩn bị trò chơi như: phương tiện, nội dung, hình thức, số người
tham gia, tổ chức số nhóm tham gia ...

- Giáo viên cần chú ý đến cách thức tổ chức các nhóm, số lượng nhóm tham gia và
quan trọng hơn là thời gian tổ chức trò chơi.
- Giáo viên cần lưu ý đến các tình huống có thể xảy ra và có cách giải quyết hợp lý
tránh mất thời gian của giờ học.
b.6 Giáo viên phải biết cách tổ chức trò chơi vào thời điểm phù hợp nhất .
Tùy theo nội dung và mục tiêu của từng hoạt động trong bài mà tổ chức hoạt động
trò chơi cho phù hợp, có thể ở ngay các hoạt động học tập hoặc trong quá trình củng cố
kiến thức, thường các hoạt động này diễn ra vào phần củng cố bài học.
b.7 Giáo viên không nên lạm dụng các trò chơi có thể gây mất thời gian, ảnh
hưởng đến yêu cầu của giờ học.
- Không phải giờ học nào giáo viên cũng cần phải tổ chức cho học sinh tham gia các
trò chơi, mà tuỳ từng bài có thể giáo viên mới nên tổ chức. Mỗi giờ học giáo viên nên
chỉ tổ chức một trò chơi là phù hợp không nên tổ chức quá nhiều trò chơi trong một giờ
học.
- Khi tổ chức các trò chơi giáo viên cũng cần lưu ý không được lạm dụng trò chơi
làm ảnh hưởng đến chất lượng dạy học, lấn áp thời gian chính của giờ học.
11


c. Quy trình thiết kế và tổ chức trò chơi trong dạy học Sinh học.
Để tiến hành một trò chơi ngoài việc hiểu rõ mục đích, luật chơi còn phải hiểu
được quy trình tổ chức trò chơi. Quy trình tổ chức trò chơi gồm các bước cụ thể như
sau:
Bước 1: Xác định mục tiêu dạy học. Đây là nhiệm vụ quan trọng nhất có tính
chất quyết định. Bởi trò chơi được thiết kế phải đạt được các mục tiêu dạy học.
Bước 2: Xây dựng, lựa chọn các trò chơi phù hợp đáp ứng các mục tiêu dạy học.
Bước 3: Chuẩn bị: Giáo viên xác định số nhóm chơi, số người trong nhóm và các
đồ dùng, dụng cụ cần thiết như: Mô hình, tranh vẽ, phấn viết bảng, mảnh bìa, hệ thống
câu hỏi.
* Chú ý:

+Số học sinh trong nhóm chơi phải phù hợp và có cả học sinh giỏi, khá, trung bình,
yếu. Có cả học sinh có tác phong nhanh nhẹn và học sinh có tác phong chậm, rụt rè,
nhút nhát tham gia.
+ Giáo viên có thể gọi học sinh xung phong tham gia, hoặc tự giáo viên phân nhóm
hoặc chỉ tên cụ thể, tất nhiên là phải giữ bí mật, chỉ công bố khi bắt đầu trò chơi.....
Bước 4: Phổ biến luật chơi.
Đây là những quy tắc, quy định của trò chơi mà những người tham gia chơi phải
tuân theo, ai vi phạm luật chơi coi như thua cuộc.
Luật chơi phải được phổ biến trước khi vào chơi để học sinh nắm được luật và chơi
đúng luật.
Chú ý: Luật chơi phải đơn giản, dễ nhớ.
Bước 5: Tiến hành chơi.
Cho học sinh chơi dưới sự giám sát và điều khiển của giáo viên.
Bước 6: Nhận xét, đánh giá kết quả.
12


Kết thúc trò chơi thì giáo viên cho đại diện một số học sinh còn lại trong lớp nhận
xét kết quả của các đội, sau đó giáo viên nhận xét công bố kết quả hoặc giáo viên đóng
vai trò là trọng tài sẽ phân biệt đội thắng, đội thua ngay, có nhận xét, có thưởng, có phạt
(Thưởng, phạt chỉ là hình thức khích lệ động viên học sinh).
* Áp dụng một số trò chơi trong dạy học Sinh học 6.
Sau đây tôi xin trình bày một số nôi dung có sử dụng trò chơi nhằm phát huy tính
tích cực của học sinh và giáo dục cho học sinh một số kỹ năng sống nhất định như: Giải
ô chữ và gắn chú thích cho tranh, chơi bài về cây có hoa, ai nhanh hơn… có thể áp dụng
trong tiết dạy Sinh học 6.
Trước khi vào các giáo án cụ thể tôi xin trình bày mục tiêu và cách tổ chức một số
trò chơi như sau:
1. Trò chơi: Giải ô chữ:
- Mục đích :

+ Củng cố khắc sâu kiến thức của bài học, của chương ... từ đó giáo dục ý thức,
thái độ của học sinh qua bài dạy sinh học.
+ Rèn luyện kỹ năng nhớ, vận dụng kiến thức sinh học đã học của học sinh.
+ Phát triển tư duy nhanh nhạy, sáng tạo của học sinh.
+ Hình thành và phát triển ở học sinh một số kỹ năng sống như: kỹ năng giải
quyết vấn đề, kỹ năng ra quyết định, kỹ năng kiên định. Ngoài ra còn hình thành ở
học sinh kỹ năng thương lượng và giải quyết mâu thuẫn.
- Chuẩn bị:
+ Bảng ô chữ, câu hỏi, đáp án.
- Cách xây dựng ô chữ:
+ Trong mỗi tiết học đều có kiến thức trọng tâm hoặc các nội dung cần giáo dục thái
độ cho học sinh. Ta lấy kiến thức đó làm chủ đề hay chùm chìa khoá.

13


+ Chọn các từ, các thuật ngữ, các nhân tố để lấy làm từ hàng ngang. Các từ hàng
ngang phải cô đọng, xúc tích, phải thể hiện được nội dung của bài trong vòng từ 5- 8
phút, thường số hàng ngang bằng số nhóm để mỗi nhóm có thể được trả lời ít nhất
một lần.
+ Các ô chữ phải rõ ràng, chính xác, gợi ý phải đúng nội dung.
- Các chữ cái trong các hàng ngang được sắp xếp theo một trật tự nhất định để làm
xuất hiện từ hàng dọc hoặc lựa chọn các chữ cái trong từ hàng ngang, để tìm ra từ
chủ đề (hay chùm chìa khoá).
- Tiến hành:
+ Giáo viên là người nêu các gợi ý và tổ chức trò chơi...
+ Mỗi nhóm được trả lời một lần và lựa chọn từ hàng ngang, sau đó thảo luận 30
giây, nếu không có câu trả lời thì quyền trả lời dành cho nhóm khác, nếu trả lời đúng
thì giáo viên bóc ô chữ đó ra.
+ Mỗi từ hàng ngang giải đúng được tính 10 điểm, giải được từ hàng dọc hoặc từ

chủ đề (hay chùm chìa khoá) thì được 20 điểm.
+ Cuối giờ các nhóm tự đánh giá và cộng điểm và báo cáo lại giáo viên từ đó
giáo viên sẽ cho điểm các nhóm theo thang điểm 10.
- Thảo luận chủ đề:
+ Đây chính là nội dung quan trọng, nội dung trọng tâm để giáo dục ý thức thái độ
học sinh sau bài học.
+ Nhóm nào giải được ô chữ trong chủ đề (chùm chìa khóa) và nói được ý nghĩa của
chủ đề này thì nhóm đó chiến thắng. Từ đây giáo viên sẽ giáo dục thái độ, ý thức cho
học sinh.
Ví dụ: Bài 46: Thực vật góp phần điều hoà khí hậu.
(Sử dụng trò chơi giải ô chữ để củng cố bài học).
* Mục tiêu của trò chơi:
14


- Học sinh tái hiện được các kiến thức trong bài, từ đó giáo dục học sinh lòng yêu
thiên nhiên, bảo vệ cây xanh, bảo vệ môi trường.
* Nội dung trò chơi:
- Ô chữ bao gồm 5 hàng ngang, trong mỗi từ hàng ngang học sinh có thể tìm thấy một
hoặc nhiều chữ cái trong từ chủ đề (hay chùm chìa khoá).
- Giáo viên chia lớp thành 5 nhóm, các nhóm tự bầu nhóm trưởng và thư ký.
- Các nhóm từ 1- 5, lần lượt tuỳ chọn hàng ngang từ 1- 5.
Các hàng ngang cụ thể như sau:
- Hàng ngang số 1: Gồm 8 chữ cái
? Đây là quá trình lá cây lấy vào khí cácbôníc và thải ra ngoài khí ôxi.
Đáp án là: QUANG HỢP.
Học sinh tìm thấy chữ H trong chùm chìa khoá.
- Hàng ngang số 2: có 4 chữ cái.
? Đây là nơi có rất nhiều cây và được ví là lá phổi xanh của con người.
Đáp án là: RỪNG.

Học sinh tìm thấy chữ Ư trong chùm chìa khoá.
- Hàng ngang số 3: Có 8 chữ cái.
? Đây là công việc mà Bác Hồ thường kêu gọi chúng ta làm vào mùa xuân?
Đáp án: TRỒNG CÂY.
Học sinh tìm thấy chữ cái T, C, Â trong chùm chìa khoá.
- Hàng ngang số 4: Gồm 9 chữ cái.
? Khí thải từ khói các nhà máy làm ô nhiễm ........ không khí.
Đáp án: MÔI TRƯỜNG.
Học sinh tìm thấy chữ cái T trong chùm chìa khoá.
- Hàng ngang số 5: Gồm 5 chữ cái.
15


? Song song với việc trồng và chăm sóc cây chúng ta còn phải làm gì.
Đáp án: BẢO VỆ.
Học sinh tìm thấy chữ V trong chùm chìa khoá.
* Các chữ cái trong chùm chìa khóa đã xuất hiện học sinh đã có thể đoán ngay chùm
chìa khoá, nếu học sinh chưa đoán được giáo viên có thể gợi ý như sau:
Đây là một loài sinh vật rất gần gũi với các em.
* Thảo luận từ chùm chìa khoá: THỰC VẬT.
- Giáo viên hỏi: Thực vật có những vai trò gì? Trước những vai trò đó em phải làm gì?
- Học sinh sẽ nói về vai trò của thực vật trong quá trình điều hoà khí hậu và bảo vệ môi
trường, từ đó các em sẽ phát biểu suy nghĩ của mình về ý thức và trách nhiệm của bản
thân trong việc bảo vệ thực vật, bảo vệ môi trường, làm cho môi trường luôn xanh,
sạch, đẹp.
Giáo viên chốt: Môi trường có xanh, sạch, đẹp hay không điều đó phụ thuộc vào
chính hành động mỗi chúng ta.
* Nội dung ô chữ:
Q


U

A

N

G

H



P

R



N

G

T

R



N


G

C

Â

Y

M

Ô

I

T

R



Ơ

N

B



O


V



T

H



C

V



T

Từ chìa khóa:

2.Trò chơi: Gắn chú thích trên tranh nhanh nhất:
Sử dụng khi dạy một nội dung hoặc củng cố cả bài
- Mục đích:
16

G


+ Học sinh xác định được vị trí và gọi tên được các cơ quan, hệ cơ quan trên tranh.
+ Rèn luyện kỹ năng quan sát tranh, mô hình, tác phong nhanh nhẹn của học sinh.

+ Hình thành ở học sinh các kỹ năng sống như : kỹ năng hợp tác, kỹ năng ứng phó
với căng thẳng, kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ, kỹ năng quản lý thời gian.
- Chuẩn bị:
+ Tranh, mô hình cơ thể sinh vật .
+ Các mảnh bìa nhỏ ghi chú thích tên các cơ quan có dán băng dính 2 mặt ở đằng
sau.
+ Hai đội chơi mỗi đội có 5 học sinh xếp thành 2 hàng đứng lên phía trước lớp.
Một đội gắn chú thích trên mô hình, một đội gắn chú thích trên tranh.
+ Thời gian chơi: 3 phút.
- Tiến hành:
+ Hình thức chơi: Chơi tiếp sức.
+ Khi giáo viên hô “ bắt đầu”, lần lượt học sinh số 1 của mỗi đội lên gắn chú thích
cho một cơ quan, sau đó về chỗ đưa lại các mảnh bìa để học sinh số 2 lên gắn tiếp... cứ
như vậy cho đến hết thời gian quy định.
Nhóm nào hoàn thành nhanh, chính xác thì nhóm đó thắng và được thưởng bằng một
tràng pháo tay, điểm cho các đội...
Ví dụ: Bài 10: Cấu tạo miền hút của rễ
(Sử dụng trò chơi dạy phần cấu tạo miền hút)
Giáo viên chuẩn bị:
+ Tranh, mô hình cấu tạo miền hút của rễ .
+ Các mảnh bìa nhỏ ghi chú thích tên các cơ quan trong cấu tạo miền hút của rễ có
dán băng dính 2 mặt ở đằng sau.
+ Hai đội chơi mỗi đội có 6 học sinh xếp thành 2 hàng đứng lên phía trước lớp:
17


Một đội gắn chú thích trên mô hình cấu tạo miền hút của rễ
Một đội gắn chú thích trên tranh cấu tạo miền hút của rễ.
+ Thời gian chơi: 2 phút.
- Tiến hành:

+ Hình thức chơi: Chơi tiếp sức.
+ Giáo viên hô “ bắt đầu”, lần lượt học sinh số 1 của mỗi đội lên gắn chú thích cho
một cơ quan, sau đó về chỗ đưa lại các mảnh bìa để học sinh số 2 lên gắn tiếp... cứ như
vậy cho đến hết thời gian quy định.
Sau đó giáo viên gọi học sinh dưới lớp nhận xét về kết quả của các đội.
Nhóm nào hoàn thành nhanh, chính xác thì nhóm đó thắng và được giáo viên thưởng
bằng điểm cho các học sinh trong đội.
- Vận dụng:
Có thể vận dụng trò chơi này trong các bài dạy về : Các bộ phận của hạt, cấu tạo
trong của thân non, cấu tạo trong của thân, các miền của rễ, cấu tạo thịt lá…
Ngoài 2 hình thức trò chơi trên mà tôi vận dụng trong giảng dạy, tôi xin đưa ra
một số trò chơi sau để các đồng chí tham khảo:
3. Trò chơi: Chơi bài về cây có hoa.
- Mục đích:
+Tìm hiểu sự thống nhất giữa cấu tạo và chức năng của mỗi cơ quan của cây có hoa.
+ Rèn luyện tác phong nhanh nhẹn, phối hợp nhịp nhàng với bạn chơi trong nhóm.
+ Hình thành và phát triển ở học sinh một số kỹ năng sống như: kỹ năng giải quyết
vấn đề, kỹ năng ra quyết định, kỹ năng kiên định, kỹ năng tư duy, kỹ năng đảm nhận
trách nhiệm. Ngoài ra còn hình thành ở học sinh kỹ năng hợp tác và giải quyết mâu
thuẫn.
- Chuẩn bị:
18


+ Giáo viên chuẩn bị 4 cây bài, ghi tên các cơ quan của cây xanh có hoa: Rễ, thân,
lá, hoa, quả, hạt.
+ Giáo viên chuẩn bị bảng phụ với nội dung: Cấu tạo, chức năng của các cơ quan
của cây xanh có hoa.
+ Học sinh mỗi tổ làm 12 quân bài bằng các mảnh bìa nhỏ, khoảng = 1/2 trang giấy.
Mỗi quân bài viết 2 mặt: Một mặt là một trong các chữ cái : A, B, C, D, E, G, H và số 1,

2, 3, 4, 5, 6 bằng nét đậm. Mặt kia ghi đặc điểm cấu tạo hoặc chức năng tương ứng của
chữ hoặc số đó theo bảng trong sách giáo khoa.
Lưu ý: Chữ viết bằng bút dạ to và đậm nét để học sinh nhìn rõ.
- Tiến hành:
Sau khi học sinh thảo luận nhóm hoàn thành bài tập trắc nghiệm ghép nối, Giáo
viên cho cả lớp chữa bài đó bằng trò chơi bài về cây có hoa.
+ Một đại diện cho 4 tổ chơi cầm các quân bài có tên các cơ quan của cây có hoa lần
lượt giơ cao và gọi tên 1 quân bài (tên một cơ quan). Khi đó ở mỗi tổ tham gia chơi, học
sinh giữ quân bài về đặc điểm cấu tạo và chức năng của cơ quan đó đứng dậy trước là tổ
đó thắng và được điểm.
+ Khi bạn đã gọi hết tên các cơ quan, lúc đó trọng tài là Giáo viên chấm điểm cho 2
đội chơi, đội nào được nhiều điểm hơn là thắng cuộc.
- Vận dụng:
Dạy bài 36 trong Sinh học 6: Tổng kết về cây có hoa.
Ngoài ra, trò chơi này còn có thể áp dụng trong dạy các bài về cấu tạo ngoài của các
loài động vật ( bài 31, 35, 38, 41, 46 sách giáo khoa Sinh học 7).
3. Trò chơi: Ai nhanh hơn?
- Mục đích:
+ Củng cố khắc sâu kiến thức của bài học, biết vận dụng linh hoạt, sáng tạo kiến
thức đã học vào trong trò chơi.
19


+ Rèn luyện tác phong nhanh nhẹn, phối hợp nhịp nhàng giữa các thành viên trong
nhóm.
+ Giáo dục ý thức tích cực và tinh thần hợp tác trong các hoạt động tập thể.
+ Hình thành và phát triển ở học sinh một số kỹ năng sống như: kỹ năng kiên định,
kỹ năng ra quyết định, kỹ năng thể hiện sự tự tin, kỹ năng nhận thức, tư duy sáng
tạo, kỹ năng giải quyết mâu thuẫn.
- Chuẩn bị:

+ Chia lớp thành 2 hoặc 3 nhóm, cũng có thể tổ chức cho 2 hoặc 3 cá nhân.
+ Chia phần bảng và phấn viết cho mỗi nhóm.
+ Quy định thời gian chơi: 3 phút.
- Tiến hành:
+ Khi giáo viên hô bắt đầu thì 2 nhóm hoặc 2 cá nhân làm bài, nếu tổ chức theo
nhóm thì tiến hành tổ chức theo kiểu trò chơi tiếp sức: Lần lượt học sinh số 1 của mỗi
nhóm lên làm, sau đó về chỗ giao phấn cho bạn thứ hai lên làm tiếp... cứ như vậy cho
đến hết thời gian quy định.
Cá nhân hoặc nhóm nào hoàn thành với số lượng nhiều hơn trong khoảng thời gian
đã cho, và đúng yêu cầu thì sẽ là đội thắng và được thưởng ( bằng điểm hoặc bằng tràng
pháo tay).
- Vận dụng: Có thể vận dụng trò chơi này vào dạy các loại rễ, các loại thân, các loại lá,
các loại lá biến dạng…..
4. Trò chơi: Bịt mắt đoán cây.
Giáo viên có thể tổ chức trò chơi này trong giờ ngoại khoá tại sân trường hoặc
vườn trường.
- Mục đích:
Phát triển khả năng phán đoán của học sinh.
- Tiến hành:
20


+ Giáo viên chia lớp thành các nhóm khác nhau . Mỗi nhóm tự chuẩn bị khăn bịt
mắt.
+ Một bạn bị bịt mắt (trong nhóm trước khi chơi có thể oắn tù tì hoặc bốc thăm, ai
thua sẽ bị bịt mắt trước)
+ Các bạn trong nhóm sẽ dắt bạn bị bịt măt đến chỗ 1 cây bất kỳ ( chú ý tránh các
cây có nhựa độc, cây có gai nhọn, cây có lá gây ngứa......)Yêu cầu bạn sờ thân, lá cây,
hoặc ngửi lá cây, ước chừng chiều cao của cây, độ lớn của thân cây.......Từ đó xác định
tên cây, loại thân cây.

+ Bạn nào đoán đúng có quyền được chỉ định bạn khác bị bịt mắt.
+ Trò chơi cứ thế tiếp tục. Cuối trò chơi giáo viên cho các nhóm báo cáo đã xác
định những cây nào ? Thuộc loại thân nào?
* Giáo viên có thể tổ chức trò chơi này trong lớp bằng cách chuẩn bị phong phú các
loại mẫu thân cây, loại quả để học sinh xác định và phân loại các loại thân, loại quả cây.
Vận dụng: Trò chơi được thực hiện trong các tiết thực hành hoặc tham quan thiên
nhiên ở lớp 6.
2.4 Kết quả đạt được
Qua khảo nghiệm học kỳ I năm học 2015-2016, ở lớp 6 Trường THCS Lương
Thế Vinh vừa qua, tôi đã tiến hành điều tra ở học sinh theo hình thức câu hỏi trắc
nghiệm khách quan về chất lượng của việc tổ chức trò chơi trong giảng dạy Sinh học .
* Phiếu điều tra (Đối với học sinh)
Câu 1: Em có thích giáo viên tổ chức trò chơi trong dạy học Sinh học không?
a. Rất thích
b. Bình thường.
c. Không thích.
Câu 2: Khi giáo viên tổ chức trò chơi trong dạy học môn Sinh học, em thấy mức độ
hiểu bài của mình như thế nào?
21


a. Hiểu bài hơn.
b. Như các bài giáo viên dạy không có trò chơi.
c. Không hiểu bài.
Câu 3: Khi được tham gia trò chơi trong dạy học sinh học, em có cảm thấy bản thân
năng động hơn không?
a. Có
b. Không
Câu 4: Khi được tham gia trò chơi trong dạy học Sinh học em thấy tình đoàn kết
của tập thể lớp, khả năng ứng xử trước tập thể khác trước như thế nào?

a. Tốt hơn, linh hoạt hơn.
b. Được giữ vững.
c. Kém đi.
Câu 5: Khi được tham gia vào trò chơi trong dạy học Sinh học, em thấy khả năng
nhớ kiến thức của bản thân ra sao?
a.

Nhớ lâu hơn.

b.

Bình thường.

c.

Không nhớ lâu.

* Kết quả điều tra
+ 100% Học sinh thích học tiết Sinh học có tổ chức trò chơi hơn các tiết học Sinh
học không tổ chức trò chơi.
+ 99% Học sinh cho rằng học tập dưới hình thức trò chơi: Thích hơn, hiểu hơn, nhớ
kiến thức hơn.
+ 98% Học sinh cho rằng trò chơi đã rèn cho các em tác phong nhanh nhẹn và tư
duy độc lập sáng tạo.

22


+ 95% Học sinh cho rằng học tập theo hình thức trò chơi sẽ giúp tình bạn được
củng cố và ứng xử linh hoạt hơn trong hoạt động tập thể.

Từ những kết quả trên tôi có thể khẳng định rằng việc tổ chức trò chơi trong dạy
học Sinh học đã góp phần nâng cao hiệu quả dạy và học, tạo hứng thú học tập, phát
triển năng lực tư duy, tinh thần đoàn kết và khả năng hợp tác của học sinh.Quan trọng
hơn cả là qua các trò chơi còn giáo dục cho học sinh được một số kỹ năng sông hết sức
cần thiết đối với các em. Quy trình tổ chức trò chơi trong dạy học Sinh học mà tôi nêu
ra ở trên là có tính khả thi.

3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận :
Khi tổ chức trò chơi trong các giờ dạy Sinh học 6 tôi thấy đã được những kết quả
sau:
*Về giáo viên.
- Không mất nhiều thời gian, công chuẩn bị và không mất nhiều thời gian của tiết
dạy mà giáo viên và học sinh vẫn hoàn thành các mục tiêu của bài học. Qua các trò
chơi học sinh rèn luyện được một số kỹ năng sống cơ bản.
- Giáo viên không chỉ khắc sâu kiến thức mà còn tạo một không khí lớp học thoải
mái, kích thích tinh thần học tập của học sinh. Đặc biệt là khuyến khích học sinh học
yếu, chậm và nhút nhát có cơ hội tích cực tham giam vào quá trình học tập. Từ đó mà
hiểu bài, học tập sẽ tốt hơn, tạo được hứng thú học tập bộ môn cho học sinh.
- Giáo viên thực hiện được việc đổi mới phương pháp dạy học một cách sáng tạo và
có hiệu quả.
* Về học sinh.
- Tiếp thu kiến thức một cách nhẹ nhàng thoải mái.
- Nâng cao năng lực tư duy nhanh nhạy, tác phong nhanh nhẹn.

23


- Giáo viên tổ chức thường xuyên sẽ tạo cho học sinh sự chờ đợi và chuẩn bị tốt tiết
học tiếp theo. Từ đó mà kết quả học tập được nâng cao.

- Tạo thái độ hợp tác trong nhóm chuẩn bị cho sự phân công lao động hợp tác sau
này.
- Bồi dưỡng và giáo dục tinh thần đoàn kết hợp tác trong học tập và lao động.
- Đào tạo được những con người năng động, sáng tạo, dễ thích ứng trong cuộc sống
lao động sau này
3.2. Kiến nghị :
* Đối với phòng giáo dục :
- Cần tăng cường công tác sinh hoạt chuyên đề theo cụm để Giáo viên học hỏi lẫn
nhau.
* Đối với nhà trường :
- Cần có kế hoạch chỉ đạo việc rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh phù hợp với đặc
điểm học sinh của nhà trường và phù hợp với điều kiện của địa phương.
- Tổ chức các tiết dạy mẫu do GV có kinh nghiệm giảng dạy để GV có điều kiện học
hỏi cách thức tổ chức một tiết dạy theo phương pháp mới.
- Tiếp tục quan tâm việc triển khai và lồng ghép bộ môn với việc hoạt động theo tổ,
nhóm, lồng ghép kỹ năng sống cho học sinh trong học tập.
* Đối với các thầy cô giáo :
- Cần quan tâm thực hiện từng bước, chú ý giúp đỡ, rèn kỹ năng sống cho học sinh từ
những kỹ năng tối thiểu trong cuộc sống hằng ngày đến các quy định ứng xử, xử lý tình
huống ở mọi lúc mọi nơi khi tiếp xúc với bạn bè, thầy cô, gia đình.
- Để lồng ghép kỹ năng sống có hiệu quả trong các môn học cần có sự đồng thuận của
tất cả các thầy cô giáo trong các bộ môn.
Trên đây là kết quả nghiên cứu của tôi tại Trường THCS Lương Thế Vinh. Do thời
gian nghiên cứu còn hạn chế cũng như trong quá trình tìm hiểu còn gặp một số khó
khăn nên đề tài không tránh khỏi thiếu sót vậy tôi rất mong được sự góp ý của các đồng
24


chí, đồng nghiệp để đề tài trên thực sự đạt được hiệu quả trong giảng dạy góp phần vào
việc thực hiện tốt việc đổi mới phương pháp dạy học và nâng cao chất lượng giáo dục

đào tạo hiện nay. Tôi rất mong muốn và biết ơn những đóng góp chân thành của đồng
nghiệp, để kinh nghiệm của tôi được hoàn thiện và có hiệu quả thiết thực với bộ môn
sinh học trong những năm tới, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục của huyện nhà.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
Quảng Tín ,ngày 28 tháng 02 năm 2016.
Người thực hiện

Huỳnh Thị Viên.

25


×