Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

So sánh chuẩn mực kế toán quốc tế và Việt Nam về tài sản cố định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (528.97 KB, 20 trang )

MỤC LỤC


* Ý nghĩa thực tiễn
­ Đề  tài góp phần nâng cao hiệu quả  sử  dụng chuẩn mực TSCĐ cho doanh 
nghiệp, thúc đẩy sự phát triển hòa nhập giữa chuẩn mực Việt Nam và Thế giới.
4. Phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp so sánh
Phương pháp này được sử dụng trong suốt quá trình thực hiện và hoàn thiện đề 
tài. Trên cơ sở các thông tin đã thu thập được tôi tiến hành tổng hợp và so sánh. Từ 
đó có cơ sở  để đánh giá đúng về  sự  giống và khác nhau trong chuẩn mực kế toán 
quốc tế và Việt Nam về TSCĐ.
* Phương pháp thu thập thông tin
Thu thập thông tin từ  các tạp chí, tác phẩm khoa học, tài liệu lưu trữ, internet, 
thư viện trường,qua thư viện số của trường và thông tin đại chúng có liên quan đến  
đề tài nghiên cứu.
* Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Nghiên cứu tài liệu có liên quan đến vấn đề vận dụng chuẩn mực kế toán của 
các doanh nghiệp, tích hợp nội dung chuẩn mực kế  toán, các tài liệu sửa đổi, bổ 
sung chuẩn mực kế toán Việt Nam.
* Phương pháp tổng hợp đánh giá
Trên cơ  sở phân tích các thông tin, chỉ  tiêu thu thập được, tiến hành tổng hợp, 
đánh giá.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
*Đối tượng nghiên cứu
 Đề tài nghiên cứuchuẩn mực kế toán quốc tế và chuẩn mực kế toán Việt Nam 
về TSCĐ.
*Phạm vi nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu sự khác biệt giữa các chuẩn mực kế toán Việt Nam và chuẩn mực 
kế toán quốc tế có liên quan trực tiếp tới  tài sản cố định gồm: Chuẩn mực kế toán 



Việt Nam số 3–Tài sản cố  định hữu hình, chuẩn mực kế  toán Việt Nam số  4–Tài 
sản cố định vô hình và chuẩn mực kế toán Việt Nam số 6–Thuê tài sản. Chuẩn mực  
kế  toán quốc tế  số 16–Bất động sản, nhà xưởng và dụng cụ. Chuẩn mực kế  toán 
quốc tế số 38–Tài sản cố định vô hình và chuẩn mực kế  toán quốc tế  số  17–Thuê 
tài sản.
6. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, tài liệu tham khảo, nội dung của bài báo 
cáo gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về chuẩn mực kế toán.
Chương 2: So sánh chuẩn mực kế toán Quốc tế  và chuẩn mực kế  toán Việt Nam về 
TSCĐ.
Chương 3: Đề xuất giải pháp nhằm đưa chuẩn mực kế toán Việt Nam gần với chuẩn  
mực kế toán quốc tế.


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CHUẨN MỰC KẾ TOÁN
1.1.Lịch sử hình thành và sự cần thiết của chuẩn mực kế toán
1.1.1. Lịch sử hình thành chuẩn mực kế toán
Năm 1973,  Ủy ban xây dựng chuẩn mực kế  toán quốc tế  (IASC) đã ra đời tại 
London nước Anh với tư  cách là tổ  chức soạn thảo chuẩn mực quốc tế  đầu tiên 
trên thế giới. Sự ra đời của IASC là kết quả của một thỏa thuận giữa các hiệp hội  
nghề  nghiệp của các nước Autralia, Canada, Pháp, Đức, Nhật, Mexico, Phần Lan, 
Anh, Ireland và Mỹ.
 IASC được thành lập trong một thời kỳ chứng kiến nhiều biến động trong quy  
định kế toán. Ở Mỹ hội đồng chuẩn mực kế toán tài chính (FASB) mới được thành  
lập.  Ở  Anh cơ  quan soạn thảo chuẩn mực quốc gia  đầu tiên ra đời (accounting 
standads committee –ASC). Trong khi đó, EU đang soạn thảo những điểm chính  
trong kế hoạch hài hòa hóa hệ thống kế toán ban hành ngày 25/7/1978 bởi hội đồng  
liên minh Châu Âu.

Hiện nay trên Thế  giới đã có một tổ  chức riêng ban hành các chuẩn mực kế 
toán quốc tế, tổ chức thiết lập chuẩn mực kế toán quốc tế  gồm: Tổ  chức  Ủy ban 
chuẩn mực kế toán quốc tế (IASCF), Hội đồng chuẩn mực kế toán quốc tế (IASB), 
Hội đồng cố vấn chuẩn mực (SAC), Hội đồng hướng dẫn báo cáo tài chính quốc tế 
(IFRIC). Cụ thể như sau:
­ IASCF có trách nhiệm giám sát IASB, là tổ chức ban hành chuẩn mực báo cáo 
tài chính Quốc tế (IFRS).IASCF gồm mười chín ủy thác viên gồm sáu từ  Bắc Mỹ,  
sáu từ châu Âu, bốn từ châu Á ­ Thái Bình Dương, và ba từ bất kỳ khu vực nào khác  
miễn là sự cân bằng về khu vực địa lý được giữ vững.
 ­ IASB có 14 thành viên đến từ 9 quốc gia với các thành viên chính là Mỹ, Anh, 
Ôxtrâylia, New Zealand, Đức và  Ấn Độ  có nhiệm vụ  phổ  biến rộng rãi một hệ 
thống các chuẩn mực kế toán thống nhất mang tính toàn cầu với chất lượng cao dễ 
hiểu, có tính khả thi và có chức năng phát triển và ban hành các chuẩn mực báo cáo 


tài chính quốc tế (IFRS), trình các dự thảo và thông qua các đề xuất do Ủy ban báo  
cáo tài chính Quốc tế đưa ra.
­ Hội đồng cố vấn chuẩn mực (SAC) bao gồm các nhóm cá nhân có các nguồn  
gốc chức năng và khu vực địa lý khác nhau nhằm cố vấn cho IASB, tư vấn các vấn 
đề kỹ thuật và lịch làm việc cho IASB.
­ Các thành viên của IFRIC đến từ các khu vực địa lý, có trình độ giao dịch cao, 
đại diện của các kế  toán viên trong các ngành nghề  và người sử  dụng các báo cáo  
tài chính. IFRIC dưới sự quản lý của IASB, có trách nhiệm ban hành các hướng dẫn  
báo cáo tài chính quốc tế.
­ Thêm vào đó, tất cả  các thành viên của IASB có trách nhiệm liên hệ  với các 
nhà thiết lập chuẩn mực quốc gia không có thành viên trong tổ chức IASB. 
Năm 1987 đánh dấu một bước chuyển mới trong nỗ lực thúc đẩy việc sử dụng 
các chuẩn mực quốc tế  của IASC. Được sự   ủng hộ  và khích lệ  từ   ủy ban chứng  
khoán Mỹ (US SEC), tổng thư ký IASC ông David Cairns đã ký một thỏa thuận với  
tổ  chức thế  giới các  ủy ban chứng khoán (IOSCO). Theo đó, IASC sẽ  xem xét sửa 

đổi các chuẩn mực kế toán quốc tế hiện có để có thể thỏa mãn nhu cầu của IOSCO  
là cần có một tập hợp các chuẩn mực làm cơ sở chung cho việc lập và trình bày báo 
cáo tài chính của các công ty muốn được niêm yết trên thị trường chứng khoán nước  
ngoài. 
IASC đã hoàn thành việc sửa đổi các chuẩn mực kế toán quốc tế vào năm 1993.  
Thế nhưng, IOSCO đã đưa ra một quyết định làm cho IASC vô cùng thất vọng, thay  
vì sử dụng toàn bộ bộ chuẩn mực kế toán quốc tế do IASC soạn thảo, IOSCO chỉ 
lựa chọn một số chuẩn mực để áp dụng. 
Đến năm 1995, IASC với một ban lãnh đạo hoàn toàn mới đã tiến hành xem xét  
và sửa đổi một lần nữa các chuẩn mực kế toán quốc tế đã được ban hành với mong 
muốn khắc phục những khiếm khuyết trong các chuẩn mực kế toán.
Như vậy, trên thế giới hệ thống tài chính kế toán đã có được sự thống nhất cơ 
bản để các nước dựa vào đó xây dựng các chuẩn mực tài chính kế toán của mình.


1.1.2.Khái niệm về chuẩn mực kế toán
* Khái niệm chuẩn mực kế toán
 Chuẩn mực kế  toán (accounting standards) là những quy định do tổ  chức có 
trách nhiệm nghiên cứu và ban hành để  làm cơ  sở  cho việc lập và giải thích các 
thông tin trình bày trên báo cáo tài chính. (Điều 8, Luật Kế toán năm 2003 do Quốc  
hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 17/6/2003).
Kết cấu của một chuẩn mực kế toán gồm các phần sau :
­ Mục đích của chuẩn mực
­ Phạm vi của chuẩn mực
­ Các định nghĩa sử dụng trong chuẩn mực
­ Phần nội dung chính gồm các nguyên tắc, các phương pháp, các yêu cầu về 
lập và trình bày báo cáo tài chính.
Chuẩn mực kế toán Việt Nam (viết tắt là VAS), tại Việt Nam bắt đầu từ  năm 
2001 Bộ Tài Chính là cơ quan ban hành hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam bao  
gồm các chuẩn mực kế toán. Cho đến thời điểm này Hệ thống Chuẩn mực kế toán  

Việt Nam đã ban hành được 26 chuẩn mực và ban hành dựa trên Chuẩn mực kế 
toán quốc tế, phù hợp với tình hình thực tế của nền kinh tế tại Việt Nam. 
  Chuẩn mực kế  toán quốc tế  (viết tắt là IAS/IFRS): Là một Hệ  thống chuẩn 
mực kế toán bao gồm 08 chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế  (IFRS) và 30 chuẩn 
mực kế  toán quốc tế  (IAS) do Hội đồng chuẩn mực kế  toán quốc tế  (gọi tắt là 
IASB), tiền thân là Ủy ban chuẩn mực kế toán quốc tế (gọi tắt là IASC) ban hành.
1.1.3. Sự cần thiết của việc ban hành chuẩn mực kế toán
Mục đích chung của việc soạn thảo và ban hành chuẩn mực kế  toán là thống  
nhất hoạt động kế toán trong một phạm vi địa lý (có thể là áp dụng trong một quốc  
gia, một khu vực hay trên toàn cầu). Nếu như  không có chuẩn mực kế  toán, các  
công ty sẽ  sử  dụng nhiều phương pháp khác nhau để  lập và trình bày báo cáo tài 
chính.


Sự hòa nhập của nền kinh tế thế giới đang diễn biến nhanh chóng và thị trường  
quốc tế  đã giúp cho những người làm nghề  kế  toán tại các nước xích lại gần với 
các chuẩn mực kế  toán toàn cầu hơn. Với một sự  bảo đảm mang tính chắc chắn  
như  cầu nối từ  Hội đồng chuẩn mực kế  toán quốc tế  (IASB) và hội đồng chuẩn  
mực kế toán tài chính (FASB) thì chuẩn mực kế toán quốc tế sẽ trở thành hiện thực  
trong một tương lai không xa.
Một số lợi ích của chuẩn mực kế toán quốc tế đối với thị trường toàn cầu ngày  
nay là:
­ Thứ nhất: Tạo ra sự tự do có thể so sánh được của các báo cáo tài chính, tạo  
điều kiện để  nhà đầu tư  đưa ra các quyết định đầu tư  khi các thông tin tài chính 
được báo cáo dưới nhiều hình thức khác nhau.
­ Thứ  hai: Làm giảm chi phí đầu tư   ở các thị  trường khác nhau, các công ty đa 
quốc gia cũng có thể hợp lý hóa các loại báo cáo và giảm bớt các chi phí liên quan  
bằng cách phát triển một hệ  thống kế  toán áp dụng chung. Các chi phí liên quan 
trong việc thiết kế lại các báo cáo kế  toán khác nhau thành những báo cáo kế  toán  
dễ đọc và dễ so sánh cho các nhà quản lý.

­ Thứ  ba: Với việc sử  dụng chuẩn mực kế  toán toàn cầu sẽ  tạo ra các hoạt 
động mang tính toàn cầu. Việc áp dụng các chuẩn mực kế  toán toàn cầu sẽ  làm  
tăng niềm tin cho các nhà đầu tư  trên thị  trường với điều kiện là chuẩn mực này 
phải được áp dụng một cách nghiêm ngặt bởi sự tuân thủ cao. Các công ty có thể có 
đánh giá để  tiến hành đầu tư, thiết lập các cơ  sở  sản xuất kinh doanh, các dự  án  
hoặc thậm chí đầu tư vào các lĩnh vực mới tại nước ngoài.
1.1.4. Phân loại chuẩn mực kế toán
Hiện nay trên thế giới có hai hệ thống chuẩn mực là: Chuẩn mực kế toán quốc  
tế và chuẩn mực kế toán quốc gia. 
Các chuẩn mực kế  toán quốc gia được soạn thảo và ban hành theo những cơ 
chế rất khác nhau  ở  mỗi nước. Do mỗi nước có điều kiện kinh tế  và chính trị  rất  
khác nhau nên các chuẩn mực kế toán giữa các nước có nhiều sự khác biệt. 


Chuẩn mực kế toán quốc tế được soạn thảo và ban hành bởi Hội đồng chuẩn 
mực kế toán quốc tế (IASB). Mục đích của việc ban hành chuẩn mực kế toán quốc 
tế  là để  tạo ra sự  hài hòa quốc tế  trong lĩnh vực kế  toán để  giảm bớt các chi phí  
của việc các báo cáo tài chính được lập và trình bày theo những chuẩn mực kế toán  
có nhiều khác biệt giữa các nước. Các chuẩn mực kế  toán quốc tế  sau một thời  
gian dài phát triển đã được đón nhận bởi nhiều nước trên thế  giới. Xu hướng của  
các nước hiện nay là cố 
1.2. Chuẩn mực kế toán Việt Nam.
1.2.1. Sự hình thành và phát triển của chuẩn mực kế toán Việt Nam
Trước khi mở cửa hội nhập, Việt Nam không có chuẩn mực kế toán mà chỉ  có 
chế  độ  kế  toán. Chế  độ  kế  toán là các quy định do doanh nghiệp Nhà Nước ban  
hành chủ  yếu để hướng dẫn các doanh nghiệp Nhà Nước và Hợp tác xã thực hiện  
công tác kế  toán. Đến năm 2000 thời điểm các chuẩn mực kế  toán đầu tiên được  
soạn thảo ở Việt Nam là thời điểm chứng kiến nhiều biến động có ảnh hưởng tới  
hoạt động kế  toán trên Thế  giới và trong nước, sự  ra đời của thị  trường chứng 
khoán Việt Nam đánh dấu bằng sự  kiện khai trương Trung tâm giao dịch chứng  

khoán TP HCM ngày 20/7/2000. Sự ra đời của thị trường chứng khoán tạo ra cơ hội 
cho các doanh nghiệp Việt Nam có thêm kênh thu hút vốn bằng việc niêm yết tại 
các trung tâm mà sau này thành các sở giao dịch chứng khoán. Tuy nhiên, để có thể 
thu vốn được thì các doanh nghiệp phải có những báo cáo tài chính phản ánh trung  
thực và hợp lý tình hình tài chính của doanh nghiệp cũng như  có khả  năng so sánh  
được giữa các doanh nghiệp. Nhu cầu đó đòi hỏi sự  ra đời của các chuẩn mực kế 
toán ở Việt Nam để thống nhất cách hạch toán kế toán của các doanh nghiệp.
Lịch sử  hình thành kế  toán Việt Nam song hành với lịch sử  phát triển kinh tế 
chính trị của đất nước. Trước đây hệ thống kế toán Việt Nam được thừa hưởng từ 
thời Pháp thuộc, hệ thống đó tiếp tục tồn tại ngay cả khi thời kỳ thực dân đô hộ đã  
kết thúc năm 1954. Vào những năm 1960, Việt Nam gia nhập khối các nước xã hội 
chủ nghĩa và du nhập hệ thống kế toán từ những nước này, đặc biệt là Liên Xô và  
Trung Quốc. Những năm 1980, từ  khi có chính sách ‘‘đổi mới” hệ  thống kế  toán 
Việt Nam bắt đầu chịu ảnh hưởng từ các nước phương Tây.


Hệ  thống kế  toán du nhập từ  Liên Xô và Trung Quốc, tập trung chủ  yếu vào 
báo cáo thuế  và báo cáo Chính phủ. Đến nay, Chính phủ  đã tiến hành những cải 
cách quan trọng nhằm đáp  ứng nhu cầu môi trường kinh doanh hiện đại, thể  hiện 
trong việc chấp nhận nguyên tắc kế  toán phương Tây, phù hợp với cải thiện hệ 
thống thông tin tài chính. Trong một thập kỷ  qua, những cải cách về  kế  toán của 
Việt Nam đặc biệt  là Luật kế toán Việt Nam năm 2003 và các chuẩn mực kế toán  
Việt Nam(VAS), dựa trên cơ sở các chuẩn mực báo cáo tài chính Quốc tế(IFRS), đã 
nhận được nhiều sự  trợ  giúp về  kỹ  thuật từ  Liên minh châu Âu, Ngân hàng Thế 
giới và Ngân hàng phát triển Châu Á. Lịch sử  kế  toán Việt Nam hiện đại bắt đầu  
năm 1970 tiếp theo đó là sự  ra đời hệ  thống chuẩn mực kế  toán hiện nay (đợt  
1,2,3,4, và đợt 5) đánh dấu bước tiến của VN GAAP trong quá trình hòa nhập với  
IFRS.
Hình 1­1 Những mốc lịch sử  quan trọng của kế toán Việt Nam



Lịch sử phát triển ngành kế toán Việt Nam thành 3 mốc chính vì 3 lý do:
­ Kế toán Việt Nam từ 1954­1987(trước chính sách đổi mới) phục vụ nền kinh  
tế kế hoạch tập trung.
­ Song song với quá trình đổi mới nền kinh tế  theo chính sách “đổi mới”, kế 
toán thời kỳ (1988­1994) được điều chỉnh để thích ứng với sự chuyển đổi của nền  
kinh tế. Hệ thống báo cáo độc lập cho các doanh nghiệp đã hình thành.
­ Cải tiến hệ  thống kế  toán Việt Nam bắt đầu năm 1995 thành một ngành kế 
toán hiện đại, phù hợp với các chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế.
1.2.2. Việc ban hành các chuẩn mực kế toán ở Việt Nam
Việc soạn thảo và ban hành các chuẩn mực kế  toán  ở  Việt Nam có các đặc 
điểm sau:
1.2.2.1. Các chuẩn mực kế toán Việt Nam được ban hành trên cở sở các chuẩn  
mực kế toán quốc tế
Các chuẩn mực này được soạn thảo dựa trên các chuẩn mực kế toán quốc tế đã 
được ban hành nhưng có sửa đổi bổ sung một số điều, được thể hiện rõ ở khoản 2  
điều 8 Luật kế  toán số  03/2003/QH1: “Bộ Tài Chính quy định chuẩn mực kế toán 
trên cơ  sở  chuẩn mực kế  toán quốc tế  về  kế  toán và theo quy định của Luật kế 
toán”.
Việc soạn thảo các chuẩn mực kế toán Việt Nam dựa trên các chuẩn mực kế 
toán quốc tế  là một bước phát triển từ  chỗ  hoạt động kế  toán chỉ  chú trọng cho  
mục đích tính thuế  sang một hệ  thống kế toán toàn diện hơn, gần hơn với những 
quy định báo cáo tài chính phức tạp trong các chuẩn mực kế toán quốc tế, góp phần 
tạo nên sự hài hòa quốc tế về hoạt động kế toán.
Các chuẩn mực kế toán Việt Nam đã được dịch ra tiếng anh tạo điều kiện cho  
các nhà đầu tư nước ngoài, các nước thành viên trong khu vực và trên toàn thế giới 
có thể  tiếp cận dễ  dàng với hệ  thống chuẩn mực kế  toán Việt Nam. Điều này 
không chỉ góp phần hoàn thiện khuôn khổ  pháp lý cho hoạt động kế toán của Việt  



Nam bắt nhịp kịp với sự hội nhập kế toán ở các nước có nền kinh tế thị trường mà  
quan trọng hơn là tạo môi trường pháp lý cho hội nhập kinh tế, quốc tế và khu vực.
1.2.2.2. Dựa trên các chuẩn mực kế toán quốc tế nhưng tính đến nay số lượng  
chuẩn mực kế toán Việt Nam vẫn chưa tương đương
Tính cho đến nay đã có 5 đợt Bộ  Tài Chính ban hành các chuẩn mực kế  toán.  
Đợt 1 và đợt 2 là vào ngày 31 tháng 12 năm 2001 với 10 chuẩn mực kế toán đầu tiên. 
Đợt 3 là vào ngày 30 tháng 12 năm 2003 với 6 chuẩn mực kế toán. Đợt 4 là vào ngày  
15 tháng 2 năm 2005 với 6 chuẩn mực kế toán và đợt 5 là vào ngày 28 tháng 12 năm 
2005 với 4 chuẩn mực kế toán. Sau mỗi lần ban hành chuẩn mực đều có thông tư 
hướng dẫn đi kèm hướng dẫn cách hạch toán cụ thể trong từng trường hợp và cho  
đến tháng 12/2005, Bộ Tài Chính đã ban hành được 26 chuẩn mực kế toán.
Như  vậy, so với số lượng 38 chuẩn mực kế toán quốc tế  hiện có (bao gồm 9  
IFRS và 29 IAS) thì Việt Nam còn thiếu nhiều chuẩn mực tương đương. Điều đó  
cho thấy có một số chuẩn mực kế toán mà Việt Nam còn phải nghiên cứu để soạn  
thảo nhằm đáp  ứng nhu cầu hạch toán kế  toán của các doanh nghiệp Việt Nam  
trong thời đại mà các giao dịch mới phát sinh ngày một nhiều và bản chất của các  
giao dịch kinh tế ngày một phức tạp. Việc thiếu các chuẩn mực hướng dẫn cho các 
doanh nghiệp xử lý các giao dịch khi chúng phát sinh sẽ gây ảnh hưởng không nhỏ 
đến tính trung thực và hợp lý của báo cáo tài chính cũng như không đáp ứng nhu cầu  
cung cấp thông tin cho người sử dụng.
Một vấn đề  lớn đối với việc soạn thảo và ban hành các chuẩn mực kế  toán ở 
Việt Nam là hiện nay chưa có một khung khái niệm(conceptual framework) để cung 
cấp nền tảng và những nguyên tắc cơ bản cho việc soạn thảo cũng như  phát triển 
các chuẩn mực kế  toán. Mục đích của việc xây dựng khung khái niệm là để  đảm 
bảo rằng các chuẩn mực kế toánquốc tế được soạn thảo không mâu thuẫn với nhau 
và cung cấp một cơ sở để đánh giá xem một hành vi không tuân theo chuẩn mực có  
thể  được chấp nhận hay không nếu như  nó không đi ngược lại các nguyên tắc đã 
được đề  ra trong khung khái niệm. Có thể  nói, khung khái niệm có chức năng như 
hiến pháp của một nước, đề ra các nguyên tắc cơ bản cho một hệ thống kế toán mà 
các chuẩn mực kế  toán được soạn thảo theo khung khái niệm này không được có 



bất cứ quy định nào đi ngược lại tinh thần của khung khái niệm đó. 
Xây dựng hệ  thống chuẩn mực kế  toán Việt Nam là phải phù hợp với điều 
kiện thực tế của Việt Nam, phù hợp với đặc thù về  trình độ  phát triển kinh tế, cơ 
chế chính trị, hệ thống pháp luật, văn hóa, xã hội của Việt Nam, phù hợp với trình 
độ nguồn nhân lực kế toán của Việt Nam. Những vấn đề này chỉ là tạm thời và sẽ 
dần dần được giải quyết khi nền kinh tế Việt Nam phát triển đến mức độ cao hơn, 
trình độ của nguồn nhân lực kế toán tốt hơn.
1.2.3.Tổ chức ban hành kế toán Việt Nam
Có ba cơ quan có thẩm quyền ban hành và phổ biến các quy định kế  toán Việt 
Nam đó là:
­ Quốc hội ban hành Luật kế toán.
­ Chính phủ, đại diện là Thủ tướng Chính phủ ban hành các quy định về chế độ 
quản lý tài chính.
­ Bộ  Tài Chính (các doanh nghiệp) và Ngân hàng Nhà nước (các tổ  chức tín  
dụng), chịu sự  quản lý của Chính phủ, ban hành chuẩn mực VAS và hướng dẫn  
thực hiện cũng như các quy định khác về kế toán.
Quá trình soạn thảo và ban hành chuẩn mực kế toán diễn ra không độc lập, các 
quy tắc kế toán và kiểm toán vẫn là một công cụ quản lý Nhà nước. Do đó, Bộ Tài 
Chính đóng nhiều vai trò quan trọng trong việc kiểm soát và quản lý tài chính của 
nền kinh tế. Sự  chồng chéo chức năng của Bộ  Tài chính và Chính phủ  trong lĩnh  
vực quản lý kế  toán có thể   ảnh hưởng đến sự  phát triển của ngành này. Mặc dù 
hiện nay, dự án ban hành một hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam tuân thủ  các 
chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế  đã và đang được tiến hành, nhưng không có  
nghĩa là các chuẩn mực kế toán Việt Nam đã có thể  so sánh được với những chẩn 
mực kế toán quốc tế. Vấn đề nằm ở ‘‘thực tiễn áp dụng”. Nếu các chuẩn mực kế 
toán do Chính phủ quy định, quản lý và môi trường áp dụng không được thay đổi về 
căn bản, lợi ích thu được từ việc ban hành các chuẩn mực kế toán mới là rất nhỏ.
Bảng 1­2: Các tổ chức kế toán ở Việt Nam



STT

Các tổ chức kế toán ở Việt Nam

Năm thành lập

1

Vụ Chế độ kế toán và kiểm toán (DAP)

Trực   thuộc   Bộ 
Tài chính

2

Hội   kế   toán   và   kiểm   toán   Việt   Nam  1994
(VAA)

3

Hội đồng kế toán quốc gia (NCA)

4

  Ban   chỉ   đạo   nghiên   cứu,   soạn   thảo  1998
chuẩn mực kế toán Việt Nam (VASC)

5


Tổ  soạn thảo nghiên cứu chuẩn mực kế  1999
toán Việt Nam (VASG)

2000

* Các nguyên tắc kế toán Việt Nam được chấp nhận chung (VN GAAP)
Quá trình cải cách kế toán Việt Nam vẫn đang tiếp diễn, các quy định kế  toán  
Việt Nam không được quy định trong hệ  thống chuẩn tắc cụ  thể nào mà nằm rải  
rác trong các quy định và điều luật.
*   Nhân   tố   hình   thành   các   nguyên   tắc   kế   toán   Việt   Nam   được   chấp   nhận  
chung(VN GAAP)


1.2.4. Vai trò của các chuẩn mực kế toán đối với nền kinh tế Việt Nam
*  Thu hút vốn đầu tư  nước ngoài và góp phần phát triển thị  trường chứng  
khoán Việt Nam
Việt Nam đang thúc đẩy sự  phát triển của nền kinh tế  thị  trường với việc đa 
dạng hóa các loại hình doanh nghiệp, các thành phần kinh tế  khác ngoài doanh  
nghiệp nhà nước. Trước đây, chỉ  có những chính sách tài chínhquy định dành riêng 
cho các doanh nghiệp Nhà nước mà không có các chính sách và quy định đối với 
doanh nghiệp cổ phần và trách nhiệm hữu hạn, từ đó không tạo ra môi trường bình 
đẳng và sự  đồng nhất có thể  so sánh được. Còn ngày nay, cạnh tranh mạnh mẽ 
hơn, bình đẳng hơn đòi hỏi các doanh nghiệp phải công khai thông tin một cách hữu  
hiệu để tăng cường thu hút đầu tư. Thêm vào đó nhu cầu của nhà đầu tư là có một  
cơ sở để so sánh các công ty với nhau nhằm đưa ra các quyết định đầu tư  bắt đầu  
nảy sinh cùng với sự  ra đời của thị  trường chứng khoán Việt Nam và sự  thay đổi 
trong chính sách đầu tư của Việt Nam. 
Do đó, sự  ra đời của hệ  thống chuẩn mực kế  toán đã đáp  ứng nhu cầu minh  
bạch hóa thông tin của doanh nghiệp thông qua các báo cáo tài chính có khả  năng  

phản ánh đúng thực trạng kinh doanh của doanh nghiệp và tạo một cơ sở chung để 
so sánh các doanh nghiệp với nhau. Không phải chỉ là sự so sánh giữa các loại hình 
doanh nghiệp ở Việt Nammà còn có thể so sánh doanh nghiệp Việt Nam với những  
doanh nghiệp nước ngoài và ngược lại. Vì thế, mục tiêu của chuẩn mực kế toán là  
rất cao khác hẳn với cơ chế chính sách mà Việt Nam đã có từ những năm trước. 
Đây chính là tiền đề cho sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam vì 
yêu cầu đặt ra đối với các công ty niêm yết là phải công khai, minh bạch thông tin  
và báo cáo tài chính trung thực, là một nhân tố  tạo lòng tin cho nhà đầu tư  nước  
ngoài do rủi ro đối với việc thông tin tài chính không được minh bạch hóa  ở  Việt  


Nam đã được giảm bớt, nhà đầu tư nước ngoài có thể an tâm hơn khi đầu tư ở Việt 
Nam.
Cả  hai điều này đã giúp doanh nghiệp Việt Nam huy động vốn được dễ  dàng 
hơn, là nền tảng cho sự phát triển kinh tế ở Việt Nam.
*Quản lý tài chính ở tầm vĩ mô của Nhà Nước
Hệ  thống chuẩn mực kế  toán đóng vai trò trong việc quản lý tài chính tầm vĩ 
mô của Nhà nước thông qua hệ  thống các cơ  quan chức năng như: Thuế, thanh tra  
tài chính... Đối với các cơ quan chức năng của Nhà nước, hệ  thống chuẩn mực kế 
toán là một trong những cơ sở để kiểm tra, kiểm soát đánh giá trách nhiệm của kế 
toán và những người có liên quan đồng thời thông qua đó nhằm nâng cao chất lượng  
nghề nghiệp của chính các cơ quan quản lý. Vì vậy, đội ngũ cán bộ thuế, thanh tra 
tài chính... phải thường xuyên bồi dưỡng nâng cao kiến thức nghiệp vụ  kế  toán  
thường xuyên mới đáp ứng được yêu cầu công việc. 
* Góp phần phát triển hoạt động kế toán, kiểm toán ở Việt Nam
Khi gia nhập WTO, Việt Nam cam kết mở cửa hội nhập v ề d ịch vụ k ế toán,  
kiểm toán. Kế  toán, kiểm toán đã trở  thành một nghề  nghiệp được xã hội và pháp 
luật thừa nhận thì sự cần thiết phải có chuẩn mực kế toán để hướng dẫn và kiểm 
tra là tất yếu.
Thực tế vận dụng chuẩn mực kế toán Việt Nam vào thực tiễn cho thấy về cơ 

bản nội dung của các chuẩn mực kế toán Việt Nam là có sự  thống nhất, không có  
sự xung đột với các cơ chế tài chính hiện hành nhờ đó tạo điều kiện thuận lợi cho  
các doanh nghiệp trong quá trình thực hiện.


CHƯƠNG 2: SO SÁNH CHUẨN MỰC KẾ TOÁN QUỐC TẾ 
VÀ VIỆT NAM VỀ TSCĐ
2.1. Một số vấn đề chung về TSCĐ
2.1.1. Định nghĩa về tài sản nói chung
Để  đưa ra định nghĩa tài sản cố định thì cần xem xét định nghĩa tài sản vì một  
nguồn lực muốn thỏa mãn định nghĩa tài sản cố  định thì trước hết phải thỏa mãn 
định nghĩa về tài sản nói chung. 
Theo chuẩn mực kế toán số 1 (VAS1) “Chuẩn mực chung”thì tài sản là nguồn 
lực do doanh nghiệp kiểm soát và có thể thu được lợi ích trong tương lai.
Còn trong “Khuôn khổ cho việc lập và trình bày báo cáo tài chính” thì định nghĩa 
tài sản là nguồn lực do doanh nghiệp kiểm soát phát sinh từ một sự kiện trong quá  
khứ và doanh nghiệp có thể thu được lợi ích kinh tế trong tương lai.
Khả   năng  doanh  nghiệp  kiểm  soát  được   tài  sản  không  đồng   nhất  với  việc  
doanh nghiệp sở hữu tài sản đó. Có những tài sản mà doanh nghiệp không có quyền  
sở hữu nhưng doanh nghiệp có thể thu được lợi ích kinh tế trong tương lai và chịu 
rủi ro phát sinh từ  tài sản. Ví dụ  như  tài sản thuê tài chính, quyền sở  hữu tài sản  
thuộc về  bên cho thuê thu được từ  hoạt động triển khai, doanh nghiệp không thể 
kiểm soát được về mặt pháp lý nhưng vẫn có thể thỏa mãn các điều kiện trong định 
nghĩa. Tính kiểm soát được của doanh nghiệp trong các trường hợp trên thể hiện ở 
chỗ doanh nghiệp có khả năng thu được phần lớn lợi ích và phải chịu phần lớn rủi  
ro phát sinh từ việc sử dụng tài sản.
Như  vậy, cả  hai chuẩn mực kế toán Việt Nam và chuẩn mực kế  toán quốc tế 
thì hai nhân tố để cho một nguồn lực tồn tại trong doanh nghiệp được ghi nhận là  
tài sản là khả năng kiểm soát của doanh nghiệp và khả năng doanh nghiệp thu được  
lợi ích kinh tế trong tương lai từ tài sản. 



2.1.1.1. Khái niệm tài sản cố định
Theo   chuẩn   mực   kế   toán   quốc   tế,tài   sản   cố   định(TSCĐ)   là   những   loại   tài 
sản:Có thời gian sử  dụng trên một năm chu kỳ  sản xuất kinh doanh trở lên. TSCĐ 
thường tham gia vào nhiều chu kỳ  sản xuất kinh doanh và mang lại lợi ích cho 
doanh nghiệp như quyền sử dụng đất, bằng phát minh sáng chế.
Theo  thông  tư   số   45/2013/TT­BTC   ngày  25/4/2013  hướng   dẫn  chế   độ   quản 
lý,sử dụng và trích khấu hao TSCĐ quy định: “Những tư liệu lao động chủ  yếu có  
hình thái có thể thỏa mãn các tiêu chuẩn TSCĐ hữu hình, tham gia vào nhiều chu kỳ 
kinh doanh nhưng vẫn giữ được nguyên trạng thái vật chất ban đầu như: Nhà cửa, 
vật kiến trúc, máy móc, thiết bị, phương tiện vật tải”.
­ Đặc điểm quan trọng của TSCĐ là thường có giá trị  lớn nên giá trị  của nó  
thường được chuyển dịch dần dần, từng phần vào giá trị  sản phẩm, dịch vụ  được  
sản xuất ra trong nhiều chu kỳ sản xuất, kinh doanh.
­ Được sử  dụng vào mục đích cho hoạt động sản xuất kinh doanh và các mục 
đích hành chính khác. Mục đích sử dụng này phân biệt TSCĐ với các loại tài sản dài 
hạn khác như đầu tư tài chính dài hạn và bất động sản đầu tư  được doanh nghiệp 
giữ cho mục đích đầu tư.
2.1.1.2. Phân loại tài sản cố định
* Khái niệm: 
Phân loại tài sản cố  định (TSCĐ) là việc phân chia toàn bộ  TSCĐ trong doanh 
nghiệp theo những tiêu thức nhất định nhằm phục vụ  cho yêu cầu quản lý của  
doanh nghiệp. Phân loại TSCĐ giúp doanh nghiệp áp dụng các phương pháp thích 
hợp trong quản trị  từng loại TSCĐ, từ  đó nâng cao hiệu quả  quản trị  TSCĐ. Có 
nhiều cách khác nhau để phân loại TSCĐ dựa vào các chỉ tiêu khác nhau.
* Phân loại theo hình thái biểu hiện
TSCĐ hữu hình là những tài sản được biểu hiện bằng những hình thái hiện vật  
cụ thể như nhà cửa, máy móc thiết bị…
Theo tiêu thức phân loại này, TSCĐ của doanh nghiệp được chia thành 2 loại:



­Tài sản cố định hữu hình:
+ TSCĐ có thời gian sử dụng từ một năm chu kỳ  sản xuất kinh doanh trở lên. 
TSCĐ thường tham gia vào nhiều chu kỳ  sản xuất kinh doanh và mang lại lợi ích 
cho doanh nghiệp.
+ TSCĐ thường có giá trị  lớn nên giá trị  của nó thường được chuyển dịch dần  
dần, từng phần vào giá trị  sản phẩm, dịch vụ được sản xuất ra trong nhiều chu kỳ 
sản xuất, kinh doanh.
+ Được sử dụng vào mục đích cho hoạt động sản xuất kinh doanh và các mục  
đích hành chính khác. Mục đích sử dụng này phân biệt TSCĐ với các loại tài sản dài 
hạn khác như đầu tư tài chính dài hạn và bất động sản đầu tư  được doanh nghiệp 
giữ cho mục đích đầu tư.
­Tài sản cố định vô hình: Là những TSCĐ không có hình thái vật chất, thể hiện  
một lượng giá trị đã được đầu tư có liên quan trực tiếp đến nhiều chu kỳ sản xuất  
kinh doanh của doanh nghiệp như chi phí thành lập doanh nghiệp, chi phí đầu tư và 
phát triển, bằng sáng chế phát minh, nhãn hiệu thương mại…
Đặc điểm tài sản cố  định vô hình: Tài sản không có hình thái vật chất nhưng 
xác định được giá trị  và do doanh nghiệp nắm giữ, sử  dụng trong sản xuất, kinh  
doanh, cung cấp dịch vụ hoặc cho các đối tượng khác thuê phù hợp với tiêu chuẩn  
ghi nhận TSCĐ vô hình.
Cách phân loại này giúp cho người quản lý thấy được cơ cấu đầu tư của doanh 
nghiệp vào TSCĐ hữu hình và vô hình, từ đó lựa chọn các quyết định đầu tư  đúng 
đắn hoặc điều chỉnh cơ cấu đầu tư sao cho phù hợp và có hiệu quả nhất.
* Phân loại theo công dụng kinh tế
Theo tiêu thức phân loại này, TSCĐ của doanh nghiệp được chia thành 2 loại:
­TSCĐ dùng trong sản xuất kinh doanh là:Những TSCĐ hữu hình và vô hình  
trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp gồm: Nhà 
cửa, vật kiến trúc, thiết bị truyền dẫn, máy móc thiết bị sản xuất, phương tiện vận  
tải, những TSCĐ không có hình thái vật chất khác…



­TSCĐ dùng ngoài sản xuất kinh doanh: Là những TSCĐ dùng cho phúc lợi  
công cộng, không mang tính chất sản xuất kinh doanh gồm: Nhà cửa, phương tiện  
dùng cho sinh hoạt văn hóa, thể dục thể thao, nhà  ở và các công trình phúc lợi tập  
thể…
Cách phân loại này giúp cho người quản lý thấy rõ kết cấu TSCĐ và vai trò, tác 
dụng của TSCĐ trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tạo điều 
kiện thuận lợi cho việc quản lý, sử dụng TSCĐ và tính toán khấu hao chính xác.
* Phân loại theo tình hình sử dụng
Theo tiêu thức phân loại này, TSCĐ của doanh nghiệp được chia thành 3 loại:
­ TSCĐ đang sử  dụng là:Những TSCĐ đang sử  dụng cho các hoạt động sản 
xuất kinh doanh hay các hoạt động khác của doanh nghiệp như hoạt động phúc lợi,  
sự nghiệp, an ninh quốc phòng.
­ TSCĐ chưa cần dùng là: Những TSCĐ cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh  
doanh hay các hoạt động khác của doanh nghiệp, song hiện tại chưa cần dùng, đang 
được dự trữ để sử dụng sau này.
­ TSCĐ không cần dùng và chờ  thanh lý là: Những TSCĐ không cần thiết hay  
không phù hợp với nhiệm vụ  sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, cần  được 
thanh lý, nhượng bán để thu hồi vốn đầu tư đã bỏ ra ban đầu.
Cách phân loại này giúp cho người quản lý thấy mức độ  sử  dụng có hiệu quả 
các TSCĐ của doanh nghiệp như thế nào, từ đó có biện pháp nâng cao hơn hiệu quả 
sử dụng.
* Phân loại theo mục đích sử dụng
Theo tiêu thức phân loại này, TSCĐ của doanh nghiệp được chia thành 3 loại:
­ TSCĐ dùng cho mục đích kinh doanh: Là những TSCĐ vô hình hay TSCĐ hữu 
hình trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp gồm:  
quyền sử  dụng đất, chi phí thành lập doanh nghiệp, vị  trí cửa hàng, nhãn hiệu sản 
phẩm, nhà cửa, vật kiến trúc, máy móc, thiết bị phương tiện vận tải, thiết bị truyền  
dẫn, thiết bị, dụng cụ quản lý, vườn cây lâu năm, súc vật làm việc (hoặc cho sản  



phẩm), các loại TSCĐ khác chưa liệt kê vào 5 loại trên như  tranh  ảnh, tác phẩm  
nghệ thuật…
­ TSCĐ dùng cho mục đích phúc lợi, sự nghiệp, an ninh, quốc phòng.
­ TSCĐ bảo quản hộ, cất giữ cho nhà nước, cho các doanh nghiệp khác.
Cách phân loại này giúp cho người quản lý thấy được cơ  cấu TSCĐ theo mục  
đích sử dụng của nó, từ đó có biện pháp quản lý TSCĐ theo mục đích sử dụng cho 
có hiệu quả nhất.
* Phân loại theo quyền sở hữu
Căn cứ vào tình hình sở hữu có thể chia TSCĐ thành 2 loại:
­   TSCĐ   tự   có:   TSCĐ   là   những   TSCĐ   thuộc   quyền   sở   hữu   của   chủ   doanh 
nghiệp.
­ TSCĐ đi thuê: TSCĐ là những TSCĐ thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp  
khác.
Cách phân loại này giúp cho người quản lý thấy kết cấu TSCĐ thuộc quyền sở 
hữu của doanh nghiệp và TSCĐ thuộc sở  hữu của người khác mà khai thác, sử 
dụng hợp lý TSCĐ của doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả vốn.
* Phân loại theo nguồn hình thành
Căn cứ vào nguồn hình thành có thể chia TSCĐ trong doanh nghiệp thành 2 loại:
­ TSCĐ hình thành từ nguồn vốn chủ sở hữu.
­ TSCĐ hình thành từ các khoản nợ phải trả.
Cách phân loại này giúp người quản lý thấy được TSCĐ của doanh nghiệp  
được hình thành từ  nguồn nào, từ  đó có biện pháp theo dõi, quản lý và sử  dụng 
TSCĐ sao cho có hiệu quả nhất.



×