Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Tác động của gia nhập tổ chức thương mại thế giới đến nền nông nghiệp Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (721.95 KB, 89 trang )

LUẬN VĂN:

Tác động của gia nhập tổ chức thương mại
thế giới đến nền nông nghiệp Việt Nam


Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế là một thực tế khách quan, một xu thế tất
yếu cuốn hút các quốc gia. Việt Nam đã và đang triển khai nhiều hoạt động hội nhập kinh tế
quốc tế và đã thu được nhiều kết quả.
Thực hiện chủ trương tích cực và chủ động hội nhâp kinh tế quốc tế, Việt nam coi
việc gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) là một mục tiêu quan trọng. Việc tham
gia các hiệp định, các hiệp ước quốc tế về thương mại, về kinh tế trong WTO sẽ tạo nhiều
cơ hội cho nền kinh tế Việt Nam phát triển. Nhưng việc tham gia và theo đó là thực hiện
các cam kết của WTO sẽ là một quá trình đầy gay go, thách thức trên tất cả những lĩnh vực
khác nhau của đời sống kinh tế - xã hội, trong đó có lĩnh vực nông nghiệp. Việt Nam về cơ
bản vẫn là một nước nông nghiệp với 67% lực lượng lao động trong lĩnh vực nông nghiệp.
Khoảng 1/4 tổng GDP và khoảng 1/3 tổng kim ngạch xuất khẩu là từ nông nghiệp, do đó
ngành nông nghiệp là một ngành quan trọng đối với nền kinh tế Việt Nam. Gia nhập WTO
nền nông nghiệp Việt Nam có thể chịu sự tác động trên cả hai mặt tích cực và tiêu cực.
Tác động tích cực là mở rộng thị trường xuất khẩu nông sản, phân bổ tốt hơn các nguồn
lực quốc gia đến các ngành có lợi thế cạnh tranh cao nhất, tăng cường học hỏi công nghệ
mới từ việc trao đổi ngày càng gia tăng với phần còn lại của thế giới, tăng cường tính linh
hoạt trong thương mại quốc tế để đối mặt với những cú sốc do thiên tai… Mặt khác, đặt
ngành nông nghiệp trước khả năng biến động lớn do ảnh hưởng của thị trường thế giới bởi
xu hướng tự do hoá thương mại, đặt các doanh nghiệp trước sức ép cạnh tranh lớn, mặt
hàng có sức cạnh tranh yếu thì nguy cơ phá sản là không thể tránh khỏi, điều đó dẫn đến
nhiều nông dân bị mất việc làm, làm sâu sắc thêm những bất bình đẳng về thu nhập trong
nông nghiệp, nông thôn và giữa thành thị với nông thôn.


Xuất phát từ những vấn đề bức xúc nêu trên, nhất là khi Việt Nam đang đứng trước
ngưỡng cửa bước vào WTO, tôi chọn vấn đề: “Tác động của gia nhập tổ chức thương
mại thế giới đến nền nông nghiệp Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài


* Xoay quanh vấn đề Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới đã có một số
công trình nghiên cứu, bài viết của các tác giả đề cập ở nhiều khía cạnh khác nhau:
- Một số công trình nghiên cứu, bài viết trên các tạp chí đã tập trung phân tích diễn
biến tình hình Việt Nam đàm phán gia nhập WTO và từ đó đưa ra các giải pháp đẩy nhanh
việc gia nhập WTO; nghiên cứu nội dung của các hiệp định của WTO, từ đó chỉ ra các cơ
hội và thách thức đối với các nước đang phát triển, cũng như Việt Nam khi gia nhập WTO.
- Một số công trình, bài báo cũng đã nghiên cứu và làm rõ sự cần thiết Việt Nam
phải gia nhập WTO. Những điểm nêu trên có thế tìm thấy trong các tác phẩm:
+Việt Nam gia nhập WTO: “Tác động tới nền kinh tế Đồng Nai và các giải pháp để
thích ứng với quá trình hội nhập”, Nhà xuất bản Lý luận chính trị, Hà nôi 2005.
+ “Tổ chức thương mại thế giới (WTO) với nền kinh tế toàn cầu”, của Nguyễn Văn
Thanh, Tạp chí Cộng sản.
+ “Việt Nam con đường tới WTO”, của Vũ Xuân Trường, Báo Hà Nội mới.
+ “Nhiều lợi thế cũng như thách thức khi Việt Nam gia nhập WTO”, Bích HạnhBáo Nhân dân ngày 19/2/2004.
+ “Một bước chuẩn bị cho Việt Nam gia nhập WTO”, Thu Hà-Báo Nhân dân ngày
20/2/2004.
+ “Trung Quốc gia nhập WTO thời cơ và thách thức”, Võ Đại Lược- Nhà xuất bản
Khoa học xã hội, Hà nội 2004.
+ “Gia nhập WTO Việt Nam kiên định con đường đã chọn”, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia- 2004.
* Liên quan đến hội nhập WTO và tác động của nó đến nông nghiệp Việt Nam. Đã
có một số công trình khoa học, bài báo đề cập đến các vấn đề nông nghiệp Việt Nam trong
kinh tế toàn cầu và mối quan hệ giữa bảo hộ và tự do hoá thương mại nông sản, kinh
nghiệm bảo hộ nông nghiệp trên thế giới, cái được và cái mất và tác động đối với nông

nghiệp Việt Nam khi gia nhập WTO. Các công trình liên quan đến vấn đề này:
- “Làm gì cho nông thôn Việt Nam”, Phạm Đỗ Chí- Đặng Kim Sơn-Nguyễn Tiến
Triển, Đồng chủ biên 2003.
- “Bảo hộ hợp lý nông nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ”
Bùi Xuân Lưu, Nhà xuất bản Thống kê- Hà nội 2004.


- “WTO và ngành nông nghiệp Việt Nam”, kết quả nghiên cứu của Bộ nông nghiệp
và phát triển nông thôn do Australia tài trợ.
- “Tăng cường năng lực hội nhập quốc tế cho ngành nông nghiệp và phát triển
nông thôn”, kết quả nghiên cứu của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn do AU said
tài trợ.
- “Nông nghiệp và đám phán thương mại”, diễn đàn tài chính kinh tế-tài chính ViệtPháp, Nhà xuất bản CTQG-2001.
- “Các vòng đàm phán Urugoay về nông nghiệp và tác động thực tiễn của chúng”,
tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới số 2-2002.
- “Chính sách thương mại nông nghiệp trong quá trình Việt Nam gia nhập WTO”
của Ths Chu Ngọc Sơn.
- “Tác động của tiến trình gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) đối với nền
kinh tế Việt Nam” của PGS.TS Tô Huy Rứa.
Những công trình nghiên cứu, đề tài trên đã đề cập dưới các góc độ khác nhau về
thời cơ, thách thức và tác động của gia nhập WTO đối với nền kinh tế Việt Nam, trong đó
có nền nông nghiệp Việt Nam song còn ít đề tài đi sâu phân tích, đánh giá toàn diện, cụ thể
tác động của gia nhập WTO đối với nền nông nghiệp Việt Nam dưới góc độ khoa học kinh
tế chính trị. Vì thế đề tài “Tác động của gia nhập WTO đến nền nông nghiệp Việt Nam”
vẫn cần được nghiên cứu một cách cơ bản và hệ thống.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn góp phần dự báo những tác động chủ yếu đến nền nông nghiệp Việt Nam
khi gia nhập WTO. Từ đó nêu ra phương hướng và giải pháp thích ứng của nền nông nghiệp
Việt Nam nhằm phát huy những tác động tích cực và khắc phục hạn chế của hội nhập WTO

đối với nền nông nghiệp Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn:
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
+ Phân tích khái quát về WTO. Nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước trong
việc giải quyết vấn đề nông nghiệp khi gia nhập WTO.


+ Phân tích những tác động chủ yếu của việc gia nhập WTO đến nền nông nghiệp
Việt Nam.
+ Nêu ra một số giải pháp thích ứng của nền nông nghiệp Việt Nam khi gia nhập
WTO.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những tác động của việc gia nhập WTO đối với nền nông
nghiệp Việt Nam trên góc độ những ảnh hưởng của điều chỉnh chính sách và hàng nông
sản xuất khẩu. Nghiên cứu đối tượng này dưới góc độ khoa học kinh tế chính trị, nên luận
văn chú trọng đến các vấn đề: xu hướng, các phương hướng và giải pháp thích hợp để phát
triển nông nghiệp Việt Nam khi hội nhập vào WTO.
Thời gian: từ năm 2000 đến nay (từ phiên họp thứ tư-của giai đoạn 3: Minh bạch
hoá chính sách thương mại trong các cuộc đàm phán đa phương).
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu của đề tài là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử, ngoài ra luận văn còn sử dụng một số phương pháp khác như: phân tích và
tổng hợp, khái quát hoá, trừu tượng hoá, tổng kết thực tiễn và phương pháp chuyên gia.
6. ý nghĩa của luận văn
Luận văn hy vọng làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về những tác động chủ
yếu đối với nền nông nghiệp Việt Nam khi gia nhập WTO và đề xuất một số giải pháp
thích ứng để phát triển nền nông nghiệp Việt Nam khi gia nhập WTO.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc
nghiên cứu và giảng dạy các chuyên đề kinh tế phù hợp
7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu và kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được bố
cục thành 2 chương, 6 tiết.


Chương 1
Tổ chức thương mại thế giới và kinh nghiệm
của các nước trong việc giải quyết vấn đề
nông nghiệp khi gia nhập WTO

1.1. Khái quát về tổ chức thương mại thế giới (WTO)
Từ tháng 6-1994, Việt Nam được công nhận là quan sát viên của GATT-tiền thân
của WTO. Ngày 1-1-1995, Việt Nam nộp đơn gia nhập WTO. Từ đó đến nay, Việt Nam
đã và đang tích cực chuẩn bị các điều kiện cần thiết để gia nhập tổ chức thương mại thế
giới (WTO). Đến cuối tháng 5-2006 Việt Nam đã tiến hành 12 phiên đàm phán đa phương
và kết thúc đàm phán song phương với cả 28 quốc gia và vùng lãnh thổ yêu cầu đàm phán,
vào ngày 31-5-2006 với đối tác cuối cùng là Mỹ. Như vậy, Việt Nam đang đứng trước
ngưỡng cửa gia nhập WTO.
Mỗi tổ chức quốc tế đều có mục tiêu, nguyên tắc và nội dung hoạt động của mình.
Một nước muốn trở thành thành viên của tổ chức đó phải cam kết tuân thủ các quy định
của tổ chức và chứng tỏ khả năng của mình trong việc hoàn thành nghĩa vụ của thành viên
trong tổ chức, cũng như hưởng các lợi ích do việc tham gia tổ chức mang lại. Vì thế, trong
chương 1 này, cần thiết phải tìm hiểu sơ bộ về tổ chức thương mại thế giới (WTO), các
hiệp định chính trong WTO, nhất là các hiệp định của WTO liên quan đến lĩnh vực nông
nghiệp, nhằm tạo cơ sở cho việc phân tích những tác động có thể của việc gia nhập WTO
đến nền nông nghiệp Việt Nam ở chương 2.
Tổ chức thương mại thế giới (WTO) được thành lập ngày 1 tháng 1 năm 1995, kế
tục và mở rộng phạm vi điều tiết thương mại quốc tế của tổ chức tiền thân của nó là Hiệp
định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT). GATT đã tiến hành 8 vòng đàm phán
chủ yếu về thuế quan. Tuy nhiên từ thập kỷ 70 và đặc biệt từ vòng đàm phán Urugoay
(1986-1994) do thương mại quốc tế không ngừng phát triển, nên GATT đã mở rộng diện

hoạt động, đàm phán không chỉ về thuế quan mà còn tập trung xây dựng các Hiệp định
thành các chuẩn mực, luật chơi điều tiết các vấn đề hàng rào phi quan thuế, về thương mại
dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ, các biện pháp đầu tư có liên quan đến thương mại, về thương
mại nông sản, hàng dệt may (dỡ bỏ năm 2005) và cơ chế giải quyết tranh chấp.


Với diện điều tiết của thương mại đa biên được mở rộng nên Hiệp định chung về
Thuế quan và Thương mại (GATT) với tư cách là một sự thỏa thuận có nhiều nội dung ký
kết mang tính chất tùy ý tỏ ra không thích hợp. Do đó, ngày 15/4/1994, tại Marrkesh (Marốc), kết thúc vòng đàm phán Urugoay, các thành viên GATT đã cùng nhau ký Hiệp định
thành lập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) nhằm kế tục và phát triển sự nghiệp của
GATT. Theo đó WTO chính thức được thành lập độc lập với hệ thống Liên hiệp quốc và đi
vào hoạt động từ 1/1/1995. Cho đến nay tổ chức thương mại thế giới (WTO) đã có 148
thành viên và tính đến tháng 12/2004 với khoảng 97% thương mại toàn thế giới.
* Mục tiêu của WTO:
Với tư cách là tổ chức thương mại toàn cầu, WTO có những mục tiêu cơ bản như
sau:
- Thúc đẩy tăng trưởng thương mại hàng hoá và dịch vụ, nâng cao việc sử dụng có
hiệu quả các nguồn lực trên thế giới phục vụ cho sự phát triển ổn định, bền vững và bảo vệ
môi trường, thông qua việc tạo ra một tập hợp các quy tắc và nguyên tắc cho thương mại
quốc tế, bảo đảm một môi trường minh bạch, dễ dự báo trong thương mại quốc tế. WTO
vẫn đảm đương trách nhiệm của GATT về thúc đẩy đàm phán đa phương nhằm tự do hoá
thương mại, đóng góp vào sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của các quốc gia thành viên.
- Thúc đẩy sự phát triển các thể chế thị trường, giải quyết các bất đồng và tranh
chấp thương mại giữa các nước thành viên trong khuôn khổ của hệ thống thương mại đa
phương, phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của các Công ước quốc tế: bảo đảm cho các
nước đang phát triển và đặc biệt là các nước kém phát triển nhất được thụ hưởng những lợi
ích thực sự từ sự tăng trưởng của thương mại quốc tế, phù hợp với nhu cầu phát triển kinh
tế của các nước này và khuyến khích các nước ngày càng hội nhập sâu rộng hơn vào nền
kinh tế thế giới.
- Nâng cao mức sống, tạo công ăn việc làm cho người dân các nước thành viên, bảo đảm

các quyền và tiêu chuẩn lao động tối thiểu được tôn trọng.
* Chức năng chính:
WTO thực hiện các chức năng cơ bản sau:


- Thống nhất việc quản lý thực hiện các Hiệp định và thỏa thuận thương mại đa
phương và nhiều bên; giám sát tạo thuận lợi, kể cả trợ giúp kỹ thuật cho các nước thành
viên thực hiện nghĩa vụ thương mại quốc tế của họ.
- Là khuôn khổ thể chế để tiến hành các vòng đàm phán thương mại đa phương trong
khuôn khổ WTO, theo quyết định của Hội nghị Bộ trưởng WTO.
- Là cơ chế giải quyết tranh chấp giữa các nước thành viên liên quan đến việc thực
hiện và giải thích Hiệp định WTO và các biện pháp thương mại đa phương và nhiều bên.
- Là cơ chế kiểm điểm chính sách thương mại của các nước thành viên, bảo đảm
thực hiện mục tiêu thúc đẩy tự do hóa thương mại và tuân thủ các quy định của WTO,
Hiệp định thành lập WTO đã quy định một cơ chế kiểm điểm chính sách thương mại áp
dụng chung đối với tất cả các thành viên.
- Thực hiện hợp tác với các tổ chức kinh tế quốc tế như Quỹ tiền tệ quốc tế và Ngân
hàng thế giới trong việc hoạch định những chính sách và dự báo về những xu hướng phát
triển tương lai của kinh tế toàn cầu.
Cơ quan quyền lực cao nhất của WTO là Hội nghị Bộ trưởng Thương mại - nhóm
họp ít nhất hai năm một lần. Giữa hai nhiệm kỳ Hội nghị, Đại hội đồng (Bao gồm Đại diện
có thẩm quyền của tất cả các thành viên) có chức năng thường trực và báo cáo lên Hội
nghị Bộ trưởng, đồng thời Đại hội đồng đóng vai trò là một cơ quan giải quyết tranh chấp
và cơ quan rà soát chính sách của WTO. Dưới Đại hội đồng là Hội đồng thương mại về
hàng hoá, Hội đồng thương mại về dịch vụ và Hội đồng về các khía cạnh liên quan đến
thương mại về quyền sở hữu trí tuệ. Các Hội đồng trên chịu trách nhiệm điều hành việc
thực thi Hiệp định WTO về từng lĩnh vực thương mại tương ứng. Tham gia các Hội đồng
là đại diện của các thành viên.
Phần lớn các quyết định của WTO đều được thông qua trên cơ sở đồng thuận.
Trong một số trường hợp nhất định, khi không đạt được sự đồng thuận, các thành viên có

thể tiến hành bỏ phiếu.
WTO chứa đựng một hệ thống các quy định vô cùng phức tạp và cụ thể cho các lĩnh
vực như thương mại hàng hoá, dịch vụ, đầu tư và sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên, tất cả những quy
định đó đều dựa trên 5 nguyên tắc cơ bản [1, tr.225].


- Nguyên tắc thương mại không có sự phân biệt đối xử: Nguyên tắc này yêu cầu các
nước thành viên phải dành cho nhau Đãi ngộ Tối huệ quốc (MNF) (tức là không phân biệt
đối xử giữa hàng hoá và dịch vụ của các nước thành viên khác nhau) và Đãi ngộ Quốc gia
(NT) (yêu cầu mỗi nước thành viên không được phân biệt đối xử giữa hàng hoá và dịch vụ
trong nước và nhập khẩu).
- Nguyên tắc thương mại phải ngày càng được tự do hơn thông qua đàm phán: Các
hàng rào cản trở thương mại dần dần được loại bỏ, cho phép các nhà sản xuất hoạch định
chiến lược kinh doanh dài hạn có thời gian điều chỉnh, nâng cao sức cạnh tranh hoặc
chuyển đổi cơ cấu. Mức độ cắt giảm các hàng rào bảo hộ được thỏa thuận thông qua các
cuộc đàm phán song phương và đa phương.
- Nguyên tắc dễ dự báo, dự đoán: Các nhà đầu tư cũng như Chính phủ nước ngoài
tin chắc rằng hàng rào thuế quan và phi thuế quan khác sẽ không bị thay đổi và tăng một
cách tùy tiện. Cam kết về thuế quan và các biện pháp khác bị ràng buộc về mặt pháp lý.
- Nguyên tắc tạo ra môi trường cạnh tranh ngày càng bình đẳng: Hạn chế tác động
tiêu cực của các biện pháp cạnh tranh không bình đẳng như bán phá giá, trợ cấp hay dành
các đặc quyền cho một số doanh nghiệp nhất định.
- Nguyên tắc dành cho các thành viên đang phát triển một số ưu đãi: Các ưu đãi
này được thể hiện thông qua việc cho phép các thành viên đang phát triển có một số quyền
và không phải thực hiện một số nghĩa vụ hay có thời gian quá độ dài hơn để điều chỉnh
chính sách cho phù hợp.
1.2. Các hiệp định của WTO liên quan đến nông nghiệp
Các hiệp định của WTO điều chỉnh các lĩnh vực như thương mại hàng hoá, thương
mại dịch vụ và sở hữu trí tuệ. Chúng đề ra những nguyên tắc về tự do hoá và những ngoại
lệ được phép áp dụng; nêu lại cam kết của từng nước về giảm thuế quan và các rào cản

thương mại khác, về mở cửa và duy trì mở cửa thị trường dịch vụ; quy định thủ tục giải
quyết tranh chấp; quy định các nước đang phát triển phải được đối xử đặc biệt, buộc các
chính phủ phải thông báo cho WTO biết những luật lệ hiện hành và các biện pháp được áp
dụng trong nước song song với các báo cáo định kỳ của Ban thư ký về chính sách thương
mại của các nước.


Các hiệp định này thường được gọi là các luật lệ thương mại của WTO và WTO
thường được miêu tả như là một hệ thống hoạt động dựa trên các luật lệ. Để điều chỉnh
quan hệ thương mại quốc tế, WTO có 16 hiệp định chính như: Hiệp định chung về Thuế
quan và Thương mại (GATT 1994); Hiệp định về Hàng rào Kỹ thuật trong thương mại
(TBTs); Hiệp định về các Biện pháp vệ sinh kiểm dịch (SPS); Hiệp định về thủ tục cấp
phép xuất nhập khẩu (ILP); Hiệp định về Quy tắc xuất xứ (ROO); Hiệp định về Kiểm tra
trước khi giao hàng (PSI); Hiệp định Trị giá tính thuế hải quan (ACV); Hiệp định về các
Biện pháp tự vệ (ASG); Hiệp định về Trợ cấp (SCM) và Phá giá (ADP), Hiệp định về
Nông nghiệp (AOA); Hiệp định về Thương mại hàng dệt may và may mặc (ATC); Hiệp
định về các Biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMS); Hiệp định về các khía
cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS) và thoả thuận về các quy
tắc và thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp (DSU)… [1, tr. 226].
Tất cả các thành viên WTO đều phải tham gia vào các hiệp định nói trên, quy định
này gọi là sự chấp thuận cả gói. Bên cạnh đó WTO vẫn duy trì 2 hiệp định nhiều bên, các
thành viên WTO có thể tham gia hoặc không tham gia, đó là: Hiệp định về buôn bán máy
bay dân dụng; Hiệp định về mua sắm của Chính phủ. Còn 2 Hiệp định nhiều bên khác là
Hiệp định quốc tế về các sản phẩm sữa; Hiệp định quốc tế về thịt bò thì cuối năm 1997,
WTO đã chấm dứt và đưa những nội dung của chúng vào phạm vi điều chỉnh của các Hiệp
định Nông nghiệp và Hiệp định về các Biện pháp vệ sinh kiểm dịch.
Trong khuôn khổ của WTO có một số hiệp định cũng như quy định liên quan đến
lĩnh vực nông nghiệp, bao gồm: Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT
1947, GATT 1994), Hiệp định nông nghiệp (AoA), Hiệp định về việc áp dụng các biện
pháp vệ sinh dịch tễ và kiểm dịch động thực vật (SPS), Hiệp định về hàng rào kỹ thuật

trong thương mại (TBTs), Hiệp định về thủ tục giấy phép xuất nhập khẩu (ILP), Hiệp định
về các khía cạnh thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS)…
1.2.1. Hiệp định nông nghiệp (AOA)
Hình thành “một hệ thống thương mại nông nghiệp định hướng thị trường bình
đẳng và công bằng” thông qua yêu cầu các quốc gia thực hiện các nguyên tắc mới giám
sát:
- Việc sử dụng các đường biên để kiểm soát nhập khẩu.


- Sử dụng trợ cấp xuất khẩu.
- Các trợ cấp khác Chính phủ cung cấp để hỗ trợ giá của sản phẩm nông nghiệp hay
thu nhập của nhân dân.
* Tiếp cận thị trường: Theo điều 4 của Hiệp định này các nước trước đây áp dụng
các biện pháp phi thuế quan (ví dụ như hạn chế định lượng, giấy phép không tự động và
thuế biến đổi) đều bị yêu cầu bãi bỏ chúng, thay thế bằng thuế nhập khẩu bị ràng buộc ở
mức bảo hộ tương đương hoặc thấp hơn. Việc chuyển từ các biện pháp phi thuế sang thuế
được gọi là “thuế hóa”. Các quốc gia thành viên đồng ý cắt giảm thuế nhập khẩu theo tỷ lệ
cố định. Các nước phát triển và chuyển đổi phải giảm thuế 36% theo bình quân trong thời
hạn 6 năm từ 1995 đến 2000, ít nhất là 15% đối với mỗi dòng thuế. Các nghĩa vụ tương tự
đối với các nước đang phát triển là 24% trong vòng 10 năm từ 1995 đến 2004 và ít nhất
10% đối với mỗi sản phẩm.
Tuy nhiên, các hàng rào phi thuế cũng không bị loại bỏ hoàn toàn. Các thành viên
được phép sử dụng một số hạn chế phi thuế như các biện pháp vệ sinh dịch tễ và kiểm dịch
động thực vật để bảo vệ con người và động vật khỏi các rủi ro từ thực phẩm nảy sinh từ
việc sử dụng các chất kích thích, các chất gây ô nhiễm, độc tố hay các sinh vật gây bệnh và
để bảo vệ động thực vật khỏi các sâu bệnh hay dịch bệnh có thể tác động đến sản xuất
nông nghiệp.
Ràng buộc mọi dòng thuế đối với nông sản cũng được tất cả các nước đồng ý (phát
triển, đang phát triển, kém phát triển) để không tăng quá mức đã cam kết trong Biểu
nhượng bộ của các nước. Các nước đang phát triển và kém phát triển được linh hoạt hơn

khi ràng buộc các mức thuế tại thuế trần có thể cao hơn so với mức thuế áp dụng thực tế.
* Hỗ trợ trong nước:
Các cam kết cắt giảm mức hỗ trợ trong nước làm bóp méo thương mại được thể
hiện ở mức Tổng các biện pháp hỗ trợ gộp hay “Các mức cam kết ràng buộc hàng năm và
cuối cùng”. Mức tổng các biện pháp hỗ trợ gộp (“Tổng AMS”) là tổng các hỗ trợ trong
nước được cung cấp để hỗ trợ các nhà sản xuất nông nghiệp. Mức này được tính toán là
tổng hỗ trợ đối với các sản phẩm nông nghiệp, các biện pháp hỗ trợ không cụ thể và tất cả
“các biện pháp tương đương” (một cách tính đối với các hỗ trợ gộp đối với các sản phẩm
trong trường hợp không thể tính được một cách chi tiết).


Hiệp định nông nghiệp cũng đặt ra mức tối đa đối với Tổng AMS mà mỗi quốc gia
thành viên tính toán và báo cáo theo một phom sẵn có trong bản ACC/4 và phải cam kết
giảm từ mức Tổng đó.
- Hộp xanh lá cây: Bao gồm các trợ cấp không hoặc rất ít bóp méo thương mại và
sản xuất nông sản và không có “tác động trợ giá đối với người sản xuất” và do đó được
miễn trừ khỏi các cam kết cắt giảm. Theo như điều 2 của Hiệp định nông nghiệp, các trợ
cấp thuộc hộp xanh có thể cung cấp cho các nhà sản xuất dưới dạng như sau:
+ Chi tiêu của Chính phủ đối với nghiên cứu nông nghiệp, kiểm soát sâu bệnh, kiểm tra
và xếp loại các sản phẩm cụ thể, dịch vụ marketting và xúc tiến.
+ Sự tham gia tài chính của Chính phủ đối với các chương trình bảo hiểm thu nhập
và mạng an sinh thu nhập.
+ Thanh toán bù trừ thiên tai.
+ Các trợ cấp điều chỉnh cơ cấu thông qua:
. Các chương trình hồi hưu người sản xuất được thiết kế để hỗ trợ các cá
nhân tham gia sản xuất nông nghiệp.
. Chương trình ngừng sử dụng các nguồn tài nguyên như đất và các tài nguyên
khác bao gồm động vật, thôi không tham gia sản xuất nông nghiệp.
. Các trợ cấp đầu tư được thiết kế để hỗ trợ tái cơ cấu tài chính hay cơ cấu
vật chất của các hoạt động của các nhà sản xuất.

. Các thanh toán trong các chương trình môi trường.
. Các thanh toán trong các chương trình hỗ trợ khu vực.
Một số chương trình ở các nước đang phát triển cũng được miễn trừ khỏi các cam
kết cắt giảm như hỗ trợ đầu tư, hỗ trợ đầu tư cho người nghèo và người có thu nhập thấp
hay nông dân ở những vùng khó khăn, hỗ trợ nông dân chuyển đổi từ cây thuốc phiện sang
các cây trồng khác.
- Hộp xanh lơ: Bao gồm các thanh toán trực tiếp trong các chương trình giới
hạn sản xuất dựa trên diện tích hay năng suất cố định hay số đầu gia súc. Hiệp định
nông nghiệp cho phép các nước thành viên không phải tính đến các thanh toán thuộc
các chương trình “giới hạn sản xuất” khi tính toán tổng mức AMS.


- Hộp hổ phách: Đây là dạng trợ cấp được coi là bóp méo thương mại, bao gồm các
trợ cấp trong nước mà các thành viên của WTO bị yêu cầu phải cắt giảm trong Hiệp định
nông nghiệp trên cơ sở tính toán Tổng AMS. Các trợ cấp thuộc hộp hổ phách có thể dưới
nhiều dạng nhưng tất cả đều thuộc dạng cung cấp trực tiếp cho sản xuất nông nghiệp theo
quy định của Chính phủ (nó không nhất thiết là Chính phủ phải trực tiếp chi trả từ nguồn
ngân sách của mình). Chúng có thể bao gồm các quy định nhằm giữ vững hay tăng giá đầu
ra hay giảm giá đầu vào đối với sản xuất hoặc cố định giá lưu kho hoặc phân phối sản
phẩm. Chúng có thể bao gồm bất kỳ một thanh toán trực tiếp đến các nông dân trên cơ sở
các quyết định sản xuất của họ (các thanh toán có liên quan đến sản xuất).
Trên cơ sở tính toán tổng AMS của biện pháp trợ cấp thuộc Hộp hổ phách, các
nước thành viên của WTO có các biện pháp trợ cấp nông nghiệp bóp méo thương mại có
nghĩa vụ cắt giảm mức Tổng AMS. Các nước phát triển có nghĩa vụ cắt giảm 20% của
Tổng AMS được tính toán trong giai đoạn 6 năm kể từ năm 1995 và các nước đang phát
triển phải cắt giảm 13,3% trong vòng 10 năm.
Tuy nhiên, có bốn dạng ngoại lệ không phải tính đến khi tính toán Tổng mức AMS.
Đó là các trợ cấp thuộc hộp “xanh lá cây” và “xanh lơ”, các mức trợ cấp đối với sản phẩm
hay trợ cấp chung dưới mức tối thiểu và các ngoại lệ cụ thể đối với các nước đang phát
triển.

Mức tối thiểu: Đối với các nước đang phát triển, các chi trả trợ cấp bất kỳ dạng nào
chưa đến 5% của giá trị sản xuất nông nghiệp và 5% của giá trị sản xuất của một sản phẩm
nông nghiệp cơ bản thì sẽ không phải đưa vào khi tính toán mức AMS. Mức tối thiểu này
đối với các nước đang phát triển là cao hơn 10%.
Các nước đang phát triển cũng được cho phép, nhằm mục đích khuyến khích phát
triển nông nghiệp và nông thôn, không đưa vào khi tính mức AMS và do vậy không phải
đưa vào cam kết cắt giảm những trợ cấp dưới đây:
+ Trợ cấp đầu tư chung trong nông nghiệp.
+ Trợ cấp đầu vào nói chung đối với những người sản xuất thu nhập thấp hoặc ở
những vùng khó khăn.
+ Trợ cấp để khuyến khích chuyển đổi từ cây thuốc phiện sang cây trồng khác.


Trợ cấp xuất khẩu: Đây là dạng hỗ trợ được coi là các biện pháp bóp méo nhất đối
với thương mại của các Chính phủ. Các trợ cấp này được sử dụng để hỗ trợ nông dân hay
người sản xuất bán các sản phẩm của họ trên thị trường quốc tế. Chúng bao gồm:
+ Các trợ cấp trực tiếp của Chính phủ liên quan đến hoạt động xuất khẩu.
+ Việc bán hay thanh lý dự trữ nông sản phi thương mại của Chính phủ hoặc các cơ
quan của Chính phủ với giá thấp hơn so với giá của sản phẩm cùng loại trên thị trường.
+ Các khoản thanh toán xuất khẩu nông sản hoàn toàn do Chính phủ thực hiện, dù
có tính vào tài khoản công hay không, kể cả các thanh toán lấy từ khoản thu từ nông sản có
liên quan hoặc từ nông sản mà từ đó sản phẩm xuất khẩu được làm ra.
+ Trợ cấp nhằm giảm chi phí tiếp thị xuất khẩu nông sản (khác với trợ cấp thúc đẩy
xuất khẩu và dịch vụ tư vấn có sẵn rộng rãi), kể cả chi phí vận chuyển, nâng phẩm cấp và
các chi phí chế biến khác, chi phí vận tải quốc tế và cước phí.
+ Phí vận tải nội địa và cước phí của các chuyến hàng xuất khẩu do Chính phủ cung
cấp hoặc ủy quyền với điều kiện thuận lợi hơn so với các chuyến hàng nội địa.
+ Trợ cấp cho nông sản với điều kiện tham gia vào sản phẩm xuất khẩu.
Tuy nhiên các nước đang phát triển không bị yêu cầu thực hiện các cam kết cắt
giảm đối với các loại trợ cấp xuất khẩu như trợ cấp nhằm làm giảm chi phí tiếp thị, chi phí

vận chuyển, chi phí chế biến, phí vận tải và cước phí với điều kiện các loại trợ cấp đó
không được áp dụng với cách có thể lẩn tránh thực hiện cam kết cắt giảm.
Theo Hiệp định nông nghiệp, các thành viên của WTO không được phép áp dụng
các biện pháp trợ cấp xuất khẩu mới đối với nông sản và phải cam kết cắt giảm giá trị cũng
như số lượng trợ cấp xuất khẩu hiện hành. Các nước phát triển phải cắt giảm 36% về giá
trị và 21% về số lượng trong thời hạn 6 năm kể từ năm 1995. Đối với các nước đang phát
triển thì nghĩa vụ này là 24% về giá trị và 14% về số lượng trong thời hạn 10 năm [6; tr.
27].
1.2.2. Hiệp định về hàng rào kỹ thuật trong thương mại (TBTs)
Hiệp định này đặt ra một số quy định và điều lệ liên quan đến các biện pháp phi thuế có
ảnh hưởng đến thương mại, bao gồm thương mại nông nghiệp.
Hiệp định này nhằm đảm bảo rằng các cuộc đàm phán kỹ thuật và các tiêu chuẩn
cũng như việc kiểm tra và thủ tục cấp phép không tạo ra các cản trở không cần thiết đến


thương mại. Tuy nhiên, Hiệp định thừa nhận rằng các nước có quyền bảo hộ ở những mức
độ mà họ thấy phù hợp. Hiệp định này do đó khuyến khích các nước sử dụng những tiêu
chuẩn quốc tế nếu phù hợp nhưng không yêu cầu các nước này phải thay đổi mức độ bảo
hộ do kết quả của tiêu chuẩn hóa.
Hiệp định cũng bao gồm các tiêu chuẩn được áp dụng trong các phương pháp chế
biến và sản xuất liên quan đến đặc tính của bản thân sản phẩm. Hiệp định đưa ra những
nghĩa vụ liên quan đến các thủ tục đánh giá sự phù hợp và các điều khoản thông báo áp
dụng cả đối với các chính quyền địa phương cũng như cơ quan phi Chính phủ.
Một chuẩn thực hiện tốt cho việc chuẩn bị, thông qua và áp dụng các tiêu chuẩn của
các cơ quan tiêu chuẩn cũng có thể được chấp nhận bởi các đơn vị tư nhân cũng như trong
khu vực công ích, cũng được bao gồm trong phần phụ lục của Hiệp định này.
Nhìn chung, Hiệp định TBTs yêu cầu các quốc gia phải đảm bảo rằng các yêu cầu
kỹ thuật của họ đối với hàng hoá phải đảm bảo một số điều kiện cơ bản như: không phân
biệt đối xử, đối xử quốc gia đối với hàng nhập khẩu, không hạn chế thương mại nhiều hơn
mức cần thiết và dựa trên cơ sở khoa học thích hợp. Hiệp định này cũng yêu cầu các cơ

quan tiêu chuẩn quốc gia phải tuân thủ một số điều lệ và quy định như: i) sử dụng các tiêu
chuẩn quốc tế làm cơ sở cho các tiêu chuẩn quốc gia; ii) đảm bảo các tiêu chuẩn quốc gia
phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế.
Hiệp định về các biện pháp vệ sinh dịch tễ và kiểm dịch động thực vật (SPS) áp
dụng đối với tất cả các biện pháp vệ sinh dịch tễ và kiểm dịch động thực vật mà chúng trực
tiếp hay gián tiếp có thể ảnh hưởng đến thương mại quốc tế.
Hiệp định SPS yêu cầu các quốc gia thành viên:
- Cơ sở các biện pháp SPS của mình dựa vào các tiêu chuẩn, hướng dẫn hay khuyến
nghị quốc tế được xây dựng bởi các tổ chức của thế giới (ví dụ như ủy ban An toàn thực
phẩm, Cơ quan dịch tễ quốc tế IOE, các cơ quan hoạt động trong khuôn khổ của Công ước
Bảo vệ thực vật quốc tế IPPC, hay một tổ chức quốc tế nào được chỉ định bởi ủy ban WTO
về SPS)
- Tham gia đầy đủ vào các hoạt động để thúc đẩy quá trình hài hòa hóa các biện
pháp SPS trên cơ sở quốc tế.


- Tạo cơ hội cho các nước quan tâm được đóng góp ý kiến khi xây dựng các tiêu
chuẩn.
- Chấp nhận các biện pháp SPS của nước xuất khẩu là tương đương nếu chúng cũng
đạt được mức độ bảo vệ SPS tương tự và tham gia vào các hiệp định trên cơ sở thừa nhận
song phương về tính tương đương của các biện pháp vệ sinh dịch tễ và kiểm dịch động
thực vật cụ thể.
Hiệp định SPS cũng yêu cầu các quốc gia “phải đảm bảo rằng các biện pháp của họ
thích ứng với các đặc trưng kểm dịch động thực vật của khu vực xuất xứ của sản phẩm và
nơi sản phẩm sẽ được chuyển đến” và không áp dụng chúng để tạo ra các đối xử tùy
tiện hay không công bằng giữa các quốc gia và vùng có cùng điều kiện hay để tạo ra
hạn chế trá hình đối với thương mại quốc tế.
Hiệp định SPS cũng cho phép các quốc gia được quyền áp dụng các biện pháp SPS
đối với mức độ bảo hộ cao hơn nếu có sự biện hộ khoa học hay quốc gia đó dựa trên cơ sở
đánh giá nguy cơ quyết định rằng mức độ bảo hộ kiểm dịch động thực vật cao hơn là cần

thiết.
1.2.3 Hiệp định về thủ tục cấp phép xuất nhập khẩu(ILP)
Hiệp định yêu cầu các thủ tục cấp phép nhập khẩu không được sử dụng theo cách
phân biệt đối xử hay tạo ra các phiền toái.
Cấp phép nhập khẩu được định nghĩa là các thủ tục hành chính được sử dụng trong
hoạt động của hệ thống cấp phép nhập khẩu yêu cầu nộp đơn hay các tài liệu khác đến một
cơ quan hành chính như là một điều kiện tiên quyết cho nhập khẩu trước khi vào địa phận
hải quan của nước thành viên nhập khẩu. Các điều lệ của thủ tục cấp phép nhập khẩu phải
trung lập khi áp dụng và phải được quản lý một cách công bằng và bình đẳng. Các điều lệ
cũng như tất cả các thông tin liên quan đến các thủ tục về việc nộp đơn, kể cả tư cách của
thể nhân, công ty hay cơ quan thực hiện việc nộp đơn, đơn vị hành chính nhận đơn và danh
sách các sản phẩm chịu yêu cầu cấp phép đều phải được công bố.
Hệ thống cấp phép có thể tự động, trong hệ thống tự động các cơ quan có thẩm
quyền sẽ cấp phép tự động (trong khoảng thời gian tối đa 10 ngày làm việc kể từ khi nhận
đơn xin) mà không sử dụng bất kỳ một quyền tuỳ ý nào. Các hệ thống cấp phép không tự
động quản lý thông qua hạn chế hạn ngạch và các biện pháp khác, các cơ quan sẽ sử dụng


quyền chủ ý của họ khi cấp giấy phép (trong vòng tối đa 30 ngày kể từ ngày kể từ khi nhận
đơn xin). Tuy nhiên, các cơ quan cấp giấy phép quốc gia phải tuân thủ theo các quy định
với mục đích cơ bản là bảo vệ quyền lợi của nhà nhập khẩu và các nhà cung cấp nước
ngoài. Trên nguyên tắc những thủ tục cấp phép:
- Không được gây phiền toái hơn mức cần thiết để điều hành hệ thống.
- Minh bạch và dự đoán được
- Không có những chậm trễ không cần thiết và các hành động tuỳ ý chủ quan
1.2.4. Hiệp định về các khía cạnh thương mại của Quyền sở hữu trí tuệ
(TRIPS)
Hiệp định này yêu cầu các tiêu chuẩn tối thiểu để bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ cũng
như thủ tục và các phương tiện cưỡng chế thi hành.
Hiệp định về các khía cạnh thương mại của quyền sở hữu trí tuệ tập trung vào

những điểm sau:
- Nguyên tắc cơ bản và các nghĩa vụ chung: Các quốc gia nước ngoài phải được đối
xử không kém thuận lợi hơn bởi một quốc gia so với quyền sở hữu trí tuệ trong quốc gia
đó và các quốc gia phải đối xử MNF đối với tất cả các nước trên cơ sở không phân biệt đối
xử.
- Tiêu chuẩn tối thiểu của bảo hộ bao gồm những đối tượng, các quyền, các ngoại lệ
được chấp thuận và thời gian bảo hộ tối thiểu (bằng sáng chế, bản quyền, nhãn mác, thiết
kế công nghiệp…)
- Các hành động phi cạnh tranh khi cấp phép giao kèo.
- Các thủ tục và biện pháp phòng chống trong nước để buộc tuân thủ các quyền sở
hữu trí tuệ.
- Các bố trí quá độ cho việc thực hiện các điều lệ trong phạm vi quốc gia.
Đối với phát triển nông nghiệp, nhất là nông sản hàng hoá, yếu tố sáng chế, nhãn
mác và điểm xuất xứ ngày càng trở nên quan trọng và trở thành những vấn đề nóng bỏng
trong các tranh chấp quốc tế gần đây. Có hai dạng quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến nông
nghiệp bao gồm: chỉ dẫn địa lý và quyền tác giả giống. Chỉ dẫn địa lý là xác định xuất xứ
của sản phẩm mà nó ám chỉ chất lượng hay các đặc trưng khác liên quan đến khu vực đó.


Trong khi quyến tác giả là kiên quan đến việc tạo ra các giống mới, ổn định, đặc biệt, đồng
nhất, đây là những quyền có thể được bảo hộ trong Công ước Bảo hộ giống thực vật mới.
1.2.5 Những điểm mới trong vòng đàm phán Đô-ha về nông nghiệp
Trong khuôn khổ của WTO, hiệp định được đưa ra tại vòng đàm phán Urugoay đã
tạo ra một khuôn khổ đầu tiên cho các quy tắc đa phương về trợ cấp nông nghiệp và chính
sách thương mại nông sản. Tuy nhiên vòng này chỉ thúc đẩy được tự do hoá thương mại
nông sản ở mức độ rất khiêm tốn. Sự phát triển của thương mại thế giới đòi hỏi phải thay
thế quy chế thương mại cũ bằng một quy chế mới thích hợp và có hiệu quả hơn. Các cuộc
đàm phán nông nghiệp đã bắt đầu từ năm 2000, nhưng hầu như không có tiến bộ gì cho
đến khi những cuộc đàm phán toàn diện hơn được bắt đầu tại Vòng Đô-ha. Tại vòng Đôha, diễn ra cuộc cải cách ở cả ba trụ cột, bao gồm hỗ trợ trong nước, tiếp cận thị trường, và
trợ cấp xuất khẩu [6; tr. 51-54].

* Hỗ trợ trong nước:
Tuyên bố Bộ trưởng Đô-ha kêu gọi “giảm đáng kể các trợ cấp trong nước bóp méo
thương mại”. Các cuộc đàm phán về lĩnh vực này sẽ đảm bảo những điều sau:
Mỗi nước thành viên sẽ phải giảm đáng kể tổng mức hỗ trợ trong nước mang tính
bóp méo thương mại từ mức đang ràng buộc hiện nay cũng như mức cam kết về tổng thể,
mức ràng buộc cuối cùng về tổng thể AMS và mức tối thiểu cho phép cũng là đối tượng bị
cắt giảm đáng kể. Trong trường hợp của Hộp xanh lơ cũng sẽ bị giới hạn ở mức 5% của
tổng giá trị sản xuất nông nghiệp bình quân của một nước thành viên trong một giai đoạn
cơ sở nhằm đảm bảo các kết quả đạt được sẽ gắn kết chặt chẽ với mục tiêu dài hạn. Bất kỳ
sự giải thích nào cũng như việc phát triển các luật lệ và điều kiện để giám sát những hỗ trợ
bóp méo thương mại sẽ phải tính đến yếu tố này.
Các đối xử đặc biệt và khác biệt sẽ là một phần thống nhất của hỗ trợ trong nước.
Phương thức được phát triển sẽ bao gồm các giai đoạn thực hiện dài hơn cũng như các hệ
số cắt giảm thấp hơn đối với tất cả các dạng hỗ trợ trong nước mang tính bóp méo thương
mại.
Cắt giảm chung: một công thức theo tầng- Mức cơ sở chung của mọi hỗ trợ trong
nước mang tính bóp méo thương mại được xác định bằng mức ràng buộc Tổng AMS cuối
cùng cộng với mức tối thiểu cho phép và mức sẽ chi trả được đồng ý cho hộp xanh lơ sẽ bị


cắt giảm theo một công thức theo tầng. Theo công thức này, các thành viên có mức hỗ
trong nước mang tính bóp méo thương mại cao hơn sẽ phải thực hiện mức cắt giảm tổng
lớn hơn nhằm đạt được kết quả mang tính hài hoà. Ngay tại lần cắt giảm đầu tiên, trong
năm đầu tiên và trong toàn bộ giai đoạn thực hiện, tổng của tất cả các hỗ trợ bóp méo
thương mại sẽ không được vượt quá 80% của mức ràng buộc Tổng AMS cuối cùng cộng
với mức tối thiểu cho phép cộng với Hộp xanh lơ ở mức 5% của tổng giá trị sản xuất nông
nghiệp bình quân của nước thành viên trong giai đoạn cơ sở.
Mức ràng buộc tổng AMS cuối cùng sẽ bị giảm đáng kể thông qua phương pháp
tiếp cận tầng. Các thành viên có mức tổng AMS cao hơn sẽ phải giảm nhiều hơn. Để ngăn
ngừa việc lẩn tránh mục tiêu của thoả thuận này thông qua việc chuyển hỗ trợ không thay

đổi giữa các loại hỗ trợ khác nhau, các AMS được tính toán cho các sản phẩm cụ thể sẽ bị
giới hạn ở mức bình quân tương ứng của chúng theo một phương pháp được thoả thuận
sau này.
Giảm mức tối thiểu sẽ được đàm phán có tính đến nguyên tắc đối xử đặc biệt và
khác biệt. Các nước đang phát triển áp dụng hầu hết các chương trình thuộc mức tối thiểu
để hỗ trợ cho nông dân nghèo về tài nguyên và chỉ đủ sống sẽ được miễn không phải giảm.
- Hộp xanh lơ:
Các tiêu chuẩn phân loại sẽ được xác định nhằm đảm bảo rằng các thanh toán thuộc
hộp xanh lơ là ít bóp méo thương mại hơn so với các biện pháp AMS. Hơn nữa, các hỗ trợ
thuộc Hộp xanh lơ cũng sẽ không vượt quá mức của tổng giá trị sản xuất nông nghiệp bình
quân của nước thành viên trong giai đoạn lịch sử (cơ sở). Giai đoạn cơ sở sẽ được thiết lập
trong quá trình đàm phán, giới hạn trần này sẽ áp dụng đối với bất kỳ người sử dụng Hộp
xanh lơ thực tế hay tiềm năng từ thời điểm ban đầu của giai đoạn thực hiện.
- Hộp xanh:
Các tiêu chuẩn của Hộp xanh sẽ được rà soát lại và làm rõ ràng với mong muốn
đảm bảo các biện pháp thuộc Hộp xanh sẽ không có, hoặc có tác động bóp méo thương
mại hay tác động tới sản xuất. Quá trình rà soát và làm rõ ràng này cần phải đảm bảo rằng
những khái niệm cơ bản, nguyên tắc và tính hiệu quả của Hộp xanh vẫn được giữ nguyên
và có tính đến các quan tâm phi thương mại.


- Cạnh tranh xuất khẩu:
Tuyên bố Hội nghị Bộ trưởng Đô-ha kêu gọi “giảm và tiến tới bỏ hoàn toàn các
dạng trợ cấp xuất khẩu”. Theo đó các dạng trợ cấp sau đây sẽ bị loại bỏ: trợ cấp xuất khẩu
như đã liệt kê, tín dụng xuất khẩu, bảo lãnh tín dụng xuất khẩu hay các chương trình bảo
hiểm với các chu kỳ thanh toán vượt quá 180 ngày.
Cách thức và điều kiện liên quan đến tín dụng xuất khẩu, bảo lãnh tín dụng xuất
khẩu và các chương trình bảo hiểm với chu kỳ thanh toán 180 ngày và ngắn hơn sẽ không
phải tuân thủ các quy tắc sẽ được thoả thuận. Các quy tắc này sẽ bao gồm cả việc thanh
toán lãi suất, mức lãi suất tối thiểu, yêu cầu phí tối thiểu và các yếu tố khác có thể chứa

đựng sự trợ cấp hay bóp méo thương mại.
Các hành động bóp méo thương mại liên quan đến các Doanh nghiệp thương mại
Nhà nước xuất khẩu bao gồm trợ cấp xuất khẩu cho các doanh nghiệp này, tài chính của
Chính phủ và xoá lỗ sẽ bị yêu cầu bãi bỏ.
Các quy định về viện trợ lương thực không tuân thủ với các quy tắc hiệu quả cũng
sẽ được thoả thuận. Mục đích của những nguyên tắc như vậy là nhằm ngăn ngừa việc thay
thế thương mại. Vai trò của các tổ chức quốc tế liên quan đến việc cung cấp viện trợ lương
thực của các nước thành viên cũng sẽ được đề cập đến trong đàm phán.
- Các đối xử đặc biệt và khác biệt:
Các nước thành viên đang phát triển sẽ được hưởng lợi từ các giai đoạn thực hiện
kéo dài hơn cho việc bãi bỏ tất cả các dạng trợ cấp xuất khẩu. Các nước đang phát triển sẽ
tiếp tục được hưởng đối xử đặc biệt và khác biệt như tại Điều 9.4 của Hiệp định Nông
nghiệp cho một giai đoạn phù hợp sẽ được thoả thuận sau khi đã loại bỏ tất cả các dạng trợ
cấp xuất khẩu và hoàn thành việc thực hiện các quy tắc được xác định như trên. Các doanh
nghiệp thương mại Nhà nước ở các nước thành viên đang phát triển cũng sẽ được hưởng
những ưu tiên đặc biệt nhằm giữ ổn định giá cho người tiêu dùng và đảm bảo an ninh
lương thực quốc gia cũng sẽ được hưởng sự xem xét đặc biệt cho việc tiếp tục giữ độc
quyền.
* Tiếp cận thị trường:
Phương pháp tiếp cận đơn:


Nhằm đảm bảo một cách tiếp cận đơn cho cả các nước thành viên phát triển và đang
phát triển đạt được tất cả các mục tiêu của vòng đàm phán Đô-ha, việc giảm thuế sẽ được
thực hiện theo công thức theo tầng có tính đến các cấu trúc thuế khác nhau của các nước
thành viên nhằm đảm bảo công thức này sẽ dẫn đến việc mở rộng thương mại đáng kể và
giảm thuế đáng kể có đạt được như là kết quả cuối cùng từ quá trình đàm phán. Tiến bộ
trong giảm thuế sẽ đạt được thông qua việc giảm mạnh hơn đối với những dòng thuế cao
hơn nhưng có sự linh hoạt hơn đối với các “sản phẩm nhạy cảm”.
Các thành viên có thể đề xuất một số lượng thích hợp các dòng thuế được đối xử là

nhạy cảm, có tính đến các cam kết hiện hành đối với các sản phẩm này.
Các yếu tố khác cho phép sự linh hoạt để đạt được kết quả cân bằng cuối cùng kể cả
việc giảm và bãi bỏ các mức hạn ngạch thuế quan và các cải thiện một cách có hiệu quả
việc quản lý hạn ngạch thuế quan đối với các hạn ngạch thuế quan hiện hành sao cho các
nước thành viên, đặc biệt là các quốc gia thành viên đang phát triển có thể được hưởng lợi
từ các cơ hội tiếp cận thị trường trong phạm vi hạn ngạch thuế quan.
Đối xử đặc biệt và khác biệt:
Liên quan đến phát triển nông thôn, an ninh lương thực hay nhu cầu an ninh về đời
sống, các đối xử đăc biệt và khác biệt đối với các nước đang phát triển sẽ là một phần
thống nhất của tất cả các yếu tố trong đàm phán, kể cả công thức giảm thuế, số lượng và
đối xử sản phẩm nhạy cảm, mở rộng hạn ngạch thuế quan và giai đoạn thực hiện. Một tỷ lệ
cân xứng sẽ được thoả thuận liên quan đến yêu cầu cam kết giảm thuế ít hơn hay các cam
kết mở rộng hạn ngạch thuế quan dành cho các nước thành viên đang phát triển.
Các thành viên đang phát triển cũng sẽ được hưởng sự linh hoạt khi đề xuất một số
lượng nhất định các sản phẩm được coi là sản phẩm đặc biệt, dựa trên các tiêu chí về an
ninh lương thực, an ninh đời sống và nhu cầu phát triển nông thôn, các sản phẩm này sẽ
được hưởng sự đối xử linh hoạt hơn. Các tiêu chí và cách đối xử đối với những sản phẩm
này sẽ được tiếp tục cụ thể hoá trong quá trình đàm phán và sẽ thừa nhận tầm quan trọng
cơ bản của các sản phẩm đặc biệt đối với các nước đang phát triển.
Như vậy kết quả này là có lợi đối với các nước đang phát triển, họ sẽ được cạnh
tranh bình đẳng hơn với hàng nông sản của các nước phát triển trên thị trường nội địa và
trên thị trường xuất khẩu. Đối với các nước đang phát triển thì họ không có nhiều những


hỗ trợ trong nước cho ngành nông nghiệp như các nước phát triển. Do đó, những yêu cầu
cắt giảm trợ cấp chung sẽ chủ yếu rơi vào “những hỗ trợ tối thiểu cho phép”. Việc cắt giảm
các hỗ trợ này sẽ hạn chế khả năng sử dụng các công cụ hỗ trợ của các nước đang phát
triển để phát triển ngành nông nghiệp của mình đối đầu với sự cạnh tranh của hàng nhập
khẩu từ các nước phát triển. Tuy nhiên tác động của việc cắt giảm hỗ trợ trong nước dự
đoán sẽ không ảnh hưởng nhiều tới các nước đang phát triển trong lĩnh vực nông nghiệp.

Vấn đề mở cửa thị trường đối với hàng nông sản hiện nay vẫn là vấn đề phức
tạp trên bàn đàm phán Đô-ha. Cũng như các mặt hàng phi nông sản, các nước cũng
cam kết giảm mạnh thuế quan đối với các mặt hàng nông sản. Các nước phát triển và
đang phát triển cũng đều áp dụng chung một phương thức cắt giảm thuế thống nhất:
công thức phân cấp có tính tới cơ cấu thuế khác nhau, những mặt hàng nào có thuế
quan cao hơn phải cắt giảm nhiều hơn và bắt đầu từ những mức thuế quan đã cam
kết. Trừ các nước kém phát triển nhất, các nước đang phát triển tuy vẫn được áp
dụng các ứng xử đặc biệt và khác biệt nhưng vẫn phải tuân theo công thức phân cấp
này.
Các vấn đề đang được đặt ra tại vòng đàm phán Đô-ha là rất phức tạp và tiến triển
chậm chạp. Bởi mâu thuẫn về quyền lợi giữa các nhóm nước, đặc biệt là giữa các nước
phát triển và đang phát triển và vấn đề công bằng thương mại không dễ gì giải quyết. Song
xu hướng tự do hoá thương mại là không thể đảo ngược. Chương trình nghị sự tại vòng
đàm phán Đô-ha dù có được chấp nhận hay không cũng phản ánh nhu cầu bức xúc hiện
nay là WTO cần có bước tiến mạnh mẽ, đáp ứng được những biến đổi nhanh chóng của
nền kinh tế toàn cầu. Và điều quan trọng hơn là các nước đang phát triển, trong đó có Việt
Nam cần xem xét kỹ lưỡng những cam kết của vòng đàm phán này, cần ý thức được xu thế
chung để có thể có những chuyển đổi thể chế và những biện pháp cải cách kinh tế cần thiết
vì mục tiêu phát triển kinh tế nói chung và ngành nông nghiệp nói riêng.
Trong quá trình đàm phán gia nhập WTO, nhất là tại phiên họp thứ 8, tháng 6/2004,
Việt Nam đã trình cho Ban công tác Bản chào lần thứ 4, với những sửa đổi mang tính bước
ngoặt cho đàm phán, trong đó có nhiều cam kết của Việt Nam liên quan đến lĩnh vực nông
nghiệp, đặc biệt là Hiệp định Nông nghiệp khi gia nhập WTO mà tại phiên họp thứ 9
(tháng 12-2000) nhiều thành viên WTO đánh giá cao sự nỗ lực của Việt Nam.


1.3. Kinh nghiệm trong việc giải quyết vấn đề nông nghiệp khi gia nhập WTO
1.3.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc
Nông nghiệp đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với nền kinh tế Trung Quốc.
Trong quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý nền kinh tế, nông nghiệp Trung Quốc đã có

những đóng góp to lớn đối với việc phát triển nền kinh tế, giải quyết việc làm, tích luỹ
vốn, tăng phúc lợi xã hội và tăng thu ngoại tệ. Tuy nhiên, sau 20 năm cải cách và mở cửa,
ngành nông nghiệp Trung Quốc vẫn đứng trước những khó khăn trở ngại đó là:
- Giá cả nhiều loại sản phẩm nông nghiệp Trung Quốc cao hơn so với giá thế giới
do chi phí sản xuất cao, kết cấu hạ tầng kém. Kể từ đầu những năm 1990, giá cả hàng nông
sản của Trung Quốc đã liên tục tăng với tốc độ hơn 10% năm khiến cho giá cả của các sản
phẩm như tiểu mạch, ngô, đậu, bông …đều cao hơn giá thị trường quốc tế từ 20-70%. Nói
chung chỉ có thịt lợn, táo và thuốc lá là tương đối có ưu thế, còn lại nhiều loại hàng hoá
nông sản của Trung Quốc thiếu sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
- Hàng nông sản trong nước khó tiêu thụ, thu nhập của nông dân tăng chậm. Chẳng
hạn, tỷ lệ tăng thu nhập ròng của nông dân đã giảm từ mức 9% năm 1996 xuống còn 4,6%
năm 1997; 4,3% năm 1998; 3,8% năm 1999 và 2,1% năm 2000 (đặc biệt sự giảm sút này
lại chủ yếu do sự giảm sút của thu nhập từ sản xuất nông nghiệp) [21, tr. 238]. Kết quả của
sự giảm sút mức thu nhập của nông dân dẫn đến sự suy giảm của chi tiêu. Chính sự giảm
sút trong thu nhập và chi tiêu của nông dân ở Trung Quốc sẽ có những ảnh hưởng tiêu cực
đến việc mở rộng thị trường nội địa, đến sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế và đến sự
phát triển lành mạnh của nền kinh tế. Nếu thu nhập của người nông dân không được cải
thiện, những rủi ro và bất ổn ở xã hội nông thôn sẽ xuất hiện hoặc gia tăng với những tác
hại khó lường tới nền kinh tế.
- Sau một thời gian dài có những tác động tích cực tới việc tạo công ăn việc làm và
nâng cao thu nhập cho người nông dân, các xí nghiệp hương chấn quy mô sản xuất nhỏ,
công nghệ và máy móc lạc hậu, năng suất thấp đang ngày càng trở nên kém hiệu quả, gây
lãng phí tài nguyên và ô nhiễm môi trường cũng như tạo gánh nặng với ngân sách địa
phương.
- Do bị thoái hóa cũng như dưới tác động của quá trình đô thị hóa và phát triển công
nghiệp, tài nguyên nông nghiệp ngày càng khan hiếm, môi trường nông nghiệp bị ô nhiễm


nặng nề. Đến năm 1999, diện tích đất nông nghiệp bình quân một lao động nông nghiệp
Trung Quốc chỉ là 0,2 ha, bằng 1/4 của Thái Lan, 1/25 mức trung bình của thế giới.

Xuất phát từ tầm quan trọng đó của nông nghiệp đối với toàn bộ nền kinh tế và những
khó khăn mà ngành này sẽ phải đối mặt, các nhà nghiên cứu Trung Quốc đánh giá ngành
này sẽ bị tác động mạnh và nhanh hơn các ngành khác. Để tìm hiểu vấn đề này có thể căn cứ
vào những cam kết của Trung Quốc với WTO về vấn đề bảo hộ nông nghiệp để xem xét
những tác động.
Vậy thì những cam kết gia nhập WTO của Trung Quốc có tác động gì đối với thị
trường nông nghiệp? Đối với những sản phẩm được bảo hộ bằng thuế theo giá hàng, các
hệ quả như sau:
Bảng 1.1: Mức độ bảo hộ nhập khẩu của một số mặt hàng nông sản Trung Quốc
trước và sau khi gia nhập WTO (thuế quan hoặc tương đương (%) [21, tr,
246]
Sau khi gia
1995

2001
nhập WTO

Gạo

-5,0

-3,3

-3,3

Lúa mì

25,0

12,0


12,0

Ngũ cốc chăn nuôi

20,0

32,0

32,0

Rau quả

-10,0

-4,0

-4,0

Hạt có dầu

30,0

20,0

3,0

Đường

44,0


40,0

20,0

Sợi thực vật

20,0

17,0

-20,0

Vật nuôi và thịt

-20,0

-15,0

-15,0

Sữa

30,0

30,0

11,0

Tổngthể - nông nghiệp


4,8

7,6

3,6

Theo số liệu trên, đối với ngành nông nghiệp mức độ bảo hộ sẽ giảm từ mức 7,6%
năm 2001 xuống 3,6% sau khi gia nhập WTO. Tuy nhiên mức độ bảo hộ đối với các sản
phẩm lại rất khác nhau: trong khi mức độ bảo hộ đối với các sản phẩm như sữa, mía
đường, hạt có dầu giảm thì mức độ bảo hộ của gạo, lúa mì, ngũ cốc, rau quả, vật nuôi lại


được giữ nguyên, thậm chí mức độ bảo hộ tăng đối với sợi thực vật. Sự thay đổi trong mức
độ bảo hộ cùng với việc tiếp tục tái cơ cấu lại các ngành khác có tác động tới một số sản
phẩm nông nghiệp của Trung Quốc như sau:
Bảng 1.2: Tác động của việc gia nhập WTO tới một số sản phẩm nông nghiệp của
Trung Quốc, thời kỳ 2001-2007 (% so với việc không gia nhập) [21, tr.
246]

Cán

Công
Sản

ăn

Xuất

Nhập


lượng

việc

khẩu

khẩu

(%)

làm

(%)

(%)

(%)

cân

Giá

thươn

bán

g mại

buôn


(Triệu

(%)

Giá
bán lẻ
(%)

USD)

Gạo

-2,1

-2,3

6,1

-7,1

64

-0,9

0,9

Lúa mì

-2,0


-2,3

18,9

-10,1

174

-1,7

0,4

-2,3

-2,6

-77,8

-2,4

-596

-1,9

1,9

Rau quả

-3,4


-3,7

16,4

-6,3

214

-1,9

-0,1

Hạt có dầu

-7,9

-8,4

29,8

20,9

-789

-2,8

-4,7

Đường


-6,5

-7,4

13,9

24,1

-73

-1,9

-3,1

Cây có sợi

15,8

16,4

-51,8

7,7

-189

0,1

3,1


Thịt và vật nuôi

1,3

1,1

15,5

-8,9

837

-1,6

0,2

Sữa

-2,0

-2,4

13,5

23,8

-143

-1,5


0,2

-5,9

-6,4

11,4

62,6

-3460

-1,7

-1,8

Ngũ

cốc

chăn

nuôi

Các

loại

thực


phẩm khác
Thứ nhất, đối với sản phẩm nhập khẩu, do mức độ bảo hộ giảm sau khi gia nhập
WTO nên nhập khẩu của Trung Quốc tăng mạnh đối với các sản phẩm nông nghiệp như
hạt có dầu (20,9%), đường (24,1%); sợi thực vật (7,7%); sữa (23,8%) và một số thực phẩm
khác (62,6%). Trong khi đó, do mức độ bảo hộ hầu như được giữ nguyên nên nhập khẩu


×