Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

Nâng cao chất lượng đội ngũ công chức, viên chức của văn phòng UBND tỉnh thừa thiên huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (861.82 KB, 119 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Bước vào thời kỳ đổi mới, xây dựng nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa
(XHCN) Việt Nam, xây dựng nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, đội ngũ
công chức, viên chức nhà nước đã có những bước chuyển biến tích cực, cố gắng học
tập để tiếp thu kiến thức và nâng cao năng lực thực tiễn quản lý kinh tế, quản lý xã
hội đến nay đội ngũ công chức, viên chức đã dần thích ứng với cơ chế thị trường,

Ế

với yêu cầu tình hình mới. Tuy nhiên, vẫn còn bộ phận công chức, viên chức bảo

U

thủ trong cách nghĩ, cách làm, chưa chủ động, sáng tạo; làm việc quan liêu, hành

́H

chính hóa, không thạo việc, tác phong chậm chạp, rườm rà, thái độ thờ ơ, thiếu



trách nhiệm... trong công việc dẫn đến sự trì trệ về phương thức hoạt động ở các cơ
quan hành chính.

H

Kế thừa và phát huy truyền thống của nền hành chính nhà nước (HCNN) ta

IN


đội ngũ công chức, viên chức của Văn phòng Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh Thừa
Thiên Huế đã không ngừng học tập, nâng cao kiến thức chuyên môn nghiệp vụ để

K

tham mưu Lãnh đạo UBND tỉnh chỉ đạo, điều hành và tổ chức thực hiện các

̣C

nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh trên địa bàn tỉnh Thừa

O

Thiên Huế trong thời gian qua. Tuy nhiên, vẫn còn một số công chức, viên chức

̣I H

chưa đáp ứng yêu cầu công việc; việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức, viên
chức có lúc chưa gắn với việc sử dụng nên hiệu quả công việc chưa cao… Trước

Đ
A

yêu cầu nhiệm vụ mới phát triển của tỉnh Thừa Thiên Huế trở thành thành phố
trực thuộc Trung ương, cần nhanh chóng xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ
công chức, viên chức HCNN của tỉnh, trong đó có Văn phòng UBND tỉnh Thừa
Thiên Huế.
Từ các vấn đề nêu trên, việc đánh giá đúng thực trạng của đội ngũ công chức,
viên chức của Văn phòng UBND tỉnh Thừa Thiên Huế để tìm ra nguyên nhân, bài
học kinh nghiệm và đề ra các giải pháp cơ bản để nâng cao chất lượng đội ngũ này

là yêu cầu bức thiết hiện nay. Chính vì thế, tôi chọn đề tài “Nâng cao chất lượng
đội ngũ công chức, viên chức của Văn phòng UBND tỉnh Thừa Thiên Huế” làm
luận văn thạc sĩ.

1


2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung
Trên cơ sở đánh giá thực trạng chất lượng đội ngũ công chức, viên chức của
Văn phòng UBND tỉnh Thừa Thiên Huế, đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng
đội ngũ nhân lực này đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới, góp phần phát triển tỉnh Thừa
Thiên Huế sớm trở thành thành phố trực thuộc Trung ương.
2.2. Mục tiêu cụ thể

Ế

- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về chất lượng công chức, viên chức;

U

- Phân tích, đánh giá thực trạng chất lượng đội ngũ công chức, viên chức của

́H

Văn phòng UBND tỉnh Thừa Thiên Huế;

- Đề xuất những quan điểm, phương hướng và một số giải pháp góp phần nâng




cao chất lượng đội ngũ công chức, viên chức của Văn phòng UBND tỉnh Thừa

3. Phương pháp nghiên cứu

H

Thiên Huế.

IN

3.1. Phương pháp thu thập thông tin, tài liệu, số liệu

K

- Số liệu thứ cấp: Số liệu từ các báo cáo của UBND tỉnh, Văn phòng UBND
tỉnh; Niên giám thống kê Thừa Thiên Huế và các văn bản quy phạm pháp luật

O

̣C

(QPPL) có liên quan.

̣I H

- Số liệu sơ cấp: Số liệu điều tra, phỏng vấn trực tiếp theo bảng hỏi được thiết
kế sẵn đối với Lãnh đạo UBND tỉnh, Lãnh đạo Văn phòng UBND tỉnh; Trưởng

Đ

A

phòng, Phó trưởng phòng, trung tâm và công chức, viên chức Văn phòng UBND
tỉnh Thừa Thiên Huế; công dân và cán bộ, công chức của các sở, ban, ngành...
- Mẫu điều tra: Luận văn tiến hành điều tra, phỏng vấn 80 công chức, viên chức tại

Văn phòng UBND tỉnh Thừa Thiên Huế (trong đó: 4 Lãnh đạo UBND tỉnh, 4 Lãnh đạo
Văn phòng UBND tỉnh; 31 Trưởng phòng, Phó trưởng phòng, trung tâm; còn lại 41 công
chức, viên chức); điều tra 50 công dân và cán bộ, công chức của các sở, ban, ngành.
- Phương pháp chọn mẫu bằng cách chọn ra những mẫu mang tính đại diện
cho tổng thể các mẫu cần điều tra. Ngoài ra, còn sử dụng phương pháp chuyên gia
để tham khảo ý kiến kinh nghiệm trong lĩnh vực này, giúp cho kết quả nghiên cứu
đảm bảo tính khách quan, toàn diện và hệ thống.

2


3.2. Phương pháp tổng hợp và xử lý số liệu
- Dùng phương pháp phân tổ để hệ thống hóa và tổng hợp số liệu điều tra theo
các tiêu thức phù hợp với yêu cầu nghiên cứu.
- Xử lý và tính toán số liệu theo phần mềm SPSS và EXCEL trên máy tính.
3.3. Phương pháp phân tích số liệu
- Đánh giá độ lêch chuẩn (Std.Deviaton), độ tin cậy (Cronbach’s Alpha) và
độ giá trị (factor Analyis) bằng phân tính nhân tố khám phá KMO (Kaiser-

Ế

Meyer-Olkin).

U


- Trên cơ sở các tài liệu đã được xử lý, tổng hợp, vận dụng các phương pháp

́H

phân tích thống kê, phân tích nhân tố… để phân tích chất lượng đội ngũ công chức,

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu



viên chức qua các năm.

H

- Nội dung nghiên cứu: Các vấn đề có liên quan đến chất lượng đội ngũ công

IN

chức, viên chức của Văn phòng UBND tỉnh Thừa Thiên Huế.

K

- Đối tượng khảo sát: Đội ngũ công chức, viên chức.
4.2. Phạm vi nghiên cứu

O

̣C


- Về không gian: Văn phòng UBND tỉnh Thừa Thiên Huế có 5 phòng chuyên

̣I H

môn, 2 phòng hành chính, quản trị và 2 Trung tâm, 1 Cổng thông tin điện tử.
- Về thời gian: Đánh giá thực trạng chất lượng đội ngũ công chức, viên chức

Đ
A

của Văn phòng UBND tỉnh Thừa Thiên Huế từ năm 2010 đến năm 2013; điều tra
khảo sát đội ngũ công chức, viên chức của Văn phòng UBND tỉnh Thừa Thiên Huế
năm 2014 và đề xuất giải pháp đến năm 2020.
5. Nội dung nghiên cứu
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn có kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về chất lượng đội ngũ công chức, viên chức;
Chương 2: Thực trạng chất lượng đội ngũ công chức, viên chức của Văn
phòng UBND tỉnh Thừa Thiên Huế;
Chương 3: Giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng đội ngũ công chức, viên
chức của Văn phòng UBND tỉnh Thừa Thiên Huế.

3


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHẤT LƯỢNG
ĐỘI NGŨ CÔNG CHỨC, VIÊN CHỨC

1.1. LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ĐỘI NGŨ CÔNG CHỨC, VIÊN CHỨC

1.1.1. Khái niệm công chức, viên chức
1.1.1.1. Khái niệm về công chức

Ế

Ở nước ta hiện nay, khái niệm công chức được hình thành, gắn liền với sự

U

phát triển của nền HCNN. Văn bản có tính pháp lý đầu tiên quy định về công chức

́H

là Sắc lệnh số 76/SL ngày 20/5/1950 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa, tại Điều 1 quy định: Công chức là những công dân Việt Nam được chính quyền



nhân dân tuyển để giữ một chức vụ thường xuyên trong các cơ quan chính phủ, ở
trong hay ngoài nước, trừ trường hợp riêng biệt do Chính phủ quy định.

H

Sau đó suốt một thời gian dài, khái niệm công chức ít được sử dụng, thay vào

IN

đó là khái niệm cán bộ, công nhân viên nhà nước, không phân biệt công chức, viên

K


chức với công nhân.

Thực hiện công cuộc đổi mới, trước yêu cầu khách quan của tiến trình cải cách

O

̣C

nền HCNN và đòi hỏi chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước, thuật ngữ

̣I H

công chức được sử dụng trở lại. Tại Nghị định số 169/HĐBT ngày 25/5/1991 của
Hội đồng Bộ trưởng, tiếp đó là Nghị định số 95/1998/NĐ-CP ngày 17/11/1998 và

Đ
A

Nghị định số 117/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 của Chính phủ về tuyển dụng, sử
dụng và quản lý cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước (CQNN), khái niệm
công chức được đề cập một cách rõ ràng, cụ thể; xong vẫn chưa phân biệt công
chức hành chính với công chức sự nghiệp [4].
Đến nay, trước yêu cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội, sự phát triển của
đời sống chính trị pháp lý Luật Cán bộ, công chức được Quốc hội nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam khóa XII thông qua ngày 13/11/2008, có hiệu lực từ ngày
1/1/2010 quy định rõ: Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ
nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong


4


cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân
chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân
dân mà không là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo,
quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ
chức chính trị - xã hội, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước
(NSNN); đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp
công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo

Ế

quy định của pháp luật [26].

U

Từ quy định các đối tượng là công chức như trên, chúng ta thấy công chức

́H

theo quy định của pháp luật Việt Nam. Như vậy, công chức không chỉ bao gồm
những người làm việc trong hệ thống cơ quan HCNN, mà còn bao gồm cả những



người làm việc cho các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội như: các Ban
tham mưu của Đảng, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Nông

H


dân, Hội Cựu chiến binh, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Công đoàn Việt

IN

Nam; các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân, Công an nhân dân. Đây là một

K

trong những đặc trưng cơ bản nhất của công chức, xuất phát từ đặc thù của thể chế
chính trị và tổ chức bộ máy nhà nước, đảng, đoàn thể của nước ta.

O

̣C

Đồng thời, phạm vi đối tượng là công chức cũng đã được xác định rõ, theo đó:

̣I H

Thứ nhất, công chức làm việc trong các CQNN ở cơ sở (cấp xã, phường, thị
trấn) không thuộc phạm vi điều chỉnh của Nghị định 117/2003/NĐ-CP, mà được

Đ
A

điều chỉnh bởi Nghị định số 114/2003/NĐ-CP về cán bộ, công chức xã, phường, thị
trấn. Dù Pháp lệnh cán bộ, công chức năm 1998 (sửa đổi, bổ sung năm 2003) đã bổ
sung đối tượng này vào phạm vi điều chỉnh, hoạt động của những người này có tính
chất như công chức nhà nước và các cơ quan Hội đồng nhân dân (HĐND), UBND

xã phường, thị trấn là các CQNN ở cơ sở [4].
Thứ hai, khái niệm công chức không áp dụng cho đối tượng làm việc trong các
đơn vị sự nghiệp của Nhà nước, kể cả các đơn vị sự nghiệp thực hiện dịch vụ công
(trừ các công chức giữ chức vụ lãnh đạo). Những nhân viên làm việc trong các đơn
vị sự nghiệp y tế, giáo dục, khoa học - công nghệ, văn hóa thông tin, thể dục thể
thao, doanh nghiệp của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân, các hội nghề

5


nghiệp, mà lâu nay được gọi là công chức sự nghiệp được điều chỉnh bởi Nghị định
116/2003/NĐ-CP. Họ chính là viên chức nhà nước [3].
Thứ ba, để chuẩn bị cho hoạt động công vụ thực thụ của những người mới
được tuyển dụng vào làm việc tại các cơ quan, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, Nghị định 115/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 của Chính phủ quy định về
chế độ công chức dự bị: “Là công dân Việt Nam, trong biên chế, hưởng lương từ
NSNN, được tuyển dụng để bổ sung cho đội ngũ cán bộ, công chức trong các

Ế

CQNN, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội” [2]. Công chức dự bị được phân

U

công làm việc có thời hạn tại các cơ quan, tổ chức: Văn phòng Quốc Hội, Văn

́H

phòng Chủ tịch nước, Tòa án nhân dân các cấp, Viện Kiểm sát nhân dân các cấp,
Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, HĐND, UBND cấp tỉnh, huyện




và tương đương. Công chức dự bị chưa phải là công chức, mà phải trải qua một quá
trình tập sự, thi tuyển mới đủ điều kiện trở thành công chức.

H

1.1.1.2. Khái niệm về viên chức

IN

Từ Pháp lệnh Cán bộ, công chức năm 1998 và sửa đổi, bổ sung năm 2000,

K

năm 2003 đã phân định được đối tượng làm việc trong các đơn vị sự nghiệp nhà
nước được gọi là “viên chức”. Khái niệm “viên chức” xuất hiện từ lần sửa đổi Pháp

O

̣C

lệnh Cán bộ, công chức năm 2003. Tuy nhiên, Pháp lệnh vẫn chưa phân biệt rạch

̣I H

ròi giữa khái niệm “cán bộ”, “công chức” và “viên chức”.
Các khái niệm trên lần lượt được Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức

Đ

A

của Nhà nước bước đầu được phân biệt rõ ràng. Luật Viên chức được Quốc hội
nước Cộng hòa XHCN Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày
15/11/2010. Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2012. Điều 2 quy định:
“Viên chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng theo vị trí việc làm, làm
việc tại đơn vị sự nghiệp công lập theo chế độ hợp đồng làm việc, hưởng lương từ
quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật” [27].
Viên chức là người thực hiện các công việc hoặc nhiệm vụ có yêu cầu về năng
lực, kỹ năng chuyên môn, nghiệp vụ trong các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc các
lĩnh vực: giáo dục, đào tạo, y tế, khoa học, công nghệ, văn hóa, thể dục thể thao, du
lịch, lao động - thương binh và xã hội, thông tin - truyền thông, tài nguyên - môi

6


trường, dịch vụ... như bác sĩ, giáo viên, giảng viên đại học..., hưởng lương từ quỹ
lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật.
Vấn đề cán bộ là một trong những vấn đề quan trọng, là một yếu tố cơ bản của
quản lý nhà nước (QLNN). CQNN không thể hình thành và hoạt động nếu không có
viên chức nhà nước. Thật vậy, tất cả những hoạt động quản lý để đảm bảo trật tự xã
hội sẽ mất đi nếu thiếu "con người hành chính" này. Vì vậy, cán bộ là người quyết
định mọi vấn đề trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.

Ế

Trong đường lối chính trị của Nhà nước, Ðảng Cộng sản Việt Nam đã chú ý

U


tới vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ QLNN. Bởi vì hiệu quả của quá trình quản lý xã

́H

hội tùy thuộc vào việc đào tạo cán bộ và khả năng làm việc của cán bộ. Ðể nâng cao
hiệu quả của hoạt động quản lý HCNN thì việc đào tạo cho người cán bộ về trình độ



học thức và trang bị cho họ những phẩm chất đạo đức cách mạng là điều rất quan
trọng. Có được đào tạo tốt thì người cán bộ mới đủ năng lực và phẩm chất để phục

H

vụ nhân dân vì nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Ðặc biệt sự cần

IN

thiết có một đội ngũ cán bộ, công chức đúng tầm vóc để quản lý tốt một nền kinh tế

K

hiện nay là một thử thách và đòi hỏi bức bách đặt ra cho nhà nước ta.
Như vậy, viên chức nhà nước là người đóng vai trò to lớn trong hoạt động

O

̣C

quản lý của nhà nước. Thông qua hoạt động của mình, họ đảm bảo sự lãnh đạo các


̣I H

quá trình sản xuất, xác định hướng phát triển khoa học kỹ thuật phục vụ sản xuất,
thực hiện các biện pháp tổ chức...

Đ
A

Viên chức nhà nước là những người làm việc trong các CQNN do tuyển dụng,
bầu hoặc bổ nhiệm. Viên chức được trao những quyền hạn tương ứng với một chức
vụ nhất định hoặc thực hiện công việc theo sự ủy nhiệm của nhà nước để thực hiện
trực tiếp nhiệm vụ và chức năng nhà nước, được trả lương và các chế độ phụ cấp
khác từ NSNN.
1.1.1.3. Phân biệt giữa công chức và viên chức
Từ các khái niệm được quy định tại hai văn bản Luật Cán bộ, công chức và
Luật Viên chức trên, chúng ta có thể phân biệt khái niệm “công chức”, “viên chức”
theo các tiêu chí cơ bản sau [26] [27]:

7


Bảng 1.1: Các tiêu chí so sánh công chức và viên chức
Tiêu chí cơ bản

Công chức

Viên chức

- Vận hành quyền lực nhà nước, - Thực hiện chức năng xã

làm nhiệm vụ quản lý.
1. Tính chất

hội, trực tiếp thực hiện kỹ
năng, nghiệp vụ chuyên sâu.

- Thực hiện công vụ thường - Thực hiện các hoạt động
xuyên.

thuần túy mang tính nghiệp

U

Ế

vụ, chuyên môn.

́H

- Thi tuyển, bổ nhiệm, có quyết - Xét tuyển, ký hợp đồng làm

2. Nguồn gốc,

quyền, trong biên chế.



định của CQNN có thẩm việc.

trách nhiệm pháp lý - Trách nhiệm chính trị, trách - Trách nhiệm trước cơ quan,


H

nhiệm hành chính của công người đứng đầu tổ chức, cơ

IN

chức

quan xét tuyển, ký hợp đồng.

ngạch bậc.

ngân sách, còn lại là nguồn

̣C

thu sự nghiệp.

O

3. Chế độ lương

K

Hưởng lương từ NSNN, theo Lương hưởng một phần từ

4. Nơi làm việc

chức chính trị - xã hội, Quân đội, các tổ chức xã hội.


Đ
A

̣I H

Cơ quan Đảng, Nhà nước, tổ Đơn vị sự nghiệp nhà nước,

Công an, Tòa án, Viện kiểm sát.
- Năng lực, trình độ chuyên - Năng lực, trình độ chuyên
môn nghiệp vụ.

môn nghiệp vụ.

- Tiến độ và kết quả thực hiện - Hiệu quả công việc (số
5. Tiêu chí đánh giá nhiệm vụ.

lượng, chất lượng).

- Tinh thần trách nhiệm và phối - Thái độ phục vụ nhân dân.
hợp trong thực thi nhiệm vụ.
- Thái độ phục vụ nhân dân.

8


6. Hình thức kỷ luật

- Khiển trách


- Khiển trách

- Cảnh cáo

- Cảnh cáo

- Hạ bậc lương

- Cách chức

- Giáng chức

- Buộc thôi việc

- Cách chức
- Buộc thôi việc

Ế

1.1.2. Đặc điểm của đội ngũ công chức, viên chức

U

Công chức, viên chức là lực lượng trực tiếp thực thi các chức năng hành pháp

́H

của nhà nước, thực hiện quản lý và điều hành đất nước theo pháp luật và làm cho




đất nước phát triển trên cơ sở đảm bảo kỷ cương phép nước. Các mệnh lệnh, quyết
định quản lý trong mọi hoạt động của nền kinh tế - xã hội là do công chức, viên
chức triển khai thực hiện. Do vậy, công chức, viên chức có những đặc điểm cơ bản

H

sau đây.

IN

- Đội ngũ công chức, viên chức là chủ thể của nền công vụ, là những người

K

thực thi công vụ và được Nhà nước đảm bảo các điều kiện cần thiết, quyền lợi chính

̣C

đáng để có khả năng và yên tâm thực thi công vụ [23].

O

Đội ngũ công chức, viên chức là những người có vị trí trong hệ thống cơ quan

̣I H

HCNN, có chức năng thực thi pháp luật và thi hành công vụ nhằm phục vụ lợi ích
chung cho toàn xã hội. Những loại nhiệm vụ này do chính đội ngũ công chức, viên


Đ
A

chức các cấp thực hiện, không thể chuyển giao cho bất cứ tổ chức, cá nhân nào bên
ngoài. Đội ngũ công chức, viên chức là hạt nhân cơ bản của nền công vụ, là chủ thể
thực sự tiến hành các công vụ cụ thể và cũng chính là yếu tố đảm bảo cho nền công
vụ hoạt động, vận hành có hiệu lực, hiệu quả.
Để thực hiện công vụ, người công chức, viên chức được Nhà nước cung cấp
các điều kiện cần thiết để tiến hành thực thi công vụ như trụ sở, phương tiện, điều
kiện làm việc… Họ được đảm bảo các quyền lợi vật chất và tinh thần như: hưởng
lương từ NSNN, nhận các loại trợ cấp, phụ cấp khác bằng tiền hoặc hiện vật và
lương hưu khi đủ thời gian cống hiến, được khen thưởng…

9


- Là lực lượng lao động chuyên nghiệp, có tính chuyên môn hóa cao [23].
Các CQNN từ Trung ương đến địa phương được tổ chức và hoạt động theo
những nguyên tắc nhất định nhằm thực hiện quyền hành pháp của Nhà nước để điều
hành, quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội theo pháp luật và bằng pháp luật, vì
lợi ích của Nhà nước và của toàn xã hội, nhằm đảm bảo cho xã hội ổn định và phát
triển. Với chức năng đó, bộ máy nhà nước đòi hỏi phải có đội ngũ công chức, viên
chức mang tính chất chuyên nghiệp, là những người thực hiện công vụ thường

Ế

xuyên, liên tục, có trình độ chuyên môn và được đào tạo, bồi dưỡng về kỹ năng,

U


nghiệp vụ quản lý HCNN ở các mức độ khác nhau. Đồng thời, qua thực tiễn hoạt

́H

động, chính đội ngũ công chức, viên chức là lực lượng sáng tạo pháp luật, tham
mưu đề xuất những chủ trương, chính sách, pháp luật quản lý và phát triển xã hội,



đất nước. Do vậy, công chức, viên chức phải am hiểu và tinh thông pháp luật, thực
hiện đúng pháp luật; nắm vững chuyên môn nghiệp vụ, phải am hiểu lĩnh vực

H

chuyên môn của mình.

IN

Chính vì vậy, ngay khi tuyển dụng, cơ quan nhà nước đã yêu cầu người dự

K

tuyển phải có chuyên môn, có đủ tiêu chuẩn về độ tuổi, phẩm chất chính trị, đạo
đức… Trong điều kiện hiện nay, đội ngũ công chức, viên chức phải có trình độ

O

̣C

chuyên môn hóa cao, được đào tạo một cách chính quy và hệ thống, đồng thời phải


̣I H

luôn luôn được bồi dưỡng, cập nhật kịp thời các thông tin và tri thức mới của khoa
học công nghệ. Không thể xây dựng được nền công vụ và nền HCNN nói chung,

Đ
A

chính quy hiện đại, phục vụ đắc lực nhân dân nếu đội ngũ công chức, viên chức
chưa được quản lý và đào tạo cơ bản theo hướng chuyên nghiệp hóa, chuyên môn
hóa cao.

- Đội ngũ công chức, viên chức tương đối ổn định, mang tính kế thừa, nhưng
luôn đòi hỏi không ngừng nâng cao về chất lượng [23].
Hiện nay, xã hội không ngừng phát triển; đối tượng điều chỉnh của pháp luật ngày
càng mở rộng và phức tạp hơn; yêu cầu của khách hàng về chất lượng phục vụ ngày
càng cao nhưng các CQNN không thể tuyển dụng hàng loạt người lao động mới, vì
rằng việc tuyển dụng và giải quyết các lao động dôi dư trong các CQNN luôn liên quan
đến một loạt các vấn đề về chính sách, chế độ xã hội phức tạp.

10


Trước thực tế khách quan đó, đòi hỏi công chức, viên chức phải luôn được đào
tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ. Giải pháp hiệu quả, thích hợp trong điều kiện hiện
nay là xây dựng hệ thống chính sách tuyển dụng, đào tạo bồi dưỡng, sắp xếp, đề bạt,
thuyên chuyển, đãi ngộ phù hợp để giảm thiểu tối đa sự chênh lệch về số lượng và
chất lượng nguồn nhân lực HCNN. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực hiện có
bằng bồi dưỡng, đào tạo, đào tạo lại đội ngũ công chức, viên chức nhằm đáp ứng

yêu cầu ngày càng cao của các CQNN. Chú trọng chất lượng tuyển dụng nhân lực,

Ế

thu hút, khuyến khích nhân tài thực thi công vụ. Hạn chế đến mức thấp nhất những

U

sai lầm trong tuyển dụng công chức, viên chức.

trên phạm vi rộng và mang tính phức tạp [23].

́H

- Hoạt động của đội ngũ công chức, viên chức diễn ra thường xuyên, liên tục



Các CQNN được tổ chức thành hệ thống từ Trung ương đến cơ sở thực hiện
nhiệm vụ quản lý, điều hành toàn bộ các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội,

H

ngoại giao, quốc phòng, an ninh với các mặt hoạt động hết sức phong phú và phức

IN

tạp gồm tài chính, NSNN, kế toán, kiểm toán, thống kê, tín dụng, bảo hiểm, tài sản

K


công, khoa học, công nghệ, môi trường, kế hoạch, xây dựng, bưu chính viễn thông,
giao thông vật tải, nông nghiệp, y tế, văn hóa, giáo dục… Tất cả các hoạt động đó

O

̣C

đều liên quan hàng ngày và trực tiếp hoặc gián tiến đến cuộc sống của tất cả mọi

̣I H

người dân, đòi hỏi hệ thống các cơ quan quản lý HCNN và đội ngũ công chức, viên
chức phải đủ năng lực, thẩm quyền để giải quyết tất cả các vấn đề thuộc phạm vi

Đ
A

quản lý, điều hành một cách nhanh chóng, kịp thời, có hiệu quả.
- Đội ngũ công chức, viên chức phải am hiểu và tôn trọng luật pháp và thông

lệ quốc tế [23].
Trong điều kiện mở cửa hội nhập quốc tế hiện nay, tất yếu Nhà nước phải giải
quyết các quan hệ pháp lý mang yếu tố quốc tế, đồng thời phải ký kết và thực hiện
các công ước quốc tế, các tập quán và thông lệ quốc tế trong tất cả các lĩnh vực. Để
thực hiện tốt nhiệm vụ này, đội ngũ công chức, viên chức phải có tri thức, phải am
hiểu và tôn trọng luật pháp và thông lệ quốc tế. Muốn vậy, trước hết họ phải có kiến
thức pháp luật và trình độ ngoại ngữ nhất định, đủ để có thể giao tiếp, đọc hiểu các
văn bản pháp luật, hợp đồng mang tính quốc tế. Do vậy, Nhà nước cần phải quan


11


tâm, chú trọng đến công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức có đầy đủ
phẩm chất và năng lực, am hiểu và có khả năng thực sự giải quyết tốt các quan hệ
có yếu tố nước ngoài.
- Đội ngũ công chức, viên chức trung thành với Đảng, với Chính phủ, với Tổ
quốc và nhân dân [23].
Đây là đặc trưng cơ bản của đội ngũ công chức, viên chức Việt Nam nói
chung, xuất phát từ truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta và từ đặc điểm lịch sử, quá

Ế

trình cách mạng hình thành Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

U

Nhà nước ta ra đời từ thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945,

́H

do nhân dân giành chính quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh; Nhà nước là con đẻ của khối đại đoàn kết toàn dân. Về phương diện pháp



lý, Nhà nước là thiết chế quyền lực do nhân dân bầu ra theo nguyên tắc phổ thông
đầu phiếu. Ngoài việc lập ra Nhà nước, nhân dân thông qua các hình thức khác

H


tham gia hoạt động QLNN, xã hội, tác động đến các quá trình hoạch định đường

IN

lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; thực hiện việc giám sát đối với

K

hoạt động của các cơ quan, tổ chức nhà nước, cán bộ, công chức trong thực thi
công vụ. Nhà nước ta tồn tại là để phục vụ lợi ích nhân dân, bảo đảm các quyền tự

O

̣C

do dân chủ của công dân. Trong hoạt động, các CQNN, công chức, viên chức phải

̣I H

tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng
nghe và chịu sự giám sát của nhân dân.

Đ
A

Trong bối cảnh mở cửa hội nhập với khu vực và quốc tế, chuyển đổi cơ chế
quản lý kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần định
hướng XHCN, có nhiều quan hệ xã hội mới xuất hiện đòi hỏi công chức, viên chức
phải có những thay đổi tương ứng nhằm thích nghi, đủ khả năng giải quyết tốt mối

quan hệ giữa phát triển kinh tế và bảo đảm công bằng tiến bộ xã hội theo định
hướng XHCN.
Mặt trái của tiến trình hội nhập và nền kinh tế thị trường cũng đặt ra yêu cầu
công chức, viên chức nói chung phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, rèn luyện
phẩm chất đạo đức và lối sống lành mạnh, tận tâm, tận trí phục vụ nhân dân, phụng
sự Tổ quốc.

12


1.1.3. Vị trí, vai trò của công chức, viên chức [23]
Đối với Việt Nam, hiệu lực hiệu quả của bộ máy nhà nước nói riêng và của
toàn bộ hệ thống chính trị nói chung, xét đến cũng được quyết định bởi phẩm chất,
năng lực và hiệu quả công tác của đội ngũ công chức, viên chức. Ngày nay, trong
công cuộc cải cách hành chính, để có một nền hành chính công đạt được tiêu chí
của một xã hội văn minh, một nền hành chính thực sự phục vụ nhân dân và xã hội,
thúc đẩy phát triển kinh tế, nâng cao dân trí, thực hiện dân chủ, công bằng và nâng

Ế

cao chất lượng mọi mặt của nhóm công chức, viên chức.

U

Vai trò của đội ngũ công chức, viên chức được thể hiện qua bốn mối quan

́H

hệ. Một là, quan hệ với đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước;
Hai là, với bộ máy tổ chức lãnh đạo quản lý; Ba là, với công việc; Bốn là, với




quần chúng nhân dân.

Công cuộc đổi mới đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh

H

đạo, có sự tham gia của nhiều chủ thể xã hội, trong đó có nền công vụ nhà nước.

IN

Nền công vụ đóng vai trò chủ yếu trong việc tổ chức thực hiện các nghị quyết của

K

Đảng bằng việc thể chế hóa các nghị quyết của Đảng thành pháp luật và được thực
thi trong xã hội, qua đó giúp Đảng đánh giá, điều chỉnh các chủ trương, đường lối

O

̣C

cho phù hợp với thực tiễn. Ngoài ra, một bộ phận công chức, viên chức quan trọng

̣I H

trực tiếp tham gia đóng góp vào quá trình xây dựng các chủ trương, chính sách của
Đảng thông qua việc xây dựng các dự thảo, đề án hoặc đóng góp ý kiến…


Đ
A

Công chức, viên chức là lực lượng lao động nòng cốt có vai trò quan trọng
trong quản lý và tổ chức công việc của nhà nước. Nhiệm vụ của họ là thực thi công
vụ, thực thi pháp luật, thực thi quyền lực Nhà nước. Đồng thời, chính họ đóng vai
trò trong việc thiết lập pháp luật, tham mưu, đề xuất, xây dựng hệ thống pháp luật
hoàn chỉnh và tiến bộ của Nhà nước.
Với chức năng cơ bản là thực thi công vụ. Công chức, viên chức là những
người đem chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước giải thích cho dân chúng
hiểu rõ và chấp hành. Đồng thời, nắm tình hình triển khai thực hiện chủ trương,
đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, phản ánh lại cho Đảng và
Nhà nước để có sự điều chỉnh, sửa đổi bổ sung cho đúng và phù hợp với thực tiễn.

13


Ở đây, vị trí vai trò của người công chức, viên chức là cầu nối giữa Đảng, Chính
phủ với nhân dân.
Vì vậy, chỉ có đội ngũ công chức, viên chức có phẩm chất và năng lực tốt mới
có thể đề ra đường lối đúng đắn, mới có thể cụ thể hóa, bổ sung hoàn chỉnh đường
lối và thực hiện tốt đường lối. Không có đội ngũ công chức, viên chức vững mạnh
thì dù có đường lối chính trị đúng đắn cũng khó có thể biến thành hiện thực. Công
chức, viên chức chính là nhân tố quyết định sự thành bại của đường lối và nhiệm vụ

Ế

chính trị của Đảng và Nhà nước.


U

Công chức, viên chức là nhân tố chủ yếu, hàng đầu và là nhân tố "động" nhất

́H

của tổ chức. Công chức, viên chức là người lập ra tổ chức và điều hành bộ máy tổ
chức, song đến lượt mình công chức, viên chức lại chịu sự chi phối, ràng buộc của



tổ chức. Tổ chức buộc công chức, viên chức phải hành động theo những nguyên tắc
và khuôn khổ nhất định. Tổ chức bộ máy khoa học và hợp lý sẽ phát huy sức mạnh

H

tổng hợp của công chức, viên chức. Công chức, viên chức chỉ phát huy sức mạnh

IN

khi gắn với tổ chức và nhân dân. Tách rời khỏi tổ chức thì công chức, viên chức mất

K

sức mạnh quyền lực và hiệu lực do tổ chức đề ra.
Đội ngũ công chức, viên chức là "công bộc" của nhân dân, có vai trò quan

O

̣C


trọng trong bảo đảm kỷ cương phép nước, bảo vệ pháp luật và công lý, bảo vệ các

̣I H

quyền tự do dân chủ, quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo
đảm trật tự xã hội, chống lại các hành vi xâm hại pháp luật, tùy tiện và vô chính

Đ
A

phủ. Họ cũng là người đóng vai trò tiên phong, đi đầu trong cuộc đấu tranh với các
hiện tượng quan liêu, hành vi tham nhũng, cửa quyền và các tiêu cực khác làm cho
bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu quả.
1.1.4. Phân loại công chức, viên chức
1.1.4.1. Phân loại công chức [26]
Trong hoạt động công vụ của Nhà nước, có thể phân loại công chức theo
những cách khác nhau:
a. Theo đặc thù và tính chất công việc
Nhằm phục vụ cho việc quy hoạch công chức, đáp ứng yêu cầu của các loại công việc, tạo
ra sự cân đối trong việc sắp xếp và quản lý công chức, người ta phân công chức thành 4 loại:

14


- Công chức lãnh đạo: là những công chức giữ cương vị chỉ huy trong điều
hành công việc. Tùy theo tính chất công việc ở các vị trí khác nhau mà phân ra công
chức lãnh đạo ở các cấp độ cao thấp khác nhau. Công chức lãnh đạo là những người
được quyền ra các quyết định quản lý, tổ chức và điều hành những người dưới
quyền thực hiện công việc. Công chức lãnh đạo được giao những thẩm quyền, trách

nhiệm nhất định. Thẩm quyền và trách nhiệm đó gắn với chức vụ người lãnh đạo
đảm nhiệm, thẩm quyền càng cao thì trách nhiệm càng cao.

Ế

- Công chức chuyên gia: là những người có trình độ chuyên môn kỹ thuật, có

U

khả năng nghiên cứu, đề xuất những phương hướng, quan điểm và thực thi công

́H

việc chuyên môn. Họ là những người tư vấn cho lãnh đạo, đồng thời cũng là những
nhà nghiên cứu trong những công việc đòi hỏi phải có trình độ chuyên môn cao.



- Công chức chuyên môn, nghiệp vụ: là những người được trao thẩm quyền
nhất định trong phạm vi công tác của mình để thừa hành công việc, thi hành công

H

vụ nhân danh quyền lực Nhà nước. Trên cơ sở chuyên môn nghiệp vụ và nhiệm vụ

IN

được giao, họ tham mưu cho lãnh đạo ra các quyết định QLNN và có thể họ là

K


người trực tiếp thực hiện các quyết định hành chính đó.
- Công chức hành chính: là những người thừa hành nhiệm vụ do công chức

O

̣C

lãnh đạo giao. Họ là những người có trình độ chuyên môn nghiệp vụ ở mức thấp

̣I H

nên chủ yếu là làm công tác phục vụ trong bộ máy nhà nước.
Phân loại công chức như trên chỉ có ý nghĩa định tính, nhằm giúp cho việc xác

Đ
A

định cơ cấu công chức trong việc quy hoạch, bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng,
kỷ luật…

b. Theo trình độ đào tạo
Công chức được chia làm ba loại:
- Công chức loại A là người được bổ nhiệm vào ngạch yêu cầu đào tạo chuyên

môn giáo dục đại học và sau đại học.
- Công chức loại B là người được bổ nhiệm vào ngạch yêu cầu trình độ đào
tạo chuyên môn giáo dục chuyên nghiệp.
- Công chức loại C là người được bổ nhiệm vào ngạch yêu cầu trình độ đào
tạo chuyên môn dưới giáo dục nghề nghiệp.


15


Cách phân loại này có ý nghĩa nhất định về lý luận và thực tiễn trong việc
chuẩn hóa trình độ chuyên môn của công chức, khuyến khích họ phấn đấu học tập,
nâng cao trình độ, thăng tiến theo chức nghiệp.
c. Theo ngạch công chức
Ngạch công chức là một khái niệm chỉ trình độ, năng lực, khả năng chuyên
môn và ngành nghề của công chức. Mỗi ngạch thể hiện một cấp độ về trình độ
chuyên môn nghiệp vụ và có tiêu chuẩn riêng, bao gồm 5 loại:

- Công chức ngạch cán sự và tương đương;

́H

- Công chức ngạch chuyên viên và tương đương;

U

- Công chức ngạch chuyên viên chính và tương đương;

Ế

- Công chức ngạch chuyên viên cao cấp và tương đương trở lên;



- Công chức ngạch nhân viên và tương đương.
1.1.4.2. Phân loại viên chức [27]


IN

những tiêu chuẩn nhất định.

H

Là sự phân chia viên chức ra thành các loại, các hạng ngạch khác nhau theo

K

Có nhiều căn cứ để phân loại viên chức. Tuy nhiên, hiện nay người ta phân
loại dựa vào ba căn cứ sau:

O

̣C

- Căn cứ vào tính chất công việc;

̣I H

- Căn cứ vào đặc điểm pháp lý của công việc;
- Căn cứ vào sự phân công lao động và đặc tính lao động của viên chức.

Đ
A

Trong đó căn cứ quan trọng nhất là căn cứ vào tính chất công việc, bởi vì căn
cứ này có liên quan đến việc xác định công chức và không công chức - yếu tố chỉ

phát sinh ở chế độ có bộ máy công quyền.
a. Căn cứ vào tính chất công việc
Dựa vào căn cứ này người ta phân loại viên chức thành công chức và những
viên chức không phải là công chức.
- Những người sau đây không phải là công chức:
+ Các đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND các cấp;
+ Những người giữ các chức vụ trong hệ thống lập pháp, hành pháp, tư pháp
được Quốc hội hoặc HĐND các cấp bầu hoặc cử ra theo nhiệm kỳ;

16


+ Những người làm việc theo chế độ tạm tuyển, hợp đồng và những người
đang thời kỳ tập sự chưa được xếp vào ngạch;
+ Những hạ sĩ quan, sĩ quan tại ngũ trong quân đội nhân dân Việt Nam, bộ đội
biên phòng;
+ Những người làm việc trong các cơ quan của Ðảng và đoàn thể nhân dân;
+ Những người làm việc trong các tổ chức sản xuất, kinh doanh của nhà nước.
- Qua các quy định trên đây, ta rút ra ba yếu tố căn bản gắn liền với quan hệ

Ế

công chức:

U

+ Sự tuyển dụng và bổ nhiệm giữ một cương vị thường xuyên trong một công

́H


sở nhà nước. Ðại biểu quốc hội và HĐND làm theo nhiệm kỳ, còn công chức có thể
thực thi công việc công vụ suốt đời.



+ Ðược xếp vào ngạch của "tính nghề nghiệp" công chức, bậc hưởng lương do
nhà nước quy định.

H

+ Ðược hưởng lương do NSNN cấp.

IN

b. Căn cứ vào đặc điểm pháp lý của công việc mà viên chức đảm nhiệm

K

Theo tiêu chuẩn thì ta phân loại viên chức thành viên chức phụ trách và nhân
viên giúp việc.

O

̣C

- Viên chức phụ trách: Là những người giữ chức vụ nhất định trong bộ máy

̣I H

nhà nước. Ðể thực hiện chức vụ, nhân viên phụ trách có quyền sử dụng quyền lực

nhà nước theo quy định của pháp luật. Quyết định của viên chức phụ trách có thể

Đ
A

trực tiếp làm phát sinh, thay đổi, đình chỉ các quan hệ pháp luật cụ thể.
- Nhân viên giúp việc: Là những người phục vụ, thực hiện các hoạt động vật

chất và kỹ thuật như: đánh máy, thông tin liên lạc, lưu trữ hồ sơ, lái xe... Ðặc điểm
pháp lý của hoạt động giúp việc là không trực tiếp làm phát sinh, thay đổi hay đình
chỉ các quan hệ pháp luật cụ thể. Hoạt động của đội ngũ nhân viên giúp việc góp
phần quan trọng vào việc hoàn thành nhiệm vụ của cơ quan.
c. Căn cứ vào sự phân công lao động và đặc tính lao động của viên chức
Theo căn cứ này có ba loại viên chức: viên chức lãnh đạo, viên chức chuyên
môn và viên chức thừa hành nghiệp vụ - kỹ thuật.

17


- Viên chức lãnh đạo: Là những người giữ những công việc mà nội dung hoạt
động là quyết định và tổ chức thi hành quyết định.
- Viên chức chuyên môn: Là những người làm nhiệm vụ chuẩn bị các phương
án, quyết định, chuẩn bị thông tin, làm công tác chuyên môn giúp viên chức lãnh
đạo hoàn thành nhiệm vụ.
- Viên chức thừa hành nghiệp vụ - kỹ thuật: Là những người làm các công
việc cụ thể giúp cán bộ lãnh đạo và viên chức chuyên môn chuẩn bị ra các quyết

Ế

định và tổ chức thực hiện quyết định.


U

1.2. CHẤT LƯỢNG, TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ

́H

CÔNG CHỨC, VIÊN CHỨC

1.2.1. Chất lượng đội ngũ công chức, viên chức [28]



Chất lượng đội ngũ công chức, viên chức là chất lượng của tập hợp công chức,
viên chức trong một tổ chức, địa phương. Đó chính là chất lượng lao động và tinh

H

thần phục vụ nhân dân của đội ngũ công chức, viên chức trong thực thi công vụ.

IN

Chất lượng của đội ngũ công chức, viên chức thể hiện mối quan hệ phối hợp,

K

hợp tác giữa các yếu tố, các thành viên cấu thành nên bản chất bên trong của đội
ngũ công chức, viên chức. Chất lượng của đội ngũ công chức, viên chức phụ thuộc

O


̣C

vào chất lượng của từng công chức, viên chức trong đội ngũ đó. được thể hiện ở

̣I H

trình độ chuyên môn, sự hiểu biết về chính trị, xã hội, phẩm chất đạo đức, khả năng
thích nghi với sự chuyển đổi của đất nước và thế giới.

Đ
A

Chất lượng công chức, viên chức được phản ánh thông qua các tiêu chuẩn
trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ ngoại ngữ, tin học, các kỹ năng, kinh
nghiệm trong quản lý, thái độ chính trị, đạo đức… của người công chức, viên chức
trong thực thi công vụ.
Chất lượng của đội ngũ công chức, viên chức được nâng cao sẽ tạo điều kiện
thuận lợi để hoàn thành chức năng, nhiệm vụ của bộ máy nhà nước, nâng cao hiệu
lực QLNN và áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong công tác QLNN.
1.2.2. Tiêu chí đánh giá chất lượng đội ngũ công chức, viên chức
Chất lượng công chức, viên chức được thể hiện qua các mặt như: bản lĩnh
chính trị, phẩm chất đạo đức, tác phong làm việc, lối sống, trình độ nhận thức, kiến

18


thức chuyên môn được đào tạo, năng lực công tác trong thực tiễn, tuổi tác, tình
trạng sức khoẻ,... Dựa vào các yếu tố này, người ta đã đưa ra được một số chỉ tiêu
đánh giá chất lượng công chức, viên chức nhà nước. Xét một cách chung nhất các

tiêu chí đánh giá chất lượng công chức, viên chức là những quy định, những yêu
cầu cụ thể đối với những công chức, viên chức trong hệ thống HCNN.
1.2.2.1. Các tiêu chí đánh giá chất lượng của đội ngũ công chức, viên chức
hàng năm theo Luật Cán bộ, công chức; Luật Viên chức

Ế

a. Đối với công chức [26].

U

*Công chức được đánh giá theo các nội dung:

́H

- Chấp hành đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước;
- Phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, tác phong và lề lối làm việc;



- Năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ;
- Tiến độ và kết quả thực hiện nhiệm vụ;

IN

- Thái độ phục vụ nhân dân.

H

- Tinh thần trách nhiệm và phối hợp trong thực thi nhiệm vụ;


K

*Công chức lãnh đạo, quản lý được đánh giá theo các nội dung:
- Kết quả hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị được giao lãnh đạo, quản lý;

O

̣C

- Năng lực lãnh đạo, điều hành, tổ chức, quản lý, tinh thần trách nhiệm;

̣I H

- Năng lực tập hợp, đoàn kết công chức.
* Phân loại đánh giá công chức:

Đ
A

- Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ;
- Hoàn thành tốt nhiệm vụ;
- Hoàn thành nhiệm vụ nhưng còn hạn chế về năng lực;
- Không hoàn thành nhiệm vụ.
b. Đối với viên chức [27].
Mục đích của đánh giá viên chức để làm căn cứ tiếp tục bố trí, sử dụng, bổ
nhiệm, miễn nhiệm, đào tạo, bồi dưỡng, khen thưởng, kỷ luật và thực hiện chế độ,
chính sách đối với viên chức.
* Việc đánh giá viên chức được xem xét theo các nội dung:
- Kết quả thực hiện công việc hoặc nhiệm vụ theo hợp đồng làm việc đã ký kết;


19


- Việc thực hiện quy định về đạo đức nghề nghiệp;
- Tinh thần trách nhiệm, thái độ phục vụ nhân dân, tinh thần hợp tác với đồng
nghiệp và việc thực hiện quy tắc ứng xử của viên chức;
- Việc thực hiện các nghĩa vụ khác của viên chức.
* Việc đánh giá viên chức quản lý được xem xét theo các nội dung:
- Năng lực lãnh đạo, quản lý, điều hành và tổ chức thực hiện nhiệm vụ;
- Kết quả hoạt động của đơn vị được giao quản lý, phụ trách.

Ế

* Phân loại đánh giá viên chức:

U

- Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ;

́H

- Hoàn thành tốt nhiệm vụ;
- Hoàn thành nhiệm vụ;



- Không hoàn thành nhiệm vụ.

1.2.2.2. Nhóm tiêu chí đánh giá năng lực trình độ công chức, viên chức [28]


H

Nhóm tiêu chí đánh giá năng lực trình độ của công chức, viên chức là nhóm chỉ

IN

tiêu đánh giá chất lượng của công chức, viên chức bao gồm các chỉ tiêu như trình độ

K

văn hóa, trình độ chuyên môn nghiệp vụ được đào tạo, kỹ năng nghề nghiệp, thâm
niên, kinh nghiệm công tác và sức khoẻ của công chức, viên chức.

O

̣C

- Tiêu chí về trình độ văn hóa: Trình độ văn hóa là mức độ trí thức của công

̣I H

chức, viên chức đạt được thông qua giáo dục. Hiện nay, trình độ văn hóa của công
chức, viên chức Việt Nam được phân thành 3 nhóm với các mức độ khác nhau từ thấp

Đ
A

đến cao: tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông. Theo trình độ phổ cập giáo dục
ở Việt Nam hiện nay và theo yêu cầu nâng cao chất lượng công chức, viên chức vì vậy,

100% công chức, viên chức phải có trình độ học vấn trung học phổ thông.
- Tiêu chí về trình độ chuyên môn: Trình độ chuyên môn nghiệp vụ của công
chức, viên chức là trình độ chuyên môn được đào tạo qua các trường lớp với văn
bằng chuyên môn phù hợp yêu cầu của công việc. Trình độ chuyên môn đào tạo
ứng với hệ thống văn bằng hiện nay chia thành các trình độ như: sơ cấp, trung cấp,
đại học và trên đại học. Tuy nhiên, khi xem xét về trình độ chuyên môn của công
chức, viên chức cần phải lưu ý về sự phù hợp giữa chuyên môn đào tạo với yêu cầu
thực tế của công việc và kết quả làm việc của họ.

20


- Tiêu chí về kỹ năng nghề nghiệp: Đây là một trong những tiêu chí quan
trọng đánh giá chất lượng của công chức, viên chức nó phản ánh tính chuyên
nghiệp của công chức, viên chức khi thực thi nhiệm vụ. Công chức, viên chức cần
có những kỹ năng quản lý tương xứng để thực hiện vai trò, nhiệm vụ của công
chức, viên chức.
- Tiêu chí về kinh nghiệm công tác: Kinh nghiệm công tác là tiêu chí đánh giá
chất lượng công chức, viên chức. Kinh nghiệm là những vốn sống thực tế mà công

Ế

chức, viên chức tích lũy được trong thực tiễn công tác. Chính kinh nghiệm này cũng

U

góp phần cho việc hình thành năng lực thực tiễn của công chức, viên chức và tăng

́H


hiệu quả công vụ mà công chức, viên chức đảm nhiệm. Kinh nghiệm phụ thuộc vào
thời gian công tác của công chức, viên chức nói chung và thời gian công tác ở một



lĩnh vực cụ thể nào đó của công chức, viên chức. Vì vậy, kinh nghiệm công tác
được xem xét đánh giá qua thâm niên công tác của họ. Tuy nhiên, giữa kinh nghiệm

H

và thâm niên công tác không phải hoàn toàn theo quan hệ tỷ lệ thuận. Thời gian

IN

công tác chỉ là điều kiện cần cho tích lũy kinh nghiệm. Điều kiện đủ để hình thành

K

kinh nghiệm trong công tác của công chức, viên chức phụ thuộc vào chính khả năng

O

chức, viên chức.

̣C

nhận thức, phân tích, tổng hợp, tích lũy và ghi nhớ của bản thân từng người công

̣I H


- Tiêu chí về sức khỏe: Sức khỏe của công chức, viên chức được xem xét là
tiêu chí đánh giá chất lượng của công chức, viên chức. Sức khỏe là trạng thái thoải

Đ
A

mái về thể chất, tinh thần chứ không đơn thuần là không có bệnh tật. Sức khoẻ là
tổng hòa nhiều yếu tố tạo nên giữa bên trong và bên ngoài, giữa thể chất và tinh
thần. Có nhiều chỉ tiêu biểu hiện trạng thái sức khoẻ của người lao động. Bộ Y tế
Việt Nam quy định 3 trạng thái sức khoẻ là: Loại A: thể lực tốt, không có bệnh tật;
Loại B: trung bình; Loại C: yếu, không có khả năng lao động.
Tiêu chí sức khoẻ đối với công chức, viên chức không những là một tiêu
chuẩn chung, phổ thông cần thiết cho mọi nhóm công chức, viên chức , mà tùy theo
những hoạt động đặc thù của từng loại công chức, viên chức. Yêu cầu về sức khỏe
không chỉ là một quy định bắt buộc khi tuyển chọn công chức, viên chức mà còn là
yêu cầu được duy trì trong suốt quá trình thực hiện trong cuộc đời công vụ của

21


người công chức, viên chức. Công chức, viên chức đảm bảo về mặt sức khỏe mới
có thể duy trì công việc được liên tục.
1.2.2.3. Nhóm tiêu chí đánh giá mức độ đảm nhận công việc của đội ngũ
công chức, viên chức [28]
Đây là nhóm tiêu chí đánh giá năng lực thực thi nhiệm vụ thực tế của công
chức, viên chức. Phản ánh mức độ hoàn thành nhiệm vụ của công chức, viên chức
và mức độ đảm nhận chức trách nhiệm vụ của công chức, viên chức. Để đánh giá

Ế


công chức, viên chức theo tiêu chí này cần dựa vào đánh giá thực hiện công việc

U

của công chức, viên chức.

́H

Đánh giá thực hiện công việc là phương pháp, nội dung của quản trị nguồn
nhân lực trong các tổ chức bao gồm cả tổ chức HCNN. Đánh giá thực hiện công



việc thực chất là xem xét so sánh giữa thực hiện nhiệm vụ cụ thể của công chức,
viên chức với những tiêu chuẩn đã được xác định trong Bảng mô tả công việc... Kết

H

quả đánh giá thực hiện công việc cho phép phân tích và đánh giá về chất lượng

IN

công chức, viên chức trên thực tế. Nếu như công chức, viên chức liên tục không

K

hoàn thành nhiệm vụ mà không phải lỗi của tổ chức, yếu tố khách quan thì có nghĩa
là công chức, viên chức đó không đáp ứng được yêu cầu của công việc. Trong

O


̣C

trường hợp này có thể kết luận chất lượng công chức, viên chức thấp, không đáp

̣I H

ứng được yêu cầu nhiệm vụ được giao ngay cả khi công chức, viên chức có trình độ
chuyên môn đào tạo cao hơn yêu cầu của công việc.

Đ
A

Để đánh giá được chính xác về thực hiện công việc của công chức, viên chức
đòi hỏi trong các cơ quan HCNN phải tiến hành phân tích công việc một cách khoa
học, xây dựng được Bảng mô tả công việc, Bảng tiêu chuẩn chức danh nghiệp vụ
thực thi công việc và Bảng tiêu chuẩn hoàn thành công việc. Khi phân tích đánh giá
về chất lượng công chức, viên chức trên cơ sở tiêu chí này cần phải phân tích làm
rõ các nguyên nhân của việc công chức, viên chức không hoàn thành nhiệm vụ, bao
gồm cả nguyên nhân khách quan và chủ quan.
1.2.2.4. Nhóm tiêu chí đánh giá về khả năng nhận thức và mức độ sẵn sàng
đáp ứng sự thay đổi công việc của công chức, viên chức [28]
Đây là nhóm tiêu chí đánh giá chất lượng công chức, viên chức trên cơ sở đáp

22


ứng về sự thay đổi của công việc trong tương lai. Hầu hết việc phân tích đánh giá
về chất lượng công chức, công chức đều đánh giá chất lượng công chức, viên chức
dựa trên cơ sở trạng thái tĩnh của họ. Trên thực tế công việc ngay cả bản thân công

chức, viên chức cũng luôn thay đổi. Nhiệm vụ, nội dung và yêu cầu của công việc
luôn thay đổi do các nhân tố khách quan (như do áp dụng tiến bộ khoa học trong
quản lý, do yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, do yêu cầu và những đòi
hỏi của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa (CNH), hiện đại hóa (HĐH) đất nước...).

Ế

Nếu như công chức, viên chức không nhận thức được sự thay đổi về công việc của

U

mình theo yêu cầu của sự phát triển, thì sẽ không có sự đầu tư cập nhật kiến thức,

́H

nâng cao kỹ năng, thay đổi thái độ và hành vi của mình thì không thể đảm nhận
được công việc trong tương lai.



Có hai tiêu chí quan trọng được xem xét khi đánh giá chất lượng của công chức,
viên chức trong nhóm này là nhận thức về sự thay đổi công việc trong tương lai và

H

những hành vi sẵn sàng đáp ứng sự thay đổi đó. Khi nhận thức được sự thay đổi của

IN

công việc trong tương lai, công chức, viên chức có thể tự chuẩn bị cho mình những hành


K

trang cần thiết để đi trước đón đầu sự thay đổi của công việc, nhưng cũng có những công
chức, viên chức chấp nhận bị đào thải trong tương lai do sự thay đổi công việc tạo ra.

O

̣C

Để đánh giá được công chức, viên chức theo tiêu chí này, đòi hỏi người

̣I H

nghiên cứu phải thực hiện điều tra, thu thập thông tin qua bảng hỏi hay trực tiếp
phỏng vấn công chức, viên chức để thấy được nhận thức của công chức, viên chức

Đ
A

về sự thay đổi cũng như sẵn sàng chuẩn bị “hành trang” cho sự thay đổi. Sự chuẩn
bị sẵn sàng của công chức, viên chức cho sự thay đổi cũng có thể được xem xét
đánh giá qua đào tạo của từng công chức, viên chức cũng như của tổ chức.
1.2.2.5. Nhóm tiêu chí khác phản ánh chất lượng của đội ngũ công chức,

viên chức [28]
Bên cạnh các tiêu chí đánh giá chất lượng đội ngũ công chức, viên chức còn
có thể sử dụng một số tiêu chí khác phản ánh chất lượng của đội ngũ công chức,
viên chức như: cơ cấu theo tuổi, giới tính, trình độ chính trị; trình độ văn hóa chung
của đội ngũ công chức, viên chức; sự phối hợp giữa các nhóm công chức, viên chức

trong thực thi nhiệm vụ; làm việc theo nhóm; tuân thủ kỷ luật, văn hóa làm việc tại

23


nơi công sở và sự hài lòng của nhân dân đối với đội ngũ công chức, viên chức... Khi
nghiên cứu phân tích đánh giá chất lượng của đội ngũ công chức, viên chức chúng
ta cần phải quan tâm tới các tiêu chí này.
1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng chất lượng đội ngũ công chức, viên chức
1.2.3.1. Nhân tố khách quan
Các nhân tố khách quan ảnh hưởng đến chất lượng đội ngũ công chức, viên
chức bao gồm các nhân tố như: hoàn cảnh và lịch sử ra đời của công chức, viên

Ế

chức tình hình kinh tế - chính trị và xã hội của đất nước trong từng giai đoạn lịch

U

sử, trình độ văn hoá, sức khoẻ chung của dân cư, sự phát triển của nền giáo dục

́H

nước nhà, sự phát triển sự nghiệp y tế trong việc chăm lo sức khoẻ cộng đồng, chất
lượng của thị trường cung ứng lao động, sự phát triển của công nghệ thông tin,



đường lối phát triển kinh tế, chính trị và quan điểm sử dụng đội ngũ công chức, viên
chức của Đảng, Nhà nước…


H

Sự nghiệp CNH, HĐH đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế cũng là một nhân

IN

tố khách quan ảnh hưởng tới chất lượng đội ngũ công chức, viên chức. Bởi đây là

K

sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, của cả hệ thống chính trị nhà nước, trong đó có
vai trò của đội ngũ công chức, viên chức. Chính đội ngũ này là những người tham

O

̣C

mưu, thực hiện các chính sách của Nhà nước và chỉ đạo thực hiện từng mục tiêu của

̣I H

đường lối, chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Vai trò quan trọng của đội ngũ công
chức, viên chức đối với sự nghiệp xây dựng đất nước và hội nhập quốc tế đã đặt ra
việc nâng cao chất lượng đội ngũ công chức, viên chức.

Đ
A

1.2.3.2. Nhân tố chủ quan [13]

a. Công tác tuyển dụng công chức, viên chức
Tuyển dụng công chức, viên chức đúng người, đúng việc là một trong những

yêu cầu, thách thức lớn đối với những cơ quan HCNN hiện nay. Tuyển dụng là khâu
quan trọng quyết định tới chất lượng của đội ngũ công chức, viên chức nếu công tác
tuyển dụng được thực hiện tốt sẽ tuyển được những người thật sự có năng lực, phẩm
chất tốt bổ sung cho lực lượng công chức, viên chức nếu không thì ngược lại.
Từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, đội ngũ công chức, viên chức
được chú ý tuyển dụng thông qua thi tuyển, bổ nhiệm, bầu và phê chuẩn. Tuy

24


nhiên, dù tuyển dụng công chức, viên chức bằng bất kỳ hình thức nào thì việc tuyển
dụng công chức cũng phải đảm bảo các nguyên tắc sau:
Một là, tuyển dụng công chức, viên chức phải lấy yêu cầu của công việc để
chọn người. Tiêu chuẩn quan trọng nhất khi tuyển dụng công chức, viên chức đó là
phải đáp ứng được yêu cầu của công việc. Tuyển dụng phải đảm bảo được tính vô
tư, khách quan và chính xác, lựa chọn được những người đủ tiêu chuẩn, năng lực và
phẩm chất vào những vị trí nhất định của bộ máy HCNN. Để thực hiện được điều

Ế

này, tuyển dụng lao động cho bộ máy nhà nước phải được thực hiện trên các cơ sở

U

khoa học như: xác định nhu cầu về nhân lực, phân tích công việc, các tiêu chuẩn

́H


chức danh để tiến hành tuyển dụng...

Hai là, tuyển dụng công chức, viên chức phải tuân thủ những quy định của



Nhà nước, phù hợp với định hướng lãnh đạo của Đảng trong từng thời kỳ. Bởi vì
công tác cán bộ là khâu then chốt trong xây dựng Đảng; Đảng lãnh đạo công tác

H

cán bộ, cho nên việc tuyển dụng công chức, viên chức phải được xây dựng và thực

IN

hiện trên cơ sở quy định quản lý chung của Nhà nước nhưng phải quán triệt được

K

chủ trương và tinh thần lãnh đạo của Đảng về cán bộ, công chức, viên chức trong
từng thời kỳ.

O

̣C

Ba là, tuyển dụng công chức, viên chức cho các cơ quan HCNN phải đảm bảo

̣I H


tính thống nhất của toàn bộ hệ thống về phương pháp, cách thức tiến hành tuyển
dụng công chức, viên chức. Đây là đặc thù riêng có của tuyển chọn nhân lực trong

Đ
A

các cơ quan HCNN. Để thực hiện được nguyên tắc này đòi hỏi phải có cơ quan tập
trung thống nhất quản lý về công tác tuyển dụng công chức, viên chức.
b. Công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức
Nhà tương lai học người Anh Alvin Toffer đã viết: “Con người nào không
được đào tạo, con người đó sẽ bị xã hội loại bỏ. Dân tộc nào không được đào tạo,
dân tộc đó sẽ bị đào thải”. Từ năm 1956, Hồ Chủ tịch đã từng nói: “Một dân tộc dốt
là một dân tộc yếu” và “Không có giáo dục, không có cán bộ thì không nói gì đến
nền kinh tế, văn hóa” [23]. Năm 1996, Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã
chỉ rõ: “Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng
đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” [11].

25


×