LUẬN VĂN:
Nâng cao chất lượng đội ngũ công chức quản
lý nhà nước đáp ứng yêu cầu công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước
mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công chức quản lý nhà nước (hay còn gọi là công chức hành chính nhà nước) là một
bộ phận công chức nhà nước và là nguồn nhân lực quan trọng của bộ máy hành chính nhà
nước từ trung ương đến địa phương. Nguồn nhân lực này quyết định việc hoàn thành
chức năng, nhiệm vụ của bộ máy hành chính. Hiệu lực của hệ thống chính trị nói chung
và của bộ máy hành chính Nhà nước nói riêng, xét cho cùng được quyết định bởi phẩm
chất, năng lực và hiệu quả của đội ngũ cán bộ, công chức. Sự thành công hay thất bại của
một quốc gia, một ngành, một lĩnh vực, một địa phương hay một vùng lãnh thổ có một
phần quan trọng phụ thuộc vào đội ngũ cán bộ, công chức trong bộ máy quản lý nhà
nước. Do vậy việc nghiên cứu đánh giá khoa học về đội ngũ công chức quản lý nhà nước
và chất lượng đội ngũ công chức quản lý nhà nước có ý nghĩa hết sức quan trọng, là cơ sở
góp phần giúp cho Đảng và Nhà nước có chiến lược trong việc xây dựng và phát triển đội
ngũ công chức đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát triển của đất nước.
Đội ngũ công chức quản lý nhà nước Việt Nam đã được hình thành và phát triển
cùng với công cuộc giải phóng đất nước, bảo vệ tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trước yêu cầu của thực tiễn cách mạng đó, công chức quản lý nhà nước Việt Nam đã có
bước phát triển nhanh chóng cả về số lượng và chất lượng, góp phần quan trọng vào thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ của đất nước trong từng thời kỳ. Tuy nhiên, trong quá trình phát
triển trước những đòi hỏi của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra nhanh
chóng, của thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp CNH-HĐH đất nước; đội ngũ công chức quản lý
nhà nước Việt Nam đã và đang bộc lộ nhiều hạn chế, chất lượng của đội ngũ công chức
quản lý nhà nước chưa đáp ứng được yêu cầu của công việc, chưa tạo ra tính chuyên
nghiệp trong thực thi công vụ của một nền hành chính hiện đại.
Thấy rõ tầm quan trọng của việc xây dựng và nâng cao chất lượng của đội ngũ công
chức Việt Nam trước yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước,
nhằm thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”,
vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội; Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) đã xây dựng
chiến lược quan trọng phát triển đội ngũ cán bộ, công chức. Mục tiêu và nhiệm vụ xây
dựng đội ngũ công chức Nhà nước đã được Ban Chấp hành Trung Đảng xác định trong
Nghị quyết Đại hội VIII (6/1996), trong Chiến lược cán bộ tại Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương lần thứ 3 (Khoá VIII ngày 18/6/1997) và trong Văn kiện Nghị quyết Đại hội
IX (4/2001).
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Công chức, chất lượng công chức là vấn đề được sự quan tâm của nhiều nhà
nghiên cứu, là đề tài được hội thảo tại nhiều hội nghị trong nước và quốc tế.
Tác giả Tô Tử Hạ có nhiều công trình nghiên cứu về công chức nhà nước, nhiều tác
phẩm được sử dụng như là giáo trình giảng dạy về công chức hành chính nhà nước cho
đội ngũ công chức hiện nay. Trong các tác phẩm của mình, tác giả Tô Tử Hạ đã tập trung
phân tích, lý giải làm rõ khái niệm cán bộ, công chức nhà nước; vai trò của cán bộ, công
chức trong xây dựng nền hành chính quốc gia, định hướng trong xây dựng đội ngũ công
chức Nhà nước Việt Nam.
Ban chỉ đạo cải cách hành chính của Chính phủ đã có Báo cáo tổng hợp đề tài
“Năng lực, hiệu quả, hiệu lực quản lý hành chính Nhà nước: thực trạng, nguyên nhân và
giải pháp”. Đề tài này tập trung vào nghiên cứu về hiệu lực quản lý hành chính nhà nước,
trong đó đã đặt công chức hành chính nhà nước trong mối quan hệ với việc nâng cao hiệu
quả và hiệu lực quản lý hành chính nhà nước. Đề tài đã phân tích đánh giá về đội ngũ
công chức hành chính nhà nước xác định những ưu điểm và những yếu kém của công
chức hành chính nhà nước và đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công
chức hành chính nhà nước.
Tháng 11-2003, Bộ Nội vụ đã có báo cáo về “Chương trình tổng thể cải cách hành
chính Nhà nước giai đoạn 2001-2010 và các văn bản triển khai”, trong đó đã trình bày
những phương hướng và biện pháp cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010 và
chương trình, kế hoạch đào tạo, phát triển công chức hành chính Việt Nam trong giai
đoạn 2001-2010. Trong Chương trình này vấn đề chất lượng công chức hành chính nhà
nước và nâng cao chất lượng công chức nhà nước được đặc biệt nhấn mạnh.
Nhà xuất bản chính trị Quốc gia đã xuất bản cuốn sách “Luận cứ khoa học cho việc
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước”
(3-2001). Tác phẩm này đã phân tích, xây dựng luận cứ khoa học và nội dung của CNH-
HĐH đất nước, yêu cầu của CNH-HĐH với việc nâng cao chất lượng cán bộ, công chức
nói chung.
Trong năm 2004, được sự hỗ trợ của Tổ chức Hợp tác Phát triển Quốc tế Thuỵ Điển
(Sida), Bộ Nội vụ đã tiến hành cuộc hội thảo về “quản lý nguồn nhân lực công” nhằm tìm
ra được những vấn đề và xác lập mục tiêu để xây dựng dự án hỗ trợ của tổ chức Sida cho
Bộ Nội vụ giai đoạn mới trong khuôn khổ chương trình hỗ trợ cải cách hành chính của tổ
chức Sida Thuỵ Điển cho Việt Nam. Trong cuộc hội thảo này, các nhà khoa học và quản
lý đã đi đến nhất trí rằng công tác quản trị nguồn nhân lực trong các cơ quan hành chính
còn yếu kém và trong đó điểm mấu chốt là chưa tiến hành được nội dung phân tích công
việc trong các cơ quan hành chính nhà nước. Do chưa thực hiện tốt công tác phân tích
công việc nên các chính sách của quản trị nguồn nhân lực công chưa phát huy được hiệu
quả (như chính sách tuyển dụng, đào tạo và phát triển nhân lực, thù lao lao động…) và
làm cho hiệu lực của quản lý nguồn nhân lực chưa cao.
Với sự hỗ trợ của Cộng đồng Châu Âu trong khuôn khổ dự án Asian-link (mã số
ASI/B7-301/98/679-042), Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội đã phối hợp với Đại
học Tổng hợp tự trị Mardrid (Tây Ban Nha) và Đại học Insubria (Italia) tiến hành điều
tra, đánh giá chất lượng công chức quản lý nhà nước cấp tỉnh ở Việt Nam, để xác lập
chương trình đào tạo về kinh tế và quản lý công cho đội ngũ công chức cấp tỉnh. Kết quả
điều tra đánh giá đã được công bố tháng 7-2004 trong đó nêu rõ những yếu kém, thiếu hụt
về kiến thức và kỹ năng của đội ngũ công chức hành chính cấp tỉnh trong lĩnh vực quản lý
công và quản lý kinh tế. Báo cáo cho rằng một trong những thiếu hụt lớn nhất hiện nay
của công chức hành chính Việt Nam ở cấp tỉnh là sự thiếu hụt kiến thức và kỹ năng quản
lý trong nền kinh tế thị trường, sự thiếu hiểu biết về các kiến thức quản lý công. Điều này
không được giải quyết sẽ dẫn tới khó khăn cho việc phát triển vùng và lãnh thổ ở các tỉnh.
Báo cáo cũng đề xuất cần thiết phải xây dựng chương trình đào tạo về kinh tế và quản lý
công cho các công chức quản lý nhà nước cấp tỉnh.
Trong các hội thảo ở trong nước và quốc tế tại Việt Nam, các tạp chí chuyên ngành
có nhiều bài viết trao đổi về cán bộ, công chức, đã có những đánh giá về chất lượng và số
lượng công chức nói chung và công chức quản lý nhà nước nói riêng, đưa ra nhiều giải
pháp nâng cao chất lượng công chức trong đó chủ yếu bàn luận tới các biện pháp về tuyển
dụng và đào tạo công chức, về chế độ chính sách tiền lương đối với công chức. Cũng có
nhiều bài viết trao đổi về Pháp lệnh công chức, bàn luận về những điều chưa hợp lý trong
Pháp lệnh cán bộ công chức (1998 và sửa đổi bổ sung năm 2000, năm 2003) và kiến nghị
xây dựng Luật về công chức ở Việt Nam.
Từ các nghiên cứu trên cho thấy:
Thứ nhất, các công trình nghiên cứu về công chức nhà nước và chất lượng công
chức nhà nước thường nghiêng về tiếp cận theo hướng từ nền hành chính nhà nước, dựa
trên quan điểm của Quản lý hành chính nhà nước hoặc theo cách tiếp cận của Luật hành
chính; ít hoặc không thấy công trình tiếp cận theo hướng khoa học về quản trị nguồn nhân
lực. Do đó, trong Luận án này tác giả nghiên cứu đánh giá về chất lượng công chức quản
lý nhà nước và đưa ra các giải pháp trên cơ sở của khoa học về quản trị nguồn nhân lực.
Thứ hai, các công trình nghiên cứu chủ yếu bàn luận về khái niệm cán bộ, công
chức, công chức hành chính, viên chức… và thường tập trung phân tích đánh giá về công
chức nhà nước nói chung ít đi sâu vào một nhóm công chức cụ thể. Vì vậy, trong đề tài
này tác giả Luận án đi sâu nghiên cứu đánh giá về chất lượng công chức lãnh đạo - một
bộ phận nguồn nhân lực quan trọng trong đội ngũ công chức quản lý nhà nước.
Thứ ba, các công trình nghiên cứu thường đánh giá chất lượng công chức dựa trên
yêu cầu của công vụ trong bộ máy hành chính nhà nước, các giải pháp thường quan tâm
tới nâng cao chất lượng công chức để đảm bảo nâng cao năng lực, hiệu quả, hiệu lực của
nền hành chính quốc gia; còn ít đề tài nghiên cứu tới những thay đổi của các yếu tố bên
ngoài ảnh hưởng tới chất lượng công chức cũng như bộ máy quản lý. Trong đề tài này,
tác giả Luận án nghiên cứu đánh giá chất lượng công chức trong trạng thái động dưới sự
tác động của các yếu tố bên ngoài, đặc biệt là những yêu cầu của quá trình CNH-HĐH đất
nước.
Chính vì vậy, tác giả đã lựa chọn đề tài “Nâng cao chất lượng đội ngũ công chức
quản lý nhà nước đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” làm đề tài
nghiên cứu của Luận án tiến sỹ của mình. Luận án tập trung đi sâu vào nghiên cứu đánh
giá, đề xuất những giải pháp nhằm góp phần nâng chất lượng công chức quản lý nhà nước
phù hợp với tình hình thực tiễn của Việt Nam hiện nay. Luận án này là kết quả nghiên
cứu của tác giả trên cơ sở vận dụng những kiến thức khoa học được học trong Nhà trường
kết hợp với kinh nghiệm thực tiễn công tác của tác giả trong những năm vừa qua.
3. Mục đích nghiên cứu
Luận án tập trung đưa ra các quan điểm, biện pháp nhằm nâng cao chất lượng công
chức quản lý nhà nước Việt Nam đáp ứng yêu cầu của CNH-HĐH đất nước.
- Về lý luận: Hệ thống hoá lý luận cơ bản về công chức, chất lượng của đội ngũ
công chức nói chung và chất lượng công chức quản lý nhà nói riêng trong thời kỳ đẩy
mạnh CNH-HĐH đất nước.
- Về thực tiễn: Đánh giá thực trạng chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức Việt Nam
hiện nay; đặc biệt đi sâu vào đội ngũ cán bộ công chức quản lý nhà nước. Phân tích tìm ra
nguyên nhân dẫn tới những hạn chế về chất lượng của đội ngũ công chức từ đó đề xuất
những quan điểm, phương hướng và một số giải pháp góp phần nâng cao chất lượng đội
ngũ công chức, mà trọng tâm là đội ngũ công chức quản lý nhà nước để đáp ứng những
đòi hỏi của thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước. Nội dung nghiên cứu cụ thể của luận
án là:
- Những yêu cầu chủ yếu của sự nghiệp CNH-HĐH đối với nâng cao chất lượng
công chức quản lý nhà nước Việt Nam;
- Thực trạng chất lượng đội ngũ công chức quản lý nhà nước Việt Nam;
- Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng đội ngũ công chức quản lý nhà nước Việt
Nam;
- Những quan điểm, phương hướng và giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng
công chức quản lý nhà nước Việt Nam đáp ứng yêu cầu CNH-HĐH đất nước.
4. Đối tượng và phạm vi nhiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận án này là chất lượng công chức quản lý nhà
nước Việt Nam (hay còn gọi là công chức hành chính nhà nước Việt Nam).
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu, đánh giá chất lượng công chức quản lý nhà nước đảm
nhận vai trò lãnh đạo trong bộ máy quản lý nhà nước từ trung ương đến cơ sở.
Về phạm vi thời gian, đề tài phân tích đánh giá thực trạng đội ngũ công chức quản lý
nhà nước trong thời kỳ đổi mới (từ năm 1986 đến nay).
5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn số liệu
5.1. Phương pháp nghiên cứu
- Dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về
công tác cán bộ; quá trình nghiên cứu sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử; phương pháp thống kê, nghiên cứu so sánh, phân tích, quy nạp, diễn dịch và
phương pháp thực chứng để phân tích làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu.
- Sử dụng điều tra qua bảng hỏi (Questionaires) và phỏng vấn (Interview) để thu
thập số liệu và phân tích. Để bổ sung thông tin, giúp cho nghiên cứu sâu về chất lượng
của công chức quản lý nhà nước, tác giả luận án đã tiến hành điều tra đánh giá bằng bảng
hỏi và tiến hành phỏng vấn một số cán bộ công chức ở các cơ quan trung ương và địa
phương (danh sách những người được phỏng vấn ở Phụ lục 1 của luận án).
Đối tượng điều tra qua bảng hỏi là các công chức nhà nước đang làm việc tại
cấp tỉnh, bao gồm những người có chức danh từ phó phòng (hoặc tương đương) trở
lên của các sở, ngành trực thuộc uỷ ban nhân dân 3 tỉnh Thái Nguyên, Quảng Trị và
Đồng Nai đại diện cho ba miền Bắc, Trung và Nam của Việt Nam. Tổng số phiếu
phát ra là 150 phiếu (mỗi tỉnh 50 phiếu), số phiếu thu về là 130, số phiếu hợp lệ là
124, trong đó 40 phiếu thuộc tỉnh Thái Nguyên, 45 phiếu thuộc tỉnh Đồng Nai và 39
phiếu thuộc tỉnh Quảng Trị. Mẫu phiếu điều tra và tổng hợp kết quả điều tra được thể
hiện ở Phụ lục 2 của Luận án.
5.2. Nguồn số liệu
- Số liệu thứ cấp: số liệu từ các báo cáo của các cơ quan Đảng và cơ quan quản lý
nhà nước Việt Nam (như Ban chấp hành Trung ương Đảng, Chính phủ, Văn phòng Chính
phủ, Bộ Nội vụ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Tổng cục Thống kê, ); các kết quả đã công bố
của các cuộc điều tra khảo sát và đề tài nghiên cứu khoa học do các cơ quan trong nước
và quốc tế thực hiện.
- Số liệu sơ cấp: thông tin và số liệu thu được qua điều tra bằng bảng hỏi do tác giả
luận án thực hiện tại 3 tỉnh Thái Nguyên, Quảng Trị, Đồng Nai và thông tin thu được từ
phỏng vấn sâu một số công chức quản lý nhà nước ở trung ương và địa phương.
6. Những đóng góp của luận án:
Luận án có những đóng góp chính sau đây:
- Góp phần vào hệ thống hoá lý luận về đội ngũ công chức, công chức quản lý nhà
nước và chất lượng đội ngũ công chức, hệ thống hoá và xây dựng các tiêu chí đánh giá
chất lượng công chức quản lý nhà nước.
- Đưa ra những yêu cầu của CNH-HĐH đối với nâng cao chất lượng của đội ngũ
công chức nói chung và công chức quản lý nhà nước nói riêng.
- Góp phần vào đánh giá thực trạng chất lượng của đội ngũ công chức nhà nước Việt
Nam, trọng tâm là đội ngũ công chức quản lý nhà nước.
- Xây dựng quan điểm và hệ thống giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ công chức
quản lý nhà nước đáp ứng yêu cầu CNH-HĐH đất nước.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, nội dung, kết luận, các phụ lục và tài liệu tham khảo, Luận án
có kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Công chức quản lý nhà nước và chất lượng đội ngũ công chức quản lý
nhà nước
Chương 2: Thực trạng chất lượng đội ngũ công chức quản lý Nhà nước Việt Nam
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ công chức quản lý nhà nước đáp
ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Chương 1
Công chức quản lý nhà nước và chất lượng
đội ngũ công chức quản lý nhà nước
1.1. Công chức quản lý nhà nước và vai trò của công chức quản lý nhà nước
1.1.1. Một số khái niệm
1. Khái niệm công chức
Công chức là một bộ phận quan trọng trong bộ máy quản lý nhà nước, là lực lượng
lao động chủ yếu thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của bộ máy hành chính nhà nước từ
trung ương đến địa phương. Hiệu lực của hệ thống chính trị nói chung và của bộ máy
hành chính Nhà nước nói riêng, xét cho cùng được quyết định bởi phẩm chất, năng lực và
hiệu quả của đội ngũ cán bộ, công chức.
Công chức là danh từ dùng để chỉ những người thừa hành các quyền lực nhà nước,
chấp hành các công vụ của nhà nước. Sự ra đời của chế độ công chức là một bước phát
triển quan trọng trong lịch sử phát triển và hoàn thiện của các tổ chức nhà nước, là mốc
son đánh dấu của sự văn minh trong hoạt động quản lý nhà nước trên lĩnh vực kinh tế-xã
hội. Xã hội càng phát triển hiện đại, càng cần một chế độ công chức tiên tiến để bảo đảm
quản lý và thúc đẩy xã hội phát triển một cách đồng bộ.
Vào nửa cuối thế kỷ XVIII chế độ công chức đã ra đời ở các nước tư bản phương
Tây, phản ánh nhu cầu khách quan của lịch sử phát triển nhà nước.
Sau cuộc cách mạng công nghiệp, sự phát triển kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội ở
các nước tư bản là động lực thúc đẩy sự hình thành và phát triển chế độ công chức. “Nhân
vật” trung tâm của chế độ công chức là người công chức nói riêng và đội ngũ công chức
nói chung với những tiêu chuẩn, số lượng và cơ cấu đáp ứng yêu cầu hoạt động của bộ
máy hành chính nhà nước.
Vậy công chức là gì ? Mỗi một quốc gia có quan niệm và định nghĩa khác nhau về
công chức, sau đây là một số quan niệm và định nghĩa công chức có tính đặc trưng.
Theo luật Công chức của Cộng hoà Pháp, công chức nhà nước được định nghĩa như
sau:
Công chức là những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào làm việc trong các công
sở gồm các cơ quan hành chính công quyền và các tổ chức dịch vụ công cộng do nhà
nước tổ chức, bao gồm cả trung ương và địa phương nhưng không kể đến các công chức
địa phương thuộc các hội đồng địa phương quản lý. [13, tr 15].
Luật công chức của Vương quốc Anh, ngay từ năm 1859, đã quy định công chức
nhà nước bao gồm hai bộ phận, cụ thể như sau:
Bộ phận thứ nhất là những người do nhà Vua Anh trực tiếp bổ nhiệm hoặc được Uỷ
ban dân sự cấp giấy chứng nhận hợp lệ cho phép tham gia công tác ở cơ quan dân sự. Bộ
phận thứ hai là những người mà toàn bộ tiền lương được cấp từ ngân sách thống nhất của
Vương quốc liên hiệp hoặc từ các khoản được Quốc hội thông qua. [13, tr 16]
Luật công chức của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ cho rằng: “Những nhân viên trong ngành
hành chính của chính phủ được gọi chung là công chức” [13, tr 16].
Luật công chức Liên bang của Cộng hoà Liên bang Đức quy định cụ thể về công
chức nhà nước như sau:
Những người chịu sự chỉ huy, kiểm tra trực tiếp của Liên bang là công chức Liên
bang, những người phục vụ ở các đoàn thể xã hội, đoàn thể xây dựng vật chất và tài chính
theo luật chung, trực tiếp lệ thuộc Chính phủ Liên bang là công chức gián tiếp. Tất cả các
thành phần trên đây đều gọi là công chức. Ngoài các thành phần thuộc phạm vi trên, công
chức trong quốc hội Liên bang, Thượng viện Liên bang, Toà án Liên bang cũng thuộc
phạm vi điều chỉnh của luật công chức. [13, tr 17]
Theo luật công chức của Nhật Bản, công chức được phân thành hai loại chính gồm
công chức nhà nước và công chức địa phương quy định như sau:
Công chức nhà nước gồm những người được nhậm chức trong bộ máy của chính
phủ Trung ương, ngành tư pháp, quốc hội, quân đội, trường công và bệnh viện quốc lập,
xí nghiệp và đơn vị sự nghiệp quốc doanh, được lĩnh lương của ngân sách nhà nước.
Công chức địa phương gồm những người làm việc và lĩnh lương từ tài chính địa phương.
[13, tr 17]
Theo Luật công chức của Trung Quốc, công chức được định nghĩa:
Công chức nhà nước là những người công tác trong cơ quan hành chính nhà nước
các cấp, trừ nhân viên phục vụ. Công chức nhà nước gồm hai loại:
Công chức lãnh đạo là những người thừa hành quyền lực hành chính nhà nước. Các
công chức này bổ nhiệm theo các trình tự luật định, chịu sự điều chỉnh của Hiến pháp, Điều
lệ công chức và Luật tổ chức của chính quyền các cấp.
Công chức nghiệp vụ, là những người thi hành chế độ thường nhiệm, do cơ quan
hành chính các cấp bổ nhiệm và quản lý căn cứ vào Điều lệ công chức. Họ chiếm tuyệt
đại đa số trong công chức nhà nước, chịu trách nhiệm quán triệt, chấp hành các chính
sách và pháp luật” [20, tr 23].
Theo Luật của Vương quốc Thái Lan: “Công chức là những người được phân công
và được bổ nhiệm một công việc của Chính phủ và nhận lương phù hợp ở một bộ, cơ
quan nhà nước hay cơ quan thuộc Chính phủ” [20, tr 83].
Từ những cách quan niệm về công chức của một số quốc gia nêu trên, chúng ta có
thể thấy rằng công chức thường được hiểu một cách chung là những công dân, được
tuyển dụng và bổ nhiệm giữ một công vụ thường xuyên trong một công sở của nhà nước
ở trung ương hay địa phương, được hưởng lương từ ngân sách nhà nước và chịu sự điều
chỉnh của luật công chức.
ở Việt Nam, ngay buổi đầu xây dựng Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, ngày
29/5/1948 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc lệnh số 188/SL quy định về chức danh
viên chức Nhà nước gồm 5 hạng: Tá sự, cán sự, tham sự, kiểm sự và giám sự. Đây là văn
bản khởi đầu tạo cơ sở cho việc xây dựng đội ngũ công chức sau này của Nhà nước Việt
Nam. Đến ngày 20/5/1950 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 76/SL về Quy chế công
chức, trong đó công chức được định nghĩa là: “Những công dân Việt Nam, được chính
quyền nhân dân tuyển dụng để giữ một vị trí thường xuyên trong các cơ quan của Chính
phủ, ở trong hay ngoài nước, đều là công chức theo quy chế này, trừ trường hợp riêng biệt
do Chính phủ định” [13, tr 217]. Suốt một thời gian dài không có một văn bản nào của
Nhà nước phủ định tính pháp lý của Sắc lệnh 76/SL, nhưng do hoàn cảnh đất nước trải
qua hai cuộc chiến tranh liên tiếp và kéo dài, nên những nội dung quy định trong Sắc lệnh
76/SL đã không được thực hiện đầy đủ. Tuy vậy, Sắc lệnh này đã tạo tiền đề, cơ sở để
hình thành và phát triển đội ngũ công chức Việt Nam.
Sau khi thống nhất đất nước, trước yêu cầu của sự nghiệp xây dựng đất nước trong
điều kiện mới, đòi hỏi phải xây dựng đội ngũ công chức chính quy, hiện đại; Bộ Chính trị
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam trong văn bản chỉ đạo ngày
25/8/1995 đã chỉ rõ:
ở nước ta, sự hình thành đội ngũ cán bộ, viên chức có đặc điểm khác các nước. Cán
bộ làm việc trong các cơ quan nhà nước, đảng, đoàn thể là một khối thống nhất trong hệ
thống chính trị do Đảng lãnh đạo. Bởi vậy cần có một pháp lệnh có phạm vi điều chỉnh
chung đối với cán bộ trong toàn hệ thống chính trị, bao gồm: công chức nhà nước (trong
đó có công chức làm việc ở cơ quan quân đội, cảnh sát, an ninh…), cán bộ làm việc
chuyên trách ở các cơ quan đảng, đoàn thể. [23, tr 27].
Với tư tưởng chỉ đạo đó, ngày 26/2/1998, Pháp lệnh về cán bộ, công chức đã ra đời
và có hiệu lực từ ngày 01/5/1998. Sự ra đời của Pháp lệnh cán bộ, công chức đã tạo cơ sở
pháp lý cho chế độ công chức Nhà nước Việt Nam từng bước được xây dựng, hoàn thiện
và phát triển đáp ứng yêu cầu của một Nhà nước pháp quyền XHCN.
Trước yêu cầu không ngừng hoàn thiện và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công
chức góp phần quan trọng trong thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH-HĐH đất nước; đến
nay Pháp lệnh cán bộ, công chức đã hai lần sửa đổi, bổ sung. Lần thứ nhất vào ngày
28/4/2000, lần thứ hai vào ngày 29/4/2003. Đến nay khái niệm về cán bộ, công chức được
Nhà nước Việt Nam nêu trong Điều 1 của Pháp lệnh như sau:
Cán bộ, công chức quy định tại Pháp lệnh này là công dân Việt Nam, rong biên chế,
bao gồm:
a. Những người do bầu cử để đảm nhận chức vụ theo nhiệm kỳ trong các cơ quan
nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương; ở tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh); ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện);
b. Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên
làm việc trong tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp
huyện;
c. Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch công chức hoặc giữ một
công vụ thường xuyên trong các cơ quan nhà nước ở cấp trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện;
Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch viên chức hoặc giao giữ một
nhiệm vụ thường xuyên trong đơn vị sự nghiệp của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hộiThẩm phán Toà án nhân dân, kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân;
d. Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên
làm việc trong trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ
quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; làm việc trong các cơ quan, đơn
vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp;
e. Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực
Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân; Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy; người đứng đầu tổ
chức chính trị - xã hội xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã);
g. Những người được tuyển dụng, giao giữ một chức danh chuyên môn nghiệp vụ
thuộc Uỷ ban nhân dân cấp xã.
Cán bộ công chức được quy định tại điểm a,b,c,đ,e,g và h khoản 1 Điều này được
hưởng lương từ ngân sách nhà nước; cán bộ, công chức quy định tại điểm d khoản 1 Điều
này được hưởng lương từ ngân sách nhà nước và các nguồn thu sự nghiệp theo quy định
của pháp luật” [32, tr 41, 42].
Từ những dẫn chứng nêu trên cho thấy mỗi một quốc gia có những quan niệm khác
nhau trong xác định đối tượng, phạm vi công chức, hay nói cách khác sự khác nhau ở chỗ
xác định ai là công chức nhà nước. Song nhìn chung các quan niệm, định nghĩa trên đều
cho rằng một người lao động được coi là công chức nhà nước của một quốc gia nào đó
nếu có đủ các đặc trưng sau đây:
- Là công dân của quốc gia đó;
- Được tuyển dụng và làm việc trong cơ quan nhà nước;
- Được xếp vào một ngạch, một ngành chuyên môn;
- Được hưởng lương từ ngân sách nhà nước;
- Được quản lý thống nhất và được điều chỉnh bằng luật riêng được gọi là luật
công chức.
Từ những khái niệm và phân tích nêu trên, có thể hiểu công chức nhà nước là
người được tuyển dụng hoặc bổ nhiệm vào làm việc trong một cơ quan nhà nước ở
trung ương hay địa phương, giữ một công việc thường xuyên ở một ngạch trong hệ
thống ngạch bậc và được hưởng lương do ngân sách nhà nước cấp.
2. Khái niệm công chức quản lý nhà nước
Quản lý hành chính nhà nước là hoạt động quản lý, điều hành của các cơ quan thực
thi quyền lực nhà nước để quản lý, điều hành các lĩnh vực đời sống xã hội theo luật pháp.
Trong cuốn “Một số vấn đề về Quản lý Nhà nước”, các tác giả đã viết: “Quản lý nhà nước
còn được gọi là quản lý hành chính nhà nước là hoạt động tổ chức và điều hành để thực hiện
quyền lực nhà nước” [24, tr 27].
Hoạt động quản lý hành chính nhà nước chỉ có thể được thực hiện thông qua vai trò,
chức năng quản lý của đội ngũ công chức hành chính nhà nước. Những người đảm nhận
hoạt động quản lý nhà nước được gọi là công chức hành chính nhà nước hay công chức
quản lý nhà nước. Vì vậy trong nghiên cứu này, khái niệm công chức quản lý nhà nước
và công chức hành chính nhà nước được dùng như nhau.
Khi nghiên cứu về công chức quản lý nhà nước có thể thấy rõ với mỗi chế độ chính
trị - xã hội khác nhau quan niệm công chức quản lý nhà nước cũng khác nhau. Sau đây
chúng ta đi vào xem xét quan niệm về công chức quản lý nhà nước trong một số nền hành
chính:
* Trong nền hành chính ở các nước tư bản.
Sau cách mạng tư sản Pháp năm 1789, nền Cộng hòa ra đời. Từ đó xuất hiện một
nền hành chính và chế độ công vụ mới. Đó chính là nền hành chính tư sản, mà đặc trưng
là nền hành chính của Cộng hòa Pháp. Cùng với sự ra đời nền hành chính tư sản, là sự ra
đời của chế độ công chức tư sản, chế độ công chức này quy định việc tuyển công chức
thiên về những người có học vấn, bằng cấp. Có nghĩa là sau khi được tuyển dụng vào một
ngạch công chức nhất định nào đó, nếu không có sự thay đổi về bằng cấp, học vấn thì
không có sự chuyển ngạch. Trong quá trình thực hiện, phát hiện ra những hạn chế của
quan niệm truyền thống này, nên nhà nước tư sản có sự thay đổi là việc tuyển chọn, sử
dụng công chức một mặt dựa trên cơ sở học vấn, nhưng mặt khác coi trọng tài năng, năng
lực thực tế và tính sáng tạo của công chức đối với công việc. Từ đó, đã làm cho bộ máy
của nền hành chính tư sản năng động hơn, thích ứng với sự phát triển nhanh chóng của
khoa học, kỹ thuật, phù hợp với sự cạnh tranh trên thương trường và làm cho các nước tư
bản phát triển khá nhanh.
* Trong nền hành chính các nước XHCN
Trong nền hành chính các nước XHCN xuất phát từ vai trò của Đảng Cộng sản là
người lãnh đạo toàn diện mọi mặt đời sống chính trị, kinh tế - xã hội và quốc phòng, an
ninh. Do vậy, mọi quá trình của hoạt động xã hội nói chung, vấn đề công chức trong bộ
máy hành chính nhà nước nói riêng đều do Đảng lãnh đạo, bố trí sắp xếp và điều hành.
Cuộc cách mạng XHCN với những đặc thù riêng đã ảnh hưởng lớn đến sự hình thành đội
ngũ công chức quản lý nhà nước XHCN. Việc tuyển chọn công chức nói chung, công
chức hành chính nói riêng có thiên hướng về chính trị, đạo đức hơn là về tài năng, trình
độ chuyên môn; nặng về trách nhiệm tập thể hơn là trách nhiệm cá nhân.
* Trong nền hành chính Việt Nam
ở Việt Nam, trong giai đoạn trước năm 1954, do hoàn cảnh chiến tranh nên chế độ
công chức nói chung và công chức quản lý nhà nước nói riêng chưa được thực hiện một
cách đầy đủ, đúng nghĩa của nó như Quy chế về quản lý công chức được Chủ tịch Hồ
Chí Minh ban hành trong Sắc lệnh số 76/SL ngày 20/5/1950. Đến năm 1954 sau khi miền
Bắc được giải phóng, công chức quản lý nhà nước mới dần được hình thành cùng với
quan niệm chung là “cán bộ, công nhân viên chức Nhà nước”. Đội ngũ công chức bao
gồm những người trưởng thành từ trong thực tiễn đấu tranh cách mạng và được sắp xếp,
bổ nhiệm đảm nhiệm các chức vụ trong hệ thống chính trị các cấp. Do hoàn cảnh đất
nước vừa có hòa bình, vừa có chiến tranh, nên một thời gian dài hoạt động của bộ máy
Nhà nước chủ yếu tập trung chỉ đạo chiến tranh, chưa có điều kiện xây dựng đội ngũ công
chức nói chung và công chức quản lý nhà nước nói riêng.
Thời kỳ này, chúng ta quan niệm tất cả những người làm việc trong cơ quan Nhà
nước, các đoàn thể, các tổ chức, các đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc sở hữu toàn dân đều
được gọi chung là cán bộ, công nhân viên chức Nhà nước. Vì vậy, thời kỳ này Việt Nam
chưa có đội ngũ công chức quản lý nhà nước chuyên nghiệp, phục vụ một cách ổn định
trong bộ máy hành chính Nhà nước.
Trong văn bản chỉ đạo ngày 25/8/1995 của Bộ Chính trị đã nêu ở phần trên, có viết:
Cần có một pháp lệnh có phạm vi điều chỉnh chung đối với cán bộ trong trong toàn
hệ thống chính trị, bao gồm: các công chức nhà nước (trong đó có công chức làm việc ở
cơ quan quân đội, cảnh sát, an ninh…), cán bộ làm việc chuyên trách ở các cơ quan đảng,
đoàn thể [23, tr 27].
Như vậy, Bộ Chính trị đã nêu rõ phạm vi cụm từ “công chức” là chỉ những người
làm việc trong các cơ quan nhà nước các cấp, còn cụm từ “cán bộ” là để chỉ những người
làm việc trong các cơ quan đảng, đoàn thể.
Đến khi Pháp lệnh cán bộ, công chức được ban hành (1998) quan niệm về về cán bộ,
công chức càng được thể hiện rõ nét hơn, khái niệm công chức được đưa ra một cách khá
hoàn chỉnh. Trong công chức cũng có sự phân biệt giữa công chức nói chung và công
chức hành chính, các nhóm công chức khác nhau và với viên chức sự nghiệp. Khái niệm
công chức quản lý nhà nước hay công chức hành chính nhà nước dần được xác định rõ.
Tháng 5/1993, Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ đã ban hành Quyết định số 414/tccp-vc về
tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch viên chức nhà nước ngành hành chính trong đó quy định
rõ tiêu chuẩn nghiệp vụ của 10 ngạch hành chính như: chuyên viên cao cấp, chuyên viên
chính, chuyên viên, cán sự, kỹ thuật viên đánh máy, nhân viên kỹ thuật, nhân viên văn
thư, nhân viên phục vụ, nhân viên bảo vệ… Ngày 5/6/1993 Ban Tổ chức cán bộ Chính
phủ đã ban hành Thông tư số 444/TCCP-VC hướng dẫn áp dụng tiêu chuẩn các ngạch
công chức hành chính. Theo Thông tư hướng dẫn này và theo Quyết định số 414/tccp-vc,
công chức hành chính nhà nước là những người đảm nhận chức năng quản lý hành chính
nhà nước, chủ yếu bao gồm: công chức làm việc trong các cơ quan thuộc Chính phủ, các
cơ quan Bộ và ngang Bộ; cơ quan Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương; cơ quan Uỷ ban nhân dân thành phố, quận, huyện, thị xã và thành phố thuộc tỉnh;
các cơ quan Tổng cục thuộc Chính phủ, Cục thuộc Bộ hoặc Sở thuộc UBND cấp tỉnh,
phòng ban thuộc UBND cấp huyện.
Từ những quan niệm nêu trên, có thể thấy rõ công chức quản lý nhà nước là những
người hoạt động trong các cơ quan hành chính nhà nước đảm nhiệm chức năng quản lý
nhà nước. Hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước được xác định trên cơ sở Hiến
pháp, các đạo luật, các văn bản quy phạm pháp luật khác của các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền bao gồm: Chính phủ, các bộ, các cơ quan ngang bộ và các cơ quan thuộc
Chính phủ, các Uỷ ban nhân dân các cấp, các tổng cục, các cục, vụ, sở, phòng, ban…
Hiện nay ở Việt Nam sau khi Pháp lệnh cán bộ, công chức sửa đổi, bổ sung lần thứ hai
năm 2003, thì cán bộ công tác ở cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn) đã được công nhận là
công chức, trong số công chức này công chức quản lý nhà nước được xác định bao gồm
một số chức danh chủ yếu như chủ tịch và phó chủ tịch uỷ ban nhân dân.
Tóm lại, công chức quản lý nhà nước là một bộ phận quan trọng trong đội ngũ công
chức, là chủ thể của bộ máy hành chính Nhà nước, được đào tạo, bổ nhiệm theo một hệ
thống riêng và mang tính ổn định; thực hiện chức năng quản lý Nhà nước, bảo đảm thực
thi quyền lực hành chính của Nhà nước đối với xã hội. Có vai trò quyết định trong tổ
chức quá trình ra quyết định, quản lý và hướng dẫn, tổ chức thực hiện các chính sách,
quyết định của nhà nước.
1.1.2. Phân loại công chức quản lý nhà nước
Phân loại công chức quản lý nhà nước cũng tuân theo các tiêu chí phân loại chung
của cả đội ngũ công chức. Phân loại công chức là yêu cầu tất yếu của công tác quản lý
nguồn nhân lực. Phân loại công chức giúp cho việc xây dựng quy hoạch đào tạo công
chức đúng đối tượng theo yêu cầu nội dung, công tác và đưa ra những căn cứ cho việc
xác định biên chế các công chức một cách hợp lý. Phân loại công chức hợp lý giúp cho
việc đề ra những tiêu chuẩn khách quan trong việc tuyển dụng người vào làm việc trong
các cơ quan nhà nước và là cơ sở để xác định cơ cấu tiền lương một cách khoa học. Qua việc
phân loại công chức còn giúp cho việc tiêu chuẩn hoá, cụ thể hoá việc sát hạch, kiểm tra,
giám sát, đánh giá năng lực thực hiện công việc của công chức.
Thông thường, việc phân loại công chức của Việt Nam theo hệ thống chức nghiệp
được thực hiện theo các tiêu chí như: theo vai trò vị trí, theo trình độ đào tạo, theo chuyên
môn, nghiệp vụ, theo ngạch bậc và phân loại theo phân cấp quản lý hành chính.
Phân loại theo trình độ đào tạo:
Theo trình độ đào tạo công chức được phân thành các loại theo trình độ đào tạo mà
họ đạt được (đại học và trên đại học, trung cấp, sơ cấp, dưới sơ cấp). Theo quy định Nghị
định số 95/1998/NĐ-CP ngày 17/11/1998 của Thủ tướng Chính phủ, công chức được
phân theo trình độ đào tạo bao gồm các loại A, B, C, D.
o Công chức loại A là những công chức có trình độ đào tạo chuyên môn từ đại học
trở lên.
o Công chức loại B là những công chức có trình độ đào tạo chuyên môn ở bậc cao
đẳng, trung học chuyên nghiệp.
o Công chức loại C là những công chức có trình độ đào tạo chuyên môn ở bậc sơ
cấp.
o Công chức loại D là những công chức có trình độ đào tạo chuyên môn ở bậc dưới
sơ cấp.
Phân loại theo vai trò vị trí công tác:
Theo cách phân loại này, công chức được chia thành công chức lãnh đạo (quản lý,
điều hành, chỉ huy); công chức chuyên môn, nghiệp vụ và công chức thực hành kỹ thuật.
o Công chức lãnh đạo là những người thực hiện chức năng quản lý điều hành công
việc của những công chức dưới quyền. Đó là thủ trưởng và những người trong ban lãnh
đạo trong hệ thống cơ quan nhà nước các cấp. Theo cách phân loại này, hiện nay ở Việt
Nam công chức lãnh đạo trong hệ thống hành chính Nhà nước là bộ phận giữ vai trò nòng
cốt trong đội ngũ công chức quản lý nhà nước nói chung, bao gồm: những công chức đảm
nhận chức danh từ phó phòng (hoặc tương đương) đến thứ trưởng (hoặc tương đương) tại
các cơ quan trung ương; ở cấp tỉnh bao gồm các công chức ở các chức danh từ phó phòng
(hoặc tương đương) đến chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh (hoặc tương đương); ở cấp huyện
công chức quản lý nhà nước bao gồm các công chức đảm nhận chức danh từ phó phòng
trở lên đến chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện (hoặc tương đương); ở cấp xã bao gồm
những người đảm nhận chức danh chủ tịch, phó chủ tịch Uỷ ban nhân dân.
o Công chức chuyên môn, nghiệp vụ là những người có học vấn nhất định và thực
hiện một công việc đòi hỏi có sự hiểu biết trong các lĩnh vực chuyên môn với trình độ
khoa học-kỹ thuật nhất định.
o Công chức thực hành kỹ thuật là những người làm công tác chuẩn bị, thu thập tài
liệu, phục vụ cho lãnh đạo ra quyết định quản lý (như thư ký, nhân viên đánh máy, văn
thư… ).
Phân loại theo ngạch công chức:
Theo ngạch công chức hành chính, được phân thành chuyên viên cao cấp, chuyên
viên chính, chuyên viên, cán sự, kỹ thuật viên đánh máy, nhân viên đánh máy, nhân viên
kỹ thuật, nhân viên văn thư, nhân viên phục vụ, lái xe cơ quan, nhân viên bảo vệ.
o Chuyên viên là công chức chuyên môn nghiệp vụ trong hệ thống quản lý Nhà
nước và quản lý sự nghiệp giúp lãnh đạo các đơn vị cấu thành (phòng, ban, sở cục, vụ) tổ
chức quản lý một lĩnh vực hoặc một vấn đề nghiệp vụ.
o Chuyên viên chính là công chức chuyên môn nghiệp vụ trong hệ thống quản lý
Nhà nước, quản lý sự nghiệp giúp lãnh đạo các đơn vị cấu thành (vụ, cục) lãnh đạo cấp
tỉnh (sở, Uỷ ban nhân dân) chỉ đạo quản lý một lĩnh vực nghiệp vụ.
o Chuyên viên cao cấp là công chức chuyên môn nghiệp vụ cao nhất của ngành về
một lĩnh vực lớn trong hệ thống quản lý Nhà nước, giúp lãnh đạo ở cấp bộ, ngành (từ cấp
vụ trở lên đối với lĩnh vực có nghiệp vụ có độ phức tạp cao) hoặc giúp lãnh đạo Uỷ ban
nhân dân tỉnh (trong các lĩnh vực tổng hợp) về chỉ đạo và quản lý lĩnh vực công tác đó.
Phân loại theo phân cấp quản lý hành chính:
Hệ thống hành chính Nhà nước Việt Nam được phân thành bốn cấp từ Trung ương
tới cơ sở, tương đương với hệ thống hành chính này, công chức quản lý nhà nước cũng
được phân loại thành bốn cấp:
o Công chức quản lý nhà nước cấp Trung ương: gồm công chức quản lý nhà nước
làm việc trong các Bộ, Ngành ở Trung ương, cơ quan trực thuộc Chính phủ hoặc cơ quan
Chính phủ.
o Công chức quản lý nhà nước cấp tỉnh (hoặc thành phố trực thuộc Trung ương):
gồm các công chức làm việc tại uỷ ban nhân dân, các sở, ban, ngành của tỉnh (hoặc thành
phố trực thuộc Trung ương).
o Công chức quản lý nhà nước cấp huyện (hoặc tương đương): bao gồm các công
chức làm việc tại uỷ ban nhân dân, các phòng, ban, ngành của huyện (hoặc tương đương).
o Công chức quản lý nhà nước cấp cơ sở: bao gồm các công chức làm việc tại cơ
quan hành chính cấp cơ sở (UBND xã, phường, thị trấn).
1.1.3. Vai trò của công chức quản lý nhà nước
Hoạt động quản lý hành chính nhà nước là hoạt động tổ chức và điều hành để thực
hiện quyền lực nhà nước - là hoạt động điều chỉnh các quá trình xã hội và hành vi hoạt
động của con người bằng quyền lực nhà nước. Trong đó công chức quản lý nhà nước là
một bộ phận quan trọng, là lực lượng lao động nòng cốt trong bộ máy hành chính nhà
nước từ trung ương đến địa phương, trực tiếp tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước. Đây
chính là lực lượng lao động quyết định việc hoàn thành chức năng, nhiệm vụ của bộ máy
hành chính nhà nước. Hiệu lực của bộ máy nhà nước nói chung và của hệ thống hành
chính nói riêng, xét cho cùng được quyết định bởi phẩm chất chính trị, đạo đức, trình độ,
năng lực và hiệu quả hoạt động của đội ngũ công chức, đặc biệt là đội ngũ công chức
quản lý nhà nước.
Đội ngũ công chức quản lý nhà nước đóng vai trò là lực lượng tiên phong trong việc
tổ chức hướng dẫn và chỉ đạo thực hiện các chính sách của nhà nước. Có thể nói một đội
ngũ công chức đủ phẩm chất và năng lực góp phần xây dựng đường lối chính trị đúng
đắn, chủ trương chính sách hợp lý và tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách đó
là vấn đề cốt tử của lãnh đạo và quản lý, là sinh mệnh của Đảng cầm quyền.
Bộ phận quan trọng nhất của công chức nhà nước là đội ngũ công chức quản lý
trong các cơ quan hành chính Nhà nước. Công chức quản lý nhà nước là những người
làm việc trong cơ quan công quyền, thực hiện chức năng tổ chức quá trình ra quyết định
quản lý và hướng dẫn, tổ chức thực hiện các quyết định đó. Giáo sư Henry Minzberg một
nhà tư vấn nổi tiếng của nước Mỹ trong lĩnh vực quản lý, từ cuối những năm của thập kỷ
60 đã đưa ra một cách nhìn thực tiễn, cụ thể về vai trò của người quản lý trong tổ chức
[30, tr 11]. Theo ông, người quản lý cần thể hiện được 10 vai trò chủ yếu và được nhóm
thành 4 nhóm thể hiện trong hình 1.1.
Th
ẩm quyền và
vị trí chính
Vai trò quan hệ:
- Đại diện
- Lãnh đạo
- Liên hệ
Vai trò thông tin:
- Theo dõi
- Thông báo
- Người phát
ngôn
Vai trò ra quyết định:
- Phát hiện và phát
triển ý tưởng
- Giải quyết mâu
thuẫn
-
Phân b
ổ nguồn
Hình 1.1: Vai trò của người quản lý
Nhóm vai trò quan hệ:
1. Vai trò đại diện
Người quản lý có vai trò đại diện cho tổ chức, nhà quản lý phải thực hiện một số
công việc có tính chất lễ nghi. Chẳng hạn, người quản lý phải chào đón những đoàn
khách tham quan, tiếp khách Các công việc này là cần thiết để làm cho hoạt động của
tổ chức trở nên trôi chảy và do đó nhà quản lý không thể không quan tâm đến chúng.
2. Vai trò lãnh đạo
Nhà quản lý chịu trách nhiệm về công việc của những người trong đơn vị đó và các
hành động thực hiện trách nhiệm này tạo nên vai trò lãnh đạo. Một số trong các hành
động trực tiếp gắn với vai trò lãnh đạo, như việc chịu trách nhiệm về tuyển dụng hoặc đào
tạo nhân viên của mình. Ngoài ra, thuộc về vai trò lãnh đạo còn có các hoạt động gián
tiếp. Mỗi nhà quản lý cần phải tạo động lực và khuyến khích các nhân viên của mình,
bằng cách nào đó điều chỉnh các nhu cầu cá nhân của họ phù hợp với các mục đích của tổ
chức. Trong quan hệ với nhà quản lý, những người dưới quyền thường tìm cách phát hiện
những đặc trưng lãnh đạo và thường thăm dò các hành động của nhà quản lý bằng cách tự
đặt các câu hỏi: "Liệu ông ta có thông qua không nhỉ?" "Bà ta muốn bản báo cáo này
được viết như thế nào nhỉ?".
3. Vai trò liên hệ
Thực hiện vai trò liên hệ là nhà quản lý tạo nên các mối liên hệ bên ngoài quan hệ
trực tuyến của mình. Nhiều đề tài nghiên cứu về công việc quản lý cho thấy thời gian các
nhà quản lý dành để tiếp xúc với những người cùng cấp và những người ở các đơn vị
khác ngang bằng với thời gian tiếp xúc với những người dưới quyền mình quản lý, và
điều đáng ngạc nhiên là họ dành rất ít thời gian tiếp xúc với cấp trên của mình (nhìn
chung tỷ lệ thời gian tương ứng là 45%, 45% và 10%).
Nhà quản lý phát triển những liên hệ này chủ yếu để tìm thông tin. Trên thực tế, vai
trò liên hệ gắn với việc tạo dựng một hệ thống thông tin bên ngoài của riêng nhà quản lý -
một hệ thống thông tin cá nhân, không chính thức, không bằng văn bản nhưng lại rất hữu
hiệu.
Nhóm vai trò thông tin:
Xử lý thông tin là một phần quan trọng trong công việc của nhà quản lý. Ba vai trò
sau đây mô tả các khía cạnh có tính thông tin của công việc quản lý.
4. Vai trò theo dõi
Nhà quản lý phải bao quát môi trường xung quanh mình để tìm kiếm thông tin, thăm
dò các mối liên hệ và những người dưới quyền, và thu nhận thông tin. Phần lớn thông tin
có được là nhờ mạng lưới liên lạc cá nhân mà anh (chị) ta đã xây dựng nên.
5. Vai trò thông báo
Các nhà quản lý phải chia sẻ và phân phối phần lớn những thông tin thu nhận được.
Thông tin mà họ có được từ các liên hệ cá nhân bên ngoài có thể cần thiết cho nội bộ tổ
chức. Với vai trò thông tin, nhà quản lý chuyển trực tiếp một số thông tin bí mật cho
người dưới quyền của mình - những người không có điều kiện tiếp cận với thông tin đó.
Hơn nữa, khi người dưới quyền của mình gặp khó khăn trong việc liên hệ với nhau để có
thông tin, nhà quản lý đôi khi sẽ thực hiện chuyển tin từ người này sang người khác.
6. Vai trò người phát ngôn
Thực hiện vai trò này, nhà quản lý chuyển một số thông tin của mình cho những
người ở bên ngoài đơn vị của mình, chẳng hạn chủ tịch công ty thường tổ chức các buổi
nói chuyện để thuyết phục người khác đáp ứng một nhu cầu của công ty. Thêm vào đó,
với vai trò người phát ngôn, mỗi nhà quản lý phải thông tin đến và làm thoả mãn những
người có ảnh hưởng tức là những người có quyền kiểm soát đơn vị của anh (chị) ta.
Nhóm vai trò ra quyết định:
Nhà quản lý giữ vai trò chủ chốt trong hệ thống ra quyết định của đơn vị mình phụ
trách. Nhờ có thẩm quyền, nhà quản lý có thể làm cho đơn vị theo sát các giai đoạn hành
động quan trọng; ở vị trí trung tâm, nhà quản lý có thông tin đầy đủ và cập nhật để đưa ra
một loạt các quyết định tạo nên chiến lược của đơn vị. Nhà quản lý có bốn vai trò với tư
cách người ra quyết định.
7. Vai trò phát hiện và phát triển ý tưởng
Nhà quản lý thường tìm cách cải tiến đơn vị của mình cho thích ứng với các điều
kiện của môi trường. Với vai trò người theo dõi, nhà quản lý luôn tìm kiếm các ý tưởng
mới; khi một ý tưởng hay xuất hiện, anh (chị) ta xúc tiến một kế hoạch trên dự án phát
triển, có thể do anh (chị) ta giám sát hoặc cử nhân viên khác giám sát.
8. Vai trò giải quyết mâu thuẫn
Nếu trong vai trò phát hiện và phát triển ý tưởng, nhà quản lý bắt đầu sự thay đổi
một cách tự nguyện thì ở vai trò giải quyết mâu thuẫn, anh (chị) ta phải đối phó với sự
thay đổi một cách không tự nguyện.
Trong thực tế, các nhà quản lý phải mất khá nhiều thời gian vào việc đối phó với
những mâu thuẫn có sức ép lớn. Không một tổ chức nào có thể vận hành tốt, chuẩn xác
đến mức có thể lường trước được mọi việc. Các mâu thuẫn phát sinh không chỉ bởi vì nhà
quản lý đã sai lầm bỏ qua những tình huống là nguồn gốc dẫn đến vấn đề lớn mà còn bởi
vì ngay cả nhà quản lý giỏi cũng không thể dự đoán được tất cả các hậu quả từ các hành
động của mình.
9. Vai trò phân bổ nguồn lực
Trách nhiệm quyết định ai sẽ được cái gì trong đơn vị thuộc về nhà quản lý. Có lẽ
nguồn lực quan trọng nhất mà nhà quản lý thường phải phân bổ chính là thời gian của anh
(chị) ta. Nhà quản lý cũng chịu trách nhiệm thiết kế cơ cấu của tổ chức mà cơ cấu tổ chức
lại quyết định công việc được phân công và hiệp tác như thế nào.
10. Vai trò đàm phán
Các nghiên cứu về công việc quản lý ở tất cả các cấp cho thấy nhà quản lý mất thời
gian đáng kể cho việc đàm phán, thương lượng. Thương lượng là nhiệm vụ của nhà quản
lý; có thể nó đơn thuần, lặp lại nhưng thương lượng sẽ không bị coi thường. Nó là một
phần không thể thiếu trong công việc của nhà quản lý, chỉ có nhà quản lý mới có thẩm
quyền thống nhất các nguồn lực của tổ chức, và chỉ có anh (chị) ta mới có những thông
tin mà các cuộc thương lượng quan trọng đòi hỏi.
Để thực hiện được những vai trò đó, cán bộ quản lý phải có những kỹ năng cần thiết.
Các lý thuyết về quản lý hiện đại ngày càng nhấn mạnh tới kỹ năng quản lý. Các nhà
quản lý có thể rất hiểu về công việc của mình, hiểu những nhiệm vụ mà họ phải làm trong
tổ chức. Nhưng việc họ thực hiện được tốt đến đâu còn phụ thuộc vào khả năng mà họ có.
Khả năng này phụ thuộc vào tư chất của mỗi người, đồng thời cũng phụ thuộc rất nhiều
vào quá trình được đào tạo và tự đào tạo trong thực tiễn của họ [30].
ở Việt Nam, công chức là một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính trị, nhất là
trong bộ máy quản lý hành chính nhà nước. Đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước là lực
lượng tiên phong trong việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước; là lực lượng đảm bảo mối quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân. Khi có đường lối
cách mạng đúng, thì đội ngũ cán bộ, công chức có vai trò quyết định để biến đường lối,
chính sách của Đảng trở thành hiện thực. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói như sau:
Cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì
động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng bị tê liệt. Cán bộ là những người đem chính
sách của Chính phủ, của đoàn thể thi hành trong nhân dân, nếu cán bộ dở thì chính sách
hay cũng không thể thực hiện được. [18, tr 251].
Về vai trò của đội ngũ cán bộ, công chức Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Cán bộ là
cái gốc của mọi công việc” [18, tr 26], “Công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ
tốt hay kém” [18, tr 273]. Trong bài phát biểu khai mạc tại Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương lần thứ 3 Khoá VIII về Chiến lược công tác cán bộ trong thời kỳ công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước, Tổng Bí thư Đỗ Mười đã nói: “Đảng ta đã nhiều lần khẳng
định: phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt. Trong xây dựng đảng
thì công tác cán bộ là quan trọng nhất, là khâu then chốt nhất của vấn đề then chốt".
Phát biểu trong Hội nghị Tổng kết công tác xây dựng Đảng năm 2003, tại Hội
trường Ba Đình, ngày 24-3-2004, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đã nói: “Cán bộ là nhân
tố quyết định thành công của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của chế độ, là
khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng. Không có đội ngũ cán bộ tốt thì đường lối,
nhiệm vụ chính trị đúng cũng không thể trở thành hiện thực”.
Như vậy, với những đặc thù riêng, công chức quản lý nhà nước Việt Nam còn thể
hiện những vai trò sau:
Công chức quản lý nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong công cuộc đổi mới xây
dựng đất nước. Đội ngũ công chức có đầy đủ phẩm chất chính trị, có trình độ chuyên môn
và năng lực tổ chức, có tinh thần trách nhiệm cao sẵn sàng cống hiến cho sự nghiệp chung
của quốc gia, là lực lượng nòng cốt, luôn đóng vai trò chủ đạo trong thực hiện các nhiệm
vụ quan trọng ở mỗi giai đoạn lịch sử của đất nước.
Công chức quản lý nhà nước là lực lượng nòng cốt trong hệ thống chính trị, có
vai trò đưa đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước trở thành thực tiễn. Tiếp thu và
thực hiện nguyện vọng của nhân dân, nắm bắt những yêu cầu thực tiễn của cuộc sống đặt
ra để phản ảnh cho nhà nước kịp thời có chủ trương, chính sách sát thực để giải quyết.
Công chức quản lý nhà nước là nguồn nhân lực quan trọng có vai trò quyết định
trong việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả của bộ máy hành chính nhà nước các cấp, là một
trong những nguồn nhân lực quan trọng nhất trong việc thực hiện CNH-HĐH đất nước.
1.2. Chất lượng đội ngũ công chức quản lý nhà nước
1.2.1. Chất lượng đội ngũ công chức quản lý nhà nước
Chất lượng đội ngũ công chức quản lý nhà nước trước hết cần được hiểu đó chính
là chất lượng lao động của công chức nhà nước - một loại lao động có tính chất đặc
thù riêng xuất phát từ vị trí vai trò của chính đội ngũ lao động này.
Chất lượng của công chức nhà nước là một trạng thái nhất định của đội ngũ công
chức nhà nước thể hiện mối quan hệ phối hợp, hiệp đồng giữa các yếu tố, các thành viên
cấu thành nên bản chất bên trong của đội ngũ công chức. Chất lượng của đội ngũ công
chức quản lý nhà nước là một trong những tiêu chí phản ánh trình độ quản lý kinh tế- xã
hội của một quốc gia. Chất lượng của đội ngũ công chức phụ thuộc vào chất lượng của
từng thành viên công chức trong đội ngũ đó, mà chất lượng này thể hiện ở trình độ
chuyên môn, sự hiểu biết về chính trị - xã hội, phẩm chất đạo đức, khả năng thích nghi
với hoàn cảnh kinh tế - xã hội mới v.v
Chất lượng của công chức được phản ánh thông qua hệ thống các chỉ tiêu chuẩn
phản ánh trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, trình độ ngoại ngữ, tin học, các kỹ năng, kỹ
xảo, kinh nghiệm trong quản lý… của đội ngũ công chức. Chất lượng của công chức còn