Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Giải quyết vấn đề việc làm, nâng cao thu nhập và đời sống cho người dân bị thu hồi đất ở thành phố huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (721.12 KB, 110 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Kết thúc thế kỷ XX, bước vào thế kỷ XXI, bối cảnh trong nước và quốc tế tiếp
tục có những thay đổi mau chóng. Đảng ta đề ra mục tiêu: “Phấn đấu trong giai
đoạn 2001-2010 đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng đến năm 2020, nước ta cơ bản

Ế

trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại” [11].

U

Đảng chủ trương: "Đẩy mạnh hơn nữa CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn,

́H

giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Phát triển toàn
diện nông nghiệp, chuyển dịch mạnh cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo



hướng tạo ra giá trị gia tăng ngày càng cao, gắn với công nghiệp chế biến và thị
trường; thực hiện cơ khí hoá, điện khí hoá, thuỷ lợi hóa, đưa nhanh tiến bộ khoa học

H

kỷ thuật và công nghệ sinh học vào sản xuất. Khẩn trương xây dựng các quy họạch

IN



phát triển nông thôn và thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới. Chú trọng

K

dạy nghề, giải quyết việc làm cho nông dân, trước hết ở các vùng sử dụng đất nông
nghiệp để xây dựng các cơ sở công nghiệp, dịch vụ, giao thông, các khu đô thị mới.

O

̣C

Chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông thôn theo hướng giảm nhanh tỉ trọng lao động

̣I H

làm nông nghiệp, tăng tỉ trọng lao động làm công nghiệp và dịch vụ. Tạo điều kiện
để lao động nông thôn có việc làm trong và ngoài khu vực nông thôn, kể cả ở nước

Đ
A

ngoài" [13].

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta cũng đi liền với quá trình đô thị hoá,

quá trình nâng cấp, phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng và các công trình phục vụ lợi
ích cộng đồng, lợi ích quốc gia. Tốc độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá càng nhanh thì
trình độ đô thị hoá càng cao, hệ thống cơ sở hạ tầng và các công trình công cộng
càng đồng bộ, càng hiện đại.

Thực hiện chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, trong những năm
qua trên khắp các vùng miền của đất nước, nhiều khu công nghiệp với quy mô khác
nhau được hình thành và đi vào hoạt động. Cùng với xu hướng đó, quá trình xây dựng

1


các khu công nghiệp, khu đô thị, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, nhu cầu công
cộng và lợi ích quốc gia cũng đang diễn ra rất nhanh ở nước ta, không chỉ đối với các
thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Đà Nẵng, thành phố Hải
Phòng,... mà đối với hầu hết các Tỉnh, Thành phố khác trên phạm vi cả nước trong đó
thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế cũng không nằm ngoài quy luật đó.
Xuất phát từ quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đô thị hoá đang diễn
ra và những tác động của nó đến cuộc sống của người dân thành phố Huế. Nhằm

Ế

đánh giá đúng thực trạng việc làm, thu nhập và đời sống của người bị thu hồi đất,

U

làm cơ sở cho việc tiếp tục đổi mới chính sách trong quá trình đô thị hóa, bản thân

́H

tôi đã lựa chọn vấn đề nghiên cứu: “Giải quyết vấn đề việc làm, nâng cao thu nhập
và đời sống cho người dân bị thu hồi đất ở thành phố Huế ” làm đề tài luận văn




thạc sĩ khoa học kinh tế của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài

H

Đề tài có các mục tiêu chủ yếu sau đây

IN

- Hệ thống hoá các vấn đề lý luận và thực tiễn về tác động của vấn đề thu hồi đất

K

đến việc làm, thu nhập và đời sống của người dân.
- Đánh giá thực trạng sự tác động của vấn đề thu hồi đất ảnh hưởng đến việc

O

̣C

làm, thu nhập và đời sống của người dân, chỉ ra những thành tựu, hạn chế, nguyên

̣I H

nhân của vấn đề này.

- Đề xuất các quan điểm, giải pháp để giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập

Đ
A


và đời sống cho người dân bị thu hồi đất ở thành phố Huế trong những năm tới.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Như tên đề tài đã chỉ rõ, đề tài tập trung nghiên cứu, giải quyết vấn đề việc làm,

nâng cao thu nhập và đời sống cho người dân bị thu hồi đất.
Tuy nhiên, đây là vấn đề lớn, phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực kinh tế xã hội trên phạm vi toàn thành phố. Đề tài giới hạn phạm vi nghiên cứu như sau:
- Về phạm vi không gian
Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng việc làm thu nhập và đời sống của người
có đất bị thu hồi ở tại 6 phường là An Đông, An Tây, Xuân Phú, Vỹ Dạ, An Hòa và

2


Hương Sơ thuộc thành phố Huế. Đó là những địa phương đang có tốc độ đô thị hoá
nhanh cũng như đang phát triển khu công nghiệp, cụm làng nghê tập trung, theo đó là
sự phát triển của hệ thống hạ tầng kinh tế - xã hội. Hơn nữa, việc lựa chọn các địa
phương này cũng mang tính đại diện cho các phường xã thuộc thành phố Huế. Đây
cũng là những địa phương đang có nhiều vấn đề bức xúc trong quá trình thu hồi đất.
(phụ lục A: địa điểm của các đơn vị điều tra).
- Về phạm vi thời gian

Ế

+ Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng việc làm thu nhập và đời sống của

U

người có đất bị thu hồi từ năm 2005 đến năm 2008. Đây là thời kỳ đô thị hóa đã diễn


́H

ra rất nhanh chóng, đồng thời, nhiều vấn đề bức xúc trong quá trình thu hồi đất cũng
nảy sinh chủ yếu trong thời gian này.



+ Phạm vi thời gian cho các đề xuất trong đề tài là thời kỳ 2009-2012, đặt
trong tầm nhìn đến năm 2020.

H

4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài

IN

Nghiên cứu giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập và đời sống cho người dân

K

bị thu hồi đất là một đề tài có tính ứng dụng cao. Để thực hiện tốt nhiệm vụ, đề tài sử
dụng tổng hợp một hệ thống các phương pháp nghiên cứu và các cách tiếp cận chủ yếu

̣C

sau đây:

̣I H

O


4.1. Phương pháp thu thập tài liệu
4.1.1. Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp

Đ
A

Đối với tài liệu sơ cấp: đề tài thu thập từ niên giám thống kê các cấp, các báo cáo
tổng kết tình hình kinh tế xã hội của Thành phố, tình hình biến động diện tích đất của
phòng Đô thị thành phố, tình hình thu hồi đất của phòng Kinh tế thành phố, các trang
Web, các bài báo và tạp chí,... Để rút ra những kết luận chung trong việc đánh giá thực
trạng việc làm, thu nhập và đời sống của người có đất bị thu hồi.
4.1.2 Phương pháp thu thập số liệu sơ cấp
Đề tài đã tiến hành thiết kế các loại phiếu điều tra các hộ gia đình bị thu hồi đất và
phiếu phỏng vấn cán bộ địa phương ở vùng có đất bị thu hồi. (phụ lục B: phiếu điều tra
hộ và phiếu phỏng vấn cán bộ).

3


+ Các hộ gia đình có đất bị thu hồi được điều tra, phỏng vấn gồm có: Hộ sản xuất
nông nghiệp, hộ sản xuất nông nghiệp kiêm tiểu thủ công nghiệp, hộ gia đình kinh doanh
thương mại- dịch vụ và các loại hộ khác. Nội dung phỏng vấn các hộ gia đình có đất bị
thu hồi gồm 18 câu hỏi (cả định tính và định lượng) liên quan trực tiếp đến các vấn đề
như: đất đai của hộ bị thu hồi (bao gồm cả đất ruộng, đất màu, đất ở, đất vườn và các loại
đất khác); tình hình bồi thường cho hộ gia đình khi thu hồi đất; việc sử dụng tiền bồi
thường do thu hồi đất; thu nhập; việc làm của hộ gia đình sau khi bị thu hồi đất; chính

Ế


sách giải quyết việc làm ổn định đời sống của Tỉnh, Thành phố và doanh nghiệp đối với

U

hộ gia đình và lao động sau khi thu hồi đất,... Tại mỗi phường, đề tài tiến hành điều tra,

́H

phỏng vấn 30 hộ. Như vậy, toàn thành phố có 180 hộ gia đình được điều tra, phỏng vấn.
Mục đích của việc điều tra là nhằm thu thập thông tin về việc làm, thu nhập và đời sống
làm và đời sống của các hộ khi bị thu hồi đất.



của những người có đất bị thu hồi; xem xét, đánh giá chính sách đền bù, giải quyết việc

H

+ Cùng với việc điều tra các hộ gia đình bị thu hồi đất, đề tài đã tiến hành phỏng

IN

vấn các cán bộ địa phương. Nội dung phỏng vấn cán bộ địa phương gồm có 13 câu hỏi

K

liên quan trực tiếp đến tình hình thu hồi đất ở địa phương, chính sách giải quyết việc làm,
ổn định và nâng cao thu nhập đối với người có đất bị thu hồi, kiến nghị của địa phương về

̣C


vấn đề hậu giải phóng mặt bằng,... Đề tài phỏng vấn 50 người, bao gồm cán bộ cấp thành

O

phố 12, cán bộ cấp phường 36 người và cán bộ ban quản lý các khu công nghiệp, khu đô

̣I H

thị 2 người. Mục đích của việc phỏng vấn cán bộ địa phương là nhằm thu thập ý kiến của
cán bộ các cấp ở vùng có đất bị thu hồi về đánh giá thực trạng chính sách thu hồi đất, thực

Đ
A

trạng đời sống, việc làm của người dân bị thu hồi đất và kiến nghị của địa phương về
chính sách giải quyết lao động, việc làm, ổn định đời sống cho người có đất bị thu hồi.
- Ngoài điều tra bằng bảng hỏi, nghiên cứu các trường hợp thì còn sử dụng phương

pháp đánh giá có sự tham gia của người dân, cán bộ địa phương để đảm bảo độ tin cậy và
hiệu lực của số liệu điều tra.
- Thời gian điều tra được tiến hành trong tháng 4 và tháng 5 năm 2009.
4.2. Phương pháp tổng hợp, phân tích tài liệu
Tổng hợp một số công trình đã nghiên cứu có liên quan, các bài viết đăng trên
các tạp chí khoa học, các bài báo, bài phát biểu về thực trạng thu hồi đất và việc làm,

4


đời sống, thu nhập của người có đất bị thu hồi ở một số địa phương trong thời gian

gần đây. Phân tích, so sánh thực trạng việc làm, lao động và thu nhập phân tích so
sánh chính sách đền bù của người có đất bị thu hồi ở một số phường xã, trong quá
trình thu hồi đất và chính sách giải quyết việc làm. Phương pháp phân tích thốmg kê
như đồ thị thống kê cũng được vận dụng để trình bày và phân tích tình biến động
diện tích đất trước và sau điều tra, mức chênh lệch giá đất bồi thường của các hộ bị
thu hồi đất ở các địa phương. Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử:

Ế

để xem xét các vấn đề đặt ra một cách khách quan và khoa học.

U

Trên cơ sở đó, đề tài rút ra một số vấn đề có tính lý luận và thực tiễn liên quan đến

́H

nội dung nghiên cứu của đề tài.
5. Công cụ xử lý và phân tích số liệu



Các phiếu điều tra phỏng vấn, các thông tin thu thập được đã được đề tài xử lý
trên máy tính bằng chương trình spss (Phụ lục C: kết quả xử lý số liệu điều tra,

H

phỏng vấn tình hình đời sống việc làm của người có đất bị thu hồi).

IN


Trên cơ sở tài liệu đã tổng hợp được, chúng tôi vận dụng các phương pháp đã

K

được thiết lập để phân tích trong spss để kiểm định và xác định mối quan hệ giữa các
yếu tố liên quan.

̣C

6. Kết cấu của luận văn

̣I H

lớn sau đây:

O

Ngoài phần mở đầu, phụ lục (số liệu điều tra khảo sát), đề tài gồm các phần
- Chương I: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đô thị hóa, tác động của việc

Đ
A

thu hồi đất.

- Chương II: Đặc điểm địa bàn nghiên cứu, thực trạng thu hồi đất, thực trạng

bồi thường, thực trạng việc làm, giải quyết việc làm thu nhập và đời sống của người
có đất bị thu hồi từ kết quả điều tra thực tế của bản thân.

- Chương III: Quan điểm và giải pháp về giải quyết việc làm, nâng cao thu
nhập và đời sống của người có đất bị thu hồi của Thành phố trong những năm tới.
- Kết luận và kiến nghị

5


CHƯƠNG 1
CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ, ĐÔ THỊ HOÁ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA
VIỆC THU HỒI ĐẤT

1.1. CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ, ĐÔ THỊ HOÁ VÀ SỰ CẦN
THIẾT PHẢI THU HỒI ĐẤT
1.1.1. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đô thị hoá là quá trình phát triển của mọi

Ế

quốc gia trên thế giới

U

1.1.1.1. Vai trò và tác động tích cực

́H

Trong thời đại ngày nay, thời đại mà khoa học - công nghệ phát triển nhanh



như vũ bão, kinh tế tri thức đang dần đi vào cuộc sống và toàn cầu hoá là một xu thế

không gì có thể cưỡng lại được, thì công nghiệp hóa (CNH), hiện đại hóa (HĐH) là

H

con đường giúp các nước chậm phát triển rút ngắn thời gian so với các nước đi trước.

IN

Thực tiễn phát triển của nhiều quốc gia trong những năm gần đây cho thấy,

K

CNH, HĐH và đô thị hoá là nhân tố quyết định làm thay đổi căn bản phương thức
sản xuất, chuyển nền kinh tế từ sản xuất nông nghiệp truyền thống, tiểu nông sang

̣C

phương thức sản xuất mới, hiện đại và do đó cũng làm thay đổi nội dung kinh tế – xã

O

hội nông thôn. Trong nền kinh tế hiện đại, CNH, HĐH và đô thị hoá có sự gắn bó

̣I H

chặt chẽ với nhau, tạo thành một tiến trình thống nhất thúc đẩy sự phát triển kinh tế –
xã hội. Về mặt kinh tế, CNH, HĐH làm thay đổi phương thức sản xuất và cơ cấu nền

Đ
A


kinh tế, chuyển nền kinh tế sang một bước phát triển mới về chất, đó là nền kinh tế
dựa trên nền đại công nghiệp và dịch vụ chất lượng cao. Về mặt xã hội, đó là quá
trình đô thị hoá. Trong nền kinh tế hiện đại, đô thị hoá không chỉ đơn thuần là sự
hình thành các đô thị mới mà đó là một nấc thang tiến hoá vượt bậc của xã hội với
một trình độ văn minh mới, một phương thức phát triển mới. Đó là cách thức tổ
chức, bố trí lực lượng sản xuất, cơ cấu lại nền kinh tế.
Trong quá trình công nghiệp hoá, tiến trình phát triển xã hội đã có sự thay đổi
cơ bản, đó là:

6


- Phát triển đô thị kèm theo sự thu hẹp xã hội nông thôn;
- Làm thay đổi căn bản xã hội nông thôn theo hướng công nghiệp.
Cùng với quá trình công nghiệp hoá, đô thị hoá được coi như một khía cạnh
quan trọng của sự vận động đi lên của xã hội. Đô thị hoá là một quá trình lịch sử
trong đó nổi lên một vấn đề kinh tế - xã hội là nâng cao vai trò của đô thị trong sự
phát triển mọi mặt của xã hội. Quá trình này bao gồm sự thay đổi trong phân bố lực
lượng sản xuất, trước hết là trong sự phân bố dân cư, trong kết cấu nghề nghiệp - xã

Ế

hội, kết cấu dân số, trong lối sống, văn hoá.

U

Đô thị hoá là một quá trình tập trung dân cư đô thị. Đồng thời đó là quá trình

́H


chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất nông nghiệp giảm, sản xuất phi nông
nghiệp tăng. Bộ mặt đô thị ngày càng hiện đại không gian đô thị mở rộng. Hiện



tượng đô thị hoá được coi là một trong những nét đặc trưng nhất của sự biến đổi xã
hội trong thời đại ngày nay.

H

Đô thị hóa là hiện tượng tất yếu, một quy luật mang tính khách quan và có

IN

tính toàn cầu với sự chuyển đổi mạnh mẽ, sâu sắc và toàn diện các lĩnh vực sản xuất,

K

cơ sở hạ tầng,… di dân từ nông thôn ra thành thị, sự tập trung dân cư tại các đô thị
theo tỷ lệ ngày càng cao. Đô thị hoá là động lực cho sự phát triển với sự tăng trưởng

O

̣C

về năng suất lao động do tích tụ tập trung tài nguyên (lao động, vốn) và đem đến cho
người dân nông thôn văn minh đô thị và lối sống công nghiệp.

̣I H


Như vậy, công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đô thị hoá là quá trình biến đổi và

Đ
A

phân bố các lực lượng sản xuất trong nền kinh tế quốc dân, bố trí dân cư, hình thành,
phát triển các hình thức và điều kiện sống theo kiểu đô thị đồng thời phát triển đô thị
hiện có theo chiều sâu trên cơ sở hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật và tăng quy mô
dân số ở các đô thị.
Các đô thị có vai trò to lớn trong việc tạo ra thu nhập quốc dân, tích luỹ của
nền kinh tế và nguồn thu cho ngân sách quốc gia. Các đô thị lớn đã trở thành những
vùng động lực có tốc độ tăng trưởng cao và có đóng góp quan trọng vào việc tăng
quy mô của nền kinh tế, tăng giá trị công nghiệp, dịch vụ và xuất khẩu của cả nước.
Các đô thị lớn thực sự là các trung tâm chính trị kinh tế văn hoá, khoa học kỹ thuật,

7


thương mại của các vùng và cả nước, là những đầu tàu trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt
là hợp tác và giao lưu quốc tế.
Vai trò tích cực của phát triển đô thị được thể hiện trong sơ đồ dưới đây:
Sơ đồ 1.1 : Vai trò và tác động tích cực của phát triển đô thị

Ế

Phát triển
đô thị




́H

U

Phát triển và phân
bố các ngành công
nghiệp mới

Tạo ra các ngoại
ứng tới các hoạt
động kinh tế

K

IN

H

Tăng việc làm
và dân số trong
vùng

Phát triển các ngành
sản xuất đáp ứng
nhu cầu đầu vào của
công nghiệp

Đ
A


̣I H

O

̣C

Nâng cao
trình độ
của lao động
công nghiệp

Cung
cấp kết
cấu hạ
tầng tốt
hơn cho
sản xuất
và đời
sống

Tăng

Thu hút thêm vốn
đầu tư và sự phân
bổ các doanh
nghiệp mới

Mở rộng quy mô
và phát triển các

ngành dịch vụ
đáp ứng nhu cầu sản
xuất và đời sống

nguồn thu
cho ngân sách

Nâng cao
phúc lợi
xã hội cho
các vùng

8


1.1.1.2. Tác động tiêu cực của công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đô thị hoá
Đô thị hoá đã tạo tiền đề để CNH, HĐH đến lượt nó CNH, HĐH đã thúc đẩy
đô thị hoá với vận tốc ngày càng nhanh. Thực tế, mặt trái công nghiệp hoá với mặt
trái đô thị hoá cộng hưởng với mặt trái kinh tế thị trường, tạo ra thách thức không dễ
gì vượt qua được. Bên cạnh những mặt thuận lợi đối với sản xuất và đời sống con
người, sự phát triển nhanh chóng các đô thị cũng là nguyên nhân chính gây ảnh
hưởng đáng kể đến môi trường và tài nguyên thiên nhiên, đến môi trường sinh thái

Ế

do tài nguyên đất bị khai thác triệt để cho xây dựng đô thị, khối lượng rác thải và sử

U

dụng nước sạch tăng, ô nhiễm các chất thải từ sản xuất công nghiệp và sinh hoạt,


́H

giảm diện tích cây xanh và mặt nước, bùng nổ giao thông cơ giới,…
Như đã nêu ở trên, CNH, HĐH và đô thị hoá là một quá trình tất yếu đối với bất



cứ một dân tộc nào, một quốc gia nào trong quá trình xây dựng và phát triển. Quá
trình đô thị hoá cũng là quá trình biến đổi sâu sắc về cơ cấu sản xuất, cơ cấu nghề

H

nghiệp, cơ cấu tổ chức sinh hoạt xã hội, cơ cấu tổ chức không gian kiến trúc xây

IN

dựng từ dạng nông thôn sang thành thị. Với rất nhiều thay đổi diễn ra trên các lĩnh

K

vực kinh tế – xã hội, văn hoá. Những vấn đề có tính quy luật thường phát sinh và
đồng hành với quá trình CNH, HĐH và đô thị hoá là:

O

̣C

- Hình thành nhanh chóng các điểm dân cư đô thị lớn, thậm chí cực lớn, gây


̣I H

mất cân đối trong sự phát triển hệ thống dân cư,
- Gia tăng áp lực đối với quy hoạch sử dụng đất đai đô thị,

Đ
A

- Thay đổi cơ cấu dân cư theo nhiều tiêu chí: độ tuổi, giới tính, nghề nghiệp,
trình độ học vấn, tầng lớp xã hội,
- Gia tăng khoảng cách chênh lệch về mức sống và thu nhập giữa các tầng lớp

dân cư, hình thành các khu nhà ổ chuột và tầng lớp dân nghèo thành thị, gia tăng tình
trạng vô gia cư và nạn thất nghiệp,
- Áp lực thay đổi lối sống đô thị do sự du nhập lối sống của nhiều địa phương,
vùng khác nhau,
- Gia tăng stress và các tệ nạn xã hội, ảnh hưởng tới tất cả các tầng lớp dân cư
trong đô thị,

9


- Kết cấu hạ tầng và các vấn đề môi trường (tắc nghẽn giao thông, ô nhiễm
không khí, nước, chất thải rắn, thiếu nước sạch…),
- Gia tăng áp lực về khối lượng và tính chất phức tạp của quản lý đô thị trong
tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội.
1.1.2. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đô thị hoá ở Việt Nam
1.1.2.1 Những thành tựu đạt được
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta cũng đi liền với quá trình đô thị hoá,


Ế

quá trình nâng cấp, phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng và các công trình phục vụ lợi

U

ích cộng đồng, lợi ích quốc gia. Tốc độ CNH, HĐH càng nhanh thì trình độ đô thị

́H

hoá càng cao, hệ thống cơ sở hạ tầng và các công trình công cộng càng đồng bộ,
càng hiện đại. Chính vì thế, CNH, HĐH và đô thị hoá, sự phát triển của hệ thống cơ



sở hạ tầng và các công trình công cộng là những chỉ số cơ bản nói lên trình độ phát
triển của nền kinh tế nước ta.

H

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta cũng chính là quá trình cơ cấu lại

IN

nền kinh tế theo hướng phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ, cơ cấu lại việc phân

K

bổ dân cư theo hướng tăng nhanh khối lượng dân cư sống ở khu vực thành thị và
giảm mạnh số lượng và tỷ lệ dân cư sống ở khu vực nông thôn.


O

̣C

Để làm được công việc ấy, tất yếu là phải phân bổ lại các nguồn lực phát triển
nền kinh tế, trong đó trước hết là nguồn nhân lực, đất đai và lao động. Phải chuyển

̣I H

một bộ phận đất đai, trước hết là đất nông nghiệp sang phục vụ cho việc xây dựng

Đ
A

các khu công nghiệp, khu chế xuất, cho việc mở rộng các khu đô thị cũ và xây dựng
các khu đô thị mới, cũng như cho việc xây dựng, phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng
và các công trình công cộng phục vụ lợi ích của cộng đồng và quốc gia. Hiện nay,
nền kinh tế nước ta đang ở giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá. Đô thị hoá ở nước ta cũng đang diễn ra đồng thời cả hai quá trình: đô thị hoá
theo chiều rộng và đô thị hoá theo chiều sâu. Trong những năm gần đây và cho đến
năm 2020, khi nền kinh tế nước ta cơ bản trở thành một nền kinh tế công nghiệp, đô
thị hoá ở nước ta đã và sẽ tiếp tục diễn ra với quy mô lớn theo chiều rộng. Một bộ
phận đất đai, mà chủ yếu là đất nông nghiệp sẽ được thu hồi, chuyển đổi mục đích sử

10


dụng để xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị và kết cấu hạ tầng kinh tế - xã
hội. Đồng thời, phải chuyển một bộ phận quan trọng lực lượng lao động của khu vực

nông nghiệp là khu vực có năng suất lao động thấp, sang khu vực công nghiệp và
dịch vụ là những khu vực có năng suất lao động cao hơn.
Việt Nam đang có những tiềm năng to lớn mà không phải quốc gia nào cũng
có được, những lợi thế đó là: thứ nhất về vị trí địa lý, nằm ở trung tâm Đông Nam Á
là một trong các khu vực đang phát triển năng động nhất của thế giới, tiếp giáp với

Ế

một thị trường khổng lồ có tốc độ tăng trưởng cao liên tục trong nhiều năm là Trung

U

Quốc; thứ hai là khí hậu nhiệt đới thuận lợi cho phát triển nông – lâm – ngư nghiệp,

́H

có một số tài nguyên thiên nhiên thiết yếu, bờ biển dài; thứ ba là, nguồn nhân lực dồi
dào, chăm chỉ, ham học hỏi tạo ra yếu tố đầu vào của sản xuất với giá hấp dẫn các



nhà đầu tư nước ngoài; và thứ tư là có xã hội ổn định, có quyết tâm chính trị và đồng
thuận cao trong tiến trình đẩy nhanh CNH, HĐH, đô thị hoá và hội nhập quốc tế, thể

H

hiện trong các chủ trương và quyết sách lớn của Đảng và Nhà nước nhằm tận dụng

IN


mọi thời cơ để huy động và phân bố hợp lý các nội lực và ngoại lực cho phát triển

K

kinh tế - xã hội trên quy mô toàn quốc và các vùng miền.
Khả năng đó của Việt Nam đã được thể hiện rất rõ trong các năm gần đây, đặc

̣C

biệt từ năm 2000 đến nay. Thông qua các kênh như nguồn lực tài chính, sản xuất

O

hàng hoá lớn theo các chuyên ngành, giao lưu văn hóa và con người, ... các lợi thế đó

̣I H

đồng thời cũng tạo ra các động lực chính cho phát triển đô thị Việt Nam. Chỉ trong
20 năm đổi mới chúng ta đã xây dựng được một nền kinh tế năng động và hội nhập.

Đ
A

Từ năm 1998 đến nay tỷ lệ đô thị hóa trên địa bàn cả nước đang tăng khá nhanh và
mạnh mẽ đến 2005 đạt trên 27 %. Mạng lưới đô thị quốc gia đang được mở rộng và
phát triển, trong đó bao gồm các vùng duyên hải ven biển, hải đảo, biên giới, các trục
hành lang kinh tế-kĩ thuật quốc gia, quốc tế quan trọng. Tính đến cuối quý II, năm
2008, mạng lưới đô thị Việt Nam đã có 743 đô thị, trong 95 đô thị xếp từ loại IV trở
lên có 2 đô thị loại đặc biệt, 3 đô thị loại I, 14 đô thị loại II, 42 đô thị loại III, 38 đô
thị loại IV và các đô thị loại V, 160 khu công nghiệp tập trung, 10 đô thị mới, 27 khu

kinh tế ven biển và cửa khẩu. Theo phân cấp quản lý hành chính có 5 thành phố trực
thuộc Trung ương, 90 thành phố, thị xã, thị trấn thuộc tỉnh [10].

11


Hệ thống đô thị của nước ta rải đều trên khắp lãnh thổ với đủ các loại hình: đô
thị công nghiệp, đô thị cảng, đô thị hành chính, đô thị du lịch, đô thị tổng hợp. Quá
trình hình thành các đô thị ở nước ta trong những năm gần đây có một số đặc điểm
chủ yếu sau đây:
- Hình thành các trung tâm công nghiệp, thương mại, dịch vụ trong các đô thị
lớn. Sự hình thành các trung tâm có tính chất chuyên ngành trong những đô thị lớn là
xu thế nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của đô thị, là biểu hiện của tính chuyên

Ế

môn hoá cao trong sản xuất, kinh doanh. Các hoạt động sản xuất, kinh doanh có cùng

U

đặc điểm, tính chất là được tập trung vào một khu vực tạo điều kiện đáp ứng các nhu

́H

cầu tốt hơn, sản xuất với năng suất và hiệu quả cao hơn và tăng sức cạnh tranh của
các sản phẩm của đô thị, thị trường lao động phong phú hơn, tính hiệu quả tăng do



tập trung mật độ của các cơ sở sản xuất kinh doanh và dịch vụ.


- Hình thành các trung tâm công nghiệp, thương mại, dịch vụ ở các vùng

H

ngoại ô. Sự hình thành các trung tâm của mỗi vùng là tất yếu khách quan nhằm đáp

IN

ứng các nhu cầu của sản xuất và đời sống ngày càng tăng của chính vùng đó và là

K

hạt nhân lan toả sang các vùng khác. Đó cũng là biểu hiện của tính tập trung hoá
trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên, quy mô sản xuất và hoạt động

̣C

thương mại - dịch vụ phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội và quy mô

O

dân số của vùng để đảm bảo sự hoạt động có hiệu quả. Đồng thời, các trung tâm này

̣I H

còn là điểm nối, hay sự chuyển tiếp giữa các đô thị lớn làm cho tính hiệu quả của hệ
thống đô thị được nâng cao. Trong quá trình đô thị hoá, các trung tâm này sẽ trở

Đ

A

thành những đô thị vệ tinh của các đô thị lớn.
- Mở rộng các đô thị hiện có. Việc mở rộng các đô thị hiện có theo mô hình

làn sóng là xu thế tất yếu khi nhu cầu về đất xây dựng đô thị tăng và khả năng mở
rộng có thể thực hiện tương đối dễ dàng. Xu hướng này tạo sự ổn định và giải quyết
các vấn đề quá tải cho đô thị hiện có.
- Chuyển một số vùng nông thôn thành đô thị. Đây là xu hướng hiện đại trong
quá trình công nghiệp hoá nông thôn ở nước ta.
- Chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất. Cả hai hình thức đô thị hoá đều dẫn đến sự
chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất. Hình thức phát triển theo chiều rộng đưa đến tình

12


trạng thu hẹp đất canh tác nông nghiệp nhanh chóng. Một phần đất do Nhà nước thu
hồi để xây dựng các công trình, một phần đất dân cư bán cho những người từ nơi
khác tới để ở để làm cơ sở sản xuất, kinh doanh. Hình thức phát triển theo chiều sâu
cũng dẫn đến tình trạng thay đổi mục đích sử dụng đất. Trong quá trình đô thị hoá,
Nhà nước chủ động chuyển đổi mục đích sử dụng đất nhằm tạo tiền đề cho sự phát
triển kinh tế – xã hội.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Trong quá trình đô thị hoá, cơ cấu ngành kinh

Ế

tế trong đô thị, trong vùng và cả nền kinh tế đều thay đổi là tăng nhanh tỷ trọng giá

U


trị trong GDP của các ngành công nghiệp, xây dựng (gọi chung là công nghiệp) và

́H

thương mại - dịch vụ (gọi chung là dịch vụ), đồng thời giảm dần tương đối tỷ trọng
giá trị trong GDP của các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp (gọi chung



là nông nghiệp). Cùng với quá trình chuyển dịch của cơ cấu kinh tế tất yếu sẽ dẫn
đến những biến đổi kinh tế và xã hội theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá của

H

cơ cấu các vùng kinh tế, các thành phần kinh tế, các lực lượng lao động xã hội, cơ

IN

cấu kinh tế đối nội, cơ cấu kinh tế đối ngoại,… cơ cấu kinh tế nông thôn chuyển dịch

K

theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp.
Cùng với tốc độ tăng cao liên tục và khá ổn định của GDP, cơ cấu ngành kinh

̣C

tế đã có sự thay đổi đáng kể theo hướng tích cực. Đó là tỷ trọng trong GDP của

O


ngành nông nghiệp đã giảm nhanh từ 38,1% năm 1990 xuống 27,2% năm 1995;

̣I H

24,5% năm 2000; 20,9% năm 2005, và đến năm 2008 ước còn 20,6%. Tỷ trọng công

Đ
A

nghiệp trong GDP đã tăng nhanh, năm 1990 là 22,7%; năm 1995 tăng lên 28,8%;
năm 2000: 36,7%; năm 2005: 41% và đến năm 2008 ước tính sẽ tăng đến 41,6%. Tỷ
trọng dịch vụ trong GDP chưa biến động nhiều, năm 1990 là 38,6%; năm 1995:
44,0%; năm 2000: 38,7%; năm 2005: 38,1%; năm 2008 sẽ là khoảng 38,7% [22].
Sự chuyển dịch về cơ cấu ngành nghề của lao động ở khu vực nông thôn diễn
ra nhanh hơn so với chuyển dịch cơ cấu ngành nghề của hộ. Lao động nông nghiệp
chiếm 65,5% giảm 10,4% so năm 2001, lao động công nghiệp - xây dựng chiếm
12,5% tăng 5,1%, lao động dịch vụ chiếm 15,9% tăng 4,4%. Trình độ chuyên môn

13


kỹ thuật của lao động nông thôn đã nâng lên. Số lao động có trình độ chuyên môn kỹ
thuật từ sơ cấp trở lên chiếm tỷ lệ 8,2% so với 6,2% của năm 2001 [30].
- Thay đổi hình thái kiến trúc. Hình thái kiến trúc đô thị được biểu hiện tập
trung ở các kiểu nhà ở. Kiểu nhà ở phản ánh trình độ văn hoá, mức sống, đặc điểm
xã hội mỗi thời kỳ. Tại các thành phố chúng ta có thể phân biệt những toà nhà cổ,
những toà nhà xây dựng thời bao cấp, những toà nhà xây dựng thời kỳ đổi mới. Tại
các vùng nông thôn các ngôi nhà kiểu thành thị đang dần thay thế cho nhà mái ngói.


Ế

Ở các phường mới, quận mới, khu đô thị mới những toà nhà hiện đại đã và đang

U

được xây dựng.

́H

- Hình thành nhanh chóng cơ sở hạ tầng. Quá trình đô thị hoá là quá trình
hình thành nhanh chóng cơ sở hạ tầng kỹ thuật mà bắt đầu bằng hệ thống giao thông,



tiếp theo đó là hệ thống cấp điện, cấp thoát nước, hệ thống thông tin liên lạc, trường
học, bệnh viên, trung tâm thương mai, dịch vụ và cuối cùng là khu ở của dân cư.

H

Theo kết luận của một bộ báo cáo mới của Ngân hàng Thế giới nhan đề “Việt Nam:

IN

những thách thức đối với cơ sở hạ tầng”. Báo cáo ghi lại những thực tế đáng khen ngợi

K

trong chiến lược cơ sở hạ tầng hiện tại của Việt Nam, trong đó có con số tổng đầu tư
cho có sở hạ tầng của Việt Nam trong những năm gần đây giữ ở mức 10% GDP, rất


O

̣C

cao so với tiêu chuẩn quốc tế. Chính vì vậy, mạng lưới đường bộ Việt Nam đã tăng

̣I H

hơn gấp đôi chiều dài so với năm 1990, và chất lượng đường cải thiện rõ rệt. Tất cả
các khu vực đô thị và 88% các hộ gia đình nông thôn có điện. Số người được dùng

Đ
A

nước sạch tăng từ 26% dân số năm 1993 lên đến 49% dân số năm 2002, và trong cùng
khoảng thời gian, số người có hố xí vệ sinh tăng từ 10% lến 25% dân số [14].
- Thay đổi lối sống. Thay đổi tập quán sinh hoạt, lối sống, phương thức kiếm

sống là kết quả tất yếu của quá trình đô thị hóa. Người dân đô thị sẽ nhanh chóng
làm biến đổi tập quán phù hợp với lối sống đô thị hiện đại. Những tập tục như ma
chay, cưới xin sẽ theo kiểu đô thị để hợp với xã hội đô thị.
- Thay đổi cơ cấu dân cư. Trong quá trình đô thị hoá, cơ cấu dân cư theo
tuổi-giới, theo tầng lớp xã hội, theo nghề nghiệp cũng biến đổi theo. Sự phân hoá
giàu nghèo ngày càng rõ nét. Thu nhập của dân cư nói chung tăng lên nhưng tốc độ

14


tăng của mỗi nhóm xã hội, mỗi nghề nghiệp rất khác nhau. Cơ cấu giàu nghèo có

quan hệ chặt chẽ với cơ cấu nghề nghiệp, việc làm của người lao động
Hiện nay, tỷ lệ dân số đô thị ở nước ta dưới 40%, theo quy hoạch phát triển
đến năm 2010 con số này sẽ 56-60%, đến năm 2020 là 80%. Theo dự báo của Bộ
Xây dựng, tỷ lệ đô thị hoá của Việt Nam vào năm 2020 sẽ đạt khoảng 40%, tương
đương với số dân cư sinh sống tại đô thị chiếm trên 45 triệu dân. Mục tiêu đề ra cho
diện tích bình quân đầu người là 100m2/người. Nếu đạt tỷ lệ 100m2/người, Việt Nam

Ế

cần có khoảng 450.000ha đất đô thị, nhưng hiện nay, diện tích đất đô thị chỉ có

U

105.000ha, bằng 1/4 so với yêu cầu [29].

́H

1.1.2.2. Tác động của công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đô thị hoá đối với lao



động, việc làm của người có đất bị thu hồi

Trong quá trình đô thị hoá, kinh tế ở các đô thị mới tăng trưởng nhanh chóng

H

nhờ sự tập trung lực lượng sản xuất, tạo ra năng suất lao động cao, cách tổ chức lao

IN


động hiện đại. Thực chất quá trình tăng trưởng kinh tế đô thị là quá trình tăng việc
làm ở các đô thị. Quá trình đó vừa làm tăng tổng việc làm vừa làm chuyển đổi cơ cấu

K

kinh tế trong đô thị. Ngược lại, việc chuyển đổi cơ cấu các ngành kinh tế đô thị làm

̣C

tăng trưởng kinh tế đô thị theo chiều sâu, tăng năng suất lao động xã hội, tăng GDP

O

bình quân đầu người tại đô thị.

̣I H

Từ góc độ lao động và việc làm, đô thị hoá là quá trình chuyển đổi cơ cấu lao
động và việc làm từ các hoạt động nông nghiệp sang các hoạt động công nghiệp và

Đ
A

thương mại, dịch vụ. Khi đô thị mở rộng ra các vùng ngoại vi nhằm giải quyết vấn đề
quá tải dân số, các khu dân cư đô thị ở ngoại vi sẽ hình thành và các hoạt động
thương mại, dịch vụ sẽ phát triển. Ngoại thành là nơi có sự thay đổi mạnh mẽ về các
hoạt động thương mại và dịch vụ, một phần để đáp ứng yêu cầu của phát triển công
nghiệp, một phần để đáp ứng các nhu cầu dịch vụ giải trí cho dân cư nội thành.
Những người nông dân trước đây gắn bó với ruộng vườn, sau khi trở thành

dân cư đô thị, họ bị mất phần lớn ruộng đất canh tác. Với số tiền được Nhà nước đền
bù hoặc tiền bán đất cho các cư dân mới, họ dùng để tạo nghề mới, tìm việc làm mới,
… và nhiều vấn đề khác cũng thay đổi.

15


Người lao động cần việc làm, họ muốn có khoản tiền kiếm được từ công việc,
vì vậy họ cung cấp sức lao động của mình. Các ngành kinh tế chỉ có thể vận hành
quá trình sản xuất có hiệu quả với sự tham gia của người lao động. Người lao động
cũng là đối tượng sẽ tiêu dùng các loại hàng hoá, dịch vụ do các ngành kinh tế sản
xuất ra. Vì vậy, các ngành cần đến lao động để phát triển cũng như người lao động
cần cung cấp sức lao động của mình. Tuy vậy, lao động trong đô thị đòi hỏi có trình
độ chuyên môn hoá cao hơn và do vậy, giá cả lao động ở đô thị cũng cao hơn so với

Ế

ở nông thôn.

U

Sự phát triển của các đô thị một mặt sẽ tạo ra một lượng lớn việc làm cho lao

́H

động tại đô thị, đồng thời thu hút và làm giảm đáng kể lượng lao động nông nhàn ở các



vùng nông thôn, kém phát triển, góp phần làm tăng năng suất lao động tại các vùng này.

Ngoài số lao động làm việc chính thức tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh, còn phải kể

H

đến một lực lượng lớn lao động làm việc trong các ngành dịch vụ, xây dựng cơ bản…và

IN

các khu vực phi chính thức khác phục vụ cho phát triển các đô thị này.
Tuy nhiên, nhìn từ giác độ khác thì khi gia tăng quy mô thành phố bằng các

K

giải pháp mở rộng không gian, hình thành các quận, phường mới sẽ làm cho một lực

̣C

lượng đáng kể lao động nông nghiệp bị mất việc làm, dẫn đến gia tăng tình trạng thất

O

nghiệp. Khi những khu đô thị mới mọc lên, nhiều hộ nông dân bị thu hồi đất ruộng

̣I H

vườn để xây dựng đô thị. Tất nhiên, họ nhận được một khoản tiền đền bù về đất đai,
hoa màu, nhưng số tiền Nhà nước đền bù từ thu hồi đất chưa được người nông dân

Đ
A


sử dụng đúng mục đích sẽ làm cho tỷ lệ thất nghiệp và các vấn đề xã hội khác gia
tăng nhanh chóng. Nguyên nhân của tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm của
nông dân bị thu hồi đất một phần là do sự phát triển của các ngành công nghiệp và
thương mại dịch vụ chưa đáp ứng đủ nhu cầu giải quyết việc làm cho người lao
động, mặt khác do chính bản thân người lao động, vốn xuất phát từ nông dân, có
nhiều hạn chế về năng lực và trình độ văn hoá cũng như trình độ chuyên môn nghề
nghiệp, chưa hình thành được tác phong lao động công nghiệp … nên không đáp ứng
được yêu cầu của thị trường lao động. Không ít người sau một thời gian được nhận
vào làm việc tại các nhà máy, các khu công nghiệp do không đáp ứng được yêu cầu

16


công việc nên buộc phải thôi việc và lại rơi vào tình trạng không có việc làm. Điều
này gây khó khăn cho cuộc sống của chính bản thân người lao động, đồng thời cũng
gây ra khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc thu hút lao động và ổn định sản
xuất. Hiện nay, tại nhiều đô thị đã xây dựng được các trung tâm giáo dục thường
xuyên, trung tâm dạy nghề … nhưng chưa đủ đáp ứng nhu cầu được đào tạo và giải
quyết việc làm cho người lao động.
Bên cạnh đó, dòng di chuyển quá lớn của lao động từ nông thôn ra thành phố

Ế

trong khi số lượng việc làm tại các khu vực đô thị không thể tăng nhanh để có thể thu

U

hút hết sự tăng lên của dân số trong độ tuổi lao động và do di dân cũng là một


́H

nguyên nhân gây ra tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm với tỷ lệ khá cao.



Vấn đề lao động và việc làm cần được quan tâm thường xuyên bởi vì quá
trình đô thị hoá diễn ra thường xuyên và với tốc độ ngày càng nhanh. Diện tích đất

H

đô thị tăng lên chủ yếu là do chuyển đổi mục đích sử dụng từ đất nông nghiệp sang.

IN

Điều này chắc chắn sẽ dẫn đến gia tăng nhu cầu về lao động và việc làm cho dân cư
đô thị. Việc xây dựng các chương trình, dự án cụ thể để giải quyết vấn đề thất

K

nghiệp, chuyển đổi nghề, tạo việc làm mới trong quá trình đô thị hoá là rất cần thiết.

̣C

Vấn đề đào tạo, tạo việc làm mới, chuyển đổi nghề và giải quyết thất nghiệp cần trở

̣I H

kỳ tới.


O

thành một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện tại và thời
1.1.2.3. Những vấn đề tồn tại, cần tập trung giải quyết

Đ
A

Ở Việt Nam, quá trình đô thị hoá nhanh chóng và mạnh mẽ cả về chiều rộng

và chiều sâu với tốc độ phát triển đô thị và dân số đô thị Việt Nam sẽ phải đối mặt
với ngày càng nhiều vấn đề phức tạp phát sinh từ quá trình đô thị hoá và cần quan
tâm giải quyết, đó là:
- Mở rộng diện tích đất đô thị và thu hẹp diện tích đất nông nghiệp, thực chất của
quá trình này là sự thay đổi mục đích sử dụng đất từ đất nông nghiệp sang xây dựng
nhà ở, sản xuất công nghiệp, kinh doanh thương mại, dịch vụ. Quá trình này góp phần
làm tăng hiệu quả sử dụng đất nhưng cũng gây ra không ít các vấn đề xã hội.
- Vấn đề dân số, lao động và việc làm đối với nông dân trong quá trình đô thị hoá,

17


dân số và lao động ở các đô thị Việt Nam gia tăng với tốc độ nhanh do nhiều nguyên
nhân: di dân nông thôn - đô thị, lao động nông nghiệp dôi dư do thu hẹp diện tích canh
tác nông nghiệp. Đặc biệt việc làm cho nông dân nói chung, cho những hộ nông dân bị
thu hồi đất do phát triển công nghiệp và xây dựng các công trình công cộng nói riêng,
là vấn đề cần quan tâm và có những giải pháp nhanh chóng giải quyết.
Theo quy hoạch sử dụng đất đến 2010 của Bộ Tài nguyên và Môi trường, diện
tích đất nông nghiệp sẽ tăng từ 8.973.783 ha (năm 2000) lên 9.363.063 ha (năm


Ế

2010). Tuy nhiên, dân số nước ta từ hơn 77,6 triệu của năm 2000 sẽ tăng lên khoảng

U

86,5 triệu vào năm 2010 [18].

́H

Như vậy, diện tích đất nông nghiệp bình quân đầu người của cả nước sẽ giảm từ
0,113 ha (năm 2000) xuống còn 0,108 ha (năm 2010) và trong vòng 10 năm, bình quân



đất nông nghiệp trên đầu người đã giảm 50m², trung bình mỗi năm giảm 5m² [18]
Theo thống kê của Bộ NN-PTNT, trung bình mỗi hécta đất nông nghiệp thu hồi

H

ảnh hưởng tới việc làm của 13 lao động nông nghiệp. Từ năm 2000 đến 2006, thực

IN

hiện thu hồi đất, đã có khoảng 4 triệu nông dân trên cả nước bị ảnh hưởng đến đời

K

sống. Tại một vài địa phương, có tỉnh 25-30% số lao động sau khi bị thu hồi đất
không có việc làm hoặc việc làm không ổn định. Tại một số vùng đồng bằng sông


̣I H

này là 17% [16].

O

̣C

Hồng, trước khi thu hồi đất chỉ có 10% lao động đi làm thuê, sau khi thu hồi đất tỷ lệ

- Các vấn đề môi trường, tài nguyên thiên nhiên và cân bằng sinh thái, tài

Đ
A

nguyên đất bị khai thác triệt để cho xây dựng đô thị, làm giảm diện tích cây xanh và
mặt nước, gây ra ngập úng; Tăng cường khai thác nước phục vụ sinh hoạt, sản xuất,
dịch vụ… làm suy thoái tài nguyên nước; Gia tăng các chất thải rắn, lỏng, khí từ sinh
hoạt và sản xuất, dịch vụ; Nhiều nhà máy, xí nghiệp gây ô nhiễm môi trường lớn
trước đây nằm ở ngoại thành, nay lọt giữa khu dân cư đông đúc; Bùng nổ giao thông
cơ giới ở các đô thị lớn gây tắc nghẽn giao thông, ô nhiễm môi trường không khí và
tiếng ồn,...
Theo đánh giá của giới chuyên môn, hiện nay, không chỉ có lượng khí thải
lớn từ các phương tiện giao thông đang xâm hại nghiêm trọng đến không khí Hà Nội,

18


mà còn có cả bụi. Ô nhiễm bụi tại Hà Nội đã gấp ba lần tiêu chuẩn cho phép. Thống

kê chưa đầy đủ của Sở TN&MT Hà Nội cho biết, mỗi năm, thành phố tiếp nhận
khoảng 80.000 tấn bụi khói, 9.000 tấn khí SO2, 46.000 tấn khí CO từ hơn 400 cơ sở
công nghiệp. Đó là chưa kể khói của hơn 100 ngàn ôtô và trên 1 triệu xe máy [17].
- Vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở khu vực ngoại thành, trong quá trình đô
thị hoá, cơ cấu các ngành kinh tế thay đổi theo xu hướng tích cực và tiến bộ. Đó là
quá trình giảm tỷ trọng của các hoạt động nông nghiệp, tăng tỷ trọng của các hoạt

Ế

động công nghiệp và thương mại, dịch vụ. Ngoại thành là nơi sự chuyển dịch cơ cấu

U

kinh tế diễn ra mạnh mẽ nhất do chuyển đổi mục đích sử dụng đất và do sự gia tăng

́H

các nhu cầu dịch vụ, giải trí của dân cư trong nội thành. Vấn đề nảy sinh ở đây là
chất lượng lao động tại chỗ thường không đáp ứng được yêu cầu của chuyển dịch cơ



cấu kinh tế, gây ra những khó khăn và cản trở nhất định đối với quá trình này. Cơ
cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn ở nhiều nơi chuyển dịch chậm, chăn

H

nuôi, công nghiệp, ngành nghề dịch vụ nông thôn phát triển còn chậm và chưa tương

IN


xứng với tiềm năng.

K

- Vấn đề phát triển kết cấu hạ tầng, quá trình đô thị hoá luôn đòi hỏi sự hình
thành và phát triển nhanh chóng của hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật và xã hội như

O

̣C

cấp điện, cấp thoát nước, hệ thống thông tin liên lạc, trường học, bệnh viện, hệ thống

̣I H

chợ và siêu thị, các khu nhà ở của dân cư, hệ thống giao thông động và tĩnh, các khu
vui chơi giải trí v.v…Tuy nhiên, ở hầu hết các đô thị Việt Nam, các yếu tố kết cấu hạ

Đ
A

tầng thường không được hình thành đồng bộ và phát triển chậm hơn so với nhu cầu thực
tế của đô thị.

- Vấn đề văn hoá - xã hội, đô thị hoá góp phần nâng cao đời sống vật chất và

văn hoá tinh thần cho dân cư, hình thành lối sống công nghiệp, xây dựng xã hội mới.
Thay đổi tập quán, lối sống, phương thức kiếm sống là kết quả tất yếu của quá trình
đô thị hoá. Sự thay đổi đó cùng với những gia tăng số lượng dân cư và các hình thức

quần cư, gia tăng các nhu cầu y tế, giáo dục, giải trí… góp phần làm cho phân hoá
giàu nghèo diễn ra nhanh chóng; tỷ lệ thất nghiệp và các vấn đề xã hội khác (trộm
cướp, nghiện hút, mại dâm…) cũng gia tăng.

19


- Thay đổi hình thái kiến trúc, hình thái kiến trúc đô thị được biểu hiện tập
trung ở các kiểu nhà ở, kiểu nhà ở phản ánh trình độ văn hoá, mức sống, đặc điểm xã
hội ở từng thời kỳ phát triển. Tại các vùng nông thôn ngoại thành, các nhà mái ngói
truyền thống đang được thay dần bằng các nhà kiểu thành thị; Các toà nhà thiết kế
hiện đại, đầy đủ tiện nghi, các khu chung cư … đã và đang được xây dựng, đặc biệt
là ở các quận, phường mới, các khu đô thị mới. Tuy vậy, vẫn không tránh được tình
trạng xây dựng manh mún, lấn chiếm không gian đô thị và các kiểu thiết kế nhà ở

Ế

pha tạp nhiều loại hình kiến trúc làm ảnh hưởng xấu đến bộ mặt đô thị.

U

- Những vấn đề về quản lý hành chính, đô thị hoá theo chiều rộng dẫn đến sự

́H

biến động liên tục về ranh giới các đơn vị hành chính, về diện tích, dân số của đô thị
và từng quận, phường dẫn đến những khó khăn đối với bộ máy quản lý đô thị vốn




còn nhỏ yếu. Quá trình đô thị hoá cũng làm xuất hiện những mâu thuẫn giữa cơ cấu
kinh tế - xã hội hiện thực với thể chế quản lý hành chính Nhà nước. Thực tế này đòi

H

hỏi đổi mới, tổ chức lại quản lý Nhà nước trên địa bàn đô thị theo đúng quy định [2].

K

ĐẤT Ở THÀNH PHỐ HUẾ

IN

1.2. CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ, ĐÔ THỊ HOÁ VÀ THU HỒI

1.2.1. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đô thị hoá ở thành phố Huế

̣C

Bước vào thế kỷ 21 khi đã hội đủ mọi điều kiện về chính trị, kinh tế, văn hoá,

O

một bước ngoặt mới đã đến: công nghiệp hoá, đô thị hoá thành phố bắt đầu được đẩy

̣I H

mạnh, đô thị hoá lúc này bắt đầu tăng tốc.
Xác định vị trí, vai trò quan trọng của thành phố Huế trong khu vực kinh tế


Đ
A

trọng điểm miền Trung và trong định hướng quy hoạch tổng thể phát triển đô thị toàn
quốc với ý nghĩa là một trong 5 đô thị trung tâm cấp quốc gia; kết hợp tốt giữa xây
dựng phát triển với bảo vệ và tôn tạo, nhằm xây dựng cố đô Huế trở thành một thành
phố mang đặc tính dân tộc, hiện đại, đậm đà bản sắc và truyền thống; trở thành một
trung tâm văn hoá - du lịch của cả nước, trung tâm giáo dục đào tạo và trung tâm y tế
chuyên sâu của khu vực kinh tế trọng điểm miền Trung, đồng thời là trung tâm chính
trị, kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật của tỉnh Thừa Thiên Huế [26].
Định hướng phát triển, tập trung đầu tư, sớm hoàn thiện và hiện đại hóa hệ
thống kết cấu hạ tầng, hoàn thiện xây dựng các công trình lớn. Chú trọng phát triển

20


bền vững và giải quyết tốt các công tác môi trường ngay trong quy hoạch và điều
hành. Đầu tư phát triển thành phố Huế thành hạt nhân tăng trưởng, làm nòng cốt thúc
đẩy sớm đưa tỉnh Thừa Thiên Huế trở thành thành phố trực thuộc Trung ương [1].
Trong hướng phát triển đó, mấy năm nay thành phố Huế không ngừng mở
rộng các khu đô thị vệ tinh ra cả bốn phía. Cùng với việc xây dựng cơ sở kết cấu hạ
tầng thành phố; hệ thống các trường trung cấp, cao đẳng, đại học đã được đầu tư
nâng cấp cả về chất lượng đào tạo; đã có nhiều trung tâm nghiên cứu chuyên sâu của

Ế

quốc gia về văn hóa nghệ thuật, y tế, khoa học công nghệ, tin học, tôn giáo,... hình

U


thành lên từ Huế, kèm theo đó là sự cần thiết phải thu hồi đất [27].

́H

Việc thu hồi đất để xây dựng các khu công nghiệp, cụm làng nghề, khu đô thị,
xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và nhu cầu công cộng ở thành phố được



tiến hành mạnh mẽ.

1.2.2 Tình hình thu hồi đất ở thành phố Huế

H

Trong những năm qua, do sự phát triển của đô thị đất sản xuất nông nghiệp

IN

trên địa bàn thành phố dần bị thu hẹp để nhường chỗ cho việc triển khai xây dựng

công cộng của thành phố.

K

các khu công nghiệp và khu đô thị xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, nhu cầu

O

̣C


Căn cứ vào quỹ đất năm 2005 của thành phố được tổng hợp như sau:
7.098,80 hécta

Trong đó: - Đất nông nghiệp:

2.241.06 hécta

̣I H

Tổng diện tích đất tự nhiên:

Đ
A

- Đất phi nông nghiệp: 4.751,69 hécta

- Đất chưa sử dụng:

106,05 hécta

Qua hiện trạng sử dụng đất cho thấy đất đã sử dụng toàn thành phố chiếm

98,51% trong tổng số, phần lớn đã được sử dụng ổn định và có hiệu quả. Tuy nhiên,
do yêu cầu phát triển chuyển hướng theo định hướng du lịch - dịch vụ, công nghiệp
tiểu thủ công nghiệp (CN-TTCN) nên ngoài một số diện tích chưa sử dụng đưa vào sử
dụng thì phần lớn đất đai phục vụ cho nhu cầu phát triển là do chuyển đổi mục đích sử
dụng đất giữa các loại đất với nhau để phù hợp với định hướng phát triển kinh tế xã
hội của thành phố.


21


Về kinh tế: các cơ chế, chính sách bước đầu thu hút, khuyến khích đặc biệt,
tạo lập môi trường đầu tư kết hợp với việc bố trí sử dụng đất sản xuất kinh doanh
hợp lý thuận lợi đã đem lại cho thành phố Huế sự tăng trưởng tương đối bền vững.
Về xã hội: đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân từng bước ổn định và
nâng cao nhờ vào sự phát triển cơ sở hạ tầng, các công trình công cộng, các công
trình y tế, văn hoá, giáo dục,...
Biểu 1.1: Tình hình biến động đất nông nghiệp toàn thành phố giai đoạn 2005-2008

Năm

Năm

2005

2006

2007

Đất nông nghiệp

2.241,06

2.138,90

1) Đất trồng cây hàng năm

1.579,98


1.564,60

1.549,50 1.531,44



-48,54

1.146,95

1.135,52

1.127,17 1.116,93

-30,02

433,03

429,09

422,36

414,51

-18,52

217,02

196,73


196,73

196,73

-20,29

436,41

370,11

370,1

369,37

-67,04

7,65

7,65

7,70

7,70

0,05

Trong đó

H


- Đất trồng lúa
- Đất trồng cây hàng năm khác

K

2) Đất trồng cây lâu năm

̣C

3) Đất lâm nghiệp

2008 so

2008

2005

2.124,10 2.105,24

-135,82

Nguồn: Phòng Tài nguyên môi trường thành phố Huế

̣I H

O

4) Đất nuôi trồng thuỷ sản


Năm

́H

Loại đất

U

Năm

IN

Ế

Đơn vị tính: ha

Theo số liệu của phòng Tài nguyên môi trường thành phố, tính đến năm 2005

Đ
A

thành phố chỉ có 2.241,06 hécta đất nông nghiệp, trong đó có 1.146,98 hécta đất
trồng lúa, tuy nhiên diện tích này lại đang giảm một cách nhanh chóng. Trung bình
trong 3 năm gần đây mỗi năm, nông dân thành phố phải nhường hơn 45 hécta đất
nông nghiệp để xây dựng các công trình nhà ở, đô thị và khu công nghiệp và cơ sở
hạ tầng,...
Biểu 1.1 cho thấy, tổng cộng 4 năm giảm 135,82 hécta giảm ở các loại đất đất
nông nghiệp và phân bổ chi tiết như sau: đất trồng cây hàng năm giảm 48,54 hécta;
đất trồng cây lâu năm 20,29 hécta và đất lâm nghiệp giảm 67,04 hécta, do chuyển đổi
mục đích sử dụng đất.


22


Biểu 1.2: Tình hình biến động đất phi nông nghiệp toàn thành phố giai đoạn
2005-2008
Đơn vị tính: ha
Năm

Năm

Năm

Năm

2008 so

2005

2006

2007

2008

2005

Đất phi nông nghiệp

4.751,69


4.783,1 4.801,00

4.817,00

65,08

1) Đất ở

1.890,04

1.914,30 1.912,30

1.908,30

18,30

Ế

Loại đất

625,61

-274,25

899,86

- Đất ở tại đô thị

990,18


1.292,92 1.287,57

1.282,73

292,55

1.507,42

1.521,10 1.542,50

1.562,70

55,30

206,39

211,06

6,30

- Đất trụ sở cơ quan, công

H

204,53

52,83

49,26


53,07

53,07

0,24

11,82

11,79

11,79

11,89

0,07

80,89

90,53

91,75

99,91

19,02

1.164,95 1.179,53

1.186,79


29,67

K

- Đất an ninh

IN

- Đất quốc phòng

O

̣C

- Đất sản xuất, kinh doanh
phi nông nghiệp

́H

204,76

trình sự nghiệp

̣I H

- Đất có mục đích công cộng

Đ
A


3) Đất tôn giáo, tín ngưỡng
4) Đất nghĩa trang, nghĩa địa
5) Đất sông suối và mặt
nước chuyên dùng
6) Đất phi nông nghiệp khác

624,76



2) Đất chuyên dùng

621,40

U

- Đất ở tại nông thôn

1.157,12
148,98

148,96

148,93

148,86

-0,12


620,67

614,20

612,56

612,2

-8,47

578,55

578,55

578,62

578,62

0,07

6,03

6,03

6,03

6,03

0,00


Nguồn: Phòng Tài nguyên môi trường thành phố Huế
Riêng giai đoạn từ năm 2005 đến năm 2008 đối với đất ở tại nông thôn giảm
274,25 hécta; đất ở tại đô thị tăng 292,55 hécta (đất ở nông thôn thành phố giảm và

23


đất ở đô thị tăng lên là do quá trình đô thị hoá đã chuyển 2 xã Thuỷ An và Hương Sơ
vùng ven thành phố thành 4 phường nội thị là An Đông, An Tây, An Hoà và Hương
Sơ) và một phần là do chuyển đổi mục đích từ đất nông nghiệp sang. Đất chuyên
dùng tăng 55,30 ha; phân bổ theo các chỉ tiêu chính như: đất dùng vào mục đích
công cộng tăng 29,67 ha; đất dùng vào mục đích kinh doanh phi nông nghiệp 19,02
ha; đất xây dựng trụ sở cơ quan công trình sự nghiệp 6,3 ha chứng tỏ rằng tốc độ
công nghiệp hoá và đô thị hoá của thành phố trong những năm gần đây là rất lớn.

ha

Số hộ thu hồi đất nông nghiệp

hộ

Số hộ thu hồi đất ở

hộ

2005
11,27
233

Năm


38

Năm

2006

2007

Năm

Tổng

2008

cộng

120,31 17,89 21,15

170,62

521

230

265

1.249

156


84

153

431

Nguồn: Phòng Kinh tế thành phố Huế

K

IN

H

Tổng diện tích thu hồi

Năm

́H

ĐVT



Chỉ tiêu

U

Ế


Biểu 1.3: Tình hình thu hồi đất giai đoạn 2005-2008 của toàn thành phố

̣C

Biểu 1.3 trên cho thấy, trong 4 năm từ năm 2005 đến năm 2008, thành phố đã

O

thu hồi đến 170,62 hécta gồm các loại đất đất để phục vụ cho việc xây dựng các khu

̣I H

công nghiệp, khu đô thị, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, nhu cầu công
cộng. Trong đó lượt hộ bị thu hồi đất nông nghiệp là 1.249 hộ và số hộ bị thu hồi đất

Đ
A

ở là 431 hộ điều đó cho thấy rằng việc xây dựng các chương trình, dự án cụ thể để
giải quyết vấn đề thất nghiệp chuyển đổi nghề tạo việc làm mới, nâng cao thu nhập
và đời sống cho người dân bị thu hồi đất trên địa bàn thành phố trong những năm qua
là nhiệm vụ hết sức nặng nề, là chủ trương lớn của các cấp uỷ đảng, chính quyền và
toàn xã hội trong giai đoạn hiện tại và thời kỳ tới.
Tuy nhiên, việc thu hồi đất không diễn ra đồng đều ở các phường xã thuộc
thành phố, mà chỉ tập trung ở một số phường xã có điều kiện thuận lợi, nhất là các
phường xã ở phía Nam và phía Bắc nơi gần các đầu mối giao thông.

24



Biểu 1.4: Tình hình thu hồi đất nông nghiệp ở một số phường xã thuộc thành
phố giai đoạn 2005-2008
Số hộ bị

Số hộ bị

Số hộ bị

đất nông

thu hồi

thu hồi

thu hồi từ

nghiệp bị

dưới

dưới 30%-

50%-dưới

thu hồi

30%

49%


70%

(ha)

(hộ)

(hộ)

(hộ)

54

51

An Tây

23,95

52

36

Xuân Phú

26,08

57

Vỹ Dạ


24,19

31

An Hoà

9,23

143

Hương Sơ

9,54

235

Tổng cộng

110,88

trên 70%

16

3

50

16


65

8

16

39

73

31

22

29

32

22

7

193

214

136




27

H

IN

K

572

thu hồi từ

Ế

17,89

́H

An Đông

Số hộ bị

(hộ)

U

Phường

Diện tích


Nguồn Phòng Kinh tế thành phố

̣C

Các phường xã có đất thu hồi nhiều nhất là phường An Đông, An Tây, Xuân

O

Phú, Vỹ Dạ, An Hoà và Hương Sơ bình quân mỗi hộ bị thu hồi 1173 m2. Trong đó

̣I H

có 572 hộ bị thu hồi đất dưới 30%; 193 hộ bị thu hồi từ 30% đến dưới 49%; 214 hộ
bị thu hồi từ 50% đến dưới 70% và đặc biệt có đến 173 hộ được xem như bị thu hồi

Đ
A

hết đất sản xuất nông nghiệp (biểu 1.4).
Sau khi Luật Đất đai năm 2003 và Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày

3/12/2004 của Chính phủ có hiệu lực thi hành [9], Uỷ ban nhân dân Tỉnh đã ban
hành Quyết định số 3721/2005/QĐ-UBND ngày 01/11/2005 về việc bồi thường, hỗ
trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế [42] để
sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và lợi
ích phát triển kinh tế thay cho Quyết định số 225/2001/QĐ-UB ngày 30/01/2001 của
Uỷ ban nhân dân Tỉnh [39]. Đồng thời, sau khi có Nghị định số 17/2006/NĐ-CP

25



×