Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

Nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh dịch vụ của hợp tác xã nông nghiệp ở huyện bình sơn, tỉnh quảng ngãi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (685.68 KB, 114 trang )

PHẦN I. MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
Sau khi thực hiện Chỉ thị 68-CT/TW ngày 24/5/1996 của Ban Bí thư Trung
ương Đảng khóa VII về phát triển kinh tế hợp tác trong các ngành, các lĩnh vực kinh
tế; Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 18/3/2002 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa IX lần thứ 5 về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập
thể, các HTX nông nghiệp ở huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi đã có sự chuyển

Ế

biến quan trọng cả về nhận thức và chất lượng hoạt động, đáp ứng một phần nhu

U

cầu của những người lao động, hộ xã viên. Các HTX hoạt động theo mô hình HTX

́H

kiểu mới đã thay đổi cung cách quản lý, điều hành, tổ chức hoạt động. Nhờ đó, số



HTX hoạt động khá ngày càng tăng, một số HTX thật sự năng động, nhạy bén trong
cơ chế thị trường, xây dựng được phương án sản xuất kinh doanh hợp lý, từng bước

H

hoạt động có hiệu quả.

IN


Tuy nhiên, các HTX nông nghiệp hiện nay vẫn còn nhiều mặt yếu kém; số
HTX làm ăn có hiệu quả còn ít, lợi ích đem lại cho xã viên chưa nhiều. Nguyên

K

nhân là do HTX không đủ năng lực, khả năng cạnh tranh và nguồn vốn hoạt động,

̣C

trình độ quản lý, điều hành còn hạn chế, khả năng tiếp cận thị trường còn gặp nhiều

̣I H

địa phương.

O

khó khăn. Các HTX chưa đóng góp nhiều vào quá trình phát triển kinh tế xã hội của

Trong khi đó, kinh tế hộ nông dân đã có bước phát triển mới về quy mô, tính

Đ
A

chất và hiệu quả, ngày càng xuất hiện nhiều hộ sản xuất kinh doanh giỏi theo mô hình
trang trại, bắt đầu chuyển sang xu hướng sản xuất hàng hóa và có nhu cầu liên kết,
hợp tác với nhau để tự bảo vệ và phát triển kinh tế của mình, nâng cao năng lực sản
xuất kinh doanh nông nghiệp hàng hóa trong cơ chế thị trường.
Vì vậy, để tháo gỡ khó khăn cho HTX nông nghiệp, đáp ứng nhu cầu thúc
đẩy kinh tế hộ phát triển, đồng thời góp phần thay đổi các quan hệ kinh tế giữa hộ HTX trong bối cảnh mới của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cần

phải cấp bách đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh dịch vụ của HTX
nông nghiệp, nhất là trên địa bàn huyện.

1


Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, chúng tôi chọn đề tài "Nâng cao hiệu
quả hoạt động kinh doanh dịch vụ của hợp tác xã nông nghiệp ở huyện Bình
Sơn, tỉnh Quảng Ngãi" để nghiên cứu, làm luận văn thạc sĩ của mình, với mong
muốn thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội trong nông thôn huyện Bình Sơn hiện nay.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
2.1. Mục đích chung
Từ cơ sở lý luận, thực tiễn và đánh giá thực trạng hoạt động kinh doanh dịch

Ế

vụ của HTXNN, đề xuất các giải pháp phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động

U

kinh doanh dịch vụ của HTX nông nghiệp ở huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi.

́H

2.2. Mục đích cụ thể
doanh dịch vụ của HTX nông nghiệp.



- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận chung về hiệu quả hoạt động kinh


- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động kinh doanh dịch vụ của HTX nông

H

nghiệp ở huyện Bình Sơn, từ đó nhận diện ra những mặt làm được, những hạn chế

IN

và nguyên nhân, xác định những vấn đề cấp bách đặt ra.

K

- Đề xuất hệ thống giải pháp và kiến nghị để nâng cao hiệu quả hoạt động
kinh doanh dịch vụ của HTX nông nghiệp ở huyện Bình Sơn.

̣C

3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

O

3.1 Đối tượng nghiên cứu

̣I H

Chủ yếu tập trung nghiên cứu về hiệu quả hoạt động kinh doanh dịch vụ của
HTXNN ở huyện Bình Sơn.

Đ

A

3.2 Phạm vi nghiên cứu
- Không gian nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu các HTX nông nghiệp trên địa

bàn huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi.
- Thời gian nghiên cứu:
+ Các thông tin, số liệu thứ cấp về HTX được thu thập từ năm 2006 đến 2008;
+ Thông tin điều tra hộ được tiến hành trong năm 2009.
+ Về nội dung nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu về hiệu quả hoạt động
kinh doanh dịch vụ của 25 HTX nông nghiệp đã thực hiện chuyển đổi, đăng ký lại
theo Luật HTX.

2


4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4.1 Phương pháp chung
Sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp, trên cơ sở xem xét sự vận
động, phát triển của các HTXNN trong bối cảnh lịch sử cụ thể, làm căn cứ để xác
định các giải pháp khả thi.
4.2 Các phương pháp nghiên cứu cụ thể
4.2.1 Phương pháp điều tra thu thập số liệu

Ế

4.2.1.1 Chọn mẫu điều tra

́H


theo Luật HTX và hiện đang hoạt động trên địa bàn;

U

- Điều tra toàn bộ 25 HTXNN của huyện đã thực hiện chuyển đổi, đăng ký

- Điều tra chọn mẫu theo nguyên tắc lấy mẫu ngẫu nhiên đối với hộ nông



dân, xã viên. Tiến hành điều tra ngẫu nhiên khoảng 90 hộ nông dân, xã viên trên địa
bàn huyện;

H

4.2.1.2 Thu thập số liệu

IN

+ Thu thập gián tiếp: Tổng hợp các nguồn số liệu thứ cấp thông qua các báo

K

cáo, tổng kết của các Sở ngành liên quan ở tỉnh, Liên minh HTX tỉnh, Chi cục HTX
và PTNT tỉnh, Huyện ủy, UBND huyện và các Phòng Nông nghiệp và PTNT,

̣C

Phòng Tài chính - Kế hoạch, Phòng Thống kê huyện Bình Sơn. Ngoài ra, đề tài


O

cũng sử dụng, tham khảo một số bài viết, báo cáo khoa học và kết quả nghiên cứu

̣I H

của nhiều tác giả được công bố trên các sách báo, tạp chí, website có liên quan.
+ Thu thập dữ liệu trực tiếp: Đề tài xây dựng các mẫu phiếu điều tra HTX và

Đ
A

hộ xã viên; Chúng tôi tiến hành điều tra các HTX, phỏng vấn ngẫu nhiên một số hộ
nông dân, xã viên.
4.2.2 Phương pháp thống kê - so sánh
Kết quả và hiệu quả hoạt động dịch vụ của HTXNN được lượng hóa, phân
tích và so sánh thông qua các chỉ tiêu về doanh thu, chi phí, lợi nhuận nhằm đưa ra
kết luận khách quan, khoa học.
4.2.3 Phương pháp chuyên gia
Thực hiện trao đổi, lấy ý kiến của các chuyên gia nhằm tìm kiếm sự thống
nhất trong cách phân tích, đánh giá cũng như đề xuất các giải pháp, xu hướng và

3


kiến nghị. Chuyên gia là các cán bộ chỉ đạo thực tiễn công tác tại Liên minh HTX
tỉnh, Chi cục HTX và PTNT, Phòng Nông nghiệp và PTNT, Phòng Tài chính - Kế
hoạch huyện và các Chủ nhiệm HTX nông nghiệp trên địa bàn huyện.
Ngoài ra, chúng tôi sử dụng công cụ phần mềm Excell, SPSS để xử lý và
phân tích số liệu.

5. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
Phát triển kinh tế hợp tác, kinh tế tập thể và HTX từ lâu đã nhận được sự

Ế

quan tâm của nhiều chuyên gia, nhiều nhà nghiên cứu nước ta. Sở dĩ như vậy là vì

U

vấn đề này vừa mang ý nghĩa chính trị, vừa mang ý nghĩa kinh tế, xã hội sâu sắc.

́H

Cho đến nay, ở tỉnh Quảng Ngãi nói chung, huyện Bình Sơn nói riêng chưa
có nhiều công trình nghiên cứu quy mô về HTX nông nghiệp mà chủ yếu là các báo



cáo đánh giá chung của các cơ quan quản lý của tỉnh, huyện. Vì vậy, có thể xem đây
là nghiên cứu đầu tiên về hiệu quả hoạt động kinh doanh dịch vụ của HTX nông

IN

cứu về vấn đề này ở địa phương.

H

nghiệp trên địa bàn huyện Bình Sơn và là đóng góp của tác giả trong việc nghiên

K


6. KẾT CẤU ĐỀ TÀI

Ngoài mở đầu, kết luận, kiến nghị, tài liệu tham khảo, đề tài gồm 3 chương:

̣C

Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn về hiệu quả hoạt động kinh doanh dịch

O

vụ của HTX nông nghiệp.

̣I H

Chương 2. Thực trạng hoạt động kinh doanh dịch vụ của HTX nông nghiệp

Đ
A

ở huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi.
Chương 3. Những giải pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả hoạt động kinh

doanh dịch vụ của HTX nông nghiệp ở huyện Bình Sơn.

4


PHẦN II. NỘI DUNG CHÍNH


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HIỆU QUẢ
HOẠT ĐỘNG KINH DOANH DỊCH VỤ CỦA HỢP TÁC XÃ

Ế

NÔNG NGHIỆP



1.1.1.1 Khái niệm về HTX

́H

1.1.1 Khái niệm, đặc điểm và các loại hình HTX

U

1.1 TỔNG QUAN VỀ HTX

Hợp tác là sự kết hợp sức lực của các cá nhân hoặc đơn vị để tạo nên sức

H

mạnh lớn hơn, nhằm thực hiện những công việc mà mỗi cá nhân, đơn vị hoạt động

IN

riêng lẻ sẽ gặp khó khăn, thậm chí không thể thực hiện được, hoặc thực hiện được
cũng kém hiệu quả so với hợp tác.


K

Kinh tế hợp tác là một hình thức quan hệ kinh tế hợp tác tự nguyện, phối

̣C

hợp, hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau giữa các chủ thể kinh tế, kết hợp sức mạnh của từng

O

thành viên với ưu thế và sức mạnh của tập thể để giải quyết tốt hơn những vấn đề

̣I H

của sản xuất - kinh doanh và đời sống kinh tế, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và
lợi ích của mỗi thành viên. Kinh tế hợp tác có hai hình thức, đó là tổ hợp tác (hợp

Đ
A

tác giản đơn) và HTX.
HTX hoạt động trong nhiều lĩnh vực kinh doanh khác nhau. Năm 1942, Ivan

Emelianoff, một nhà nghiên cứu về HTX nhận xét rằng sự đa dạng của HTX là muôn
màu muôn vẻ và sự biến đổi của HTX thật sự là không thể đếm xuể. Ngày nay, HTX
có mặt ở hầu hết các quốc gia và có rất nhiều cách tiếp cận khác nhau về HTX.
Liên minh HTX quốc tế (International cooperrative alliance - ICA) được
thành lập tháng 8 năm 1895 tại Luân Đôn, Vương quốc Anh, đã định nghĩa HTX
như sau: HTX là một tổ chức tự trị của những người tự nguyện liên hiệp lại để đáp

ứng các nhu cầu và nguyện vọng chung của họ về kinh tế, xã hội và văn hoá thông

5


qua một xí nghiệp cùng sở hữu và quản lý dân chủ; Năm 1995, định nghĩa này đã
được hoàn thiện: HTX dựa trên ý nghĩa tự cứu giúp mình, tự chịu trách nhiệm, bình
đẳng, công bằng và đoàn kết. Theo truyền thống của những người sáng lập ra HTX,
các xã viên HTX tin tưởng vào ý nghĩa đạo đức, về tính trung thực, cởi mở, trách
nhiệm xã hội và quan tâm chăm sóc người khác [5].
Tổ chức Lao động quốc tế (International Labuor Organization - ILO) định
nghĩa "HTX là sự liên kết của những người đang gặp phải những khó khăn kinh tế

Ế

giống nhau, tự nguyện liên kết nhau lại trên cơ sở bình đẳng quyền lợi và nghĩa vụ,

U

sử dụng tài sản mà họ đã chuyển giao vào HTX phù hợp với nhu cầu chung và giải

́H

quyết những khó khăn đó chủ yếu bằng sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm và bằng cách
sử dụng các chức năng kinh doanh trong tổ chức hợp tác phục vụ cho lợi ích vật



chất và tinh thần chung" [5].


Mặc dù có nhiều định nghĩa khác nhau về HTX, cũng như sự khác nhau về

H

đặc điểm, cơ chế tổ chức, phương thức hoạt động của các mô hình HTX ở các nước

IN

trên thế giới, song các loại hình HTX đều có một số đặc điểm chung, đó là: HTX là

K

một tổ chức kinh tế do các chủ thể kinh tế tự nguyện góp vốn, góp sức hình thành.
Hoạt động của HTX chủ yếu nhằm mục đích phục vụ hoạt động kinh tế của các

̣C

thành viên tham gia với phương châm giúp đỡ lẫn nhau (cũng là giúp đỡ chính

O

mình). Ngoài ra, hoạt động của HTX còn mang tính cộng đồng xã hội - tương trợ,

̣I H

giúp đỡ cộng đồng. Bởi vậy, lợi nhuận không phải là mục tiêu duy nhất của HTX.
Ở Việt Nam, trong thời kỳ đổi mới, để tạo cơ sở pháp lý cho việc tổ chức và

Đ
A


hoạt động của HTX, Luật HTX năm 1996 ra đời, sau đó được thay thế bởi Luật
HTX năm 2003. Theo đó, "HTX là một tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ
gia đình, pháp nhân (sau đây gọi chung là xã viên) có nhu cầu, lợi ích chung, tự
nguyện góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của Luật này để phát huy sức mạnh
tập thể và của từng xã viên tham gia HTX, cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả
các hoạt động sản xuất, kinh doanh và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, góp
phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

6


HTX hoạt động như một loại hình doanh nghiệp, có tư cách pháp nhân, tự
chủ, tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính trong phạm vi vốn điều lệ, vốn
tích luỹ và các nguồn vốn khác của HTX theo qui định của pháp luật" [23].
1.1.1.2 Đặc điểm của HTX
- Thành viên HTX bao gồm cả thể nhân và pháp nhân, liên kết rộng rãi
những người lao động, hộ sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc các
thành phần kinh tế, cả người có ít vốn và người có nhiều vốn, cùng góp vốn và góp

Ế

sức trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi và quản lý

U

dân chủ; cán bộ công chức được tham gia HTX với tư cách là xã viên. HTX không

́H


thủ tiêu tính tự chủ sản xuất kinh doanh của các thành viên, chỉ làm những gì mà
mỗi thành viên riêng lẻ không làm được, hoặc làm không có hiệu quả để hỗ trợ cho



các thành viên phát triển.

- Sở hữu của HTX là sở hữu đan xen, dựa trên sở hữu của các thành viên và

H

sở hữu tập thể, HTX không tập thể hóa mọi tư liệu sản xuất của các thành viên, mà

IN

tôn trọng sở hữu của các thành viên; Sở hữu tập thể bao gồm các loại quỹ không

K

chia, các tài sản hình thành do quá trình tích luỹ của HTX tạo nên và tài sản trước
đây được giao lại cho tập thể sử dụng làm tài sản không chia.

̣C

- Tổ chức và hoạt động của HTX không bị giới hạn quy mô, lĩnh vực và địa

O

bàn, trừ một số lĩnh vực có quy định riêng. HTX hoàn toàn tự chủ trong hoạt động


̣I H

sản xuất, kinh doanh và tự chịu trách nhiệm trong cơ chế thị trường, liên doanh liên
kết với các đơn vị thuộc mọi thành phần kinh tế.

Đ
A

- Về mặt quản lý, có sự phân biệt rõ chức năng quản lý của ban quản trị và

chức năng điều hành của chủ nhiệm. Thành viên ban quản trị nhất thiết phải là xã
viên HTX, do đại hội xã viên hoặc đại hội đại biểu xã viên bầu. Chủ nhiệm HTX có
thể là xã viên hoặc người ngoài HTX do ban quản trị thuê, hoạt động như một giám
đốc điều hành. Đây là điểm quan trọng tạo điều kiện để HTX có thể có đội ngũ cán
bộ điều hành chuyên nghiệp, nhờ đó có thể nâng cao được hiệu quả quản lý của
HTX trong tất cả các hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình.
- Hình thức phân phối trong HTX vừa theo lao động, vừa theo vốn góp cổ
phần và theo mức độ tham gia dịch vụ.

7


- HTX là một tổ chức kinh tế, hoạt động lấy lợi ích kinh tế làm chính, bao
gồm lợi ích các thành viên và lợi ích tập thể, đồng thời coi trọng lợi ích xã hội của
các thành viên.
- Mô hình HTX rất linh hoạt và đa dạng về hình thức, phù hợp với đặc điểm
của từng vùng, từng ngành; với nhiều trình độ phát triển, từ thấp đến cao, từ làm
dịch vụ đầu vào, đầu ra phục vụ cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của các thành
viên, đến mở mang ngành nghề, vươn lên sản xuất kinh doanh tổng hợp và hình


Ế

thành được các doanh nghiệp của HTX; từ HTX phát triển thành các liên hiệp HTX.

U

Với những đặc điểm trên, HTX kiểu mới hoàn toàn khác HTX kiểu cũ được

́H

xây dựng trong thời kỳ cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp trước đây (có các đặc
trưng là tập thể hóa toàn bộ tư liệu sản xuất, không thừa nhận vai trò của kinh tế hộ,



phủ nhận vai trò kinh tế hàng hóa, tổ chức theo địa giới hành chính, sản xuất mang
tính chất tập thể hóa, tập trung, phân phối theo ngày công lao động, thực hiện quá

H

nhiều nghĩa vụ xã hội và mô hình được thực hiện đồng loạt trong cả nước, ít chú ý

IN

đến đặc điểm riêng của từng vùng, từng ngành).

K

HTX kiểu mới cũng khác với công ty cổ phần. HTX được thành lập do các
thành viên tự nguyện tập hợp, liên kết nhau lại để cùng kinh doanh hoặc hỗ trợ nhau


̣C

kinh doanh; mỗi thành viên, dù góp ít hay nhiều vốn đều bình đẳng với nhau trong

O

quyết định các vấn đề chung của HTX, với nguyên tắc cơ bản là mỗi người một lá

̣I H

phiếu (nguyên tắc đối nhân). Trong khi đó, công ty cổ phần do các nhà đầu tư đứng
ra thành lập, tổ chức hoạt động lấy mục tiêu là lợi nhuận, các thành viên của công ty

Đ
A

(các cổ đông) chỉ có quyền tham gia quyết định các vấn đề của công ty theo mức độ
góp vốn (nguyên tắc đối vốn). Phân phối trong các công ty cổ phần là theo tỷ lệ vốn
góp; còn HTX thì vừa phân phối theo vốn góp, vừa phân phối theo lao động và theo
mức độ tham gia các dịch vụ. Nếu công ty cổ phần chỉ chịu tác động của thiết chế
nhà nước và cơ chế thị trường, thì HTX còn chịu tác động của thiết chế cộng đồng.
1.1.1.3 Phân loại HTX
Tuỳ đặc điểm của từng quốc gia, từng giai đoạn cụ thể và nhu cầu của những
người tham gia mà HTX được xây dựng nhằm đáp ứng yêu cầu đặt ra. Có thể nói,
không có mô hình chung áp dụng cho mọi nơi. Tuỳ điều kiện, đặc điểm để lựa chọn

8



mô hình HTX phù hợp. Trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam, để phân loại HTX,
thường căn cứ vào chức năng hoạt động, tính chất trình độ xã hội hóa, quy mô và
đặc điểm hình thành HTX. Với cách phân loại này, có các loại hình HTX sau:
* HTX dịch vụ: bao gồm ba loại: HTX dịch vụ từng khâu; HTX dịch vụ tổng
hợp đa chức năng và HTX dịch vụ đơn mục đích hay HTX chuyên ngành.
- HTX dịch vụ từng khâu còn gọi là HTX dịch vụ chuyên khâu có nội dung
hoạt động tập trung ở từng lĩnh vực trong quá trình tái sản xuất hoặc từng khâu công

Ế

việc trong quá trình sản xuất và phục vụ cho sản xuất, như HTX tín dụng, HTX mua

U

bán, HTX dịch vụ đầu vào, HTX dịch vụ đầu ra, HTX chuyên dịch vụ về tưới tiêu,

́H

HTX chuyên phòng trừ sâu bệnh.

- HTX dịch vụ tổng hợp - đa chức năng có nội dung hoạt động đa dạng, gồm



nhiều khâu dịch vụ cho sản xuất, cung ứng vật tư đầu vào, tiêu thụ sản phẩm (đầu ra),
dịch vụ giống, phòng trừ sâu bệnh, tưới tiêu. Tuỳ thuộc đặc điểm, điều kiện, trình độ

H

phát triển sản xuất và tập quán ở từng vùng mà nhu cầu của nông hộ đối với từng loại


IN

hình dịch vụ có khác nhau. Ở nước ta, trong điều kiện phát triển nền nông nghiệp

K

hàng hóa, một số loại hình dịch vụ là nhu cầu cần thiết đối với tất cả các vùng trong
cả nước. Đó là dịch vụ tín dụng mà trước hết là cung cấp vốn cho nông dân vay, dịch

̣C

vụ tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ thủy lợi, điện, dịch vụ khoa học kỹ thuật.

O

- HTX dịch vụ đơn mục đích được hình thành từ nhu cầu của các hộ thành

̣I H

viên cùng sản xuất - kinh doanh một loại hàng hoá tập trung, hoặc cùng làm một
nghề giống nhau (HTX trồng rừng, HTX trồng mía...). HTX thực hiện các khâu

Đ
A

dịch vụ của kinh tế hộ như chọn giống, cung ứng vật tư, trao đổi hướng dẫn kỹ
thuật, dịch vụ vận chuyển và tiêu thụ sản phẩm, đại diện các hộ thành viên quan hệ
với cơ sở chế biến, ngân hàng...
* HTX sản xuất kết hợp với dịch vụ: Đối với HTX loại này thì hoạt động sản

xuất là chủ yếu, dịch vụ là kết hợp, phù hợp trong các ngành tiểu thủ công nghiệp,
xây dựng, nghề đánh cá, nghề làm muối (trừ ngành trồng trọt và chăn nuôi).
* HTX sản xuất - kinh doanh ở mức độ hợp tác toàn diện:
HTX loại này có cơ cấu tổ chức, nội dung hoạt động, bộ máy quản lý và chế
độ hạch toán, kiểm kê, kiểm soát, phân phối theo nguyên tắc của HTX kiểu mới và

9


tương tự một doanh nghiệp tập thể; Sở hữu tài sản trong HTX gồm hai phần: sở hữu
tập thể và sở hữu cổ phần. Xã viên HTX tham gia lao động trong HTX được hưởng
lương theo nguyên tắc phân phối lao động và hưởng lãi cổ phần (ngoài phúc lợi tập
thể) của HTX; HTX hoạt động sản xuất - kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận nhằm
phát triển kinh tế HTX và đem lại lợi ích cho xã viên [5].
1.1.2 Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của HTX
1.1.2.1 Tự nguyện

Ế

Mọi cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân có đủ điều kiện theo quy định của Luật

U

HTX, tán thành Điều lệ HTX đều có quyền gia nhập HTX; không ai, không tổ chức

́H

nào có thể bắt buộc người dân tham gia HTX; xã viên có quyền ra HTX theo qui
định của Điều lệ HTX.




Tự nguyện là nguyên tắc đầu tiên của HTX. Xã viên không chịu bất kỳ áp
buộc nào.

H

1.1.2.2 Dân chủ, bình đẳng và công khai

IN

Xã viên có quyền tham gia quản lý, kiểm tra, giám sát HTX và có quyền

K

ngang nhau trong biểu quyết; thực hiện công khai kết quả hoạt động, phương hướng
sản xuất, kinh doanh, việc trích lập các quỹ; chia lãi theo vốn góp, theo mức độ sử

O

̣C

dụng dịch vụ của HTX; các đóng góp xã hội; các quyền lợi, nghĩa vụ của từng xã

̣I H

viên, trừ những vấn đề thuộc về bí mật kinh doanh, bí quyết công nghệ sản xuất do
Đại hội xã viên quy định.

Đ

A

Ở HTX, trước khi thành lập, tất cả xã viên đều hiểu biết rõ ràng nhu cầu
chung của mình về kinh tế, văn hóa, xã hội; HTX đáp ứng nhu cầu chung đó (thông
qua cung cấp sản phẩm hay dịch vụ chung) có hiệu quả hơn so với từng xã viên tự
mình đáp ứng. Phương án hoạt động kinh doanh dịch vụ của HTX chính là phương
án tổ chức hoạt động cung cấp sản phẩm, dịch vụ chung cho mọi xã viên. Mọi xã
viên đều có quyền như nhau bàn bạc về việc thực hiện phương án sao cho có hiệu
quả nhất. Đến khi thành lập HTX, mọi xã viên phải góp vốn dù ít hay nhiều. Khi sử
dụng dịch vụ của HTX, xã viên có thể tiêu dùng nhiều ít khác nhau, nhưng xã viên
nào cũng được lợi. Phần thu nhập còn lại được đưa vào quỹ phúc lợi và quỹ phát

10


triển của HTX mang lại lợi ích chung cho cộng đồng xã viên và mỗi xã viên đều
được hưởng một cách bình đẳng. Với cách thức như vậy, rõ ràng HTX được quản lý
một cách dân chủ bởi tất cả xã viên; mỗi xã viên có một phiếu biểu quyết như nhau;
mọi vấn đề của HTX đều được công khai, minh bạch trước xã viên.
1.1.2.3 Tự chủ, tự chịu trách nhiệm và cùng có lợi
HTX tự chủ và tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất, kinh
doanh; tự quyết định về phân phối thu nhập; lập và mức trích lập các quỹ; mức tiền

Ế

công, tiền lương đối với những người làm việc cho HTX; Sau khi thực hiện xong

U

nghĩa vụ nộp thuế và trang trải các khoản lỗ của HTX, lãi được trích một phần vào


́H

các quỹ của HTX, một phần chia theo vốn góp và công sức đóng góp của xã viên,
phần còn lại chia cho xã viên theo mức độ sử dụng dịch vụ của HTX.



Xét cho cùng, HTX là tổ chức kinh tế tự quản của xã viên, mang lại lợi ích
cho xã viên, tự chủ về tài chính thì đương nhiên tự chủ về hoạt động và trong mọi

H

quyết định của mình. Không cá nhân, tổ chức nào có thể can thiệp vào công việc nội

IN

bộ của HTX. Ngay cả khi Chính phủ hoặc các tổ chức khác hỗ trợ HTX thì vẫn phải

K

tôn trọng tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm và tự quyết định của HTX. Một khi

hình thức.

̣C

nguyên tắc này bị phá vỡ thì HTX không thể tồn tại, nếu có thì chỉ tồn tại về mặt

̣I H


O

1.1.2.4 Hợp tác và phát triển cộng đồng
HTX phục vụ các thành viên của mình một cách có hiệu quả và tăng cường

Đ
A

hợp tác với nhau trên bình diện địa phương, vùng, quốc gia và quốc tế, theo chuyên
ngành hoặc dưới hình thức hiệp hội.
Xã viên nếu đơn lẻ thì yếu kém, thiếu sức cạnh tranh, hợp tác với nhau thông

qua HTX là cần thiết nhưng chưa đủ. Nếu các HTX rời rạc, thiếu sự hợp tác liên kết
thì cũng giống như xã viên đơn lẻ. Vì vậy, HTX chỉ thực sự mạnh và mạnh hơn nữa
nếu chúng được liên kết với nhau trên cơ sở đáp ứng hiệu quả cao hơn nhu cầu
chung của các HTX thành viên.
HTX phải bảo đảm sự phát triển của cộng đồng các thành viên của mình
thông qua các chính sách do HTX quyết định, bao gồm các hoạt động phúc lợi,

11


hoạt động văn hóa - xã hội nhằm cải thiện đời sống mọi mặt của cộng đồng xã
viên HTX.
Xã viên phải có ý thức phát huy tinh thần xây dựng tập thể và hợp tác với
nhau trong HTX, trong cộng đồng xã hội; Xã viên HTX không chỉ hợp tác thụ
hưởng lợi ích kinh tế mà còn phát triển sinh hoạt văn hóa xã hội cộng đồng của
mình; đồng thời góp phần phát triển đời sống cộng đồng dân cư tại địa bàn, rút ngắn
cách biệt mức sống giữa nông thôn - thành thị và với cộng đồng xã hội khác, giải


Ế

quyết các mâu thuẫn, vướng mắc trong cộng đồng xã viên HTX, từ đó cải thiện và

U

củng cố an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ngay tại địa bàn cơ sở.

́H

Một HTX mới hình thành không phải đã có đầy đủ ngay lập tức các nguyên
tắc, mà các nguyên tắc HTX này được củng cố, hoàn thiện dần trong quá trình hoạt



động [3].

1.1.3. Sự cần thiết và vai trò của HTX trong nông nghiệp

H

1.1.3.1. Sự cần thiết của HTX trong nông nghiệp

IN

Cùng với các điều kiện thuận lợi, sản xuất nông nghiệp gặp không ít khó

K


khăn, trở ngại do tác động của thời tiết, khí hậu và các yếu tố sâu bệnh phá hoại.
Khi nền sản xuất còn mang nặng tính tự cung tự cấp thì quá trình hợp tác mang tính

O

̣C

chất hợp tác lao động theo mùa vụ, đổi công, cùng làm giúp nhau nhằm đáp ứng

̣I H

yêu cầu thời vụ, hoặc tăng thêm sức mạnh để giải quyết những công việc mà từng
hộ gia đình không có khả năng thực hiện, hoặc làm riêng lẻ không có hiệu quả.

Đ
A

Khi nền nông nghiệp hàng hóa phát triển, nhu cầu dịch vụ cho quá trình tái
sản xuất ngày càng tăng cả về quy mô và chất lượng dịch vụ, như dịch vụ về giống,
phòng trừ sâu bệnh, chế biến và tiêu thụ nông sản, thủy lợi. Trong điều kiện này,
từng hộ nông dân tự đảm nhiệm tất cả các khâu cho quá trình sản xuất sẽ gặp khó
khăn, hoặc không đủ khả năng đáp ứng, hoặc hiệu quả kinh tế thấp hơn so với hợp
tác. Từ đó nảy sinh nhu cầu hợp tác ở trình độ cao hơn, dẫn đến hình thành HTX.
Ở nước ta, sau khi hộ nông dân được xác định là hộ kinh tế tự chủ, giờ đây,
họ đang đứng trước nhu cầu phải tổ chức lại để tạo nên sức mạnh mới trong điều
kiện mới là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nói cách khác, họ

12



đã và đang cần những hình thức hợp tác, liên doanh, liên kết kinh tế phù hợp, có
hiệu quả nhằm tự bảo vệ và phát triển kinh tế của mình, nâng cao năng lực sản xuất
kinh doanh nông nghiệp hàng hóa. Bởi vì, khi chuyển sang sản xuất hàng hóa, do
tính phức tạp của sản xuất nông nghiệp, đòi hỏi phải có sự liên kết, hợp tác để cùng
tồn tại và phát triển. Trong sản xuất hàng hóa, tuy đã là hộ tự chủ nhưng bản thân
nông hộ luôn đứng trước những giới hạn trong việc góp sức, góp vốn kinh doanh,
tìm hiểu thị trường và tiêu thụ sản phẩm, nghĩa là họ cần được hỗ trợ cả các dịch vụ

Ế

đầu vào và đầu ra. Mặt khác, phát triển nông nghiệp hàng hóa trong thời kỳ công

U

nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập và mở cửa nền kinh tế, đòi hỏi phải có sự hợp

́H

tác, liên doanh, liên kết của nhiều lực lượng tham gia hoạt động sản xuất kinh
doanh, từ sản xuất - chế biến - tiêu thụ, từ nghiên cứu - ứng dụng, triển khai các



thành tựu, quy trình khoa học và công nghệ, biến người nông dân không chỉ là
những ông chủ nhỏ với lợi ích nhiều hơn mà còn kết hợp được hài hòa với lợi ích

H

của các thành phần kinh tế, với lợi ích kinh tế của Nhà nước [6].


IN

Như vậy, trong lĩnh vực nông nghiệp, xuất phát từ mục tiêu kinh tế, nông dân

K

đều có nhu cầu hợp tác từ hình thức giản đơn đến phức tạp, từ đơn ngành đến đa
ngành. Lực lượng sản xuất càng phát triển thì nhu cầu hợp tác càng tăng, mối quan

O

̣C

hệ hợp tác ngày càng sâu rộng, do đó tất yếu hình thành và ngày càng phát triển các
hình thức kinh tế hợp tác ở trình độ cao hơn.

̣I H

1.1.3.2 Vai trò của HTX trong nông nghiệp

Đ
A

Bên cạnh khu vực kinh tế nhà nước và doanh nghiệp tư nhân, một lực lượng
lớn cư dân và người lao động nhỏ lẻ vì nhiều lý do họ không thể tham gia, không
thể cạnh tranh với hai khu vực nêu trên. Do đó, họ tự tổ chức sản xuất kinh doanh
theo mô hình hộ cá thể. Dưới tác động của quy luật cạnh tranh và tiến bộ khoa học
kỹ thuật, họ phải liên kết lại với nhau, một mặt nhằm tăng năng lực cạnh tranh, mặt
khác giảm chi phí nhờ hiệu ứng quy mô.
HTX nông nghiệp có vai trò vô cùng quan trọng đối với sản xuất nói chung

và sản xuất nông nghiệp, kinh tế hộ nói riêng trong quá trình phát triển nền kinh tế
của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vai trò đó thể hiện ở những mặt sau:

13


Một là, góp phần phát triển sản xuất nông nghiệp trong tiến trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
Các HTX nông nghiệp có tác động tích cực đến việc hỗ trợ thúc đẩy kinh tế
hộ phát triển, tạo ra mối liên kết, hợp tác giữa những người sản xuất nhỏ, tăng
cường sức cạnh tranh trong cơ chế thị trường, khai thác các tiềm năng về vốn, kỹ
thuật, để phát triển các ngành nghề, đa dạng hóa kinh tế nông thôn, góp phần thúc
đẩy quá trình xã hội hoá, thực hiện tốt vai trò là cầu nối giữa các hộ nông dân, xã

Ế

viên với nhà nước và các tổ chức kinh tế nhà nước, tăng cường mối quan hệ liên

U

minh công nông về kinh tế.

́H

Mặt khác, hiện nay sản xuất nông nghiệp nước ta chủ yếu là sản xuất nhỏ,
phân tán, các hoạt động dịch vụ trong nông nghiệp còn nhiều bất cập, bởi vậy phát



huy vai trò hỗ trợ, mở rộng các hoạt động dịch vụ, tín dụng nội bộ của HTX nông

nghiệp để giúp đỡ các hộ nông dân sản xuất kinh doanh nông sản hàng hoá, đáp ứng

H

nhu cầu thị trường.

IN

Hai là, góp phần mở rộng thị trường nông sản. Cùng với quá trình phát triển

K

sản xuất hàng hoá của các ngành trong nền kinh tế quốc dân, nông sản hàng hoá ở
nông thôn, nhất là các vùng chuyên canh và các hộ trang trại ngày càng tăng lên đòi

O

̣C

hỏi tăng cường khâu tổ chức sản xuất, chế biến nông lâm sản để tăng thêm giá trị

̣I H

kinh tế, nâng cao chất lượng, đẩy mạnh tiêu thụ hàng hóa, giảm thiểu rủi ro và sự
chèn ép của tư thương, không những chiếm lĩnh thị trường trong nước mà còn

Đ
A

hướng ra xuất khẩu.


Ba là, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phân công lao động trên địa

bàn nông thôn. Phát triển các HTX nông nghiệp sẽ góp phần phát triển các ngành
nghề nông thôn, bao gồm các ngành nghề nông lâm thuỷ sản, thủ công mỹ nghệ,
đan lát gốm sứ; Khai thác và sản xuất vật liệu xây dựng, cơ khí nông thôn, dịch vụ
thương mại, cung ứng vật tư hàng hoá phục vụ sản xuất đời sống, tiêu thụ sản phẩm
của nông dân. Trong quá trình hình thành và phát triển các ngành nghề nông thôn sẽ
sử dụng một số lượng nông dân đáng kể, tạo nhiều sản phẩm hàng hoá, góp phần
giải quyết công ăn việc làm cho người nông dân vùng nông thôn.

14


Bốn là, góp phần tiếp nhận khoa học công nghệ, thiết bị hiện đại vào các
khâu sản xuất nông nghiệp. Khoa học công nghệ là nhân tố có vai trò quan trọng
quyết định thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhưng kinh tế hộ
gia đình, các cá nhân xét về cơ sở vật chất kĩ thuật ở khu vực nông thôn còn rất nhỏ
bé, chỉ có thành lập HTX nông nghiệp mới tập hợp được sự đóng góp của đông đảo
xã viên, khai thác mọi tiềm năng về vốn, lao động, kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất,
các HTX nông nghiệp còn là nơi tổ chức thực hiện việc phổ cập thông tin khoa học

Ế

công nghệ và thông tin thị trường đến các hộ nông dân, xã viên.

U

Năm là, góp phần giải quyết việc làm, nâng cao đời sống, xóa đói giảm


́H

nghèo cho người dân nông thôn. Mặc dù Đảng và Nhà nước đã có nhiều chính sách
nhằm giải quyết việc làm cho người lao động nói chung và người dân nông thôn nói



riêng, nhưng tỷ lệ thất nghiệp ở nông thôn chiếm tỷ lệ khá cao. Vì vậy, phát triển
HTX nông nghiệp phù hợp với những đặc điểm cụ thể của từng nơi sẽ có vai trò

H

từng bước giải quyết mâu thuẫn giữa lao động và việc làm ở nông thôn.

IN

Mô hình HTX ở Việt Nam đã trải qua hơn 54 năm hình thành và phát triển

K

với nhiều lần tìm tòi, thử nghiệm, sửa đổi nhằm phù hợp với từng giai đoạn phát
triển khác nhau cũng như tìm kiếm mô hình phù hợp, hiệu quả. Không thể phủ nhận

̣C

những đóng góp của các HTX trong mỗi giai đoạn nhất định nhưng cũng cần thẳng

O

thắn nhìn nhận, vai trò của các HTX hiện nay còn mờ nhạt trong xu thế phát triển


̣I H

mạnh của các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế như mô hình
tập đoàn kinh tế, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp tư nhân,

Đ
A

công ty cổ phần….

1.1.4. Mối quan hệ giữa kinh tế nông hộ với kinh tế HTX trong nông nghiệp,
nông thôn

Trong nông nghiệp, nông thôn, kinh tế hộ nông dân là một phạm trù phản
ánh một cách tổng hợp các hoạt động kinh tế của từng hộ nông dân với tư cách là
đơn vị kinh tế tự chủ - tế bào kinh tế - xã hội. Nói cách khác, kinh tế hộ nông dân là
tổ chức kinh tế cơ sở của nông nghiệp, nông thôn.
Trong quá trình phát triển nền nông nghiệp hàng hóa, kinh tế hộ nông dân tất
yếu có sự biến chuyển. Ngoại trừ sự thay đổi ngành, nghề hoạt động do kết quả của

15


quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước và những tác động khác. Số còn lại gắn bó với nghề nông sẽ phát triển
theo hướng hình thành các trang trại gia đình với quy mô lớn hơn và trình độ sản
xuất - kinh doanh ngày càng phát triển.
Cùng với quá trình trên, xu hướng tất yếu sẽ hình thành kinh tế HTX với các
đơn vị thành viên là hộ gia đình nông dân. Sự phát triển của kinh tế HTX không phá

vỡ kinh tế của các hộ thành viên. HTX lấy kinh tế của các hộ thành viên làm cơ sở

Ế

hình thành và mục tiêu phục vụ nhằm tạo điều kiện cho các đơn vị kinh tế tự chủ

U

ngày càng phát triển.

́H

Kinh tế hộ và kinh tế HTX có mối quan hệ biện chứng với nhau, là điều kiện
hỗ trợ thúc đẩy nhau phát triển, trong đó kinh tế hộ tự chủ là cái có trước, là hạt



nhân, là tế bào, là cái thứ nhất, cái quyết định cho sự ra đời và phát triển kinh tế
HTX. HTX nông nghiệp là sự bổ sung cho kinh tế hộ nông dân, phục vụ nó và vì

H

thế thiếu kinh tế hộ nông dân, HTX sẽ không có ý nghĩa.

IN

HTX trong nông nghiệp đã ra đời, tồn tại, phát triển và ngày càng hoàn thiện,

K


xuất phát từ yêu cầu khách quan của sản xuất hàng hóa và đời sống của người nông
dân. Tuy nhiên, HTX không phải là mục tiêu cuối cùng của tổ chức sản xuất mà chỉ

̣C

là hình thức tổ chức và biện pháp nhằm thúc đẩy kinh tế hộ phát triển. HTX cũng là

O

con đường để xã hội hóa nền sản xuất nông nghiệp, nhất là những nước đang phát

̣I H

triển như Việt Nam.

Do những đặc thù của sản xuất nông nghiệp mà HTX trong nông nghiệp, về

Đ
A

cơ bản không phải là các HTX sản xuất. Nó chỉ làm chức năng dịch vụ cho sản xuất
nông nghiệp; còn việc trực tiếp sản xuất, hạch toán kinh doanh do các hộ thực hiện,
không cần có sự can thiệp của HTX. Đây là đặc thù trong mối quan hệ giữa kinh tế
hộ và kinh tế HTX trong nông nghiệp, nông thôn.
Tuỳ trình độ và quy mô, điều kiện cụ thể của từng vùng, mỗi hộ có thể tham
gia vào một hay nhiều HTX khác nhau, không phân biệt địa giới hành chính, theo
đúng quy định của Luật HTX.
Về cơ bản, trong mối quan hệ giữa kinh tế hộ và kinh tế HTX được hình
thành không phải trên cơ sở tập thể hóa, mà theo con đường góp vốn, góp công và


16


phân chia lợi ích. Nó không những không động chạm đến quyền sở hữu của từng hộ
gia đình mà còn tạo điều kiện tăng thêm năng lực sản xuất và lợi ích của từng hộ.
Chính điều này làm cho người nông dân dễ dàng tham gia và chấp nhận một cách tự
nguyện. Kinh tế hợp tác và kinh tế HTX do vậy, là sự cộng sinh tất yếu làm động
lực thúc đẩy kinh tế hộ phát triển [7].
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xu hướng đô thị hóa đang diễn ra
ngày càng nhanh ở nước ta đặt ra nhiều vấn đề cho khu vực nông nghiệp, nông

Ế

thôn, nông dân, đặc biệt là vấn đề tụt hậu về khoảng cách phát triển. Thêm vào đó,

U

trong điều kiện Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, trở

́H

thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại quốc tế (WTO), khu vực nông
nghiệp, nông thôn và người nông dân được coi là đối tượng chịu nhiều áp lực cạnh



tranh nhất không chỉ trên thị trường thế giới mà ngay tại thị trường trong nước.
Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và ưu tiên

H


công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, phát triển HTX nông nghiệp

IN

vừa là nội dung quan trọng, vừa là tiền đề của công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

K

1.1.5. Khái quát về phát triển các HTXNN ở tỉnh Quảng Ngãi
Sau khi ổn định việc tái lập tỉnh (1989), năm 1991, UBND tỉnh Quảng Ngãi

̣C

đã ban hành Quyết định số 589/QĐ-UB ngày 24/5/1991 về chuyển hướng phương

O

thức quản lý, điều hành trong HTX nông nghiệp. Nội dung cơ bản của quyết định

̣I H

này là HTX chuyển dần từ trực tiếp tổ chức sản xuất sang dịch vụ cho kinh tế hộ xã
viên; xác định rõ chức năng nhiệm vụ của Ban quản lý HTX và tổ chức lại bộ máy

Đ
A

quản lý HTX theo hướng gọn nhẹ hơn.
Năm 1994 UBND tỉnh tiếp tục ban hành Quyết định số: 2303/QĐ-UB ngày


26/11/1994 về qui chế khoán vốn cho Chủ nhiệm HTXNN, nhằm tạo điều kiện nâng
cao tính chủ động trong quản lý sản xuất kinh doanh của Ban quản lý, thực hiện
mục tiêu nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của tập thể trong HTXNN. Qui chế khoán
vốn được thực hiện theo nguyên tắc bảo tồn vốn với mức sinh lời tối thiểu bằng lãi
suất tiền gửi ngân hàng ngắn hạn cho số vốn được giao khoán đồng thời thực hiện
cơ chế thưởng phạt 100% đối với phần vượt và hụt khoán.

17


Khi thực hiện Quyết định 589/QĐ-UB ngày 24/5/1991, toàn tỉnh có 209
HTXNN, trong đó có 45 HTX loại khá chiếm tỷ lệ 21%, 104 HTX xếp loại trung
bình chiếm tỷ lệ 50% và 62 HTX yếu kém chiếm tỷ lệ 29%. Trong quá trình tổ chức
thực hiện chuyển hướng hoạt động, đổi mới phương thức quản lý điều hành, một số
HTX yếu kém không đủ điều kiện đã tự giải thể 18 HTX. Tính đến cuối năm 1995
còn lại tổng số 191 HTXNN hoạt động.
Thực hiện chuyển đổi theo Luật HTX, tính đến tháng 12/2008 toàn tỉnh còn

Ế

189 HTXNN, trong đó: Có 175 HTXNN (170 HTX đang hoạt động và 05 HTX

U

ngừng hoạt động nhiều năm chờ giải thể); 02 HTX diêm nghiệp; 03 HTX chuyên

́H

canh mía kết hợp chăn nuôi; 01 HTX sản xuất rau an toàn và 08 HTX trong lĩnh vực




thuỷ sản. Theo tổng hợp từ 170 HTX đang hoạt động: có 169 HTX tổ chức dịch vụ
thuỷ lợi chiếm tỷ lệ 99,4%; 116 HTX tổ chức dịch vụ điện sinh hoạt, chiếm tỷ lệ

H

68%; 127 HTX tham gia công tác khuyến nông chiếm 74%; 75 HTX tham gia

IN

BVTV chiếm 44%; 73 HTX tổ chức dịch vụ giống cây trồng, chiếm 42%; 38 HTX
dịch vụ tín dụng nội bộ chiếm 22%, ngoài ra một số HTX có điều kiện mở thêm các

K

dịch vụ khác như làm đất, ngành nghề, trồng rừng..., chiếm tỷ lệ từ 15 - 17% so với

̣C

tổng số HTX đang hoạt động.

O

Thông qua các hoạt động dịch vụ trong hợp tác xã như: cung ứng giống cây

̣I H

trồng, vật nuôi, tổ chức tưới tiêu, bảo vệ thực vật, thú y, làm đất... từ đó hợp tác xã

thống nhất được kế hoạch sản xuất với xã viên, chỉ đạo hướng dẫn gieo trồng đúng

Đ
A

thời vụ, đáp ứng phần lớn nhu cầu sản xuất cho hộ xã viên; chất lượng dịch vụ được
nâng lên; ngoài các hoạt động dịch vụ mang tính chất phục vụ hộ xã viên, nhiều
HTX dùng vốn nhàn rỗi mở thêm dịch vụ tín dụng nội bộ trong HTXNN mang lại
hiệu quả khá cho HTX và đã giúp xã viên thiếu vốn có vốn để phát triển sản xuất,
chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hoá, nâng cao thu
nhập cho xã viên. Các HTX đã rà soát lại các định mức kinh tế kỹ thuật, tổ chức lại
các đội tổ chuyên khâu, quản lý điều hành chặt chẽ hơn đã mang lại hiệu quả rõ rệt.
Chỉ tính riêng kết quả sản xuất kinh doanh năm 2008 cho thấy có trên 80% số HTX

18


kinh doanh sau khi trừ đi các khoản chi phí còn có lãi, số lượng HTX có lãi tăng; lãi
ròng bình quân ở mỗi HTX là 25-30 triệu đồng; Việc thực hiện chia lãi theo vốn
góp và mức độ sử dụng dịch vụ của xã viên đảm bảo đúng qui định của Luật HTX,
tính đến cuối năm 2008, toàn tỉnh có trên 60% số HTXNN thực hiện tốt việc chia
lãi vào cuối năm, xã viên phấn khởi, tin tưởng gắn bó với HTX; riêng các HTX
chuyên canh mía, HTX nuôi trồng thuỷ sản hoạt động kinh doanh kém hiệu quả
không có lãi.

Ế

Ngoài việc mở rộng kinh doanh dịch vụ nhiều HTX đã thể hiện rõ vai trò là

U


bà đỡ cho nông dân trong việc chuyển giao tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, chuyển

́H

đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, mùa vụ mang lại hiệu quả tốt cho xã viên...



1.2. HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH DỊCH VỤ CỦA HTX NN
1.2.1. Khái niệm về hiệu quả

H

Hiệu quả là thuật ngữ dùng để chỉ mối quan hệ giữa kết quả thực hiện với

IN

các mục tiêu hoạt động của chủ thể và với chi phí mà chủ thể bỏ ra để có kết quả đó
trong những điều kiện nhất định.

K

Hiệu quả được biểu hiện theo nhiều góc độ khác nhau như hiệu quả kinh tế,

O

quả tương đối.

̣C


hiệu quả xã hội, hiệu quả trực tiếp, hiệu quả gián tiếp, hiệu quả tuyệt đối và hiệu

̣I H

1.2.2. Hiệu quả kinh tế

Từ trước đến nay các nhà kinh tế đã đưa ra nhiều khái niệm khác nhau về

Đ
A

phạm trù hiệu quả kinh tế. Tác giả Hồ Vĩnh Đào cho rằng: "Hiệu quả kinh tế còn
gọi là hiệu ích kinh tế, là do sự so sánh giữa chiếm dụng và tiêu hao trong hoạt động
kinh tế (bao gồm lao động vật hóa và lao động sống) với thành quả có ích đạt được"
[28]. Khái niệm này nhấn mạnh đến chất lượng hoạt động kinh tế được biểu hiện
trong quan hệ so sánh giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó.
TS. Nguyễn Tiến Mạnh lại cho rằng: "Hiệu quả kinh tế là phạm trù kinh tế khách
quan phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực để đạt được mục tiêu đã xác định"
[17]. Khái niệm này thể hiện sự tập trung, sự phát triển kinh tế theo chiều sâu, phản

19


ánh trình độ khai thác các nguồn lực và trình độ chi phí các nguồn lực đó trong quá
trình tái sản xuất nhằm thực hiện mục tiêu đề ra. Đánh giá vai trò, vị trí và tầm quan
trọng của hiệu quả kinh tế, GS.TS. Ngô Đình Giao cho rằng: "Hiệu quả kinh tế là
tiêu chuẩn cao nhất của mọi sự lựa chọn kinh tế của các doanh nghiệp trong nền
kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước" [12].
Về khái quát có thể hiểu rằng hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế phản

ánh chất lượng hoạt động kinh tế, phản ánh trình độ khai thác các nguồn lực và trình

Ế

độ chi phí các nguồn lực đó trong quá trình tái sản xuất nhằm thực hiện mục tiêu đề

U

ra và là thước đo trình độ tổ chức và quản lý kinh doanh của doanh nghiệp.

́H

Bản chất của hiệu quả kinh tế là nâng cao năng suất lao động xã hội và tiết



kiệm các nguồn lực. Đây là hai mặt có quan hệ mật thiết của vấn đề hiệu quả kinh
tế, gắn liền với hai quy luật tương ứng của nền sản xuất xã hội là quy luật năng suất

H

lao động và quy luật tiết kiệm thời gian. Yêu cầu của việc nâng cao hiệu quả kinh tế

IN

là đạt kết quả tối đa với chi phí nhất định hoặc ngược lại, đạt kết quả nhất định với
chi phí tối thiểu.

K


Nếu xét trên phương diện so sánh thì hiệu quả kinh tế là sự so sánh giữa một

̣C

bên là kết quả đạt được và một bên là chi phí bỏ ra. Kết quả đạt được có thể trên

O

phương diện kinh tế, tài chính, cũng có thể trên phương diện xã hội như giảm thất

̣I H

nghiệp, cải thiện môi trường sinh thái. Do đó hình thành nên khái niệm hiệu quả xã
hội và hiệu quả kinh tế - xã hội.

Đ
A

Hiệu quả xã hội là sự tương quan so sánh giữa chi phí bỏ ra với kết quả mà

xã hội đạt được như tăng thêm việc làm, cải thiện điều kiện sống, cải thiện môi
trường sinh thái, giảm bớt khoảng cách giàu nghèo.
Hiệu quả kinh tế - xã hội là tương quan so sánh giữa chi phí bỏ ra và kết quả
thu được cả về mặt kinh tế và xã hội. Phát triển kinh tế và phát triển xã hội có mối
quan hệ mật thiết với nhau, mục tiêu để phát triển kinh tế là để phát triển xã hội và
ngược lại.

20



Hiệu quả kinh tế là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp. Vì vậy, khi đánh giá
hiệu quả hoạt động kinh tế, cần phải quán triệt một số quan điểm mang tính nguyên
tắc sau:
- Bảo đảm sự kết hợp hài hoà các loại lợi ích xã hội, lợi ích tập thể, lợi ích
người lao động, lợi ích trước mắt, lợi ích lâu dài... Quan điểm này đòi hỏi việc nâng
cao hiệu quả kinh doanh phải xuất phát từ việc thoả mãn một cách thích đáng nhu
cầu của các chủ thể trong mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, trong đó quan trọng nhất

Ế

là lợi ích của chủ thể thứ nhất - hộ xã viên.

U

- Bảo đảm tính toàn diện và hệ thống trong việc nâng cao hiệu quả kinh

́H

doanh. Theo quan điểm này thì việc nâng cao hiệu quả kinh doanh phải là sự kết



hợp hài hoà giữa hiệu quả kinh doanh của HTX với hiệu quả của toàn bộ xã viên
HTX. Quan điểm này đòi hỏi việc nâng cao hiệu quả kinh doanh phải xuất phát từ

H

việc đảm bảo yêu cầu nâng cao hiệu quả của nền sản xuất hàng hoá, của ngành, của

IN


địa phương, của cơ sở. Trong từng đơn vị cơ sở khi xem xét đánh giá hiệu quả kinh
doanh phải coi trọng toàn bộ các khâu của quá trình kinh doanh.

K

- Bảo đảm tính thực tiễn của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh. Khi đánh

̣C

giá và xác định biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh phải xuất phát từ đặc điểm,

O

điều kiện kinh tế, xã hội của ngành, của địa phương và của HTX trong từng thời kỳ.

̣I H

- Đảm bảo thống nhất giữa nhiệm vụ chính trị, xã hội với nhiệm vụ kinh tế
trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh. Trước hết ta phải nhận thấy rằng sự ổn

Đ
A

định của một quốc gia, địa phương là một nhân tố quan trọng trong việc nâng cao
hiệu quả kinh doanh. Trong khi đó chính sự ổn định đó lại được quyết định bởi mức
độ thoả mãn lợi ích của quốc gia. Do vậy, theo quan điểm này đòi hỏi việc nâng cao
hiệu quả kinh doanh phải được xuất phát từ mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế
xã hội của đất nước, của địa phương.
- Đánh giá hiệu quả kinh doanh phải căn cứ vào cả mặt hiện vật lẫn giá trị

của hàng hoá. Mặt hiện vật thể hiện ở số lượng sản phẩm và chất lượng sản phẩm,
còn mặt giá trị là biểu hiện bằng tiền của hàng hoá sản phẩm, của kết quả và chi phí

21


bỏ ra. Như vậy, căn cứ vào kết quả cuối cùng cả về mặt hiện vật và mặt giá trị là
một đòi hỏi tất yếu trong quá trình đánh giá hiệu quả kinh doanh trong nền kinh tế
thị trường.
1.2.3. Hiệu quả hoạt động kinh doanh dịch vụ của HTXNN
* Dịch vụ là những hoạt động lao động mang tính xã hội, tạo ra các sản phẩm
hàng hóa không tồn tại dưới hình thái vật thể, không dẫn đến việc chuyển quyền sở
hữu nhằm thỏa mãn kịp thời các nhu cầu sản xuất và đời sống sinh hoạt của con

Ế

người [22]. Dịch vụ có những đặc điểm cơ bản sau:

U

- Tính không mất đi: Kỹ năng dịch vụ không mất đi sau khi đã cung ứng. Sau

́H

một ca phẫu thuật thành công, bác sỹ không mất đi khả năng phẫu thuật. Sau một
buổi giảng bải của giảng viên thành công, giảng viên không mất đi khả năng giảng



bài... Sự thành công của bác sỹ trong phẫu thuật, sự thành công trong giảng bài của

giảng viên tồn tại và hướng tới sự hoàn thiện hơn trong sự lặp lại hoạt động của

H

mình.

IN

- Tính vô hình hay phi vật chất: Các dịch vụ đều vô hình. Người ta không thể

K

nhìn thấy, thử mùi vị, nghe hay ngửi chúng trước khi tiêu dùng chúng. Người tiêu

̣C

dùng dịch vụ buộc phải tin vào người cung cấp dịch vụ - Người mua buộc phải tin

O

vào người bán.

̣I H

Để giảm bớt sự không chắc chắn khi mua dịch vụ, người mua phải tìm kiếm
các dấu hiệu chứng tỏ chất lượng dịch vụ cung ứng đó như: thương hiệu, điểm bán,

Đ
A


người cung ứng, trang thiết bị, biểu tượng, giá cả. Về phía người cung ứng dịch vụ,
để củng cố niềm tin cho khách hàng đối với mình, có thể thi hành một loạt các biện
pháp cụ thể như: có thể tăng tính hữu hình của dịch vụ; có thể không chỉ mô tả dịch
vụ của mình mà còn làm khách hàng chú ý đến lợi ích liên quan đến dịch vụ đó; có
thể nghĩ ra tên gọi cho các dịch vụ của mình một cách gợi cảm; có thể mời một
người nổi tiếng nào đó tham gia tuyên truyền dịch vụ của mình để tăng độ tin tưởng
cho người tiêu dùng.
- Tính không thể phân chia: Quá trình sản xuất và tiêu thụ dịch vụ diễn ra
đồng thời. Khác với sản xuất vật chất, sản xuất dịch vụ không thể sản xuất sẵn để

22


vào kho, sau đó mới tiêu thụ. Dịch vụ không thể tách rời khỏi nguồn gốc của nó,
trong khi hàng hóa vật chất tồn tại không phụ thuộc vào vào sự có mặt hay vắng
mặt nguồn gốc của nó.
- Tính không ổn định và khó xác định chất lượng: Chất lượng dịch vụ dao
động trong một khoảng rất rộng, tuỳ thuộc vào hoàn cảnh tạo ra dịch vụ (như người
cung ứng, thời gian, địa điểm cung ứng). Sự không ổn định chất lượng này giải
thích vì sao người mua dịch vụ thường hỏi ý kiến những người mua trước, trong khi

Ế

lựa chọn người cung cấp dịch vụ.

U

- Tính không lưu giữ được: Dịch vụ không thể lưu giữ được. Tính không lưu

́H


giữ được của dịch vụ không phải là vấn đề lớn nếu nhu cầu ổn định, được biết
trước. Nhưng thực tiễn nhu cầu dịch vụ không ổn định, luôn dao động thì công ty



dịch vụ sẽ gặp những vấn đề trở ngại về mức độ sử dụng nhân lực và cơ sở vật chất
kỹ thuật.

H

* Dịch vụ nông nghiệp là những điều kiện, những yếu tố cần thiết hoặc cần

IN

có cho một quá trình sản xuất, kinh doanh một loại sản phẩm nào đó trong nông

K

nghiệp (ví dụ cung cấp giống cây trồng, con gia súc, làm đất, tưới, tiêu nước, bảo vệ
và phòng trừ sâu bệnh...), mà người sản xuất không có sẵn, không thể làm hoặc tạo

O

̣C

ra được, hoặc nếu tự làm cũng không có hiệu quả, cho nên họ phải tiếp nhận các

̣I H


điều kiện, các yếu tố đó từ bên ngoài bằng các cách thức khác nhau như: mua, bán,
trao đổi, thuê và nhờ... Dịch vụ nông nghiệp có các đặc điểm sau:

Đ
A

- Tính chất thời vụ: Do đặc điểm của sản xuất nông nghiệp có tính thời vụ, vì
vậy hoạt động dịch vụ nông nghiệp cũng mang tính thời vụ rõ nét. Có nghĩa là việc
cung ứng, sử dụng các dịch vụ nông nghiệp chỉ xuất hiện vào những thời điểm nhất
định trong năm, đặc biệt là những dịch vụ cho ngành trồng trọt.
Muốn dịch vụ tốt, HTX phải nắm vững tính thời vụ đối với từng dịch vụ để
dự trữ hợp lý, đáp ứng kịp thời nhu cầu của xã viên và nông dân; tránh dự trữ quá
thừa gây tồn đọng, gây lãng phí vốn...
Tính thời vụ (hay tính không thường xuyên của dịch vụ nông nghiệp) có ảnh
hưởng rất lớn đến các vấn đề sau:

23


Hình thức tổ chức đơn vị làm dịch vụ (thường xuyên hay tạm thời, chuyên
môn hóa hay tổng hợp).
Cách thức huy động và sử dụng vốn, tư liệu sản xuất, lao động trong những
giai đoạn nông nhàn như thế nào để có hiệu quả.
Vấn đề mua sắm, dự trữ vật tư để tránh ứ đọng, gây lãng phí, kém hiệu quả.
Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch dịch vụ đúng thời vụ, cung cấp dịch
vụ kịp thời cho khách hàng.

Ế

- Được cung cấp từ nhiều nguồn khác nhau và mang tính cạnh tranh cao:


U

Trong thị trường dịch vụ nông thôn, các thành phần kinh tế khác nhau tham gia dịch

́H

vụ ngày càng đông đảo. Do đó, cạnh tranh giành giật khách hàng, chiếm lĩnh thị
trường ngày càng khốc liệt. HTX muốn mở rộng dịch vụ có hiệu quả, không có



cách nào khác là phải tìm mọi cách cạnh tranh thắng lợi, phù hợp với thế mạnh của
mình như nâng cao chất lượng, hạ giá dịch vụ, cung cấp kịp thời, thuận tiện và có

H

cách tiếp thị phù hợp v.v...

IN

Trong cơ chế thị trường, người ta chia thị trường thành 2 loại: thị trường

K

người bán và thị trường người mua.

Trong điều kiện sức sản xuất nhỏ bé, sản xuất không đủ ăn, cung nhỏ hơn

̣C


cầu thì thị trường là thị trường của người bán, người bán quyết định tất cả (quyết

O

định giá bán, số lượng bán và thời gian bán hàng).

̣I H

Nhưng khi sản xuất hàng hóa và kinh tế thị trường phát triển, do sức sản xuất
phát triển, lượng cung ứng hàng hóa dịch vụ lớn hơn nhu cầu tiêu dùng thì thị

Đ
A

trường là thị trường của người mua (người tiêu dùng dịch vụ). Người mua thông
qua việc lựa chọn hàng hóa, dịch vụ, giá cả... để quyết định mua hay không. Do đó,
doanh nghiệp hoặc HTX làm dịch vụ không thể cửa quyền hoặc dịch vụ theo kiểu
ép buộc, mà phải trên cơ sở nắm vững nhu cầu khách hàng để phục vụ tối đa, thông
qua đó mà tăng khối lượng doanh số dịch vụ và tăng lợi nhuận.
- Tính có thể tự dịch vụ: Nhìn chung, sản xuất nông nghiệp là loại sản xuất
đơn giản, ít đòi hỏi trình độ cao về chuyên môn. Những dịch vụ có tính lao vụ như
làm đất, chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh... người sản xuất đều có thể tự làm lấy được.

24


Vì vậy, cần nắm vững nhu cầu về dịch vụ của khách hàng và phải biết loại dịch vụ
nào xã viên tự làm được và làm có hiệu quả thì để họ làm. Đối với những dịch vụ có
tính kỹ thuật, phức tạp cao mà hộ xã viên tự làm sẽ có hiệu quả rất thấp, đôi khi còn

gây ra những tác động đáng kể đến sức khỏe con người và của cải (ví dụ: phun
thuốc trừ sâu, bệnh; tiêm, thiến gia súc, gia cầm...) thì HTX cần phải đảm nhiệm.
- Dịch vụ nông nghiệp chỉ có hiệu quả cao khi được thực hiện đồng thời và
trên phạm vi rộng lớn. Những loại dịch vụ này đòi hỏi sự hợp tác trong cung cấp và

Ế

sử dụng dịch vụ. Vì vậy, đây là những loại dịch vụ HTX không chỉ cần ưu tiên

U

trong lựa chọn và tổ chức hoạt động, mà còn cần khuyến khích xã viên sử dụng dịch

́H

vụ của HTX để giảm thấp chi phí sản xuất của hộ gia đình.

- Nhiều loại dịch vụ nông nghiệp rất khó định lượng chính xác (cân, đong,



đo, đếm...) như dịch vụ tưới tiêu, bảo vệ thực vật, khuyến nông... Vì vậy, sẽ rất khó
khăn cho việc xác định nhu cầu, lập kế hoạch, ký kết hợp đồng. giao khoán và đặc

H

biệt là hạch toán, thanh toán hợp đồng. Đây cũng là vấn đề khó, dễ đưa đến thiệt

IN


thòi cho người sử dụng dịch vụ và sự mất công bằng giữa xã viên với nhau. Việc

K

tính đơn giá dịch vụ tưới, tiêu căn cứ vào diện tích (đầu sào) như hiện nay rõ ràng là
không hợp lý, vì nó không tính đến chất lượng tưới, tiêu, do vậy đây cũng là loại

̣C

dịch vụ mà người tiêu dùng rất hay thắc mắc khi thanh toán.

O

Khi hộ nông dân là một đơn vị kinh tế tự chủ thì chức năng hoạt động dịch

̣I H

vụ của HTX nhằm thỏa mãn nhu cầu hỗ trợ, thúc đẩy phát triển kinh tế hộ được coi
là quan trọng nhất và mang tính phổ biến.

Đ
A

Đó là các dịch vụ đầu vào và đầu ra cho trồng trọt và chăn nuôi, dịch vụ cho

vay vốn, dịch vụ tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ chuyển giao công nghệ, dịch vụ tưới
tiêu và bảo vệ cây trồng... Các loại dịch vụ này do các tổ chức dịch vụ hỗ trợ sản
xuất nông nghiệp thực hiện đáp ứng kịp thời nhu cầu sản xuất, cải thiện dần đời
sống nông dân. Mặt khác, khi cuộc sống vật chất của nông dân được cải thiện sẽ
thúc đẩy các loại dịch vụ phục vụ sinh hoạt đời sống cộng đồng phát triển: dịch vụ

văn hóa, giáo dục, khám chữa bệnh. Số lao động dôi dư trong sản xuất nông nghiệp
đuợc chuyển sang làm dịch vụ sẽ tạo điều kiện tập trung ruộng đất, hình thành các

25


×