Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Tổ chức tòa gia đình và người chưa thành niên tại tòa án nhân dân tỉnh thành phố trực thuộc trung ương tòa án nhân dân quận huyện thị xã thành phố tỉnh và tương đương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.48 KB, 10 trang )

TỔ CHỨC TÒA GIA ĐÌNH VÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN TẠI
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH, THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC TRUNG
ƯƠNG, TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN, HUYỆN, THỊ XÃ, THÀNH PHỐ
THUỘC TỈNH VÀ TƯƠNG ĐƯƠNG
––––––––––––––
(Ý kiến chỉ đạo của Đồng chí Trương Hòa Bình - Ủy viên Bộ Chính trị,
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao tại Hội nghị trực tuyến
về công tác Tòa án, ngày 18-3-2016)
Theo quy định của Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 2014 thì trong cơ
cấu tổ chức của Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Tòa
án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương có Tòa
gia đình và người chưa thành niên. 1 Tuy nhiên, việc tổ chức Tòa chuyên trách
này ở Tòa án nào phải căn cứ vào yêu cầu công việc và thực tế xét xử của mỗi
Tòa án; tùy thuộc vào biên chế đội ngũ Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký của
từng Tòa án và do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao xem xét, quyết định.
Có thể nói, việc ra đời của Tòa gia đình và người chưa thành niên trong
tổ chức bộ máy của Tòa án nhân dân là dấu ấn quan trọng của cải cách tư
pháp, là bước đi cụ thể nhằm triển khai có hiệu quả các chủ trương, quan điểm
của Đảng và pháp luật của Nhà nước về bảo vệ, phát triển gia đình; bảo vệ,
chăm sóc, giáo dục trẻ em nói chung và xử lý người chưa thành niên vi phạm
pháp luật nói riêng2; là bước đi cụ thể để thực hiện các cam kết quốc tế của
Việt Nam về bảo vệ các quyền của trẻ em, người chưa thành niên đã được ghi
nhận trong các văn kiện quốc tế mà Việt Nam là thành viên, đặc biệt là Công
ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em năm 19903, phù hợp với mô hình tổ
1

Điều 38 và Điều 45 của Luật tổ chức Tòa án nhân dân.

2

Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã xác định: “Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc,


thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành
nhân cách ... Chú trọng cải thiện điều kiện sống, lao động và học tập của thanh niên, thiếu niên, giáo dục và
bảo vệ trẻ em...”; Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020 yêu cầu đổi mới, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án; hoạt động tư pháp mà
trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao; Chỉ thị số 20-CT/TW ngày 05-11-2012
của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em
trong tình hình mới yêu cầu: “Xây dựng và tổ chức thực hiện có hiệu quả các chương trình, đề án chăm sóc,
giáo dục và bảo vệ trẻ em... Tổ chức thực hiện tốt Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em và các công ước,
điều ước quốc tế khác có liên quan mà Nhà nước Việt Nam ký kết hoặc tham gia...”.
3

Điều 4 Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em yêu cầu các quốc gia thành viên tiến hành tất cả những
biện pháp lập pháp, hành pháp và những biện pháp thích hợp khác để thực hiện những quyền của trẻ em đã
được ghi nhận trong Công ước. Trong số những quyền đó có 5 nguyên tắc chung mà Công ước củaLiên hợp
quốc về quyền trẻ em yêu cầu các quốc gia thành viên phải tuân thủ khi xây dựng chính sách, luật pháp và thực
thi pháp luật liên quan đến bất cứ trẻ em nào dưới 18 tuổi: (a) Lợi ích tốt nhất của trẻ em (Điều 3); (b) nguyên
tắc không phân biệt đối xử (Điều 2); (c) quyền sống, sinh tồn và phát triển (Điều 6); (d) quyền được lắng nghe
của trẻ em (Điều 12); và nhân phẩm của trẻ em (Điều 40.1); Điều 9 áp dụng đối với mọi trường hợp trẻ em bị
buộc phải cách ly khỏi cha mẹ, chẳng hạn trong trường hợp bị lạm dụng, sao nhãng, bóc lột, hoặc tranh chấp về
quyền nuôi con. Trong những trường hợp đó, quyết định cách ly của cơ quan có thẩm quyền phải có khả năng
được Toà án xem xét lại. Đồng thời, “tất cả các bên có lợi ích liên quan phải có cơ hội tham gia vào quá trình
giải quyết và trình bày quan điểm của mình”; Điều 37 giải quyết vấn đề quyền của trẻ em vi phạm pháp luật bị

1


chức Toà án của nhiều quốc gia trên thế giới4; đồng thời, việc tổ chức Tòa gia
đình và người chưa thành niên cũng là phương thức để thực hiện nguyên tắc hiến
định về việc xét xử kín đối với người chưa thành niên quy định tại khoản 3 Điều
103 của Hiến pháp năm 2013.

I. QUY TRÌNH TỔ CHỨC TÒA GIA ĐÌNH VÀ NGƯỜI CHƯA
THÀNH NIÊN
Để việc tổ chức các Toà chuyên trách nói chung, Tòa gia đình và người
chưa thành niên nói riêng được áp dụng thống nhất trong cả nước, Chánh án Toà
án nhân dân tối cao đã ban hành Thông tư số 01/2016/TT-CA ngày 21-01-2016
quy định việc tổ chức các Toà chuyên trách tại Toà án nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương, Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh và tương đương5. Theo đó, Chánh án Toà án nhân dân các tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương căn cứ vào các điều kiện tổ chức Toà chuyên trách được
quy định trong Thông tư, rà soát, đánh giá nhu cầu tổ chức các Toà chuyên
trách tại Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Toà án nhân
dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương thuộc phạm vi
thẩm quyền theo lãnh thổ để lập hồ sơ đề nghị Chánh án Toà án nhân dân tối
cao (thông qua Vụ Tổ chức - Cán bộ) xem xét, quyết định.
Hồ sơ đề nghị tổ chức Toà chuyên trách gồm có:
(1) Đề án tổ chức Toà chuyên trách, trong đó nêu rõ sự cần thiết tổ
chức Toà chuyên trách, cơ sở của việc đề xuất, số lượng Tòa chuyên trách cần
tổ chức, tên các Toà chuyên trách, cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ,
phương án tổ chức nhân sự và đề xuất về biên chế Thẩm phán, Thẩm tra viên,
Thư ký Toà án của từng Toà chuyên trách.
tước tự do. Ngoài những vấn đề khác, điều luật này đòi hỏi rằng tất cả trẻ em đều phải được đối xử một cách
nhân đạo và tôn trọng nhân phẩm, theo cách thức phù hợp với nhu cầu của con người ở độ tuổi các em. Trẻ em
bị tước tự do có quyền được tiếp cận nhanh chóng đối với “trợ giúp pháp lý và những hình thức hỗ trợ thích hợp
khác, cũng như có quyền được khiếu nại về tính hợp pháp của việc tước tự do lên Toà án hoặc một cơ quan
khác có thẩm quyền, độc lập và khách quan, và được giải quyết vụ việc một cách nhanh chóng”; Điều 40 yêu
cầu các quốc gia thành viên “tìm cách thúc đẩy việc ban hành luật pháp, thiết lập các thủ tục, cơ quan, thiết chế
đặc biệt dành cho trẻ em bị cho là, bị truy tố hoặc kết luận là vi phạm pháp luật...”, bao gồm cả quyền của trẻ
em được “một cơ quan có thẩm quyền, độc lập và khách quan hoặc một cơ quan tư pháp, trong một cuộc tường
trình công bằng theo pháp luật...” nhanh chóng xác định có tội hay không có tội và trẻ em có quyền đề nghị một
cơ quan tư pháp có thẩm quyền cao hơn xem xét lại kết luận này.

Hướng dẫn về hành động đối với trẻ em trong hệ thống tư pháp hình sự - Nghị quyết 1997/30 của Liên hợp
quốc - Quản lý tư pháp hình sự (Hướng dẫn Viên) kêu gọi các quốc gia bảo đảm rằng “những nguyên tắc và
quy định của Công ước về Quyền trẻ em và những chuẩn mực cũng như các quy phạm của Liên hợp quốc về
tư pháp người chưa thành niên được phản ảnh một cách đầy đủ trong luật pháp, chính sách và thực tiễn của
quốc gia, đặc biệt thông qua việc thiết lập một hệ thống tư pháp người chưa thành niên hướng về trẻ em trong
đó bảo đảm quyền của trẻ em, thúc đẩy ý thức của trẻ em về phẩm giá và giá trị, và quan tâm đầy đủ đến độ
tuổi của trẻ em, mức độ phát triển và quyền của các em được tham gia đóng góp cho xã hội một cách có ý
nghĩa” (Điều 11 cần đặc biệt chú ý đến việc bảo đảm “một thủ tục tư pháp người chưa thành niên mang tính
tổng hợp có trọng tâm là trẻ em” (Điều 14); khuyến khích các quốc gia “thành lập các Toà án người chưa
thành niên có quyền tài phán trước hết đối với người chưa thành niên phạm tội hình sự, thiết lập các thủ tục
tố tụng đặc biệt trên cơ sở chú trọng đến những nhu cầu cụ thể của trẻ em” (Điều 14(d)).
4
Nhật Bản, Thái Lan, Ấn Độ, Philippine, Canada, Newzealand, Scotland, Cộng hoà Séc, Hoa Kỳ...
5
Thông tư có hiệu lực thi hành kể từ ngày 11-3-2016.

2


(2) Ý kiến của Ban cán sự đảng Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương về việc tổ chức Toà chuyên trách.
(3) Văn bản đề nghị tổ chức Toà chuyên trách tại Tòa án nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương, Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh và tương đương.
Trong thời hạn 30 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được Hồ sơ đề nghị
tổ chức Tòa chuyên trách; nếu Hồ sơ đáp ứng đủ điều kiện thì Vụ Tổ chức Cán bộ lập Tờ trình Chánh án Tòa án nhân dân tối cao xem xét, quyết định.
II. MỘT SỐ YÊU CẦU KHI TỔ CHỨC TÒA GIA ĐÌNH VÀ
NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
1. Về thẩm quyền
Theo quy định tại khoản 6 Điều 3 của Thông tư số 01/2016/TT-CA thì:

sau:

"6. Toà gia đình và người chưa thành niên giải quyết các vụ việc như

a) Các vụ án hình sự mà bị cáo là người dưới 18 tuổi hoặc các vụ án hình
sự mà bị cáo là người đã đủ 18 tuổi trở lên nhưng người bị hại là người dưới 18
tuổi bị tổn thương nghiêm trọng về tâm lý hoặc cần sự hỗ trợ về điều kiện sống,
học tập do không có môi trường gia đình lành mạnh như những người dưới 18
tuổi khác;
b) Xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Toà án
nhân dân đối với người chưa thành niên;
c) Các vụ việc hôn nhân gia đình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự."
Quy định nêu trên phù hợp với quy định tại khoản 7 Điều 423 của
BLTTHS năm 2015 về việc "Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quy định cụ thể
việc xét xử vụ án có người dưới 18 tuổi của Tòa gia đình và người chưa thành
niên"; phù hợp với quy định tại Điều 36 và Điều 38 của BLTTDS năm 2015 về
việc Tòa gia đình và người chưa thành niên có thẩm quyền giải quyết các vụ việc
về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân.6
2. Về nhân sự
Để Tòa gia đình và người chưa thành niên được tổ chức và hoạt động
theo đúng mục tiêu đề ra thì cần có các Thẩm phán, Hội thẩm ,Thẩm tra viên,
Thư ký Tòa án chuyên trách, có kiến thức chuyên sâu để giải quyết các vụ việc
thuộc thẩm quyền của Tòa gia đình và người chưa thành niên. Bên cạnh những
người tiến hành tố tụng còn có các nhân sự khác (như chuyên gia về tâm lý, y
tế, xã hội học, đại diện của nhà trường, Đoàn thanh niên ...) tùy thuộc vào tính
chất vụ việc mà Tòa gia đình và người chưa thành niên giải quyết.
- Đối với các vụ án hình sự:
Theo quy định tại Điều 415 của BLTTHS năm 2015 thì: "Người tiến
6


BLTTHS năm 2015 và BLTTDS năm 2015 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01-7-2016.

3


hành tố tụng đối với vụ án có người dưới 18 tuổi phải là người đã được đào
tạo hoặc có kinh nghiệm điều tra, truy tố, xét xử vụ án liên quan đến người
dưới 18 tuổi, có hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo dục đối với
người dưới 18 tuổi".
Đối với Hội thẩm, theo quy định tại khoản 1 Điều 423 của BLTTHS năm
2015 thì khi xét xử người chưa thành niên phạm tội: "Thành phần Hội đồng xét
xử sơ thẩm vụ án phải có một Hội thẩm là giáo viên hoặc cán bộ Đoàn thanh
niên hoặc người có kinh nghiệm, hiểu biết tâm lý người dưới 18 tuổi".
Đối với người tham gia tố tụng, theo quy định tại khoản 3 Điều 414 và
khoản 3 Điều 423 của BLTTHS thì khi giải quyết các vụ án có bị cáo là người
dưới 18 tuổi phải bảo đảm sự tham gia của nhà trường, Đoàn thanh niên,
chuyên gia về tâm lý, tổ chức xã hội, tổ chức khác nơi người dưới 18 tuổi học
tập, lao động, sinh hoạt. Để thực hiện tốt quy định này, các Tòa án cần chủ
động xây dựng quy chế phối hợp với các tổ chức y tế, tổ chức xã hội ở địa
phương mình trong việc cử chuyên gia tham gia giải quyết các vụ án theo yêu
cầu của Tòa án, trong đó xác định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của
họ theo quy định của pháp luật.
Bên cạnh các nhân sự nêu trên, tham khảo kinh nghiệm quốc tế thì ở Tòa
gia đình và người chưa thành niên còn có Trợ giúp viên của Toà án gia đình và
người chưa thành niên (Probation officer) có trách nhiệm thu thập và cung cấp
các thông tin về đặc điểm tâm sinh lý, hoàn cảnh gia đình, tình hình học tập,
hoàn cảnh vi phạm pháp luật của người chưa thành niên ... để Thẩm phán cân
nhắc trước khi đưa ra quyết định xử lý đối với họ. Với các chức danh hiện có
trong Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện theo Luật tổ chức
Tòa án nhân dân và tình hình biên chế hiện nay của các Tòa án thì công việc

này có thể giao cho Thẩm tra viên (đối với Tòa án cấp tỉnh) 7, Thư ký Tòa án
hoặc Thẩm tra viên thi hành án (đối với Tòa án cấp huyện)8 thực hiện9.
- Đối với các vụ việc về hôn nhân và gia đình:
Theo quy định tại Điều 63 của BLTTDS năm 2015 thì: "... Đối với vụ
án có đương sự là người chưa thành niên thì phải có Hội thẩm nhân dân là
người đã hoặc đang công tác tại Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh,
Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ
quan quản lý nhà nước về trẻ em ...". Bên cạnh yêu cầu này, khi giải quyết
7

Theo quy định tại khoản 2 Điều 38 của Luật tổ chức Tòa án nhân dân thì: "Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương có Chánh án, các Phó Chánh án, Chánh tòa, các Phó Chánh tòa, Thẩm phán, Thẩm
tra viên, Thư ký Tòa án, công chức khác và người lao động".
8

Theo quy định tại khoản 3 Điều 45 của Luật tổ chức Tòa án nhân dân thì: " Tòa án nhân dân huyện, quận,
thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương có Chánh án, Phó Chánh án, Chánh tòa, Phó Chánh tòa, Thẩm
phán, Thư ký Tòa án, Thẩm tra viên về thi hành án, công chức khác và người lao động".
9
Theo quy định tại khoản 4 Điều 92 và khoản 4 Điều 94 của Luật tổ chức Tòa án nhân dân thì ngoài các
nhiệm vụ được quy định cụ thể, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án thực hiện các nhiệm vụ khác theo sự phân
công của Chánh án Tòa án.

4


các vụ việc về hôn nhân và gia đình, Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa
án cần phải được đào tạo những kiến thức chuyên sâu, những kinh nghiệm
cần thiết để giải quyết loại việc này, xuất phát từ những đặc thù riêng có của
các vụ việc hôn nhân và gia đình, khác với các vụ việc dân sự thông thường

khác; cụ thể là:
Thứ nhất, các vụ việc về hôn nhân và gia đình xuất phát từ quan hệ hôn
nhân, quan hệ huyết thống, nuôi dưỡng quy định trong Luật hôn nhân và gia đình.
Thứ hai, khi giải quyết các vụ việc về hôn nhân và gia đình, bên cạnh yêu
cầu phải tuân thủ các quy định của pháp luật, cần phải chú ý đến yếu tố tình cảm,
đạo đức, truyền thống của dân tộc; trong đó yếu tố pháp lý và yếu tố tình cảm
đan xen vào nhau giữa các bên trước, trong và cả sau quá trình giải quyết vụ án.
Vụ việc có thể đã được giải quyết, nhưng khác với các vụ án dân sự thông
thường, các bên trong vụ việc hôn nhân và gia đình vẫn bị ràng buộc với nhau về
mặt pháp lý và đạo đức truyền thống và có thể kéo dài suốt cuộc đời họ.
Thứ ba, việc giải quyết các vấn đề gia đình có ảnh hưởng sâu sắc đến
đời sống tâm lý của từng thành viên trong gia đình, đặc biệt là những người
yếu thế (thường là người vợ và con chưa thành niên); có tác động tích cực
hoặc tiêu cực đến định hướng phát triển của người chưa thành niên là thành
viên trong gia đình đó; bởi vậy, nếu giải quyết tốt các vấn đề thuộc quan hệ
gia đình, nâng cao được ý thức và trách nhiệm của các thành viên gia đình
trong việc chăm sóc, giáo dục con cái sẽ góp phần hạn chế, ngăn ngừa người
chưa thành niên vi phạm pháp luật, tạo môi trường lành mạnh để họ phát triển
thể chất và nhân cách.
Bên cạnh các chức danh tư pháp trong Tòa gia đình và người chưa
thành niên, tham khảo kinh nghiệm một số quốc gia trên thế giới thì tham gia
giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa án gia đình còn có Trợ giúp
viên của Toà án gia đình (có trách nhiệm thu thập và cung cấp các thông tin
về hoàn cảnh gia đình, tình trạng hôn nhân của vợ chồng...), Điều đình viên
của Toà án gia đình (những hoà giải viên chuyên nghiệp được Toà án bổ
nhiệm có thời hạn và thường trực tại Toà án để làm công việc hoà giải). Với
các chức danh hiện có trong Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp
huyện theo Luật tổ chức Tòa án nhân dân và tình hình biên chế hiện nay của
các Tòa án thì bên cạnh vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Thẩm phán đã được
quy định trong BLTTDS, có thể giao cho Thẩm tra viên (đối với Tòa án cấp

tỉnh), Thư ký Tòa án hoặc Thẩm tra viên thi hành án (đối với Tòa án cấp
huyện) thực hiện một số công việc nhất định nêu trên. Ngoài ra, trong những
vụ việc cụ thể, Tòa án còn có thể mời thêm các chuyên gia tâm lý, y tế để tư
vấn cho đương sự, đặc biệt là những trường hợp bị bạo hành, giúp họ sớm
vượt qua những sang chấn về tâm lý; ý thức được trách nhiệm trong việc
chăm sóc, giáo dục con là người chưa thành niên.
5


- Đối với việc xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành
chính tại Toà án nhân dân đối với người chưa thành niên:
Các yêu cầu đặt ra đối với Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án và
các nhân sự khác cũng tương tự như đối với việc giải quyết vụ án hình sự,
trong đó phải quán triệt đầy đủ các quy định tại Điều 134 của Luật xử lý vi
phạm hành chính về nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên vi phạm
hành chính.
3. Về cơ sở vật chất
- Đối với các vụ án hình sự mà bị cáo là người chưa đủ 18 tuổi thì phòng
xử án cần được bố trí thân thiện, phù hợp với tâm lý, lứa tuổi, mức độ trưởng
thành và khả năng nhận thức của bị cáo theo đúng yêu cầu quy định tại khoản 1
Điều 414 của BLTTHS năm 2015. Trước mắt, cần bố trí vị trí của bị cáo gần
với vị trí của người đại diện, người bào chữa cho họ để hỗ trợ, tạo tâm lý tự tin
cho bị cáo trong quá trình thẩm vấn, tranh tụng tại phiên tòa. Tòa án nhân dân
tối cao sẽ tiếp tục nghiên cứu nội dung này và sẽ có quy định chung về phòng
xử án để áp dụng thống nhất trong toàn quốc.
- Đối với các vụ việc hôn nhân và gia đình, các Tòa án cần bố trí:
+ Phòng Tư vấn - Hòa giải: để tiến hành tư vấn pháp luật về hôn nhân và
gia đình, về những hậu quả nặng nề nếu ly hôn, về trách nhiệm của cha mẹ đối
với con là người chưa thành niên (trong hầu hết các vụ ly hôn, con cái có thể
không nói ra nhưng phải chịu tác động tâm lý nặng nề từ việc ly hôn của cha

mẹ chúng, cần được quan tâm, chăm sóc để vượt qua các sang chấn tâm lý)...;
tư vấn tâm lý trong những trường hợp cần thiết khác; tiến hành hòa giải theo
quy định của pháp luật.
+ Phòng giám sát tâm lý trẻ: là nơi để Tòa án quan sát, đánh giá về tâm
lý, tình cảm của trẻ em trong những vụ án ly hôn có tranh chấp nuôi con
(trong phòng này, cha mẹ được tạo cơ hội để tiếp xúc với đứa trẻ để Tòa án
quan sát, đánh giá tình cảm của đứa trẻ với người cha và người mẹ); qua đó,
quyết định đúng việc giao con cho ai nuôi dưỡng, vì lợi ích tốt nhất của đứa
trẻ. Việc hỏi ý kiến của trẻ em cũng nên được thực hiện trong phòng này để
trẻ em thể hiện ý kiến của mình mà không bị sức ép tâm lý từ người cha hoặc
người mẹ. Theo kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới thì phòng này
được bố trí thân thiện với trẻ em, có đồ chơi, sách báo phù hợp với lứa tuổi
của trẻ em để đứa trẻ có cảm giác gần gũi, tự tin bộc lộ cảm xúc khi ở trong
phòng - đây cũng là nơi chăm sóc, trông giữ trẻ trong những trường hợp cần
thiết khi Tòa án giải quyết các vụ việc ly hôn; phòng được trang bị kính một
chiều hoặc có những thiết bị quan sát để phục vụ cho việc quan sát, đánh giá
từ phía Tòa án.
+ Phòng trợ giúp y tế: để hỗ trợ về y tế khi Tòa án giải quyết các vụ việc
6


hôn nhân và gia đình.
Tùy theo điều kiện thực tế, các Tòa án cần bố trí các phòng nêu trên
riêng biệt hoặc kết hợp (chẳng hạn: kết hợp tư vấn - hòa giải và trợ giúp y tế),
bảo đảm hợp lý, hiệu quả và tiết kiệm. Bên cạnh đó, cần nghiên cứu, đề xuất để
từng bước trang bị các phương tiện kỹ thuật để đáp ứng yêu cầu của các phiên
tòa xét xử kín, hỗ trợ lấy lời khai của nhân chứng, người bị hại là người chưa
thành niên và trẻ em trong các vụ việc hôn nhân và gia đình, tránh những tác
động tiêu cực đối với họ.
4. Về thủ tục tại Tòa gia đình và người chưa thành niên

- Đối với các vụ án hình sự, cần nghiên cứu, quán triệt và vận dụng đúng
các quy định tại Chương XXVIII của BLTTHS năm 2015 về Thủ tục tố tụng
đối với người dưới 18 tuổi; trong đó, cần lưu ý các quy định sau đây:
“Điều 414. Nguyên tắc tiến hành tố tụng
1. Bảo đảm thủ tục tố tụng thân thiện, phù hợp với tâm lý, lứa tuổi,
mức độ trưởng thành, khả năng nhận thức của người dưới 18 tuổi; bảo đảm
quyền và lợi ích hợp pháp của người dưới 18 tuổi; bảo đảm lợi ích tốt nhất
của người dưới 18 tuổi.
2. Bảo đảm giữ bí mật cá nhân của người dưới 18 tuổi.
3. Bảo đảm quyền tham gia tố tụng của người đại diện của người dưới
18 tuổi, nhà trường, Ðoàn thanh niên, người có kinh nghiệm, hiểu biết về tâm
lý, xã hội, tổ chức khác nơi người dưới 18 tuổi học tập, lao động và sinh hoạt.
4. Tôn trọng quyền được tham gia, trình bày ý kiến của người dưới 18 tuổi.
5. Bảo đảm quyền bào chữa, quyền được trợ giúp pháp lý của người
dưới 18 tuổi.
6. Bảo đảm các nguyên tắc xử lý của Bộ luật hình sự đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội.
7. Bảo đảm giải quyết nhanh chóng, kịp thời các vụ án liên quan đến
người dưới 18 tuổi.”
“Ðiều 423. Xét xử
1. Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án phải có một Hội thẩm là
giáo viên hoặc cán bộ Đoàn thanh niên hoặc người có kinh nghiệm, hiểu biết
tâm lý người dưới 18 tuổi.
2. Trường hợp đặc biệt cần bảo vệ bị cáo, bị hại là người dưới 18 tuổi
thì Tòa án có thể quyết định xét xử kín.
3. Phiên tòa xét xử bị cáo là người dưới 18 tuổi phải có mặt người đại
diện của bị cáo, đại diện của nhà trường, tổ chức nơi bị cáo học tập, sinh
hoạt, trừ trường hợp những người này vắng mặt mà không vì lý do bất khả
7



kháng hoặc không do trở ngại khách quan.
4. Việc xét hỏi, tranh luận với bị cáo, bị hại, người làm chứng là
người dưới 18 tuổi tại phiên tòa được tiến hành phù hợp với lứa tuổi, mức
độ phát triển của họ. Phòng xử án được bố trí thân thiện, phù hợp với
người dưới 18 tuổi.
5. Đối với vụ án có bị hại, người làm chứng là người dưới 18 tuổi, Hội
đồng xét xử phải hạn chế việc tiếp xúc giữa bị hại, người làm chứng với bị
cáo khi bị hại, người làm chứng trình bày lời khai tại phiên tòa. Thẩm phán
chủ tọa phiên tòa có thể yêu cầu người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp hỏi bị hại, người làm chứng.
6. Khi xét xử, nếu thấy không cần thiết phải quyết định hình phạt đối với
bị cáo thì Hội đồng xét xử áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng.
7. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quy định chi tiết việc xét xử vụ án
có người dưới 18 tuổi của Tòa gia đình và người chưa thành niên.”
Bên cạnh các quy định nêu trên, cần nghiên cứu, quán triệt để vận dụng
đúng các quy định tại Chương XII của BLHS năm 2015 - Những quy định đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội.
- Đối với các vụ việc hôn nhân và gia đình cần nghiên cứu, quán triệt
và vận dụng đúng các quy định của BLTTDS năm 2015; trong đó lưu ý các
quy định sau đây:
“Điều 208. Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận,
công khai chứng cứ và hòa giải
1. Thẩm phán tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận,
công khai chứng cứ và hòa giải giữa các đương sự. Trước khi tiến hành phiên
họp, Thẩm phán phải thông báo cho đương sự, người đại diện hợp pháp của
đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự về thời gian,
địa điểm tiến hành phiên họp và nội dung của phiên họp.
...
3. Đối với vụ án hôn nhân và gia đình liên quan đến người chưa thành

niên, trước khi mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai
chứng cứ và hòa giải giữa các đương sự thì Thẩm phán, Thẩm tra viên được
Chánh án Tòa án phân công phải thu thập tài liệu, chứng cứ để xác định
nguyên nhân của việc phát sinh tranh chấp. Khi xét thấy cần thiết, Thẩm
phán có thể tham khảo ý kiến của cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ
quan quản lý nhà nước về trẻ em về hoàn cảnh gia đình, nguyên nhân phát
sinh tranh chấp và nguyện vọng của vợ, chồng, con có liên quan đến vụ án.
Đối với vụ án tranh chấp về nuôi con khi ly hôn hoặc thay đổi người
trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn, Thẩm phán phải lấy ý kiến của con chưa
thành niên từ đủ bảy tuổi trở lên, trường hợp cần thiết có thể mời đại diện cơ
quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em
chứng kiến, tham gia ý kiến. Việc lấy ý kiến của con chưa thành niên và các
8


thủ tục tố tụng khác đối với người chưa thành niên phải bảo đảm thân thiện,
phù hợp với tâm lý, lứa tuổi, mức độ trưởng thành, khả năng nhận thức của
người chưa thành niên, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp, giữ bí mật cá nhân
của người chưa thành niên.”
"Điều 397. Hòa giải và công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận
nuôi con, chia tài sản khi ly hôn
1. Trong thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu, trước khi tiến hành hòa
giải để vợ chồng đoàn tụ, khi xét thấy cần thiết, Thẩm phán có thể tham khảo
ý kiến của cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước
về trẻ em về hoàn cảnh gia đình, nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn và nguyện
vọng của vợ, chồng, con có liên quan đến vụ án.
2. Thẩm phán phải tiến hành hòa giải để vợ chồng đoàn tụ; giải thích
về quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng, giữa cha, mẹ và con, giữa các thành
viên khác trong gia đình, về trách nhiệm cấp dưỡng và các vấn đề khác liên
quan đến hôn nhân và gia đình.

..."
- Đối với việc xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính
đối với người chưa thành niên, cần áp dụng đúng các quy định của Luật xử lý
vi phạm hành chính; trong đó cần lưu ý các quy định sau đây:
"Điều 134. Nguyên tắc xử lý
Ngoài những nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính quy định tại Điều 3
của Luật này, việc xử lý đối với người chưa thành niên còn được áp dụng các
nguyên tắc sau đây:
1. Việc xử lý người chưa thành niên vi phạm hành chính chỉ được thực
hiện trong trường hợp cần thiết nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm,
phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội.
Trong quá trình xem xét xử lý người chưa thành niên vi phạm hành chính,
người có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính phải bảo đảm lợi ích tốt nhất
cho người chưa thành niên. Biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng chỉ được áp
dụng khi xét thấy không có biện pháp xử lý khác phù hợp hơn;
2. Việc xử lý người chưa thành niên vi phạm hành chính còn căn cứ vào
khả năng nhận thức của người chưa thành niên về tính chất nguy hiểm cho xã
hội của hành vi vi phạm, nguyên nhân và hoàn cảnh vi phạm để quyết định việc
xử phạt hoặc áp dụng biện pháp xử lý hành chính phù hợp;
3. Việc áp dụng hình thức xử phạt, quyết định mức xử phạt đối với người
chưa thành niên vi phạm hành chính phải nhẹ hơn so với người thành niên có
cùng hành vi vi phạm hành chính.
...
4. Trong quá trình xử lý người chưa thành niên vi phạm hành chính, bí
mật riêng tư của người chưa thành niên phải được tôn trọng và bảo vệ;
9


5. ..."
"Điều 136. Áp dụng các biện pháp xử lý hành chính

1. Biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn được áp dụng đối với
người chưa thành niên vi phạm pháp luật theo quy định tại Chương I Phần thứ
ba của Luật này. Người chưa thành niên bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã,
phường, thị trấn phải được cha mẹ hoặc người giám hộ quản lý, trường hợp
không có nơi cư trú ổn định thì phải ở tại cơ sở bảo trợ xã hội hoặc cơ sở trợ
giúp trẻ em; được đi học hoặc tham gia các chương trình học tập hoặc dạy nghề
khác; tham gia các chương trình tham vấn, phát triển kỹ năng sống tại cộng
đồng.
2. Biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng được áp dụng đối với người
chưa thành niên vi phạm pháp luật theo quy định tại Chương II Phần thứ ba của
Luật này."
Trên đây là một số vấn đề cần lưu ý để triển khai tổ chức Tòa gia đình và
người chưa thành niên ở Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương,
Tòa án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương. Các
đồng chí Chánh án Tòa án các cấp cần quán triệt nghiêm những nội dung này để
việc tổ chức Tòa gia đình và người chưa thành niên được thực hiện thống nhất,
bảo đảm hiệu quả, đáp ứng yêu cầu đặt ra.
_________________

10



×