BÌNH LUẬN CÁC VỤ VIỆC DÂN SỰ
TRANH CHẤP THỪA KẾ
VỤ VIỆC SỐ 1
Nội dung vụ án:
Cụ Bùi Văn P chết ngày 29/12/2002. Cụ Hoàng Thị C chết ngày 03/01/1995.
Sinh thời các cụ sinh được 04 người con là ông Bùi Văn T, ông Bùi Văn H, ông Bùi
Văn Th, bà Bùi Thị M. Ngoài ra, các cụ không có người con riêng, con nuôi nào khác.
Tài sản thuộc sở hữu chung của hai cụ khi còn sống gồm: Diện tích nhà, đất 57m 2
tại số 8 HĐ, quận HK, thành phố H và diện tích 1396m 2 đất tại tổ 18 phường NT, quận
LB, thành phố H.
Đối với ngôi nhà tại số 8 HĐ thì năm 1954 do có người thuê nên hai cụ P và cụ C
đã uỷ quyền cho anh Bùi Văn H tiến hành các thủ tục tại các cấp Toà án để đòi nhà. Theo
Bản án số 02/DSST ngày 26/02/1993 của Toà án nhân dân quận HK đã tuyên “Xử chấp
nhận yêu cầu đòi nhà cho thuê của ông Bùi Văn P do anh Bùi Văn H đại diện…”. Tại
Bản án số 79/DSPT ngày 29/5/1993 của Toà án nhân dân thành phố H đã giữ nguyên bản
án sơ thẩm nói trên của Toà án nhân dân quận HK.
Sau khi anh Bùi Văn H tiến hành việc đòi nhà theo sự ủy quyền và đã được cơ quan
thi hành án tiến hành thi hành án bàn giao trả nhà số 8 HĐ thì hai cụ P và cụ C đã cùng
anh H về sinh sống tại ngôi nhà này. Quá trình ở tại đây, anh H đã xây dựng, sửa chữa
như làm toàn bộ trần bằng toocxi, lát lại toàn bộ nền nhà, xây mới khu phụ, làm lại gác
xép, cầu thang… Đến năm 2002, anh Bùi Văn H đã làm thủ tục để được cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất và sở hữu nhà số 8 HĐ. Trên cơ sở đó, theo Quyết định số
1730/QĐ-UB ngày 19/3/2002 của Ủy ban nhân dân (sau đây viết tắt là UBND) thành phố
H, nhà số 8 HĐ đứng tên chủ sở hữu nhà, sử dụng đất là anh Bùi Văn H (Giấy chứng
1
nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở hồ sơ gốc số 5019.2002 ngày 19/3/2002
của UBND thành phố H).
Còn đối với diện tích nhà, đất 1396m 2 tại tổ 18 phường NT, quận LB, thành phố H
cũng là di sản của hai cụ P và cụ C. Sinh thời hai cụ cũng có sinh sống tại nhà cấp 4 diện
tích 52m2 được xây dựng trên thửa đất này cùng với vợ chồng anh Bùi Văn T. Sau này,
nhà cấp 4 của các cụ được vợ chồng anh T sửa chữa, tôn tạo để sử dụng. Đến ngày
11/7/1999, cụ Bùi Văn P lập di chúc cho anh Bùi Văn T được toàn quyền sử dụng phần
diện tích nhà đất tại tổ 18 phường NT.
Ông Bùi Văn T chết ngày 20/5/2001, có vợ là Lương Thị AH và 02 người con là
anh Bùi Duy H, chị Bùi Thị X. Ngoài ra, vợ chồng ông T không có người con riêng, con
nuôi nào khác.
Cụ Hoàng Thị C chết năm 1995 không để lại di chúc. Cụ Bùi Văn P chết năm 2002,
có để lại di chúc định đoạt cho anh Bùi Văn T được toàn quyền sử dụng phần tài sản của
cụ tại tổ 18 phường NT, quận LB, thành phố H.
Ngày 24/2/2010, bà Bùi Thị M có đơn khởi kiện ông Bùi Văn H, bà Lương Thị AH,
anh Bùi Duy H về việc chia thừa kế di sản của hai cụ P và cụ C gồm ngôi nhà số 8 HĐ,
quận HK, thành phố H và nhà, đất tại tổ 18 phường NT, quận LB, thành phố H. Tại đơn
khởi kiện bổ sung ngày 26/8/2010, bà Bùi Thị M đề nghị Toà án chia thừa kế nhà số 8
HĐ theo pháp luật. Còn đối với nhà đất ở phường NT thì công nhận di chúc của cụ P, còn
lại 1/2 là phần của cụ C do thừa kế hết thời hiệu nên đề nghị Toà án chia tài sản thuộc sở
hữu chung. Nhưng sau đó, bà M lại thay đổi yêu cầu của mình đối với phần di sản nhà và
đất tại tổ 18 phường NT hiện bà Lương Thị AH, anh Bùi Duy H đang quản lý, bà yêu cầu
chia theo pháp luật vì di chúc của cụ P không có hiệu lực.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Bùi Văn Th đề nghị Toà án chia theo
hiện vật và chia chung.
Phía bị đơn ông Bùi Văn H trình bày:
2
Sau khi được bố, mẹ ủy quyền đòi lại nhà số 8 HĐ, ông đã tiến hành các thủ tục để
đòi lại nhà. Và sau khi đòi được thì hai cụ P và cụ C ở với ông và đã cho ông toàn bộ diện
tích nhà này. Ông đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất
ngày 19/3/2002.
Quá trình sử dụng, ông đã xây dựng, sửa chữa như lát lại toàn bộ nền, xây mới khu
phụ, làm mái cầu thang, gác xép, lợp mái… Nay trước yêu cầu chia thừa kế của phía
nguyên đơn thì ông H không đồng ý chia, vì bố, mẹ ông đã cho ông ngôi nhà này. Còn
đối với phần di sản tại tổ 18 phường NT, ông yêu cầu chia theo pháp luật.
Anh Bùi Duy H trình bày:
Về huyết thống gia đình, bố anh là Bùi Văn T là một trong 04 người con của cụ Bùi
Văn P và cụ Hoàng Thị C. Bố anh mất năm 2001. Sinh thời, cụ P có di chúc để lại toàn
bộ nhà, đất phần của cụ ở tổ 18 phường NT cho bố anh. Sau khi bố anh chết thì mẹ anh là
Lương Thị AH và các con là Bùi Duy H, Bùi Thị X, vẫn quản lý, sử dụng. Nay trước yêu
cầu của phía nguyên đơn, quan điểm của anh là không đồng ý chia thừa kế vì ông nội anh
(Bùi Văn P) đã cho bố anh (Bùi Văn T) phần di sản của hai cụ. Đối với phần di sản của
bà nội anh (Hoàng Thị C) anh cũng không đồng ý chia tài sản chung.
Bà Lương Thị AH và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, Bùi Thị X trình
bày thống nhất với quan điểm với anh Bùi Duy H.
Tài liệu trong hồ sơ vụ án thể hiện:
Theo Công văn số 1941/TNMT và NĐ-CS ngày 30/3/2011 của Sở Tài nguyên, môi
trường và nhà đất thì: Nhà số 8 HĐ, thành phố H trên thửa đất số 827 tờ bản đồ số 15,
khu A nay bằng khoán điền thổ số 720, ĐX tên chủ sở hữu là ông Bùi Văn P và bà Hoàng
Thị C, trước bạ và đăng ký tại thành phố H ngày 29/5/1956. Văn bản uỷ quyền được lập
ngày 12/6/1992 của cụ P và cụ C ủy quyền cho ông H có nội dung: “Ông Bùi Văn P, bà
Hoàng Thị C uỷ quyền cho con trai là Bùi Văn H thay mặt tiến hành việc đòi nhà số 8
HĐ, thành phố H… và đứng tên trước bạ cho con trai tôi”.
Bản di chúc ngày 11/7/1999 cụ Bùi Văn P có nội dung:
3
“Tôi là Bùi Văn P, vợ là Hoàng Thị C có một thửa đất thổ cư diện tích 1396m 2 trên
thửa đất có 01 ngôi nhà xây cấp 4, nhà bếp, nhà tắm (theo bản đồ địa chính số 154 tờ số
4 của xã). Tôi thấy tuổi đã cao, các con đều đã trưởng thành… Để tạo điều kiện cho con
trai tôi là Bùi Văn T được toàn quyền sử dụng phần tài sản của tôi trên thửa đất tại là tổ
18, phường NT, quận LB, thành phố H và sau này có trách nhiệm thờ cúng tổ tiên. Nay
trong tình trạng thể chất tinh thần minh mẫn, tôi làm di chúc này giao toàn quyền tài sản
của tôi cho con trai là Bùi Văn T được toàn quyền sử dụng”.
Về hình thức của bản di chúc có chữ ký của cụ Bùi Văn P là người lập di chúc, có
xác nhận của 2 người làm chứng, có xác nhận của UBND xã NT, huyện GL (nay là
phường NT, quận LB).
Bình luận:
* Về người để lại thừa kế, người thừa kế, thời điểm mở thừa kế, thời hiệu khởi
kiện về thừa kế
Cụ Hoàng Thị C chết ngày 03/01/1995 để lại tài sản thừa kế, cụ Bùi Văn P chết
ngày 29/12/2002. Sinh thời các cụ sinh được 04 người con là ông Bùi Văn T, ông Bùi
Văn H, ông Bùi Văn Th, bà Bùi Thị M. Thời điểm ông T, cụ P chết là thời điểm BLDS
năm 1995 đang có hiệu lực nên áp dụng các quy định về thừa kế của BLDS năm 1995 để
giải quyết vụ án. Ngoài 04 người con đẻ cụ C và cụ P không có người con riêng, con nuôi
nào khác. Ông Bùi Văn T chết năm 2001, sinh được 02 người con là anh Bùi Duy H, Bùi
Thị X. Căn cứ Điều 634 BLDS năm 1995 xác định cụ C, cụ P là người để lại thừa kế.
Theo Điều 638 BLDS năm 1995 thì ông T, ông H, ông Th, bà M là người thừa kế di sản
của cụ C. Tuy nhiên theo tình tiết trong vụ án, ông T chết trước cụ P nên không được
thừa kế tài sản của cụ P, vì vậy theo Điều 680 BLDS năm 1995 thì anh Bùi Duy H, chị
Bùi Thị X là người thừa kế thế vị hưởng di sản của cụ P để lại. Vì vậy, ông H, ông Th, bà
M; anh H, chị X là người thừa kế di sản của cụ P.
Theo Điều 636 Bộ luật Dân sự (sau đây viết tắt là BLDS) năm 1995 thời điểm mở
thừa
kế
lần
1
-
cụ
C
4
chết
ngày
03/01/1995;
thời điểm mở thừa kế lần 2 - cụ P chết ngày 29/12/2002. Ngày 24/02/2010, bà M làm đơn
khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế của bố mẹ để lại nên theo Điều 648 BLDS sự năm
1995 thời hiệu khởi kiện yêu cầu phân chia di sản của cụ C đã hết. Do đó, không chia
phần di sản của cụ C để lại cho những người thừa kế.
Điều 634 BLDS năm 1995 quy định:
Quyền thừa kế của cá nhân
Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình
cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.
Điều 635 BLDS năm 1995 quy định:
Quyền bình đẳng về thừa kế của cá nhân
Mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền để lại tài sản của mình cho người khác và
quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.
Điều 636 BLDS năm 1995 quy định:
Thời điểm, địa điểm mở thừa kế
1. Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trong trường hợp Toà
án tuyên bố một người là đã chết, thì thời điểm mở thừa kế là ngày được xác định tại
khoản 2 Điều 91 của Bộ luật này.
2. Địa điểm mở thừa kế là nơi cư trú cuối cùng của người để lại di sản; nếu không
xác định được nơi cư trú cuối cùng, thì địa điểm mở thừa kế là nơi có toàn bộ hoặc phần
lớn di sản.
Điều 648 BLDS năm 1995 quy định:
Thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế
Thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
Điều 680 BLDS năm 1995 quy định:
Thừa kế thế vị
5
Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước người để lại di sản, thì cháu
được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu
cũng đã chết trước người để lại di sản, thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ
của chắt được hưởng nếu còn sống.
* Về tính hợp pháp của bản di chúc cụ P lập ngày 11/7/1999
Cụ Bùi Văn P chết ngày 29/12/2002. Khi còn sống, ngày 11/7/1999 cụ Bùi Văn P
đã lập 01 bản di chúc với nội dung: Chuyển quyền sử dụng nhà đất cho con trai của cụ là
ông Bùi Văn T ở tại thôn GT, xã NT, huyện GL, thành phố H (từ năm 2004 là tổ 18,
phường NT, quận LB, thành phố H). Bản di chúc này có nội dung:
“Tôi là Bùi Văn P, vợ là Hoàng Thị C có một thửa đất thổ cư diện tích 1396m 2 trên
thửa đất có 01 ngôi nhà xây cấp 4, nhà bếp, nhà tắm (theo bản đồ địa chính số 154 tờ số
4 của xã). Tôi thấy tuổi đã cao, các con đều đã trưởng thành… Để tạo điều kiện cho con
trai tôi là Bùi Văn T được toàn quyền sử dụng phần tài sản của tôi trên thửa đất và sau
này có trách nhiệm thờ cúng tổ tiên. Nay trong tình trạng thể chất tinh thần minh mẫn,
tôi làm di chúc này giao toàn quyền tài sản của tôi cho con trai là Bùi Văn T được toàn
quyền sử dụng”.
Về hình thức của bản di chúc này, có chữ ký của cụ Bùi Văn P là người lập di chúc,
có xác nhận của 02 người làm chứng, có xác nhận của UBND xã NT, huyện GL. Tuy
nhiên, ông Bùi Văn T là người được hưởng phần tài sản của cụ Bùi Văn P theo di chúc
trong số tài sản chung với cụ Hoàng Thị C là 1396m 2 đất trên có nhà xây cấp 4 và một số
công trình xây dựng khác, song ông Bùi Văn T lại chết vào ngày 20/5/2001, cụ P chết
vào ngày 29/12/2002. Thời điểm mở thừa kế của ông T là ngày 20/5/2001, thời điểm mở
thừa kế của cụ P là ngày 29/12/2002. Như vậy, người được hưởng di sản thừa kế theo di
chúc chết trước người để lại di sản nên theo quy định tại Điều 638 BLDS năm 1995 ông
T không phải là người thừa kế theo di chúc của cụ P. Và vì vậy, di chúc của cụ Bùi Văn P
lập ngày 11/7/1999 không có giá trị pháp lý. Do di chúc của cụ P không có hiệu lực pháp
luật nên theo quy định tại Điều 678 BLDS năm 1995 phần di sản thừa kế của cụ Bùi Văn
P để lại sẽ được chia theo pháp luật cho những người thừa kế.
6
Điều 638 BLDS năm 1995 quy định:
Người thừa kế
1. Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc
sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại
di sản chết.
2. Trong trường hợp người thừa kế theo di chúc là cơ quan, tổ chức, thì phải là cơ
quan, tổ chức tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
Điều 678 BLDS năm 1995 quy định:
Những trường hợp thừa kế theo pháp luật
1. Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong những trường hợp sau đây:
a) Không có di chúc;
b) Di chúc không hợp pháp;
c) Những người thừa kế theo di chúc đều chết trước hoặc chết cùng thời điểm với
người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn vào thời
điểm mở thừa kế;
d) Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền
hưởng di sản hoặc từ chối quyền hưởng di sản.
2. Thừa kế theo pháp luật cũng được áp dụng đối với các phần di sản sau đây:
a) Phần di sản không được định đoạt trong di chúc;
b) Phần di sản có liên quan đến phần của di chúc không có hiệu lực;
c) Phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ không có
quyền hưởng di sản, từ chối quyền hưởng di sản, chết trước hoặc chết cùng thời điểm với
người lập di chúc; liên quan đến cơ quan, tổ chức được hưởng di sản theo di chúc, nhưng
không còn vào thời điểm mở thừa kế.
7
Hàng thừa kế thứ nhất của cụ Bùi Văn P bao gồm 4 người con đẻ của cụ P còn sống
tại thời điểm viết di chúc: Ông Bùi Văn T, Bà Bùi Thị M , ông Bùi Văn Th, ông Bùi Văn
H (ông Bùi Văn T chết năm 2001). Hai người con của ông T - anh Bùi Duy H, chị Bùi
Thị X là thừa kế thế vị được hưởng tài sản thừa kế của cụ P.
* Về di sản thừa kế:
Về nguồn gốc nhà số 8 phố HĐ, quận HK, thành phố H và 1396 m2 đất trên đó xây
dựng 1 ngôi nhà cấp 4, nhà tắm, nhà vệ sinh tại tổ 18 phường NT, quận LB, thành phố H.
- Đối với nhà số 8 phố HĐ, quận HK, thành phố H: Theo Công văn số 1941/TNMT
và NĐ-CS ngày 30/3/2011 của Sở Tài nguyên, môi trường và nhà đất thì: Nhà số 8 HĐ,
thành phố H trên thửa đất số 827 tờ bản đồ số 15, khu A nay bằng khoán điền thổ số 720,
ĐX tên chủ sở hữu là ông Bùi Văn P và bà Hoàng Thị C trước bạ và đăng ký tại thành
phố H ngày 29/5/1956.
Do nhà số 8 phố HĐ, thành phố H cho hộ gia đình khác ở thuê từ trước, vào năm
1992, cụ Bùi Văn P và cụ Hoàng Thị C đã uỷ quyền cho ông Bùi Văn H thay mặt 2 cụ để
tiến hành các thủ tục pháp lý: Đòi nhà cho thuê. Theo Quyết định của bản án sơ thẩm số
02/DSST ngày 26/02/1993 của Toà án nhân dân quận HK và Bản án phúc thẩm số
79/DSPT ngày 29/5/1993 của Toà án nhân dân thành phố H đều xác định cụ Hoàng Thị C
và cụ Bùi Văn P là đồng sở hữu nhà số 8 phố HĐ, thành phố H. Đồng thời, án tuyên buộc
hộ gia đình đang ở thuê tại số nhà số 8 phố HĐ, thành phố H trả lại toàn bộ diện tích nhà
đang thuê cho cụ P, cụ C do ông Bùi Văn H là đại diện. Bản án phúc thẩm đã được thi
hành án xong và từ sau khi lấy lại nhà cụ P, cụ C, gia đình ông Bùi Văn H về sống tại số
8 HĐ, thành phố H. Cho đến năm 1998, thực hiện chủ trương của Nhà nước về việc đăng
ký kê khai cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và sở hữu nhà. Ngày 28/3/1998, ông
Bùi Văn H đã làm đơn xin cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất
đối với nhà số 8 HĐ, quận HK, thành phố H và ngày 19/3/2002, UBND thành phố H đã
cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở số 1010519018 cho ông
Bùi Văn H tại số 8 phố HĐ, thành phố H theo Quyết định số 1730/QĐ-UB ngày
19/3/2002. Cơ sở để UBND thành phố H ban hành Quyết định số 1730/QĐ-UB ngày
8
19/3/2002 về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất đối với
nhà số 8 phố HĐ, quận HK, thành phố H cho ông Bùi Văn H là dựa trên nội dung của
văn bản uỷ quyền được lập ngày 12/6/1992 có nội dung: Ông Bùi Văn P, bà Hoàng Thị C
uỷ quyền cho con trai là Bùi Văn H thay mặt tiến hành việc đòi nhà số 8 HĐ, thành phố
H… và đứng tên trước bạ cho con trai tôi.
Như vậy, xét về phạm vi của việc cụ P, cụ C uỷ quyền cho ông Bùi Văn H là thực
hiện hành vi tiến hành các thủ tục đòi nhà số 8 HĐ, thành phố H đồng thời chỉ là người
đứng tên trong trước bạ nhà số 8 HĐ, thành phố H chứ giấy uỷ quyền này không thể hiện
nội dung cụ P, cụ C cho (tặng) định đoạt nhà số 8 HĐ, thành phố H cho ông Bùi Văn H.
Việc ông H đứng tên sở hữu nhà là không đúng vì thực chất là nhà số 8 phố HĐ, thành
phố H vẫn thuộc quyền sở hữu của cụ P, cụ C. Do đó, xác định nhà số 8 phố HĐ là di sản
của cụ C, cụ P để lại theo Điều 637 BLDS năm 1995.
Điều 637 BLDS năm 1995 quy định:
Di sản
1. Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài
sản chung với người khác.
2. Quyền sử dụng đất cũng thuộc di sản thừa kế và được để lại thừa kế theo quy
định tại Phần thứ năm của Bộ luật này.
- Đối với diện tích nhà đất tại tổ 18 phường NT, quận LB, thành phố H: Quá trình
giải quyết vụ kiện tại Toà án các bên đương sự đều có lời khai xác nhận nguồn gốc diện
tích 1396m2 đất, trên có nhà cấp 4 và nhà tắm, nhà vệ sinh là do cụ P, cụ C mua. Sau đó,
cho vợ chồng ông T, bà Lương Thị AH về ở tại đây, hiện toàn bộ thửa đất này mang số
thửa 87, tờ bản đồ số 4 đo vẽ năm 1993. Hiện bà Lương Thị AH và anh Bùi Duy H đang
quản lý sử dụng. Bà AH, anh H cho rằng, phần di sản của cụ P thì cụ P đã lập di chúc cho
ông Bùi Văn T nên đề nghị Toà án chia theo di chúc. Vấn đề này như phần trên đây đã
nhận định, phân tích về di chúc của cụ Bùi Văn P là di chúc không có hiệu lực nên di sản
thừa kế của cụ P được chia theo pháp luật.
9
Xác định di sản thừa kế của cụ P, cụ C là 2 khối tài sản: Nhà số 8 phố HĐ, thành
phố H và diện tích 1396m2 nhà và đất tại tổ 18 phường NT, quận LB, thành phố H. Nay
phía nguyên đơn yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật đối với 2 khối di sản trên của cụ P,
cụ C.
Nhà số 8 phố HĐ mà ông H đang quản lý sử dụng theo biên bản định giá thì tổng
cộng giá trị quyền sử dụng đất và giá trị xây dựng còn lại của nhà số 8 HĐ là di sản thừa
kế của cụ P, cụ C tính thành tiền là: 12.150.000.000 đồng (giá trị quyền sử dụng đất) +
32.815.000 đồng (giá trị xây dựng còn lại) = 12.182.815.000 đồng.
Thời điểm mở thừa kế để chia di sản thừa kế của cụ C là năm 1995. Di sản thừa kế
của cụ C để lại tại số 8 HĐ là 1/2 giá trị nhà số 8 phố HĐ - thành phố H thành tiền là:
12.182.815.000 đồng : 2 = 6.091.407.500 đồng. Tính đến thời điểm bà Bùi Thị M khởi
kiện vụ án dân sự - Chia thừa kế là ngày 01/7/2010 thì thời hiệu để chia phần di sản thừa
kế của cụ Hoàng Thị C đã hết thời hiệu. Bà M có yêu cầu: Đối với phần di sản của cụ C
đề nghị Toà án chia tài sản chung theo quy định của Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP
ngày 10/8/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng
pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình. Về yêu cầu này
của bà M nhận thấy:
Theo quy định tại tiểu mục 2.4 Mục 1 Phần I Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP
ngày 10/8/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng
pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình hướng dẫn: “…
Sau khi kết thúc thời hạn 10 năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa
kế và đều thừa nhận di sản thừa kế do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển
thành tài sản chung của các thừa kế…”.
Trong quá trình giải quyết vụ án tại Toà án: Ông H trình bày nhà số 8 phố HĐ,
thành phố H đã được bố mẹ cho ông và ông không đồng ý chia, do vậy viện dẫn và áp
dụng mục 2.4 điểm a của Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải
10
quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình thì yêu cầu chia tài sản chung đối với phần
di sản thừa kế của cụ C của bà M không được thoả mãn với quy định của pháp luật.
Tiểu mục 2.4 Mục 1 Phần I Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004
của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật
trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình:
2.4. Không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế
a) Trường hợp trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng
thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa
kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về
hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển
thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì
không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp
luật về chia tài sản chung để giải quyết và cần phân biệt như sau:
a.1) Trường hợp có di chúc mà các đồng thừa kế không có tranh chấp và thoả thuận
việc chia tài sản sẽ được thực hiện theo di chúc khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia
tài sản chung đó được thực hiện theo di chúc.
a.2) Trường hợp không có di chúc mà các đồng thừa kế thoả thuận về phần mỗi
người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực
hiện theo thoả thuận của họ.
a.3) Trường hợp không có di chúc và các đồng thừa kế không có thoả thuận về phần
mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được
thực hiện theo quy định của pháp luật về chia tài sản chung.
b) Trường hợp người chết để lại di sản cho các thừa kế nhưng các thừa kế không
trực tiếp quản lý, sử dụng mà di sản đó đang do người khác chiếm hữu bất hợp pháp hoặc
thuê, mượn, quản lý theo uỷ quyền... thì các thừa kế có quyền khởi kiện người khác đó để
đòi lại di sản.
11
Đối với phần di sản thừa kế của cụ P tại số 8 phố HĐ, thành phố H là 1/2 nhà tính
thành tiền có giá trị là: 6.091.407.500 đồng. Thời điểm mở thừa kế để chia di sản của cụ
P là năm 2002 và di sản thừa kế được chia theo pháp luật. Tuy nhiên, khi chia thừa kế đối
với phần di sản thừa kế của cụ P, cũng cần xem xét đến công sức duy trì và bảo quản di
sản cũng như quá trình vào năm 1992 ông H đã thay mặt cụ P, cụ C tiến hành các thủ tục
đòi nhà cho thuê và từ sau khi cụ P, cụ C mất đi, ông đã quản lý di sản trong nhiều năm;
vì vậy trích 01 kỷ phần thừa kế cho ông H về công sức đi đòi nhà và bảo quản di sản thừa
kế là phù hợp. Theo quy định tại Điều 679 BLDS năm 1995 thì hàng thừa kế thứ nhất của
cụ P gồm: 03 người con đẻ còn sống tại thời điểm mở thừa kế và 02 người cháu là thừa
kế thế vị: ông Bùi Văn H, ông Bùi văn Th, Bà Bùi Thị M và anh Bùi Duy H, chị Bùi Thị
X (01 kỷ phần thừa kế thế vị của ông T).
Xác định di sản thừa kế của cụ P có tổng giá trị thành tiền là 6.091.407.500 đồng và
chia 4 kỷ phần + 01 kỷ phần trích trừ công sức cho ông H, chia toàn bộ hiện vật nhà số 8
phố HĐ cho ông H sở hữu. Tổng di sản 6.091.407.500 đồng : 5. Như vậy, mỗi kỷ phần
thừa kế của cụ P được hưởng di sản thừa kế tính thành tiền là 6.091.407.500 đồng : 5.
Riêng ông Bùi Văn H được nhận một kỷ phần thừa kế và một suất công sức quản lý, bảo
quản di sản.
Chia toàn bộ bằng hiện vật phần di sản thừa kế của cụ P cho ông Bùi Văn H được
hưởng và ông Bùi Văn H, có nghĩa vụ thanh toán lại giá trị bằng tiền cho các đồng thừa
kế khác. Phần di sản hết thời hiệu chia thừa kế của cụ C Tòa án không chia cho những
người thừa kế.
Điều 679 BLDS năm 1995 quy định:
Người thừa kế theo pháp luật
1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ,
con nuôi của người chết;
12
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị
ruột, em ruột của người chết;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu
ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột,
chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột.
2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở
hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng thừa
kế hoặc từ chối nhận di sản.
Đối với di sản thừa kế tại tổ 18 NT, quận LB, thành phố H do bà Lương Thị AH,
anh Bùi Duy H đang quản lý. Theo biên bản định giá 1396 m 2 đất cùng các công trình
xây dựng trên đất thì tổng di sản tính thành tiền gồm giá trị quyền sử dụng đất và giá trị
xây dựng còn lại thuộc di sản thừa kế là 6.994.368.000 đồng.
Thời điểm mở thừa kế để phân chia di sản thừa kế của cụ C là năm 1995 di sản của
cụ C gồm 1/2 quyền sử dụng đất là 698m 2 đất, tính di sản thành tiền là: 3.497.184.000
đồng (gồm cả giá trị quyền sử dụng đất và giá trị xây dựng). Như trên đã nhận định, thời
hiệu để phân chia di sản thừa kế của cụ C đã hết thời hiệu chia thừa kế, phía nguyên đơn
yêu cầu phân chia tài sản chung thì cũng không thoả mãn những quy định tại mục 2.4
điểm a của Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân
sự, hôn nhân và gia đình.
Đối với phần di sản thừa kế của cụ P tại tổ 18 phường NT, quận LB là 1/2 diện tích
quyền sử dụng đất và 1/2 giá trị xây dựng, cụ thể là 698m 2 quyền sử dụng đất tính thành
tiền có giá trị là: 3.497.184.000 đồng (bao gồm cả giá trị quyền sử dụng đất và giá trị xây
dựng). Cụ P chết năm 2002, đây là thời điểm mở thừa kế để chia di sản thừa kế của cụ P,
di sản được chia theo pháp luật. Theo quy định tại Điều 679 BLDS năm 1995 thì hàng
thừa kế thứ nhất của cụ P gồm: 03 người con đẻ của cụ và 02 cháu nội (con ông T là thừa
13
kế thế vị). Tuy nhiên, khi chia thừa kế đối với di sản thừa kế của cụ P, cũng cần xem xét
đến công sức duy trì, quản lý khối di sản của bà Lương Thị AH, anh Bùi Duy H, chị Bùi
Thị X là những người đã trực tiếp duy trì, bảo quản di sản và có công sức tôn tạo tại đây
nên trích chia tương đương với 01 kỷ phần cho những người này. Như vậy, di sản thừa kế
của cụ P sẽ được chia làm 5 suất (riêng anh H, chị X, bà AH được thêm 01 suất) chia cụ
thể: mỗi kỷ phần thừa kế được nhận di sản tính thành tiền là: 3.497.184.000 đồng : 04 kỷ
phần + 1 kỷ phần tính công sức. Ông Th, ông H, bà M mỗi người được nhận 01 kỷ phần.
Chị X, anh H được nhận 01 kỷ phần thừa kế. Chị X, anh H, bà AH được nhận 01 kỷ phần
tính công sức.
Từ những phân tích trên đây, vụ việc có thể giải quyết như sau:
1. Chấp nhận yêu cầu chia thừa kế của bà Bùi Thị M đối với di sản thừa kế tại số 8
HĐ, thành phố H và tổ 18 phường NT, quận LB, thành phố H (do bà Lương Thị AH, anh
Bùi Duy H đang quản lý).
2. Xác nhận nhà số 8 HĐ, thành phố H và diện tích 1396m2 đất trên có nhà cấp 4 tại
tổ 18 phường NT, quận LB, thành phố H là di sản thừa kế của cụ Bùi Văn P và cụ Hoàng
Thị C để lại.
3. Xác định di sản thừa kế của cụ Bùi Văn P gồm: 1/2 giá trị đất và giá trị xây dựng
còn lại của nhà số 8 HĐ, thành phố H và diện tích 1396m2 đất trên có nhà cấp 4 tại tổ 18
phường NT, quận LB, thành phố H được chia cho các thừa kế của cụ P.
4. Xác định di chúc của cụ Bùi Văn P lập ngày 11/7/1991 không có hiệu lực pháp
luật. Toàn bộ di sản thừa kế của cụ Bùi Văn P được chia theo pháp luật.
VỤ VIỆC SỐ 2
Nội dung vụ án:
Chị Nguyễn Thị X trình bày:
Năm 1992, chị X kết hôn hợp pháp với anh Vương Văn V là con trai thứ sáu của
ông Vương Văn Tr và bà Nguyễn Thị D. Bà D chết năm 1996. Năm 2006, anh V mất do
14
tai nạn lao động, không để lại di chúc. Vợ chồng chị có 03 con chung là: cháu Vương Thị
H - sinh năm 1994; cháu Vương Văn Th - sinh năm 1996, cháu Vương Văn A - sinh năm
1998. Khi anh V còn sống, vợ chồng chị có tạo lập được một khối tài sản, trong đó có
diện tích đất nông nghiệp là 2.472m 2 tại các xứ đồng thuộc thôn LC, xã XG, huyện S,
tỉnh H. Diện tích đất trên đã được UBND huyện S cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất năm 1998 mang tên anh Vương Văn V, số sổ là 863/QSDĐ. Năm 2006, anh V chết,
ông Vương Văn Tr là bố anh V đã lấy 1.080m2 tại xứ đồng bờ Tuỳ để canh tác, không trả
cho chị. Sau nhiều lần yêu cầu ông Tr trả đất của vợ chồng chị, chị X đã yêu cầu UBND
xã XG hòa giải nhưng không thành. Vì vậy ngày 20/8/2008, chị làm đơn khởi kiện yêu
cầu Toà án buộc ông Tr phải trả cho chị diện tích đất trên. Ngày 26/10/2008, chị có đơn
thay đổi yêu cầu khởi kiện, đề nghị Toà án chia thừa kế theo pháp luật diện tích đất
1.080m2 tại xứ đồng bờ Tuỳ do ông Tr đang chiếm giữ. Chị X yêu cầu chia phần của chị
và 03 con chung vào một khối.
Tại bản tự khai ngày 05/10/2007, ông Vương Văn Tr trình bày:
Năm 1992, con trai ông là Vương Văn V lấy chị Nguyễn Thị X về làm vợ và sinh
được 03 người con là Vương Thị H, Vương Văn Th và Vương Văn A. Năm 2006, con
trai là anh Vương Văn V mất do tai nạn lao động. Nay chị X kiện ông yêu cầu chia diện
tích đất nông nghiệp tại xứ đồng bờ Tuỳ là 1.080m 2, ông không chấp nhận vì diện tích đất
trên là do ông đổi cho các hộ khác (ông K, ông C, ông H, ông M là người cùng làng), về
gần nhà để tiện canh tác, còn sổ đỏ cấp cho anh V là không đúng vì ông Nguyễn Xuân H
lúc đó là chủ nhiệm hợp tác xã đã tự ghi tên anh V vào trong đơn xin cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp (2.472m 2). Hiện tại, ông Tr đang canh tác diện tích
đất này, do vậy ông không đồng ý với yêu cầu của chị X.
Tài liệu trong hồ sơ vụ án thể hiện:
Lời khai của ông Nguyễn Xuân H - nguyên chủ nhiệm Hợp tác xã nông nghiệp LC,
nguyên Trưởng tiểu ban cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp, tại biên
bản lấy lời khai ngày 12/02/2009 có nội dung: Ông là họ hàng của cả ông Tr và chị X.
Thực hiện Nghị định số 64-CP ngày 27/9/1993 của Chính phủ ban hành bản Quy định về
15
việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích
sản xuất nông nghiệp, ông H đến nhà anh V - chị X, lúc đó ông Tr đang ở cùng để làm
thủ tục kê khai. Họ đã thống nhất và nhờ ông ký tên hộ. Khi có Giấy chứng nhận ông H
đã giao cả 02 bản cho chính ông Tr. Đơn xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
nông nghiệp cho hộ gia đình hiện đang lưu giữ tại UBND huyện S, cũng như Công văn
số 242/UBND-TNMT ngày 17/3/2009 của UBND huyện S có nội dung đối tượng được
cấp Giấy chứng nhận 2.472m 2 đất là hộ gia đình ông Vương Văn V. Hộ gia đình anh V
tại thời điểm cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, diện tích đất tranh chấp hộ gia
đình anh Vương Văn V gồm ông Tr, anh V, chị X.
Bình luận:
* Về quan hệ pháp luật tranh chấp:
Tranh chấp giữa chị X và ông Tr là tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất nông
nghiệp vì diện tích đất nông nghiệp là 2.472m 2 tại các xứ đồng thuộc thôn LC, xã XG,
huyện S, tỉnh H đã được UBND huyện S cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm
1998 mang tên anh Vương Văn V, số sổ là 863/QSDĐ. Năm 2006, anh V chết, ông
Vương Văn Tr đã chiếm giữ, sử dụng diện tích 1.080 m 2 đất tại xứ đồng bờ Tùy, chị X
đòi nhiều lần nhưng ông Tr không trả. Chị X khởi kiện ông Tr yêu cầu Toà án chia thừa
kế theo pháp luật diện tích đất 1.080m2 tại xứ đồng bờ Tuỳ.
* Về người thừa kế, di sản thừa kế:
Anh Vương Văn V chết có tài sản để lại vì vậy anh V là người để lại thừa kế, anh V
chết không để lại di chúc vì vậy di sản của anh V được chia theo pháp luật. Bên nguyên
đơn không yêu cầu chia toàn bộ di sản của anh V để lại mà chỉ yêu cầu chia thừa kế theo
pháp luật diện tích đất 1.080m 2 tại xứ đồng bờ Tuỳ nên Tòa án chỉ giải quyết trong phạm
vi yêu cầu của nguyên đơn. Người thừa kế theo pháp luật thuộc hàng thứ nhất của anh V
theo quy định tại Điều 676 BLDS năm 2005 gồm 05 người: ông Vương Văn Tr, chị
Nguyễn Thị X, cháu Vương Thị H, cháu Vương Văn Th, cháu Vương Văn A. Cháu
Vương Thị H - sinh năm 1994; cháu Vương Văn Th - sinh năm 1996, cháu Vương Văn A
16
- sinh năm 1998. Chị X khởi kiện ngày 20/8/2008 khi đó các cháu chưa thành niên nên
chị X là người đại diện hợp pháp của 03 con chị.
* Về di sản thừa kế:
Ông Tr cho rằng 1.080m2 đất đang có tranh chấp là tài sản của ông, do ông đổi với
một số hộ dân cùng thôn từ những năm 1988, ông Nguyễn Xuân H lúc đó là chủ nhiệm
hợp tác xã đã tự ghi tên anh V vào trong đơn xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
nông nghiệp (2.472m2) nên việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho anh V là
không đúng. Còn chị X có quan điểm, diện tích đất tranh chấp vợ chồng chị đã nhận
chuyển nhượng của ông K, nhưng hiện nay ông K đã chết và giấy tờ thì không có. Song
thực tế là từ tháng 01/1998 thì diện tích đất có tranh chấp đã được UBND huyện S cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên hộ anh Vương Văn V.
Theo nội dung lời khai của ông Nguyễn Xuân H - nguyên chủ nhiệm Hợp tác xã
nông nghiệp LC, nguyên Trưởng tiểu ban cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông
nghiệp thực hiện Nghị định số 64-CP, thì ông là người trực tiếp đến nhà anh V - chị X,
lúc đó ông Tr đang ở cùng để làm thủ tục kê khai (ông H là họ hàng của cả ông Tr và chị
X), ông Tr, anh V, chị X đã thống nhất và nhờ ông ký tên hộ. Khi có Giấy chứng nhận
ông đã giao cả 02 bản cho chính ông Tr.
Căn cứ vào các đơn xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp cho
hộ gia đình hiện đang lưu giữ tại UBND huyện S, cũng như căn cứ vào Công văn số
242/UBND-TNMT ngày 17/3/2009 của UBND huyện S đã khẳng định đối tượng được
cấp Giấy chứng nhận 2.472m2 đất là hộ gia đình anh Vương Văn V (gồm ông Tr, anh V,
chị X). Từ những căn cứ trên, xác định diện tích đất tranh chấp là tài sản của hộ gia đình
anh Vương Văn V theo quy định tại Điều 106, 107, 108, 688 BLDS năm 2005. Do vậy,
anh V, ông Tr, chị X có quyền ngang nhau đối với diện tích họ đang có tranh chấp là
1.080 m2. Do xác định diện tích đất tranh chấp là tài sản chung của ông Tr, anh V chị X
nên chia ba sau khi anh V chết. Ông Tr, anh V, chị X mỗi người được chia bằng nhau.
Ðiều 106 BLDS năm 2005 quy định:
17
Hộ gia đình
Hộ gia đình mà các thành viên có tài sản chung, cùng đóng góp công sức để hoạt
động kinh tế chung trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp hoặc một số lĩnh vực sản xuất,
kinh doanh khác do pháp luật quy định là chủ thể khi tham gia quan hệ dân sự thuộc các
lĩnh vực này.
Ðiều 107 BLDS năm 2005 quy định:
Ðại diện của hộ gia đình
1. Chủ hộ là đại diện của hộ gia đình trong các giao dịch dân sự vì lợi ích chung của
hộ. Cha, mẹ hoặc một thành viên khác đã thành niên có thể là chủ hộ.
Chủ hộ có thể ủy quyền cho thành viên khác đã thành niên làm đại diện của hộ
trong quan hệ dân sự.
2. Giao dịch dân sự do người đại diện của hộ gia đình xác lập, thực hiện vì lợi ích
chung của hộ làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của cả hộ gia đình.
Ðiều 108 BLDS năm 2005 quy định:
Tài sản chung của hộ gia đình
Tài sản chung của hộ gia đình gồm quyền sử dụng đất, quyền sử dụng rừng, rừng
trồng của hộ gia đình, tài sản do các thành viên đóng góp, cùng nhau tạo lập nên hoặc
được tặng cho chung, được thừa kế chung và các tài sản khác mà các thành viên thỏa
thuận là tài sản chung của hộ.
Ðiều 109 BLDS năm 2005 quy định:
Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của hộ gia đình
1. Các thành viên của hộ gia đình chiếm hữu và sử dụng tài sản chung của hộ theo
phương thức thỏa thuận.
18
2. Việc định đoạt tài sản là tư liệu sản xuất, tài sản chung có giá trị lớn của hộ gia
đình phải được các thành viên từ đủ mười lăm tuổi trở lên đồng ý; đối với các loại tài sản
chung khác phải được đa số thành viên từ đủ mười lăm tuổi trở lên đồng ý.
Ðiều 688 BLDS năm 2005 quy định:
Căn cứ xác lập quyền sử dụng đất
1. Ðất đai thuộc hình thức sở hữu nhà nước, do Chính phủ thống nhất quản lý.
2. Quyền sử dụng đất của cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, chủ thể khác được xác
lập do Nhà nước giao đất, cho thuê đất hoặc công nhận quyền sử dụng đất.
3. Quyền sử dụng đất của cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, chủ thể khác cũng được
xác lập do được người khác chuyển quyền sử dụng đất phù hợp với quy định của Bộ luật
này và pháp luật về đất đai.
Phần đất của anh V được chia có diện tích 360 m 2 là tài sản chung của vợ chồng anh
V, chị X theo quy định tại Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Anh V chết,
thanh toán chia tài sản chung của vợ chồng nên xác định quyền sử dụng đất là di sản của
anh V để lại là 360 m2 : 2 còn 180m2 chia đều cho 05 người thừa kế theo quy định tại các
điều 676, 689, 735 BLDS: 180 m2 : 5 = 36 m2 (gồm ông Tr = chị X = cháu H = cháu Th =
cháu A). Như vậy, ông Tr, chị X, cháu H, cháu Th, cháu A được chia mỗi người 36 m 2 từ
180 m2 đất di sản thừa kế của anh V.
Ðiều 689 BLDS năm 2005 quy định:
Hình thức chuyển quyền sử dụng đất
1. Việc chuyển quyền sử dụng đất được thực hiện thông qua hợp đồng, trừ trường
hợp quy định tại khoản 3 Ðiều này.
2. Hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất phải được lập thành văn bản, có công
chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật.
19
3. Việc thừa kế quyền sử dụng đất được thực hiện theo quy định tại các điều từ Ðiều
733 đến Ðiều 735 của Bộ luật này.
Ðiều 733 BLDS năm 2005 quy định:
Thừa kế quyền sử dụng đất
Thừa kế quyền sử dụng đất là việc chuyển quyền sử dụng đất của người chết sang
cho người thừa kế theo quy định của Bộ luật này và pháp luật về đất đai.
Ðiều 734 BLDS năm 2005 quy định:
Cá nhân để thừa kế quyền sử dụng đất
Cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất có
quyền để thừa kế quyền sử dụng đất theo quy định tại Phần thứ tư của Bộ luật này và
pháp luật về đất đai.
Ðiều 735 BLDS năm 2005 quy định:
Thừa kế quyền sử dụng đất được Nhà nước giao cho hộ gia đình
Hộ gia đình được Nhà nước giao đất nếu trong hộ có thành viên chết thì quyền sử
dụng đất của thành viên đó được để lại cho những người thừa kế theo quy định tại Phần
thứ tư của Bộ luật này và pháp luật về đất đai.
Như vậy, phần ông Tr được thừa kế là 180 m 2 : 5 = 36 m2, nhập vào chung với phần
ông Tr được chia trước đó 360 m2 = 396 m2.
Phần của chị X và 03 con là cháu A, H, Th được hưởng thừa kế của anh V là: 36 m 2
x 4 = 144 m2. Diện tích đất chị X được chia tài sản chung khi chia tài sản của hộ gia đình
là 360 m2, chia tài sản chung của vợ chồng là 180 m 2. Cộng gộp lại là chị X và 03 con
được chia diện tích 684 m2.
Từ những phân tích trên đây, vụ việc có thể giải quyết như sau:
20
1. Chấp nhận yêu cầu chia di sản thừa kế là quyền sử dụng 1.080 m 2 đất nông
nghiệp tại xứ đồng bờ Tuỳ, thôn LC, xã XG, huyện S, tỉnh H của Nguyễn Thị X đối với
ông Vương Văn Tr.
2. Xác định quyền sử dụng 1.080 m2 đất nông nghiệp đo thực tế tại xứ đồng bờ Tuỳ
thuộc thôn LC (bản đồ địa chính lập năm 1992) được cấp cho hộ gia đình anh Vương
Văn V gồm: anh Vương Văn V, chị Nguyễn Thị X, ông Vương Văn Tr. Chia đều mỗi
người được quyền sử dụng 360 m2 đất.
3. Xác định thời điểm mở thừa kế di sản của anh Vương Văn V là ngày 28/3/2006.
Hàng thừa kế thứ nhất của anh V là ông Vương Văn Tr, chị Nguyễn Thị X, các
cháu Vương Thị H, Vương Văn Th, Vương Văn A. Mỗi thừa kế được chia 36m 2.
4. Ghi nhận sự tự nguyện của chị X và 03 con xin chia chung vào một khối. Chia
cho chị Nguyễn Thị X và 03 con là Vương Thị H, Vương Văn Th, Vương Văn A quyền
sử dụng 684 m2 đất nông nghiệp còn lại tại xứ đồng bờ Tuỳ, thôn LC, xã XG, huyện S,
tỉnh H.
5. Chia cho ông Vương Văn Tr quyền sử dụng 396 m 2 đất nông nghiệp tại xứ đồng
bờ Tuỳ, thôn LC, xã XG, huyện S, tỉnh H (trong 1.080 m2 đất nông nghiệp đang có tranh
chấp).
Các bên không phải thanh toán cho nhau khoản tiền nào và có trách nhiệm đến cơ
quan nhà nước có thẩm quyền kê khai xin cấp Giấy chứng nhận theo quyết định của Toà
án.
VỤ VIỆC SỐ 3
Nội dung vụ án:
Ông Nguyễn Th mất ngày 09/5/2007, có vợ là bà Hồng Bảo A. Ông Th, bà A có 03
con chung là Nguyễn Hồng C; Nguyễn Hồng S và Nguyễn Hồng Q, ngoài ra ông Th
không có người con đẻ, con nuôi, con riêng nào khác.
21
Nguồn gốc căn hộ tại phòng 116 (cũ phòng 16) - C1 - tập thể KL - quận Đ - thành
phố H do Bộ kiến trúc phân cho bà Hồng Bảo A ngày 14/7/1967. Năm 1987, ông Th
được phân thêm 01 căn hộ tại phòng 103 (cũ phòng 3) - C5 - tập thể KL - quận Đ - thành
phố H. Năm 1991, ông bà ly hôn đã tự phân chia tài sản cụ thể: Ông Th được chia 1/2 căn
hộ tại phòng 116 (cũ phòng 16) - C1 - tập thể KL và căn hộ tại phòng 103 (cũ phòng 3) C5 - tập thể KL. Ngày 06/12/2000, ông Nguyễn Th được UBND thành phố H cấp Giấy
chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở đối với diện tích đất ông được
chia. Sau khi ông Th ly hôn thì 02 căn hộ này do ông Th cùng gia đình anh C ở quản lý
và sử dụng.
Ngày 18/4/2006, ông Th lập chúc thư, di chúc do ông Th viết tay, không có người
làm chứng. Di chúc gồm có 02 trang, mỗi trang đều có chữ ký của ông Th, nội dung để
lại tài sản cho các con của ông Th cụ thể: Anh C được hưởng toàn bộ diện tích nhà đất tại
phòng 103 (cũ phòng 3) - C5 - tập thể KL - quận Đ - thành phố H gồm có phần đất tự tạo
(lưu không) và 10m2 kiốt tại phòng 116 - C1. Anh S được hưởng 2/3 diện tích phòng 116
nhà C1 tập thể KL; chị Q được hưởng 1/3 diện tích phòng 116 nhà C1 tập thể KL bao
gồm cả phần đất tự tạo (lưu không: có phần nhà xây trên đất lưu không liền kề phần nhà
chính có diện tích 22,75m 2). Ngày 15/01/2008, chị Q khởi kiện yêu cầu chia thừa kế di
sản của ông Th theo di chúc.
Anh Nguyễn Hồng C cũng nhất trí với lời khai của chị Q nhưng theo anh toàn bộ
diện tích lấn chiếm là do anh tự lấn chiếm, tự xây nhà. Nay anh chỉ đồng ý phần di chúc
của ông Th đối với diện tích đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Phần lấn
chiếm bố anh định đoạt cả là không đúng nên anh chỉ đồng ý trả phần nhà 20,2m 2 đã được
cấp Giấy chứng nhận, phần anh lấn chiếm anh không đồng ý trả.
Anh Nguyễn Hồng S thống nhất với lời khai của chị Q yêu cầu Tòa công nhận di
chúc.
Chị Trần Thị Kim T (vợ anh C) nhất trí với lời khai của anh C.
Tài liệu trong hồ sơ vụ án thể hiện:
22
Tại biên bản lấy lời khai ngày 20/4/2008, anh C khai có nội dung vào cuối năm
2006 anh đã dùng tiền của bố để sửa nhà. Tại phiên hòa giải ngày 24/6/2008, chị Q, anh
Sơn cũng đã tự nguyện thanh toán khoản tiền 24.944.160 đồng là tiền sửa chữa xây dựng
cho anh C.
Trong quá trình giải quyết vụ án, anh C có đơn yêu cầu Tòa án trưng cầu giám định
chữ ký của ông Nguyễn Th tại chúc thư lập ngày 18/4/2006. Tại Kết luận giám định số
920/C21 (P6) ngày 06/5/2009 của Viện khoa học hình sự, Tổng cục cảnh sát đã kết luận:
“Chữ ký đứng tên “Nguyễn Th” dưới mục “người viết chúc thư” trên 20trang tài liệu
cần giám định đề “chúc thư” ngày 18/4/2006 (ký hiệu A1-2) với chữ ký của ông Nguyễn
Th trên các trang tài liệu mẫu so sánh ký hiệu M1; M2; M3; M4; M5-2; M6-2; M7-2 là
do cùng một người ký ra”.
Diện tích 10m2 kiốt, các đồ dùng sinh hoạt trong gia đình các đương sự đã tự giải
quyết không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.
Bình luận:
* Về người để lại thừa kế, người thừa kế:
Ông Nguyễn Th mất ngày 09/5/2007, có vợ là bà Hồng Bảo A. Ông bà có 03 con
chung là anh C, anh S, chị Q. Năm 1991, ông bà ly hôn đã tự chia nhau tài sản xong.
Ngoài ba người con đẻ, ông Th không còn con đẻ, con nuôi, con riêng nào khác. Căn cứ
BLDS năm 2005, xác định ông Th là người để lại thừa kế. Theo quy định tại Điều 635
BLDS năm 2005, anh C, anh S, chị Q được ông Th chỉ định trong di chúc hưởng di sản
thừa kế của ông và còn sống vào thời điểm mở thừa kế nên là người thừa kế theo di chúc
của ông Th.
* Về di sản thừa kế:
Anh C, anh S và chị Q đều xác định ông Th mất đi có để lại 02 khối tài sản gồm căn
hộ P116 (cũ P16) - C1 diện tích 20,2m 2 và căn hộ P103 (cũ P3) - C5 diện tích 18,5m 2 tại
khu tập thể KL hiện đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông
Nguyễn Th. Ngoài ra, còn xây dựng nhà trên phần đất lưu không liền kề với 02 căn hộ
23
trên. Theo chị Q, anh S thì phần xây dựng nhà là tiền của, công sức của ông Th bỏ ra.
Theo anh C, chị T thì toàn bộ tiền của, công sức xây dựng nhà trên phần đất lưu không là
của vợ chồng anh chị bỏ ra. Tuy nhiên, anh C, chị T không đưa ra được các chứng cứ
chứng minh cho việc sửa chữa của mình. Hơn nữa, anh C còn xác nhận vào cuối năm
2006 anh đã dùng tiền của bố để sửa nhà. Về thực tế, ông Th là chủ sở hữu 02 căn hộ nêu
trên. Trong quá trình ở và quản lý nhà này, ông Th mới là người được quyền lấn chiếm
xây dựng phần đất lưu không phía trước hoặc phía sau căn hộ. Trong quá trình giải quyết
vụ án, chị Q, anh S cũng đã tự nguyện thanh toán khoản tiền 24.944.160 đồng là tiền sửa
chữa xây dựng cho anh C.
Tuy nhiên, phần đất lưu không nói trên thuộc quyền quản lý của nhà nước nên diện
tích đất này không phải là di sản thừa kế của ông Th. Do đó, xác định di sản của ông Th
để lại bao gồm: Nhà tại P116 - C1 theo biên bản định giá có giá trị là: 353.663.136 đồng
(giá trị của căn hộ P116) + 24.944.160 đồng (giá trị vật liệu xây dựng trên phần đất lưu
không) = 378.607.296 đồng. Nhà tại P103 - C5 theo biên bản định giá có giá trị là:
259.000.000 đồng (giá trị của căn hộ P103) + 28.574.000 đồng (giá trị vật liệu xây dựng
trên phần đất lưu không) = 287.574.000 đồng.
Đối với diện tích 10m2 kiốt, các đồ dùng sinh hoạt trong gia đình các đương sự đã
tự giải quyết không yêu cầu Tòa án xem xét nên không phải xét.
* Về tính hợp pháp của di chúc:
- Về hình thức của di chúc:
Bản di chúc do ông Th viết tay, không có người làm chứng. Di chúc gồm có 02
trang, mỗi trang đều có chữ ký của ông Th. Như vậy, đây là di chúc bằng văn bản không
có người làm chứng, căn cứ theo quy định tại Điều 653, 655 BLDS năm 2005 hình thức
của bản chúc thư ông Th lập ngày 18/4/2006 là đúng quy định của pháp luật.
- Về nội dung của di chúc:
Ngày 18/4/2006, ông Th có lập chúc thư để lại tài sản cụ thể: Phần cho con trai cả
Nguyễn Hồng C trước đây tôi đã cho C sử dụng để ở phần nhà bên C5, nay tôi vẫn để cho
24
C ở như cũ. Sau khi tôi mất đi, tôi sẽ cho thêm C một kiốt gần 10m 2 ở đầu hồi nhà C1,
ngoài C ra sau này là của cháu nội tôi là Nguyễn Thanh L mới được hưởng, còn những
người khác không có phần. Phần nhà đất liền kề tự tạo ở P116 - C1 tập thể KL (kể cả sân)
bằng 50,2m2 tôi sẽ cho S 2/3 và cho Q 1/3.
Trong quá trình giải quyết vụ án, anh C có đơn yêu cầu Tòa án trưng cầu giám định
chữ ký của ông Nguyễn Th tại chúc thư lập ngày 18/4/2006. Tại Kết luận giám định số
920/C21 (P6) ngày 06/5/2009 của Viện khoa học hình sự, Tổng cục cảnh sát đã kết luận:
“Chữ ký đứng tên “Nguyễn Th” dưới mục “người viết chúc thư” trên trang 2 tài liệu cần
giám định đề “chúc thư” ngày 18/4/2006 (ký hiệu A1-2) với chữ ký của ông Nguyễn Th
trên các trang tài liệu mẫu so sánh ký hiệu M1; M2; M3; M4; M5-2; M6-2; M7-2 là do
cùng một người ký ra”.
Như vậy, ông Th lập di chúc là hoàn toàn tự nguyện, thể hiện ý chí đích thực của
ông. Di chúc có nội dung định đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu của ông cho 03 người con.
Vì vậy, nội dung của bản di chúc này là hợp pháp.
Di chúc ngày 18/4/2006 có nội dung và hình thức phù hợp với pháp luật nên được
công nhận.
Từ những phân tích trên, xác định phần diện tích nhà đất đã được cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng sở hữu hợp pháp mang tên ông Nguyễn Th là di sản thừa kế của ông
Nguyễn Th và công nhận di chúc của ông Th về phần nhà đất này là có căn cứ và đúng
pháp luật.
Ðiều 652 BLDS năm 2005 quy định:
Di chúc hợp pháp
1. Di chúc được coi là hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối,
đe doạ hoặc cưỡng ép;
25