Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn cho việc sửa đổi, bổ sung các biện pháp tha miễn của Bộ luật hình sự năm 1999.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.61 KB, 20 trang )

Đề bài: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn cho việc sửa đổi, bổ sung các biện pháp
tha miễn của Bộ luật hình sự năm 1999.
BÀI LÀM
A.

MỞ ĐẦU.
Các biện pháp tha miễn là một trong những chế định lớn và cơ bản của

luật hình sự Việt Nam, là sự thể hiện trực tiếp nhất nguyên tắc nhân đạo của luật
hình sự nói riêng và của cả chính sách hình sự nói chung. Chính vì vậy, trong
giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp hiện nay, việc
nghiên cứu để tìm hiểu nội dung, bản chất pháp lý, căn cứ và những điều kiện
áp dụng của từng biện pháp (chế định) tha miễn không chỉ có ý nghĩa nhận thức
khoa học, mà cả ý nghĩa thực tiễn quan trọng. Sau gần 14 năm thi hành BLHS
năm 1999, tình hình đất nước ta đã có những thay đổi lớn về mọi mặt nên
BLHS 1999 đã bộc lộ nhiều hạn chế bất cập, trong đó có những bất cập của các
biện pháp tha miễn cần sửa đổi, bổ sung. BLHS 2015 ra đời đã cơ bản khắc
phục được những thiếu sót đó. Trong phạm vi bài viết này, tơi xin phép được
trình bày vấn đề “Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn cho việc sửa đổi, bổ sung các
biện pháp tha miễn của Bộ luật hình sự năm 1999” để hiểu rõ hơn về chế định
này.
NỘI DUNG.
Khái niệm, đặc điểm, phân loại các biện pháp tha miễn trong Luật hình
B.

I.

sự.
Theo quan điểm được thừa nhận chung trong khoa học luật hình sự thì
chúng ta có thể hiểu các biện pháp tha miễn trong pháp luật hình sự là các quy
phạm (hoặc chế định) được quy định trong Bộ luật hình sự, thể hiện tính nhân


đạo, khoan hồng của Nhà nước và chỉ có thể được các cơ quan tiến hành tố tụng
tiến hành trong một số trường hợp nhất định khi có đầy đủ các căn cứ và những
điều kiện do pháp luật hình sự quy định.
Từ định nghĩa trên, ta có thể khái quát được bốn đặc điểm của các biện
pháp tha miễn trong Luật hình sự như sau:

1


- Biện pháp tha miễn là một quy phạm (hoặc một chế định) mang tính
chất nhân đạo vì nó thể hiện sự tôn trọng và bảo vệ các quyền con người bằng
PLHS như là những giá trị xã hội cao quý nhất.
- Biện pháp tha miễn trong luật hình sự phản ánh sự khoan hồng của Nhà
nước đối với những người phạm tội vì nó cho thấy sự quan tâm của Nhà nước
trong việc cải tạo và giáo dục họ, khuyến khích họ sửa chữa sai lầm nhằm tránh
khỏi con đường phạm tội trở về với cuộc sống lương thiện và sớm tái hòa nhập
vào cộng đồng.
- Biện pháp tha miễn trong luật hình sự do cơ quan tư pháp hình sự có
thẩm quyền (cơ quan Điều tra với sự phê chuẩn của Viện kiểm sát hoặc Tòa án
căn cứ vào giai đoạn TTHS tương ứng) áp dụng chỉ trong một số trường hợp
nhất định do PLHS quy định vì khơng phải trong bất kỳ trường hợp nào nó cũng
có thể được các cơ quan này áp dụng đối với những người phạm tội.
- Biện pháp tha miễn trong luật hình sự chỉ được phép áp dụng khi có đầy
đủ các căn cứ và những điều kiện do PLHS quy định, mà cụ thể đó là các căn cứ
và những điều kiện tương ứng để: a) không truy cứu trách nhiệm hình sự
(TNHS) hoặc khơng thi hành bản án kết tội do đã hết thời hiệu; b) miễn TNHS;
và c) áp dụng biện pháp tha miễn có liên quan đến hình phạt – miễn hình
phạt,miễn chấp hành hình phạt, giảm mức hình phạt đã tuyên, giảm thời hạn
chấp hành hình phạt, án treo, hỗn chấp hành hình phạt tù, tạm đình chỉ chấp
hành hình phạt tù và xóa án tích.

Biện pháp tha miễn trong PLHS có thể phân chia thành các dạng sau: thời
hiệu (bao gồm thời hiệu truy cứu TNHS và thời hiệu thi hành bản án kết tội);
miễn TNHS; miễn hình phạt; miễn chấp hành hình phạt; giảm mức hình phạt đã
tuyên; giảm thời hạn chấp hành hình phạt; án treo; tha tù trước thời hạn có điều
kiện; hỗn chấp hành hình phạt tù; tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù; xóa án
tích; đại xá, đặc xá, theo đó:
-

Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là thời hạn do BLHS quy định mà khi

-

hết thời hạn đó thì người phạm tội khơng bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Miễn trách nhiệm hình sự là một chế định nhân đạo của pháp luật hình sự Việt
Nam và được thể hiện bằng văn bản với nội dung huỷ bỏ hậu quả pháp lý bất lợi

2


của việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm đối với
người bị coi là có lỗi trong việc thực hiện hành vi đó, do cơ quan Điều tra, Viện
kiểm sát hoặc Tòa án tuỳ thuộc vào giai đoạn tố tụng hình sự tương ứng áp dụng
-

khi có đầy đủ căn cứ pháp lý và những điều kiện luật định.
Miễn hình phạt là: Tịa án khơng quyết định hình phạt trong bản án kết tội có
hiệu lực pháp luật đối với người bị coi là có lỗi trong việc thực hiện tội phạm,
tức là không áp dụng đối với người này biện pháp cưỡng chế về hình sự nghiêm

-


khắc nhất khi có đầy đủ căn cứ và những điều kiện được quy định trong PLHS.
Miễn chấp hành hình phạt là: Tịa án quyết định hình phạt nhất định trong bản
án kết tội có hiệu lực pháp luật đối với người bị coi là có lỗi trong việc thực
hiện tội phạm, nhưng không buộc người này phải chấp hành tồn bộ hình phạt

-

ấy khi có đầy đủ căn cứ và những điều kiện do PLHS quy định.
Giảm mức hình phạt đã được tun là: Tịa án quyết định giảm mức hình phạt
đã tuyên trong bản án kết tội có hiệu lực pháp luật cho người bị kết án đã chấp
hành hình phạt đó được một thời gian nhất định (đối với phạt cải tạo không
giam giữ hoặc phạt tù có thời hạn) hoặc miễn phần hình phạt cịn lại (đối với
hình phạt tiền) khi có đầy đủ căn cứ và những điều kiện được quy định trong

-

PLHS.
Án treo: Là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện do Tịa án quyết
định trong bản án kết tội có hiệu lực pháp luật đối với người bị coi là có lỗi
trong việc thực hiện tội phạm khi có căn cứ và những điều kiện do PLHS quy

-

định.
Hỗn chấp hành hình phạt tù là: Tịa án quyết định tạm dừng lại việc CHHP tù
đã được tuyên trong bản án kết tội có hiệu lực pháp luật đối với người bị kết án
(nhưng chưa chấp hành hình phạt đó) trong một thời hạn nhất định khi có đầy

-


đủ căn cứ và những điều kiện do PLHS quy định.
Tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù là: Tòa án quyết định tạm dừng lại việc
CHHP tù đã được tuyên trong bản án kết tội có hiệu lực pháp luật đối với người
bị kết án (đang chấp hành hình phạt) trong một thời hạn nhất định khi có đầy đủ

-

căn cứ và những điều kiện do PLHS quy định.
Xóa án tích là: Sự hủy bỏ hậu quả pháp lý, tức là hoàn toàn chấm dứt việc thực
hiện TNHS đối với người bị kết án sau khi người này đã chấp hành xong hình
phạt và các quyết định khác của Tịa án trong bản án kết tội có hiệu lực pháp
luật khi có đầy đủ các căn cứ và những điều kiện do PLHS quy định.
3


-

Đại xá là một biện pháp khoan hồng của Nhà nước do Quốc hội quyết định nhân
dịp kỷ niệm lịch sử quan trọng nhất định đối với những người phạm tội nhất
định. Đối với những hành vi phạm tội được đại xá thì dù trong giai đoạn tố tụng
nào thì đều được tha tội hoàn toàn, được phục hồi toàn bộ quyền công dân và

-

được coi như không phạm tội, khơng có án tích.
Đặc xá là sự khoan hồng đặc biệt của Nhà nước do Chủ tịch nước quyết định
tha tù trước thời hạn cho người bị kết án phạt tù có thời hạn, tù chung thân nhân

II.


sự kiện trọng đại, ngày lễ lớn của đất nước hoặc trong trường hợp đặc biệt.
Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn cho việc sửa đổi, bổ sung các biện pháp tha
miễn trong BLHS năm 1999.
BLHS năm 2015 ra đời dựa trên cơ sở tổng kết thực tiễn, kế thừa, phát
triển các quy định còn phù hợp của BLHS năm 1999, bổ sung những quy định
mới để giải quyết những vướng mắc, bất cập đang đặt ra trong công tác đấu
tranh phòng, chống tội phạm, sửa đổi hoặc loại bỏ những quy định khơng cịn
phù hợp. Xuất phát từ những u cầu này, chế định biện pháp tha miễn trong
BLHS năm 1999 đã được BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung ở các nội dung sau:
1.

Về chế định thời hiệu.

Không truy cứu TNHS do đã hết thời hiệu là: sau một thời hạn nhất định do
luật định đã qua (kể từ ngày tội phạm được thực hiện), đồng thời khi có đầy đủ
căn cứ và những điều kiện được ghi nhận trong PLHS thì người phạm tội khơng
thể bị Nhà nước truy cứu TNHS, tuy nhiên vẫn loại trừ một số trường hợp ngoại
lệ không được phép áp dụng biện pháp tha miễn này.
Điều 24 BLHS năm 1999 quy định: Không áp dụng thời hiệu truy cứu trách
nhiệm hình sự quy định tại Điều 23 của Bộ luật này đối với hai nhóm tội phạm
đặc biệt nghiêm trọng là các tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia và các tội phá
hoại hịa bình, chống lồi người, và tội phạm chiến tranh.
Nhằm thể hiện chủ trương của Đảng ta về “xử lý nghiêm khắc hơn đối
với những tội phạm là người có thẩm quyền trong thực thi pháp luật, những
người lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội. Người có chức vụ càng cao mà
lợi dụng chức vụ, quyền hạn phạm tội thì càng phải xử lý nghiêm khắc để làm

4



gương cho người khác”, Điều 28 BLHS 2015, ngoài việc kế thừa như quy định
BLHS năm 1999 trước đây thì chế định nhân đạo này cịn khơng được áp dụng
đối với 2 tội danh: Tội tham ô tài sản và Tội nhận hối lộ nhưng được thực hiện
trong các trường hơp đặc biệt nghiêm trọng (khoản 3 và khoản 4 của các điều
353, 354 BLHS) vì, đấu tranh phịng, chống tham nhũng là một trong những vấn
đề được Đảng, Nhà nước ta coi trọng và dành sự quan tâm đặc biệt. Đã có nhiều
biện pháp nhận diện hành vi tham nhũng và biện pháp phòng ngừa, phát hiện và
xử lý tệ tham nhũng đã được ban hành. Tuy nhiên, công tác phòng ngừa, đấu
tranh, xử lý các hành vi tham nhũng vẫn còn nhiều hạn chế mà một trong những
nguyên nhân quan trọng là do những bất cập của hệ thống pháp luật, trong đó có
pháp luật hình sự. Ngồi ra, với tư cách là quốc gia thành viên Công ước chống
tham nhũng, chúng ta có trách nhiệm nội luật hố các quy định về hình sự hóa
của Cơng ước. Vì vậy, để góp phần nâng cao hiệu quả cơng tác đấu tranh chống
tham nhũng, một trong những giải pháp tích cực đó là khơng quy định thời hiệu
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội tham nhũng đặc biệt
nghiêm trọng. Như vậy, với quy định này, thì những người phạm tội tham nhũng
đặc biệt nghiêm trọng có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự bất cứ lúc nào, nếu
cơ quan chức năng phát hiện được hành vi phạm tội của họ. Do vậy, bên cạnh
quy định không áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các tội
xâm phạm an ninh quốc gia và các tội phá hoại hịa bình, chống lồi người và
tội phạm chiến tranh, BLHS năm 2015 đã bổ sung quy định về không áp dụng
thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về tham nhũng đặc
biệt nghiêm trọng.
2.

Miễn trách nhiệm hình sự.

Điều 25 BLHS năm 1999 quy định 03 trường hợp người phạm tội được miễn
trách nhiệm hình sự: (1) Người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự, nếu

khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do chuyển biến của tình hình mà
hành vi phạm tội hoặc người phạm tội khơng cịn nguy hiểm cho xã hội nữa; (2)
Trong trường hợp trước khi hành vi phạm tội bị phát giác, người phạm tội đã tự
thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội
phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm, thì cũng có thể

5


được miễn trách nhiệm hình sự và (3) Người phạm tội được miễn trách nhiệm
hình sự khi có quyết định đại xá. Trong 3 trường hợp trên, hai trường hợp đầu
tiên, do chưa có văn bản hướng dẫn nên việc áp dụng quy định này để miễn
TNHS cho người phạm tội gặp khó khăn do đó, tỷ lệ người bị đưa ra xét xử sau
khi có quyết định khởi tố luôn chiếm tỷ lệ cao. Qua tổng kết thi hành BLHS,
nhiều hành vi dù đã đủ yếu tố cấu thành tội phạm nhưng giữa người phạm tội và
người bị hại đã có sự thỏa thuận, thậm chí đến tịa xin cho bị cáo được miễn
chấp hành TNHS nhưng Tòa án khơng chấp thuận vì khơng có căn cứ.
BLHS năm 2015 đã cụ thể hóa các trường hợp được miễn trách nhiệm hình
sự theo hướng: một là, phân biệt những trường hợp đương nhiên được miễn
trách nhiệm hình sự (khoản 1 Điều 29) và trường hợp có thể được miễn trách
nhiệm hình sự (khoản 2, khoản 3 Điều 29); hai là, bổ sung một số trường hợp có
thể được miễn TNHS nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc hiện nay. Những
trường hợp đương nhiên được miễn TNHS nêu tại khoản 1 Điều 29 thì ngồi
việc giữ ngun căn cứ ”khi có quyết định đại xá” như quy định tại BLHS 1999
thì BLHS 2015 đã cụ thể hóa cụm từ cũ ”chuyển biến của tình hình mà” (tại
khoản 1 Điều 25 BLHS năm 1999) bằng cụm từ mới ”có sự thay đổi chính
sách, pháp luật làm cho” hành vi phạm tội khơng còn nguy hiểm cho xã hội
nữa. Đối với những trường hợp có thể được miễn TNHS, để quy định này được
chặt chẽ hơn, các nhà làm luật đã bổ sung thêm điều kiện, từ quy định “Trong
trường hợp trước khi hành vi phạm tội bị phát giác, người phạm tội đã tự thú,

khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm,
cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm, thì cũng có thể được
miễn trách nhiệm hình sự” trong BLHS năm 1999 sửa đổi thành “Người phạm
tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra
tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và lập
cơng lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận”.
Tức là bổ sung thêm điều kiện “và lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt,
được Nhà nước và xã hội thừa nhận”.
Và bổ sung thêm căn cứ mới so với BLHS năm 1999 để có thể được miễn
TNHS, đó là quy định tại khoản 3 Điều 29 BLHS 2015: “Người thực hiện tội

6


phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng do vơ ý gây thiệt hại về tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác và được
người bị hại hoặc người đại diện của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề
nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự”. Quy
định này là phù hợp với thực tiễn xét xử và pháp luật hình sự các nước, cũng
như góp phần nhân đạo hóa hơn nữa chính sách hình sự của Nhà nước trong giai
đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền.
Tuy nhiên, Bộ luật Hình sự năm 1999 cũng như BLHS năm 2015 đều có mặt
hạn chế là chưa đưa ra định nghĩa pháp lý của khái niệm miễn trách nhiệm hình
sự, hậu quả pháp lý cụ thể của việc miễn trách nhiệm hình sự là gì? Các trường
hợp miễn trách nhiệm hình sự lại được quy định rải rác ở các điều luật, các
chương thuộc Phần chung và Phần các tội phạm Bộ luật Hình sự rõ ràng là chưa
chính xác về mặt khoa học và chưa đạt về mặt kỹ thuật lập pháp.
3.

Miễn chấp hành hình phạt.


Miễn chấp hành hình phạt là chế định nhân đạo trong Luật hình sự Việt
Nam. Thực hiện những quy định này nhằm hạn chế việc áp dụng chế tài của
Luật hình sự nhưng vẫn đảm bảo được yêu cầu giáo dục người phạm tội trở
thành cơng dân có ích cho xã hội. Áp dụng đúng chế định này có ý nghĩa quan
trọng, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cơng dân, đáp ứng mục tiêu của
cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Miễn chấp hành hình phạt được ghi nhận tại Điều 62 BLHS năm 2015 gồm 7
khoản mà về cơ bản giống như trong BLHS năm 1999 trước đây, tuy nhiên phân
tích các quy định này cho thấy những điểm mới cơ bản:
-

Phân định việc miễn chấp hành hình phạt đối với người bị kết án tù có thời hạn
đến 03 năm và trên 03 năm;

-

Bổ sung trường hợp được miễn chấp hành phần hình phạt cịn lại: Người bị kết
án phạt tù đến 03 năm, đã được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt, nếu trong
thời gian được tạm đình chỉ mà đã lập công hoặc chấp hành tốt pháp luật, hồn
cảnh gia đình đặc biệt khó khăn và xét thấy người đó khơng cịn nguy hiểm cho

7


xã hội nữa, thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát, Tịa án có thể quyết
định miễn chấp hành phần hình phạt cịn lại.
-

Bổ sung quy định về nghĩa vụ dân sự trong trường hợp được miễn chấp hành

hình phạt: Người được miễn chấp hành hình phạt theo quy định này vẫn phải
thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ dân sự do Tòa án tuyên trong bản án.
4.

Giảm mức hình phạt đã tuyên.

Giảm mức hình phạt đã tuyên được ghi nhận tại Điều 63 BLHS năm 2015,
theo đó BLHS 1999 được sửa đổi quy định sau:
+ Người bị kết án cải tạo khơng giam giữ, phạt tù có thời hạn hoặc phạt
tù chung thân, nếu đã chấp hành hình phạt được một thời gian nhất định, có
nhiều tiến bộ và đã bồi thường được một phần nghĩa vụ dân sự, thì theo đề nghị
của cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền, Tịa án có thể quyết định giảm
thời hạn chấp hành hình phạt.
+ Thời gian đã chấp hành hình phạt để được xét giảm lần đầu là 1/3 thời
hạn đối với hình phạt cải tạo khơng giam giữ, hình phạt tù có thời hạn, 12 năm
đối với tù chung thân.
- Bổ sung quy định đối với trường hợp người bị kết án về nhiều tội trong
đó có tội bị kết án phạt tù chung thân:
+ Trường hợp người bị kết án về nhiều tội trong đó có tội bị kết án phạt
tù chung thân thì Tòa án chỉ xét giảm lần đầu xuống 30 năm tù sau khi đã chấp
hành được 15 năm tù và dù được giảm nhiều lần nhưng vẫn phải bảo đảm thời
gian thực tế chấp hành là 25 năm.
- Bổ sung quy định đối với người đã được giảm một phần hình phạt
nhưng lại phạm tội mới ít nghiêm trọng:
Đối với người đã được giảm một phần hình phạt mà lại thực hiện hành
vi phạm tội mới ít nghiêm trọng do cố ý, thì Tịa án chỉ xét giảm lần đầu sau khi
người đó đã chấp hành được 1/2 mức hình phạt chung.
- Quy định lại việc áp dụng giảm một phần hình phạt mà phạm tội mới
nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng:
Đối với người đã được giảm một phần hình phạt mà lại thực hiện hành

vi phạm tội mới nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì
8


Tòa án chỉ xét giảm lần đầu sau khi người đó đã chấp hành được 2/3 mức hình
phạt chung hoặc trường hợp hình phạt chung là tù chung thân thì việc xét giảm
án thực hiện theo quy định đối với trường hợp người bị kết án về nhiều tội trong
đó có tội bị kết án phạt tù chung thân đã nêu trên.
- Bổ sung quy định giảm mức hình phạt đối với người bị kết án tử hình
mà BLHS 1999 không quy định: Đối với người bị kết án tử hình được ân giảm
hoặc người bị kết án tử hình thuộc trường hợp sau thì thời gian đã chấp hành
hình phạt để được xét giảm lần đầu là 25 năm và dù được giảm nhiều lần nhưng
vẫn phải bảo đảm thời hạn thực tế chấp hành hình phạt là 30 năm:
+ Người đủ 75 tuổi trở lên.
+ Người bị kết án tử hình về tội tham ơ tài sản, tội nhận hối lộ mà sau
khi bị kết án đã chủ động nộp lại ít nhất 3/4 tài sản tham ơ, nhận hối lộ và hợp
tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm
hoặc lập cơng lớn.
Trong q trình xây dựng BLHS 2015, cũng có ý kiến cho rằng khơng nên
quy định cho tiếp tục xét giảm án đối với người bị kết án tử hình đã được ân
giảm xuống thành tù chung thân để bảo đảm tính nghiêm trị của hình phạt. Tuy
nhiên, nếu không tiếp tục xét giảm án sẽ phát sinh một loại hình phạt mới: tù
chung thân khơng giảm án, tạo gánh nặng cho Nhà nước khi phải bảo đảm các
điều kiện để thi hành án phạt tù suốt đời đối với những người này trong trại
giam; mặt khác, sẽ làm cho người bị kết án nảy sinh tâm lý cực đoan, tiêu cực,
chống phá trại giam, tự vẫn hoặc bỏ trốn, bởi họ khơng cịn cơ hội, động cơ để
cải tạo, phục thiện. Do đó, đa số ý kiến đều nhất trí quy định cho xét giảm án
đối với các trường hợp này, nhưng cần có các điều kiện chặt chẽ, tránh lạm
dụng. Tiếp thu các ý kiến, BLHS năm 2015 đã bổ sung quy định cho phép
người bị kết án tử hình được ân giảm tiếp tục được xét giảm nhưng phải có điều

kiện chặt chẽ hơn so với người bị kết án tù chung thân khác, đó là: thời gian đã
chấp hành hình phạt để được xét giảm lần đầu là 25 năm và dù được giảm nhiều
lần thì vẫn phải bảo đảm thời hạn thực tế chấp hành hình phạt là 30 năm.
5.

Án treo.

Căn cứ Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015:

9


- Ngoài việc được hưởng án treo, người phạm tội còn phải thực hiện các
nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của Luật Thi hành án hình sự:
Khi xử phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và
các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù,
thì Tịa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ 01 năm đến 05
năm và thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của Luật
thi hành án hình sự.
- Bao hàm hết các hình phạt bổ sung thay vì kể tên như quy định trước đây:
Tịa án có thể quyết định áp dụng đối với người được hưởng án treo hình phạt
bổ sung nếu trong điều luật áp dụng có quy định hình phạt này.
- Bổ sung quy định trong trường hợp trong thời gian thử thách vi phạm nghĩa
vụ quy định tại Luật Thi hành án hình sự:
Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ
theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tịa án có thể
quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng
án treo.
Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tịa án buộc người đó phải chấp
hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo

quy định.
6.

Tha tù trước thời hạn có điều kiện.
Với chủ trương giảm hình phạt tù, “đề cao hiệu quả phịng ngừa và tính

hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội” đã được nêu rõ trong Nghị quyết
số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020. Đối với người phạm tội, chủ trương này cần được ưu tiên thực
hiện vì thực tiễn áp dụng chế tài hình sự đối với người phạm tội hiện nay vẫn
còn nặng tính giam giữ. Trong BLHS hiện hành, tuy đã có những quy đinh
nhằm tạo điều kiện để người bị kết án phạt tù không bị cách ly ra khỏi đời sống
xã hội (chế định án treo) hay sớm quay trở về cộng đồng (giảm hình phạt tù hay
đặc xá), tuy nhiên các biện pháp này đều có một điểm chung là đều trả tự do
một cách “tuyệt đối”, nghĩa là khơng có một sự ràng buộc nghĩa vụ nào khi
người bị kết án phạt tù phải thực hiện khi được trả tự do. Điều này làm gia tăng

10


khả năng tái phạm của người bị kết án phạt tù sau khi được trả tự do.
Thực tế, BLHS 1999 cũng đã quy định một số giải pháp rút ngắn thời hạn
chấp hành hình phạt đối với người chưa chấp hành hình phạt tù trong trại giam,
đó là những quy định về miễn, giảm hình phạt. Tuy nhiên, những quy định này
của BLHS vẫn chưa thực sự chú trọng nhiều đến việc phịng ngừa tái phạm. Do
đó, BLHS năm 2015 đã bổ sung mới quy định về Tha tù trước thời hạn có điều
kiện (Điều 66) trong chế định về miễn, giảm thời hạn chấp hành hình phạt. Quy
định này nhằm tạo một cơ chế mới, hết sức đặc biệt được áp dụng đối với người
đang chấp hành án phạt tù, mà thực chất là thay đổi biện pháp chấp hành hình
phạt tù có điều kiện để người bị kết án được tiếp tục giáo dục, cải tạo ở môi

trường xã hội bình thường dưới sự giám sát của chính quyền và cơ quan thi
hành án hình sự. Đây là một giải pháp hợp lý theo tinh thần Chiến lược cải cách
tư pháp, góp phần khắc phục những bất cập hiện nay trong việc áp dụng án treo,
đặc xá. Tuy nhiên, để bảo đảm tính nghiêm minh và chặt chẽ, khoản 1 Điều 66
cũng quy định người đang chấp hành án phạt tù phải hội đủ nhiều yếu tố mới
được xem xét áp dụng, trong đó, kết quả “đã chấp hành xong hình phạt bổ sung
là hình phạt tiền, án phí và các nghĩa vụ bồi thường dân sự” là một trong các
điều kiện bắt buộc; đồng thời, khoản 2 Điều 66 cũng quy định loại trừ những
trường hợp không được áp dụng1. Ngoài ra, người được tha tù trước thời hạn có
điều kiện mà cố ý vi phạm nghĩa vụ hoặc bị xử phạt vi phạm hành chính từ 02
lần trở lên trong thời gian thử thách thì Tịa án có thể hủy bỏ quyết định tha tù
và buộc họ phải chấp hành phần hình phạt tù cịn lại (khoản 4 Điều 66). Việc
quy định chặt chẽ các điều kiện được tha tù trước thời hạn đối với người đang
chấp hành án phạt tù, ngoài kết quả chấp hành án, người được xét phải có đủ
các yếu tố nhân thân khác là hết sức cần thiết, bảo đảm ý nghĩa, tác dụng của
biện pháp này, phòng ngừa được nguy cơ tái phạm từ người bị kết án, đồng thời
tránh lạm dụng, tùy tiện trong quá trình áp dụng biện pháp này.
1 Người bị kết án về tội xâm phạm an ninh quốc gia; tội khủng bố; tội phá hoại hịa bình, chống lồi
người và tội phạm chiến tranh hoặc người bị kết án từ 10 năm tù trở lên đối với tội cố ý xâm phạm tính mạng,
sức khỏe, nhân phẩm của con người; 07 năm tù trở lên đối với các tội cướp tài sản, bắt cóc nhằm chiếm đoạt
tài sản và sản xuất trái phép, mua bán trái phép, chiếm đoạt chất ma túy; người bị kết án tử hình được ân giảm
hoặc thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 40 của BLHS.

11


Những quy định hết sức chặt chẽ nhằm tạo cơ hội cho những phạm nhân
tích cực cải tạo tốt trong quá trình chấp hành án ở các cơ sở giam giữ được sớm
trở về với gia đình và tiếp tục chứng tỏ sự cải tạo của mình trong mơi trường xã
hội bình thường có sự giám sát của chính quyền địa phương và xã hội. Nếu

trong thời gian thử thách mà người được tha tù trước hạn cố ý vi phạm nghĩa vụ
hoặc phạm tội mới thì phải trở lại cơ sở giam giữ để chấp hành tiếp phần hình
phạt tù cịn lại chưa chấp hành. Quy định này góp phần thực hiện chủ trương của
Đảng về việc giáo dục, cải tạo người phạm tội trong môi trường xã hội.
Tuy nhiên, đây là biện pháp mới, khi áp dụng có thể sẽ phát sinh nhiều vấn
đề phức tạp trong quản lý, giám sát số đối tượng phạm nhân được tha tù trước
thời hạn, do đó, trong q trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ công tác kiểm
sát trong lĩnh vực này, cần hết sức chú ý, thận trọng, kiểm tra, đối chiếu từng
trường hợp cụ thể để bảo đảm việc tha tù trước thời hạn có điều kiện phải chính
xác, khách quan, đúng theo quy định của pháp luật; tránh để xảy ra những sai
sót, tạo cơ hội cho những đối tượng nguy hiểm đang chấp hành án phạt tù được
ra ngoài xã hội.
Việc bổ sung chế định Tha tù có điều kiện sẽ đáp ứng được một số yêu
cầu sau:
Một là, chế định này sẽ đáp ứng được mục tiêu về cải cách tư pháp về
nâng cao hiệu quả phịng ngừa và tính hướng thiện trong xử lý người phạm tội.
Hai là, chế định này cho phép người đang chấp hành hình phạt tù được
sớm quay trở lại với cộng đồng, vừa đặt ra các điều kiện chặt chẽ để thử thách
người phạm tội, có tác dụng giúp đỡ người đó sống có trách nhiệm, có kỷ luật,
tăng quyết tâm sửa chữa lỗi lầm, khắc phục nguyên nhân, điều kiện phạm tội.
Do vậy, chế định này này sẽ có hiệu quả cao trong việc phòng ngừa tái phạm.
Ba là, chế định này là sẽ khuyến khích gia đình, các đoàn thể xã hội, cộng
đồng tham gia vào việc giáo dục, phục hồi đối với người bị kết án, do vậy rất phù
hợp với chủ trương xã hội hố cơng tác thi hành án của Đảng và Nhà nước ta,
đồng thời phù hợp với truyền thống đoàn kết, tương thân tương ái của dân tộc ta.
Bốn là, đối với người chưa thành niên thì chế định này khơng chỉ góp

12



phần đạt được mục tiêu của việc xử lý người chưa thành niên phạm tội là giáo
dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành cơng dân có
ích cho xã hội mà cịn thực sự vì lợi ích tốt nhất của người chưa thành niên, phù
hợp với nguyên tắc chỉ áp dụng hình phạt giam giữ đối với người chưa thành
niên phạm tội như biện pháp sau cùng, trong thời gian thích hợp ngắn nhất mà
CƯQTE và các chuẩn mực quốc tế khác đã nêu ra.
Năm là, hàng năm, sẽ có một lượng lớn người đang chấp hành án phạt tù
được trả tự do khi áp dụng quy định này. Đây là cơ hội để giảm tình trạng quá
tải trong các cơ sở giam giữ hiện nay, đảm bảo các điều kiện sinh hoạt tốt nhất
cho người đang chấp hành án phạt tù.
Sáu là, việc áp dụng chế định này sẽ giảm bớt gánh nặng về kinh tế cho
nhà nước, đồng thời, sẽ tạo ra nguồn cung lao động lớn cho xã hội, góp phần
thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước.
Bảy là, nâng cao hiệu quả của cơng tác phịng ngừa tái phạm đối với
người bị kết án được miễn chấp hành hình phạt.
7.

Xóa án tích.

Xố án tích là một chế định mang tính nhân đạo của luật hình sự, thể hiện sự
thừa nhận của Nhà nước về mặt pháp lý việc người bị kết án đã có đủ điều kiện
theo luật định để được coi là khơng cịn mang án tích và do vậy họ không phải
tiếp tục gánh chịu bất cứ hậu quả nào do việc kết án mang lại. Sự thừa nhận này
nhằm khuyến khích những người bị kết án chấp hành nghiêm chỉnh bản án và
cải tạo tốt để hồ nhập cộng đồng. Chương IX Bợ ḷt hình sự năm 1999 với 5
điều quy định các vấn đề về xố án tích đã tạo cơ sở pháp lý cho các cơ quan có
thẩm quyền xem xét xoá án tích đối với người bị kết án, tạo điều kiện thuận lợi
cho người bị kết án hịa nhập cợng đờng, thực hiện các quyền và nghĩa vụ công
dân.
Tuy nhiên, theo báo cáo tổng kết thi hành BLHS của nhiều địa phương, quá

trình xem xét xoá án tích đối với người bị kết án trong thời gian qua gặp một số
khó khăn, vướng mắc, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích chính đáng của người bị
kết án, cản trở q trình tái hịa nhập cộng đồng. Một số quy định của BLHS về

13


vấn đề xóa án tích chưa thực sự phù hợp, thống nhất với nhau, ví dụ như quy
định người được miễn hình phạt thì đương nhiên được xố án tích chưa phù hợp
với Điều 67 quy định cách tính thời hạn để xóa án tích. Điều kiện xóa án tích
cịn thiếu cụ thể; thời gian xóa án tích cịn khá dài; thủ tục xóa án tích cịn q
rườm rà, mặc dù BLHS quy định “đương nhiên xóa án tích” nhưng để được xóa
án tích, người chấp hành xong bản án phải qua rất nhiều các công đoạn và phải
gặp gỡ các cơ quan khác nhau để có đủ giấy tờ chứng minh mình đã đủ điều
kiện xóa án tích. Những bất cập này hạn chế lớn đến việc tái hòa nhập cộng
đồng của người chấp hành xong bản án. Bên cạnh đó, việc xóa án tích đối với
trường hợp phạm nhiều tội, trong đó có tội thuộc nhóm đương nhiên được xố
án tích và có tội thuộc nhóm xố án tích theo quyết định của Tồ án vẫn chưa
được quy định. Hơn nữa, Hiến pháp năm 2013 thể chế hóa chủ trương của Đảng
về đề cao hiệu quả phòng ngừa và hướng thiện trong xử lý người phạm tội, thực
hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước đối với người bị kết án đồng thời tăng
cường bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, vì vậy,
việc sửa đổi các quy định về xóa án tích là cần thiết.
Để khắc phục những bất cập trên, xóa án tích được ghi nhận tại Chương X
BLHS năm 2015 (từ Điều 69 đến Điều 73 BLHS năm 2015) với những sửa đổi,
bổ sung hợp lý, cụ thể là: 1) Bãi bỏ quy định cấp Giấy chứng nhận khi được
Tịa án xóa án tích; 2) người được miễn hình phạt và người bị kết án do lỗi vô ý
về mợt tợi phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng thì khơng bị coi là có
án tích (Điều 69); 3) Bỏ trường hợp đương nhiên được xóa án tích đối với người
được miễn hình phạt; 4) rút ngắn thời hạn đương nhiên xóa án tích so với quy

định hiện hành; 5) bổ sung quy định mới và cụ thể về cách tính thời hạn để xóa
án tích đối với người phạm nhiều tội và bổ sung quy định Cơ quan quản lý cơ
sở dữ liệu lý lịch tư pháp có trách nhiệm cập nhật thông tin về tình hình án tích
của người bị kết án và khi có yêu cầu thì cấp phiếu lý lịch tư pháp xác nhận
khơng có án tích, nếu người bị kết án đủ điều kiện (Điều 70). Theo quy định
mới này, thì Tịa án sẽ khơng cịn trách nhiệm phải cấp giấy chứng nhận xóa án
tích cho người đương nhiên được xóa án tích nữa mà trách nhiệm này thuộc về
cơ quan hành pháp. Đây là đổi mới căn bản thủ tục xóa án tích theo hướng

14


thuận lợi cho người dân, theo đó Cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp
phải cập nhật thơng tin về tình hình án tích của người bị kết án.
8.

Đặc xá, đại xá.
Đặc xá, đại xá là một trong những biện pháp tha miễn của Luật hình sự, thể

hiện chính sách khoan hồng của Nhà nước ta. Đại xá được quy định trong Hiến
pháp 2013, tại điều 70, khoản 11, là một chế định mang ý nghĩa chính trị to lớn,
thể hiện chính sách khoan hồng của Nhà nước; do Quốc hội – cơ quan có thẩm
quyền quyết định, căn cứ vào tình hình kinh tế chính trị đất nước; thực hiện theo
trình tự ngồi Tịa án và khi có văn bản đại xá thì cơ quan khác phải tuân theo.
Đặc xá là sự khoan hồng đặc biệt của Nhà nước do Chủ tịch nước quyết định
tha tù trước thời hạn cho người bị kết án phạt tù có thời hạn, tù chung thân nhân
sự kiện trọng đại, ngày lễ lớn của đất nước hoặc trong trường hợp đặc biệt.
Mặc dù là một trong những biện pháp tha miễn của LHS nhưng 2 chế định này
lại chỉ được ghi nhận trong Hiến pháp 2013 và trong Luật đặc xá mà chưa được
quy định trong Bộ luật hình sự 1999 hay BLHS 2015. Đây là một thiếu sót cần

được nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện.
9.

Các biện pháp tha miễn đối với người chưa thành niên phạm tội.
9.1.
Về vấn đề miễn TNHS.
Điều 69 BLHS năm 1999 quy định NCTN phạm tội có thể được miễn
TNHS, nếu người đó phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, gây hại
khơng lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức
nhận giám sát, giáo dục (khoản 2). Quy định này tạo tiền đề, định hướng cho
việc xử lý chuyển hướng, là cơ sở pháp lý quan trọng để các cơ quan tiến hành
tố tụng xem xét đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án và giao người chưa thành niên
phạm tội cho gia đình, tổ chức tại cộng đồng thực hiện việc giám sát, giáo dục
mà không cần tiếp tục xử lý hình sự. Tuy nhiên, đây không phải là biện pháp xử
lý chuyển hướng theo đúng nghĩa, hơn nữa chế định này cũng bộc lộ nhiều bất
cập, ví dụ: thiếu cơ sở pháp lý rõ ràng, cụ thể về điều kiện, trình tự, thủ tục cũng
như vai trò của cơ quan, tổ chức, cá nhân tại cộng đồng, các biện pháp hỗ trợ tái
hoà nhập cộng đồng,...- đây cũng chính là lý do hạn chế việc áp dụng chế định
này trong thực tiễn. Hơn nữa, trên thực tế việc miễn trách nhiệm hình sự đồng

15


nghĩa với việc trả tự do vô điều kiện mà không áp dụng bất kỳ các biện pháp
giáo dục, phòng ngừa nào, điều này dẫn đến một thực tế là người chưa thành
niên tiếp tục tái phạm.
Thực tiễn xử lý người chưa thành niên phạm tội ở nước ta cũng cho thấy,
các chế tài áp dụng đối với người chưa thành niên tương đối nghiêm khắc, hình
phạt áp dụng chủ yếu là hình phạt tù, mặc dù vậy, tỉ lệ người chưa thành niên tái
phạm vẫn chiếm tỉ lệ cao (ví dụ: theo báo cáo năm 2010 của Bộ Cơng an là

44%). Điều này đặt ra yêu cầu về việc xem xét lại cách thức xử lý người chưa
thành niên phạm tội ở nước ta để bảo đảm hiệu quả giáo dục, phịng ngừa. Bên
cạnh đó, để thực hiện chủ trương nhân đạo hóa, tăng tính hướng thiện trong
chính sách xử lý hình sự, nhất là đối với đối tượng cần bảo vệ đặc biệt là người
chưa thành niên theo hướng sớm đưa các em ra khỏi vòng quay tố tụng khi có
điều kiện để tránh những tác động tiêu cực khơng cần thiết thì một trong những
giải pháp là nghiên cứu sửa đổi, bổ sung vào BLHS quy định về các biện pháp
thay thế xử lý hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội.
Để tạo điều kiện giảm tối đa việc xử lý TNHS đối với NCTN phạm tội, Bộ
luật năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung quy định này theo hướng cơ quan tiến hành
tố tụng có thể xem xét, áp dụng việc miễn TNHS đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội mà có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả,
trong các trường hợp cụ thể theo quy định của Bộ luật (khoản 2 Điều 91)2.
- BLHS năm 1999 không quy định khi miễn TNHS đối với NCTN phạm tội,
2 a) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng, trừ trường
hợp quy định tại Điều 134 (tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác); Điều 141
(tội hiếp dâm); Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều 248 (tội sản xuất trái phép chất ma túy); Điều 249 (tội
tàng trữ trái phép chất ma túy); Điều 250 (tội vận chuyển trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội mua bán trái
phép chất ma túy); Điều 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy) của Bộ luật này;
b) Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý quy định tại khoản 2 Điều
12 của Bộ luật này, trừ trường hợp quy định tại Điều 123 (tội giết người); Điều 134, các khoản 4, 5 và khoản 6
(tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác); Điều 141 (tội hiếp dâm), Điều 142 (tội
hiếp dâm người dưới 16 tuổi); Điều 144 (tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi); Điều 150 (tội
mua bán người); Điều 151 (tội mua bán người dưới 16 tuổi); Điều 168 (tội cướp tài sản); Điều 171 (tội cướp
giật tài sản); Điều 248 (tội sản xuất trái phép chất ma túy); Điều 249 (tội tàng trữ trái phép chất ma túy); Điều
250 (tội vận chuyển trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội mua bán trái phép chất ma túy); Điều 252 (tội chiếm
đoạt chất ma túy) của Bộ luật này;
c) Người dưới 18 tuổi là người đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể trong vụ án.

16



các cơ quan tố tụng phải áp dụng kèm theo các biện pháp giám sát, giáo dục họ;
do vậy, để bảo đảm chặt chẽ hơn, BLHS năm 2015 đã sửa đổi chế định này theo
hướng bổ sung mới quy định: khi quyết định miễn TNHS cho người dưới 18
tuổi, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án phải áp dụng một trong các
biện pháp giám sát, giáo dục (quy định tại Mục C Chương XII) đối với họ, bao
gồm: Khiển trách; Hòa giải tại cộng đồng; hoặc Giáo dục tại xã, phường, thị
trấn (các điều từ 93 đến 95). Việc quyết định miễn TNHS và áp dụng các biện
pháp này chỉ được thực hiện khi người phạm tội hoặc người đại diện hợp pháp
của họ đồng ý (Điều 92). Trong các biện pháp này, biện pháp giáo dục tại xã,
phường, thị trấn là biện pháp tư pháp áp dụng đối với NCTN phạm tội trong
BLHS năm 1999, nay BLHS năm 2015 đã chuyển hóa thành biện pháp giáo dục
áp dụng trong trường hợp miễn TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội; biện
pháp tư pháp áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong BLHS năm
2015 chỉ còn lại biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng.
Đây là những điểm mới, tiến bộ được quy định trong Bộ luật với mục đích
tăng khả năng áp dụng các quy định về miễn TNHS đối với NCTN phạm tội,
hạn chế thấp nhất việc phải áp dụng hình phạt và các biện pháp tư pháp đối với
NCTN phạm tội, bởi xuất phát từ đặc điểm của độ tuổi cũng như yêu cầu tăng
cường trách nhiệm của gia đình và cộng đồng trong việc giám sát, giáo dục
NCTN, việc áp dụng các biện pháp xử lý mang tính chất thay thế hình phạt và
biện pháp tư pháp như: khiển trách, hòa giải tại cộng đồng hoặc giáo dục tại xã,
phường, thị trấn là phù hợp với điều kiện tâm, sinh lý và yêu cầu giáo dục,
phòng ngừa NCTN phạm tội. Việc quy định các biện pháp giám sát, giáo dục
bắt buộc kèm theo sẽ bảo đảm việc xem xét, quyết định miễn TNHS và việc
giáo dục, phòng ngừa xã hội được thực hiện đầy đủ, chặt chẽ, giúp NCTN phạm
tội nhận thức được lỗi lầm, ăn năn hối cải và khắc phục sai phạm.
9.2.


Tha tù trước thời hạn đối với NCTN phạm tội.

Tha tù trước thời hạn có điều kiện được quy định riêng đối với NCTN phạm
tội, ghi nhận tại Điều 106 BLHS 2015 mà trong BLHS 1999 trước đây chưa có.
Lần đầu tiên các nhà làm luật quy định NCTN phạm tội chỉ được hưởng chế

17


định nhân đạo này khi hội đủ 4 điều kiện cụ thể tại các điểm a,b,c,d khoản 1
Điều 106.
9.3.

Xóa án tích đối với NCTN phạm tội.

Xóa án tích được quy định riêng đối với NCTN phạm tội tại Điều 107 BLHS
2015: “1) Người dưới 18 tuổi bị kết án được coi là khơng có án tích, nếu thuộc
một trong các trường hợp sau đây:
a) Người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi;
b) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị kết án về tội phạm ít nghiêm trọng,
tội phạm nghiêm trọng hoặc tội phạm rất nghiêm trọng do vô ý;
c) Người bị áp dụng biện pháp tư pháp quy định tại Mục 3 Chương này.
2) Người từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng do cố
ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng thì đương nhiên xóa án tích nếu trong
thời hạn 03 năm tính từ khi chấp hành xong hình phạt chính hoặc từ khi hết thời
hiệu thi hành bản án mà người đó khơng thực hiện hành vi phạm tội mới”.
10. Các biện pháp tha miễn đối với pháp nhân thương mại.
Dựa trên những yêu cầu về lý luận và thực tiễn thi hành BLHS 1999, theo
báo cáo tổng kết thi hành BLHS của các Bộ, ngành, địa phương thì một trong
những bất cập nổi lên đáng lưu ý là BLHS hiện hành mới chỉ quy định trách

nhiệm hình sự đối với cá nhân mà chưa quy định trách nhiệm hình sự đối với
pháp nhân, trong khi đó thực tiễn cho thấy nhiều tổ chức, doanh nghiệp (pháp
nhân) vì chạy theo lợi nhuận đã bất chấp sự an tồn, tính mạng, sức khỏe của
cộng đồng thực hiện nhiều hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng như: hành vi
hủy hoại môi trường, hành vi đầu cơ, trốn thuế, kinh doanh trái phép, buôn lậu
hoặc vi phạm các quy định về hoạt động ngân hàng, chứng khoán, bảo vệ môi
trường, bảo hộ lao động. Chủ thể này cần bị xử lý hình sự để răn đe, giáo dục,
phịng ngừa chung. Đồng thời xuất phát từ tình hình vi phạm pháp luật của pháp
nhân ở Việt Nam trong những năm gần đây mang tính phổ biến, với mức độ
nguy hiểm ngày càng cao, gây thiệt hại nghiêm trọng cho kinh tế - xã hội và cho
đời sống của người dân, địi hỏi cần phải có giải pháp để ngăn chặn loại hành vi

18


này. Trong khi đó, những bất cập, hạn chế của hệ thống pháp luật hiện hành khi
xử lý hành vi vi phạm của pháp nhân, nhất là các bất cập liên quan đến mức xử
phạt hành vi vi phạm, trình tự, thủ tục của việc áp dụng biện pháp xử phạt hành
chính hay nghĩa vụ phải tự mình chứng minh thiệt hại trong thủ tục đòi bồi
thường thiệt hại trong pháp luật dân sự đang làm cho việc xử lý đối với những
hành vi vi phạm do pháp nhân gây ra khơng hiệu quả, gây khó khăn cho người
dân – đối tượng bị thiệt hại chính rất khó, thậm trí khơng thể địi bồi thường
thiệt hại. Bên cạnh đó, đề xuất hình sự hóa trách nhiệm hình sự của pháp nhân
còn để thực hiện các nghĩa vụ trong các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành
viên. Hơn nữa, việc quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân cũng là nhằm
hoàn thiện hệ thống pháp luật chuẩn bị cho quá trình hội nhập sâu rộng vào đời
sống kinh tế quốc tế.
Do đó, việc bổ sung quy định mới về TNHS của pháp nhân thương mại tại
Chương XI BLHS 2015 “Những quy định đối với pháp nhân thương mại phạm
tội” là cần thiết và hợp lý. Trong chế định này, các biện pháp tha miễn đối với

pháp nhân thương mại phạm tội cũng được ghi nhận, theo đó:
-

Căn cứ Điều 88 Bộ luật Hình sự năm 2015: Pháp nhân phạm tội có thể được
miễn hình phạt khi đã khắc phục toàn bộ hậu quả và đã bồi thường toàn bộ thiệt
hại do hành vi phạm tội gây ra.
- Căn cứ Điều 89 Bộ luật Hình sự năm 2015: Pháp nhân thương mại bị kết
án đương nhiên được xóa án tích nếu trong thời hạn 02 năm kể từ khi chấp hành
xong hình phạt chính, hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án hoặc
từ khi hết thời hiệu thi hành bản án mà pháp nhân thương mại không thực hiện
hành vi phạm tội mới.
C. KẾT LUẬN.
Các biện pháp tha miễn là chế định quan trọng thể hiện ngun tắc nhân
đạo trong chính sách hình sự nói chung, trong luật hình sự Việt Nam nói riêng,
thể hiện phương châm đúng đắn của đường lối xử lý về hình sự – đảm bảo sự
kết hợp hài hòa giữa các biện pháp cưỡng chế hình sự nghiêm khắc nhất của nhà
nước với các biện pháp tác động xã hội khác để cải tạo, giáo dục người phạm
tội. Nó khơng chỉ giúp đảm bảo hơn nữa quyền lợi hợp pháp của con người, thể
19


hiện chính sách hình sự của quốc gia mà cịn là thể hiện xu hướng khoa học luật
Hình sự của thế giới. Hoàn thiện chế định này là nhiệm vụ quan trọng của pháp
luật hình sự Việt Nam, khơng chỉ giúp hoàn thiện kĩ thuật lập pháp của nước ta
mà còn giúp những chế định nhân đạo thực sự đi vào đời sống xét xử cũng như
công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm một cách hiệu quả. Xuất phát từ
những yêu cầu của lý luận và thực tiễn, việc sửa đổi bổ sung quy định về các
biện pháp tha miễn của BLHS 1999 là cần thiết và quan trọng; đồng thời cần
được tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện hơn nữa.


20



×