Tải bản đầy đủ (.doc) (95 trang)

Tăng cường quản trị rủi ro lãi suất trong hoạt động kinh doanh tại Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn – Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (639.86 KB, 95 trang )

Trờng Đại học KINH Tế QuốC DÂN
--- ---

đinh thị hồng hạnh

tăng cờng quản trị rủi ro lãi suất trong
hoạt động kinh doanh tại ngân hàng thơng mại
cổ phần sài gòn hà nội
Chuyên ngành: kinh tế tài chính - ngân hàng

Ngời hớng dẫn khoa học:

pgs.ts. nguyễn thị h ờng

Hà nội - 2015


2

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi, Mọi số liệu đều xuất phát từ tình hình thực tế của
ngân hàng trong thời gian qua.

Tác giả luận văn

Đinh Thị Hồng Hạnh


3


LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do nghiên cứu đề tài
Ngân hàng thương mại là một thành phần rất quan trọng trong thị trường tài
chính, đóng vai trò trung gian, cầu nối giữa các thành phần khác của thị trường. Tuy
nhiên, hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại (NHTM) trong nền kinh tế
thị trường luôn tiềm ẩn rủi ro, gây ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả kinh doanh và
uy tín của chính ngân hàng và có thể lan sang ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế
của mỗi quốc gia. Vì vậy, để hoạt động ngân hàng phát triển vững chắc, an toàn và
hiệu quả cần phải kiểm soát và hạn chế được rủi ro thông qua công tác quản trị rủi
ro trong kinh doanh ngân hàng.
Rủi ro trong NHTM được phân chia thành rất nhiều loại: rủi ro tín dụng, rủi
ro thanh khoản, rủi ro hối đoái, rủi ro lãi suất…. Trong đó rủi ro lãi suất đang là mối
quan tâm hàng đầu của các NHTM. Ở Việt Nam hiện nay, cơ chế điều hành lãi suất
đang trong tiến trình tự do hóa. Đây là điều kiện tiền đề để các ngân hàng nâng cao
tính tự chủ trong định giá các sản phẩm - dịch vụ, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt
động kinh doanh. Tuy nhiên, cơ chế này cũng làm gia tăng nguy cơ tiềm ẩn rủi ro
lãi suất cho các ngân hàng do sự biến động thường xuyên của lãi suất thị trường .
Như vậy các NHTM đứng trước nguy cơ rủi ro lãi suất nhiều hơn, đòi hỏi các nhà
lãnh đạo quản lí ngân hàng phải đề ra chính sách quản trị rủi ro lãi suất hiệu quả và
phù hợp. Không nằm ngoài nguy cơ ấy, ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn –
Hà Nội, trong thời gian gần đây đã gặp phải nhiều vấn đề liên quan đến rủi ro lãi suất.
Trước thực trạng như vậy, SHB đã đưa ra nhiều chính sách, giải pháp kịp thời để hạn
chế RRLS và cũng đạt được những thành công nhất định trong công tác quản trị RRLS.
Tuy nhiên, công tác này vẫn còn nhiều hạn chế, Ngân hàng vẫn còn gặp nhiều khó
khăn trong việc xử lý các tổn thất do sự biến động của lãi suất gây ra.
Vì vậy, qua quá trình công tác tại Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn – Hà
Nội, tác giả nhận thấy cần phải nghiên cứu một cách có hệ thống về RRLS và quản trị
RRLS tại SHB; đồng thời tìm cơ sở thực tiễn để đề xuất giải pháp hợp lý. Với mục
đích như vậy, tác giả đã lựa chọn đề tài : “Tăng cường quản trị rủi ro lãi suất trong
hoạt động kinh doanh tại Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn – Hà Nội”.



4

2. Mục đích nghiên cứu:
Đề tài được nghiên cứu nhằm các mục đích sau :
- Làm rõ những vấn đề lý luận về rủi ro lãi suất và quản trị rủi ro lãi suất trong
hoạt động kinh doanh của NHTM.
- Đánh giá thực trạng rủi ro lãi suất và quản trị rủi ro lãi suất tại Ngân hàng
SHB, đánh giá những kết quả đạt được và những hạn chế trong công tác quản trị rủi
ro lãi suất tại Ngân hàng.
- Trên cơ sở phân tích các nguyên nhân của hạn chế, đề xuất các giải pháp
nhằm hạn chế, phòng ngừa và quản trị rủi ro lãi suất tốt hơn tại SHB.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu là quản trị rủi ro lãi suất trong hoạt động kinh doanh của NHTM.
Phạm vi nghiên cứu là quản trị RRLS trên cả 2 mặt hoạt động kinh doanh là huy động
vốn và cho vay. Tác giả lựa chọn Ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội để nghiên cứu, đánh
giá thực trạng RRLS và quản trị RRLS tại Ngân hàng này từ năm 2012 đến năm 2014.
4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp thống kê, mô tả được áp dụng để đưa ra cái nhìn bao quát về thực
trạng cơ chế lãi suất và tình hình biến động lãi suất từ năm 2012 đến năm 2014.
- Phương pháp định tính: tổng hợp ý kiến khảo sát của các cán bộ ngân hàng Sài
Gòn – Hà Nội thông qua việc phỏng vấn để tăng cơ sở thực tiễn về thực trạng quản trị rủi
ro lãi suất tại ngân hàng này nhằm đưa ra những đánh giá và đề xuất giải pháp phù hợp.
- Phương pháp định lượng: tính toán, đo lường và rủi ro lãi suất qua mô hình
quản lý khe hở nhạy cảm lãi suất (GAP);
- Ngoài ra, tác giả còn dùng phương pháp phương pháp so sánh để thấy được
sự biến chuyển của kết quả các mặt hoạt động kinh doanh tại Ngân hàng qua các
năm từ 2012 đến 2014.
5. Kết cấu đề tài

Đề tài được chia làm 3 chương:
Chương 1: Những lý luận cơ bản về quản trị rủi ro lãi suất của ngân hàng
thương mại.
Chương 2: Thực trạng rủi ro lãi suất và quản trị rủi ro lãi suất tại Ngân hàng
thương mại cổ phần Sài Gòn – Hà Nội
Chương 3: Giải pháp tăng cường công tác quản trị rủi ro lãi suất tại Ngân hàng
thương mại cổ phần Sài Gòn – Hà Nội


5

CHƯƠNG 1
NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO
LÃI SUẤT CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 RỦI RO LÃI SUẤT CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1 Khái niệm rủi ro lãi suất của Ngân hàng thương mại
Lãi suất là giá cả của quan hệ vay mượn hoặc cho thuê những dịch vụ về vốn
dưới dạng tiền tệ hoặc tài sản khác. Cũng như nhiều giá cả hàng hóa khác, lãi suất
của các khoản cho vay, tiền gửi, chứng khoán… thường xuyên biến động, làm gia
tăng lợi nhuận cho Ngân hàng hoặc ngược lại gây tổn thất cho Ngân hàng.
Rủi ro lãi suất: là khả năng xảy ra tổn thất cho ngân hàng khi lãi suất thay đổi
ngoài dự tính của ngân hàng. Đây là rủi ro đặc trưng của bất kỳ một trung gian tài
chính nào khi có sự chênh lệch về kỳ hạn tái định giá giữa tài sản và nguồn vốn. Sự
không cân xứng về thời hạn giữa tài sản và nguồn vốn xảy ra thường xuyên trong
quá trình hoạt động của các trung gian tài chính cùng với sự biến động liên tục của
mức lãi suất thị trường làm cho các tổ chức này rơi vào tình trạng rủi ro lãi suất.
Mặc dù lãi suất là một yếu tố quan trọng bậc nhất đối với hoạt động ngân hàng
nhưng các ngân hàng không thể kiểm soát được mức độ và xu hướng biến động của
lãi suất. Lãi suất đối với một khoản cho vay bất kỳ được xác định trên cơ sở thị
trường thông qua quá trình tác động qua lại giữa lực lượng cung và cầu về tiền vay.

Theo đó, lãi suất hay giá cả của các khoản tín dụng được xác định tại mức cân bằng
của lượng cung và lượng cầu của tín dụng.
Ngân hàng đóng vai trò là những nhà cung cấp tín dụng, tuy nhiên mỗi ngân
hàng chỉ là một nhà cung cấp trên thị trường vốn quốc tế với hàng nghìn nhà cung
cấp khác nhau. Tương tự như vậy khi huy động tiền gửi hoặc phát hành giấy tờ có
giá để tài trợ vốn cho đầu tư, ngân hàng tạo ra cầu tín dụng trên thị trường. Tuy
nhiên một ngân hàng có quy mô lớn đến đâu cũng là một tổ chức có nhu cầu về tín
dụng trên thị trường có hàng ngàn người đi vay. Do vậy dù cho đứng về phía cung
hay phía cầu của thị trường ngân hàng cũng không thể tự xác định mức lãi suất hoặc


6

dự đoán chắc chắn chắn về xu hướng vận động của lãi suất. Thay vào đó ngân hàng chỉ
có thể phản ứng và điều chỉnh hoạt động của mình theo sự biến động của lãi suất để đạt
được mục tiêu mong muốn của mình một cách hiệu quả nhất. Nói cách khác ngân hàng
không phải là người tạo giá mà chỉ là người chấp nhận giá, chấp nhận và lập kế hoạch
hoạt động trên cơ sở mức độ hiện tại và khuynh hướng vận động của lãi suất.
1.1.2. Nguyên nhân xảy ra rủi ro lãi suất trong hoạt động của NHTM
1.1.2.1. Sự không cân xứng về kì hạn của nguồn vốn và tài sản
Các tài sản và nguồn vốn của ngân hàng có kì hạn khác nhau. Vì vậy khi gắn
chúng với lãi suất, ngân hàng quan tâm đến kỳ điều chỉnh lãi suất. Căn cứ vào kì hạn
khoản vay mà ngân hàng có kì hạn điều chỉnh lãi suất cho phù hợp. Ví dụ khoản cho vay
3 năm, kì hạn điều chỉnh lãi suất có thể là 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 1 năm… Đó là kì
hạn mà khi kết thúc, lãi suất sẽ bị thay đổi theo lãi suất thị trường. Căn cứ vào kì hạn này,
ngân hàng chia tài sản và nguồn vốn thành loại nhạy cảm và loại kém nhạy cảm lãi suất.
- Các tài sản và nguồn nhạy cảm với lãi suất: là loại mà số dư nhanh chóng
chuyển sang lãi suất mới khi lãi suất thị trường thay đổi bao gồm loại có kì điều
chỉnh lãi suất dưới 12 tháng hoặc lãi suất thả nổi.
+ Tài sản nhạy cảm lãi suất bao gồm: tiền gửi tại NHNN, tiền gửi tại các

TCTD khác, các chứng khoán ngắn hạn, cho vay ngắn hạn, cho vay trung và dài hạn
sắp đến hạn trả, cho vay trung và dài hạn có lãi suất thả nổi…
+ Nguồn vốn nhạy cảm lãi suất bao gồm: tiền gửi ngắn hạn, tiền vay ngắn
hạn, tiền huy động trung và dài hạn sắp đến hạn trả …
- Các tài sản và nguồn kém nhạy cảm với lãi suất: là loại mà số dư chậm
chuyển đổi sang lãi suất mới khi lãi suất thị trường thay đổi bao gồm các tài sản
trung và dài hạn với lãi suất cố định kì hạn đặt giá trên 12 tháng.
+ Tài sản không nhạy cảm lãi suất bao gồm: các khoản cho vay trung và dài
hạn , đầu tư trung và dài hạn… có lãi suất cố định hoặc không có lãi suất xác định
trước hoặc không sinh lãi.
+ Nguồn vốn không nhạy cảm lãi suất: tiền gửi trung và dài hạn, giấy tờ có giá
trung dài hạn, vốn chủ sở hữu….có lãi suất cố định hoặc không phải trả lãi.


7

Giá trị thường của TS hay NV là dựa trên khái niệm giá trị hiện tại của tiền
tệ. Do đó, nếu lãi suất thị trường tăng lên thì mức chiết khấu giá trị tài sản cũng tăng
lên làm cho giá trị hiện tại của TS hay NV giảm xuống. Ngược lại, nếu lãi suất thị
trường giảm thì giá trị của TS hay NV sẽ tăng lên. Do đó, nếu kỳ hạn của TS hay
NV không cân xứng với nhau, chẳng hạn TS kỳ hạn dài hơn NV, thì khi lãi suất thị
trường tăng, giá trị của TS sẽ giảm nhanh và nhiều hơn so với giá trị của NV.
Sự không phù hợp về kì hạn của nguồn và tài sản được đo bằng khe hở lãi suất:
Khe hở lãi suất = Tài sản nhạy cảm lãi suất – Nguồn nhạy cảm lãi suất
Ngân hàng có khe hở dương nếu tài sản nhạy cảm lớn hơn nguồn nhạy cảm
nghĩa là kì hạn huy động dài hơn sử dụng và có khe hở âm nếu tài sản nhạy cảm
nhỏ hơn nguồn nhạy cảm nghĩa là kì hạn huy động nhỏ hơn sử dụng.
Sự khác biệt về kì hạn và kì điều chỉnh lãi suất là tất yếu và ngân hàng khó có
thể duy trì một sự phù hợp tuyệt đối về kỳ hạn giữa nguồn và các loại tài sản khác
nhau trong mọi thời kì do kỳ hạn thường do người đi vay và người gửi tiền quyết

định. Kỳ điều chỉnh lãi suất thì bị tác động bởi dự đoán về sự biến động lãi suất
trong tương lai của ngân hàng và của khách hàng. Khách hàng muốn chọn lãi suất
cố định trong trong suốt hợp đồng để tính toán trước chi phí của dự án, trong khi đó
thì ngân hàng có xu hướng chia nhỏ kỳ hạn để hạn chế rủi ro lãi suất.
1.1.2.2. Sự thay đổi của lãi suất thị trường ngoài dự kiến
Quan hệ cung - cầu về huy động và tín dụng trên thị trường thường xuyên thay
đổi, do đó lãi suất thị trường cũng thay đổi theo. Ngân hàng rất khó kiểm soát mức
độ và xu hướng biến động của nó.
Nếu ngân hàng duy trì khe hở lãi suất dương thì sự tăng giảm về chênh lệch
lãi suất tỷ lệ thuận với sự tăng giảm lãi suất trên thị trường liên ngân hàng. Ngược
lại, nếu ngân hàng duy trì khe hở lãi suất âm thì sẽ tỷ lệ nghịch.
Ngân hàng chỉ có thể phản ứng điều chỉnh hoạt động của mình theo sự biến
động lãi suất để đạt được mục tiêu mong muốn kinh doanh hiệu quả nhất.
1.1.2.3. Ngân hàng sử dụng lãi suất cố định trong các hợp đồng
Nếu ngân hàng thả nổi tất cả các hợp đồng huy động và sử dụng vốn, thu lãi
và chi lãi đều tăng hoặc giảm như nhau khi lãi suất thay đổi. Tuy nhiên trên thực tế,
các ngân hàng thường áp dụng mức lãi suất cố định trong một kỳ hạn nhất định tùy


8

theo hợp đồng. Khi giữa ngân hàng và khách hàng đã thỏa thuận 1 lãi suất cố định
thì trong khoảng thời gian đã thỏa thuận, lãi suất này không thay đổi theo lãi suất thị
trường. Do đó khi lãi suất thị trường thay đổi sẽ tác động đồng thời lên tất cả các
khoản mục tài sản và nguồn vốn của ngân hàng. Có 2 khả năng xảy ra:
+ Khả năng 1 là khối lượng của các khoản mục tài sản với lãi suất cố định lớn
hơn khối lượng của các khoản mục nguồn vốn với lãi suất cố định. Khi lãi suất thị
trường tăng thì lãi suất của phần nguồn vốn với lãi suất biến đổi (nhưng sử dụng với
lãi suất cố định) cũng sẽ tăng lên. Chi phí nguồn vốn tăng nhưng lãi suất thu được
từ sử dụng vốn lại không tăng dẫn đến giảm kết quả kinh doanh của ngân hàng.

Ngược lại khi lãi suất thị trường giảm ngân hàng lại có thêm lợi nhuận do gia tăng
chênh lệch lãi suất đầu ra – đầu vào.
+ Khả năng 2 là khối lượng của các khoản mục tài sản với lãi suất cố định nhỏ
hơn khối lượng của các khoản mục nguồn vốn với lãi suất cố định. Khi lãi suất thị
trường giảm thì lãi suất của phần nguồn vốn với lãi suất biến đổi (nhưng sử dụng
với lãi suất cố định) cũng sẽ giảm. Chi phí nguồn vốn không giảm nhưng lãi suất
thu được từ sử dụng vốn lại giảm lên dẫn đến giảm kết quả kinh doanh của ngân
hàng. Ngược lại khi lãi suất thị trường tăng ngân hàng lại có thêm lợi nhuận do gia
tăng chênh lệch lãi suất đầu ra – đầu vào.
Như vậy trong cả hai trường hợp, khi có biến động lãi suất thị trường thì sẽ có
thay đổi chênh lệch lãi suất. Phần chênh lệch khối lượng của các khoản mục tài sản
và nguồn vốn với lãi suất cố định có quy mô càng lớn thì ảnh hưởng đến kết quản
kinh doanh càng nhiều.
1.2.3. Các mô hình đo lường rủi ro lãi suất
Hiện nay, trên thế giới có hai mô hình lượng hóa rủi ro lãi suất đang được các
NH hiện đại áp dụng, đó là:
- Mô hình định giá lại (The repricing model)
- Mô hình thời lượng (The duration model)
1.2.3.1. Mô hình định giá lại
Nội dung của mô hình định giá lại là việc phân tích các luồng tiền dựa trên
nguyên tắc giá trị ghi sổ nhằm xác định chênh lệch giữa lãi suất thu được từ tài sản
có và lãi suất thanh toán cho vốn huy động sau một thời gian nhất định. Theo đó, để


9

lượng hóa rủi ro lãi suất, các NH tính số chênh lệch giữa tài sản có và tài sản nợ đối
với từng kỳ hạn và đặt chúng trong mối quan hệ với độ nhạy cảm lãi suất của thị
trường. Độ nhạy cảm lãi suất trong trường hợp này chính là khoảng thời gian mà tài
sản có và tài sản nợ được định giá lại (theo mức lãi suất mới của thị trường).

Tài sản và nguồn vốn của ngân hàng có thể được phân chia thành các nhóm tài
sản nhạy cảm với lãi suất theo các mức kỳ hạn, tính trên cơ sở thời hạn còn lại của
tài sản. Cơ sở cho việc phân loại dựa vào mức độ biến động của thu nhập từ lãi suất
(đối với tài sản) và chi phí trả lãi (đối với nguồn vốn) khi lãi suất thị trường có sự
thay đổi.
Cụ thể, tài sản nhạy cảm với lãi suất thường là những tài sản có thể định giá lại
khi lãi suất thị trường thay đổi như những khoản cho vay, chứng khoán sắp đáo hạn,
chuẩn bị gia hạn hoặc đến kỳ điều chỉnh lãi.
Nguồn vốn nhạy cảm với lãi suất là những nguồn vốn được định giá lại khi lãi
suất thị trường thay đổi như: những khoản tiền gửi sắp đến hạn phải trả, đến kỳ điều
chỉnh lãi khi đó ngân hàng và khách hàng phải thỏa thuận mức lãi suất tiền gửi mới
phù hợp với điều kiện của thị trường; những khoản tiền gửi có lãi suất thả nổi;
những khoản vay mượn trên thị trường tiền tệ…
* Xác định rủi ro lãi suất theo mô hình định giá lại như sau:
- Ấn định khung thời hạn để phân loại tài sản và nguồn vốn theo các nhóm
thời hạn còn lại hoặc thời hạn được định giá lại .
- Tính chênh lệch giữa giá trị tài sản, nguồn vốn của từng nhóm : chênh lệch
này được gọi là khe hở nhạy cảm lãi suất GAP
GAP = RSA – RSL
RSA : tài sản có nhạy cảm với lãi suất ; RSL : nguồn vốn nhạy cảm lãi suất
- Lượng hóa sự biến động của thu nhập ròng từ lãi suất thị trường thay đổi
ΔNH = GAP x ΔR (1.2)
ΔR: Mức biến động của lãi suất thị trường
ΔNH: sự thay đổi của thu nhập ròng từ lãi.
* Các phương pháp đo lường khe hở nhạy cảm lãi suất :
- Khe hở tuyệt đối GAP = RSA – RSL


10


- Khe hở nhạy cảm lãi suất tương đối =
Khe hở tương đối > 1 → trạng thái nhạy cảm tài sản
Khe hở tương đối < 1 → trạng thái nhạy cảm nguồn vốn
- Tỷ lệ nhạy cảm lãi suất =
Tỷ lệ nhạy cảm lãi suất > 1 → trạng thái nhạy cảm tài sản
Tỷ lệ nhạy cảm lãi suất < 1 → trạng thái nhạy cảm nguồn vốn
Giả sử tại một ngân hàng có cơ cấu tài sản và nguồn vốn có được phân thành 5
nhóm theo các kỳ hạn như sau :
Đơn vị : tỷ VNĐ
STT
1
2
3
4
5

Kỳ hạn
1 ngày
Trên 1 ngày đến 90 ngày
Trên 90 ngày đến 180 ngày
Trên 180 ngày đến 360 ngày
Trên 360 ngày đến 5 năm
Cộng

Tài sản

Nguồn vốn

Chênh lệch


30
40
90
100
60

40
60
110
70
40

-10
-20
-20
+30
+20

320

320

0

Trong trường hợp lãi suất thị trường tăng 1% → Δ i = 1%
Theo bảng 1.3, chênh lệch của nhóm tài sản có kỳ hạn 1 ngày là 10 nghìn tỷ
VNĐ, nhóm tài sản đó sẽ được định giá lại ngay trong ngày khi lãi suất thay đổi.
Có thể thấy rằng, ở NH trên, đối với nhóm thứ nhất thì:
GAP1 = RSA1 – RSL1 = 30 – 40 = -10
Khi đó Δ NII = (-10) x 0,01 = -0,1 ( nghìn tỷ VNĐ)

Ngân hàng có thể tính toàn chênh lệch tài sản và nguồn vốn nhạy cảm với lãi
suất theo phương pháp tích lũy, được ứng dụng phổ biến nhất là đến 12 tháng.
Theo ví dụ bảng trên ta có chênh lệch đến 12 tháng tức 1 năm của NH được
tính như sau :
CGAP = (-10) + (-20) + (-20) +30 = -20 ( nghìn tỷ VNĐ)
Khi đó mức thay đổi thu nhập lãi suất ròng trong năm tới của ngân hàng trên
là : Δ NII = CGAP x ΔR = (-20) x 0,01 = - 0,2 nghìn tỷ
Theo mô hình có thể thấy rằng, khi tài sản và nguồn vốn nhạy cảm với lãi suất
của ngân hàng có sự chênh lệch, ngân hàng luôn đứng trước nguy cơ rủi ro lãi suất
mỗi khi lãi suất biến động. Ảnh hưởng của sự thay đổi lãi suất đến thu nhập ròng
của ngân hàng được tóm tắt như sau :


11

GAP

Sự biến động của lãi suất

GAP>0
( nhạy cảm tài sản)
GAP < 0
(nhạy cảm nguồn vốn)
GAP= 0

Tăng
Giảm
Tăng
Giảm
Tăng / giảm


Sự biến động của
thu nhập lãi ròng
Tăng
Giảm
Giảm
Tăng
Không đổi

Như vậy, có thể nhận thấy không phải trong trường hợp nào sự biến động của
lãi suất thị trường cũng gây ra thiệt hại cho ngân hàng. Cụ thể, khi GAP > 0 nếu lãi
suất thị trường tăng lên hoặc khi GAP < 0 mà lãi suất thị trường giảm sẽ làm tăng
chứ không làm giảm thu nhập lãi ròng của ngân hàng. Rủi ro lãi suất thực tế sẽ xảy
ra đối với hai trường hợp còn lại, tức là khi GAP >0 kết hợp với lãi suất thị trường
giảm và khi GAP <0 kết hợp với sự biến động tăng của lãi suất thị trường làm cho
ngân hàng phải chịu thiệt hại về thu nhập lãi ròng.
- Ưu điểm:
+ Cung cấp thông tin về cơ cấu tài sản sẽ được định giá lại.
+ Dễ dàng chỉ ra được sự thay đổi của thu nhập ròng về lãi suất mỗi khi lãi
suất thay đổi.
=> Có thể thấy rằng MH định giá lại là công cụ hữu ích đối với nhà quản trị
nhân hàng và những định chế trong việc phòng ngừa rủi ro lãi suất
- Nhược điểm:
+ Mô hình định giá lại chỉ phản ánh một phần rủi ro lãi suất đối với ngân hàng bởi
mô hình này không đề cập đến giá trị thị trường của tài sản và nguồn vốn. Mô hình định
giá lại chỉ phản ánh giá trị ghi sổ của tài sản chứ không phải là giá trị thị trường của chúng.
+ Vấn đề phân nhóm tài sản theo một khung kì hạn nhất định đã phản ánh sai lệch
thông tin về cơ cấu các tài sản và nguồn vốn trong cùng một nhóm. Bởi trong cùng một
nhóm, tài sản có thể được định giá tại thời điểm cuối và nguồn vốn có thể được định giá lại
tại thời điểm đầu của kỳ định giá lại. Hơn nữa, nếu trong cùng một nhóm, ví dụ kỳ hạn từ 3

tháng đến 6 tháng số lượng tài sản và nguồn vốn là bằng nhau, nhưng nếu cơ cấu kỳ hạn
của tài sản là 3 đến 4 tháng còn của nguồn vốn từ 5 đến 6 tháng, thì rõ ràng đã xuất hiện
hiện tượng không cân xứng giữa tài sản và nguồn vốn. Trong khi đó mô hình định giá lại
lại coi như không có vấn đề gì đối với thu nhập lãi suất ròng. Nếu kỳ định giá càng ngắn


12

thì hạn chế của mô hình định giá lại càng nhỏ. Nếu kì định giá được tính toán hàng ngày
thì sẽ phản ánh trung thực về sự thay đổi thu nhập lãi suất ròng.
+ Vấn đề tài sản đến hạn: Trong thực tế ngân hàng thường cho vay mới và thu
hồi nợ cũ đối với tín dụng ngắn hạn và ngay cả đối với tín dụng dài hạn. Những
khoản tín dụng dài hạn có thể thế chấp và thường được trả góp định kì hàng tháng
hoặc hàng quý. Do đó, ngân hàng có thể tái đầu tư những khoản tiền thu được này
trong năm với lãi suất trên thị trường hiện hành, nghĩa là các khoản tiền thu được
trong năm thuộc loại tài sản có nhạy cảm với lãi suất.
1.2.3.2. Mô hình thời lượng:
Mô hình thời lượng lượng hóa rủi ro lãi suất dựa trên yếu tố thời lượng của tất cả các
luồng tiền cũng như kỳ hạn đến hạn của tài sản nợ và tài sản có.
Thời lượng của một tài sản là thước đo thời gian tồn tại luồng tiền của tài sản này,
được tính trên cơ sở các giá trị hiện tại của nó
n

D=

t × CFt

∑ (1 + y)
t =1
n


t

CFt

∑ (1 + y)
t =1

t

Trong đó:
 D : Thời lượng của tài sản.
 CFt : Luồng tiền nhận được tại thời điểm t.
 y : Mức lãi suất thị trường hiện hành.
 t : Thời điểm xảy ra luồng tiền (t = 1, 2, 3,…,n).
Mô hình thời lượng lượng hóa rủi ro lãi suất bằng cách xác định mức thay đổi
vốn tự có của NH khi lãi suất thị trường thay đổi:
- Công thức xác định sự thay đổi:
ΔE = - (DA – DL*k)*A*(ΔR/(1+R))
Trong đó:
DA là thời lượng của toàn bộ tài sản
DL là thời lượng của toàn bộ nguồn vốn
∆E là mức thay đổi vốn tự có khi lãi suất thị trường thay đổi


13

k = L/A là tỷ lệ vốn huy động trên tổng tài sản có của ngân hàng – tỷ lệ đòn bẩy
- Ý nghĩa
+ Chênh lệch thời lượng giữa tài sản nguồn vốn đã được điều chỉnh bởi tỷ lệ

đòn bẩy

-

*k). Chênh lệch thời lượng được tính bằng năm, phản ánh sự

không cân xứng về thời lượng của hai vế bảng cân đối tài sản. Đặc biệt, nếu chênh
lệch này lớn thì tiềm ẩn rủi ro lãi suất với ngân hàng càng cao.
+ Quy mô của ngân hàng, tức tổng tài sản A càng lớn thì tiềm ẩn rủi ro lãi suất
với ngân hàng càng cao.
+ Mức thay đổi lãi suất ΔR/(1+R)) càng nhiều thì tiềm ẩn rủi ro lãi suất đối
với ngân hàng càng cao.


∆E = - Chênh lệc thời lượng đã điều chỉnh x Quy mô tài sản x Mức thay

đổi lãi suất
Như vậy, sự thay đổi lãi suất ngoài dự kiến tác động đến mức vốn tự có của
NH phụ thuộc vào ba yếu tố sau:
- Chênh lệch thời lượng giữa tài sản và nguồn vốn đã được điều chỉnh bởi tỷ lệ
đòn bẩy k = L/A: Chênh lệch này càng lớn thì rủi ro lãi suất đối với NH càng cao.
- Quy mô của NH, tức là tổng tài sản có A: Quy mô tài sản của NH càng lớn
thì tiềm ẩn rủi ro lãi suất đối với NH này càng cao.
- Mức thay đổi lãi suất ∆r: Mức thay đổi lãi suất càng cao thì tiềm ẩn rủi ro lãi
suất đối với NH càng cao.
Tác động của sự thay đổi lãi suất tới giá trị VTC của ngân hàng được tóm tắt
như sau :
Trạng thái
khe hở kỳ hạn
DA> K. DL

DA< K. DL
DA = K. DL

Thay đổi lãi suất
Tăng
Giảm
Tăng
Giảm
Tăng, giảm

Sự thay đổi giá
trị VTC
Giảm
Tăng
Tăng
Giảm
Không đổi

Trong ba yếu tố trên thì ảnh hưởng của yếu tố lãi suất thường mang tính chất
ngoại sinh đối với NH bởi vì sự thay đổi lãi suất thường là từ sự thay đổi chính sách
tiền tệ của NHNN. Còn đối với mức độ chênh lệch thời lượng và quy mô tài sản thì


14

được đặt dưới sự kiểm soát của NH.
- Ví dụ minh họa về mô hình thời lượng:
Giả dử Ngân hang cho 1 công ty vay 100 triệu với mức lãi suất 15% với điều
kiện gốc được thanh toán 1 nửa sau 6 tháng, phần còn lại được thanh toán vào thời
điểm đến hạn. Cash flow (CF) là lượng tiền thu về từ khoản tín dụng.

 Cách xác định thời lượng
Tại thời điểm 6 tháng : thu gốc 50 triệu
Thu lãi 100*1/2*15%= 7,5 triệu
Tổng thu 50 + 7,5 = 57,5 triệu
CF1/2 = 57,5 triệu
Tại thời điểm cuối năm: thu gốc 50 triệu
Thu lãi 50*1/2*15% = 3,75 triệu
CF1 = 53,75 triệu
Để có thể tính thời lượng (duration) cả 2 luồng tiền CF1/2 và CF1 ta phải quy giá
trị của chung về cùng một thời điểm, đó là thời điểm 0, ta có:
CF1/2 = 57,5

=> PV1/2 = 57,5/ (1+15%*1/2)1 = 53,49 triệu

CF1 = 53,75

=> PV1 = 53,75/ (1+15%*1/2)1 = 46,51 triệu
PV1/2 + PV1 = 100 triệu

Để tính được thời lượng của 2 luồng tiền này, ta tính giá trị hiện tại của luồng tiền, tỷ
trọng giá trị hiện tại của CF1/2 tại thời điểm t = ½ năm và CF1 tại thời điểm t = 1 năm.
Gọi X là tỷ trọng.
X1/2 = PV1/ 2/ ( PV1/2 + PV1 ) = 53,49/100 = 53,49%
X1 = PV1// ( PV1/2 + PV1 ) = 46,51/100 = 46,51%
X1/2 + X1 = 1
Thời lượng D của khoản tín dụng là
DL = ½ * X1/2 + 1 * X1/2 = ½ * 53,49% + 1 * 46,51% = 0,7326 năm
Như vậy trong khi kỳ hạn của khoản tín dụng là 1 năm thì thời lượng của nó
chỉ là 0,7326 năm.
 Mô hình thời lượng

Xét bảng tài sản và nguồn vốn của 1 ngân hàng tính đến hết tháng 06 – 2014
(Đơn vị: triệu đồng)


15
Nội dung

Thời lượng Tỷ trọng (%)

Tài sản
Tiền mặt, vàng bạc, đá quý
Tiền gửi tại NHNN
Tiền gửi tại và cho vay tại các TCTD khác
Các công cụ tài chính phái sinh và các tài sản tài
chính khác
Cho vay khách hàng
Chứng khoán đầu tư
Góp vốn, đầu tư dài hạn
Tài sản cố định và bất động sản đầu tư
Tài sản Có khác
Trung bình thời lượng

Số tiền

0.0833
0.0833
0.1629

0.66%
0.52%

20.04%

623,505
485,905
19,049,968

0.0833

0.01%

7,271

0.6618
0.2835
5.0000
0.2077
0.1685
0.4519

52.41%
9.85%
0.30%
4.19%
12.03%

58,432,986
11,154,525
563,552
4,071,952
11,445,240

105,834,903

13.64%
81.67%

12,709,949
76,932,167

0.39%

442,337

2.74%
1.57%

2,618,297
1,452,239
94,154,989

Nguồn vốn
Tiền gửi của và vay từ NHNN và các TCTD khác
0.1250
Tiền gửi của khách hàng
0.1818
Vốn tài trợ, ủy thác đầu tư , cho vay mà TCTD
0.2430
chịu rủi ro
Phát hành GTCG
0.3044
Các khoản nợ khác

0.0833
Trung bình thời lượng
0.1761

Giả sử nhà quản trị ngân hàng dự đoán được lãi suất dự tính sẽ tăng từ mức lãi
suất hiện hành là 15%/năm lên mức 16%/ năm, tức là ΔR = 1% và 1+R=1.16. Ta có
bảng cân đối tài sản của ngân hàng trước khi lãi suất thay đổi như sau:
Tài sản (triệu VND)
Tài sản (A)

Tổng

105,834,903

105,834,903

Nguồn vốn (triệu VND)
Vốn huy động (L)

94,154,989

Vốn tự có (E)

11,679,914

Tổng

105,834,903

Dựa và bảng trên, ta có thể đo được mức chênh lệch về thời lượng của tài sản nguồn

vốn của bảng cân đối tài sản và từ đó xác định sự thay đổi tài sản của ngân hàng như thế
nào. Áp dụng công thức : ΔE = - (DA – DL*k)*A*(ΔR/(1+R)) ta tính được
Tỷ lệ đòn bẩy k = L / A = 94,154,989 / 105,834,903 = 0,8896
ΔE = - 271,687.53 triệu đồng.
Như vậy, nếu lãi suất thị trường tăng thêm 1% thì ngân hàng dự tính một


16

khoản lỗ là 271,687.53 triệu đồng trên tổng số vốn tự có trước khi tăng lãi suất là
11,679,914 triệu đồng, tức là lỗ 0.26%.
Khi đó sự thay đổi thị giá của tài sản và vốn huy động được quy ra theo công thức:
∆A = - A*DA*(∆R/(1+R))
∆L = - L*DL*(∆R/(1+R))
Từ đó ta tính được sự thay đổi của tài sản Có và nguồn vốn huy động như sau:
∆A = - 415,884.83 triệu đồng
∆L = - 144,197.31 triệu đồng
Giá trị bảng cân đối tài sản sau khi lãi suất tăng được biểu diễn như sau:
Tài sản Có (triệu VND)
Tài sản Có

Tổng

105,419,018

Tài sản Nợ (triệu VND)
Vốn huy động (L)

94,010,792


Vốn tự có (E)

11,408,226

Tổng

105,419,018

105,419,018

Kết luận: Khi lãi suất tăng 1% đã làm vốn tự có giảm 271,687.53 triệu đồng,
đồng thời làm cho tỷ lệ “Vốn tự có/ Tổng tài sản” giảm từ 11.04% xuống 10.82%
(biên độ giảm là 0.21%). Tỷ lệ “Vốn tự có/Tổng tài sản” giảm đã làm giảm khả
năng thanh toán cuối cùng của SHB.
- Ưu điểm:
So với mô hình trên thì mô hình thời lượng được đánh giá là hoàn hảo hơn nhiều
trong việc đo mức độ nhạy cảm của tài sản với lãi suất, bởi nó đề cập đến yếu tố thời
lượng của tất cả các luồng tiền cũng như kỳ hạn đến hạn của tài sản nợ và tài sản có.
Đối với hoạt động kinh doanh ngân hàng thì việc sử dụng mô hình thời lượng để quản
trị rủi ro lãi suất là một giải pháp thích hợp bởi nó cho phép các ngân hàng phòng ngừa
được rủi ro lãi suất đối với toàn bộ hay một bộ phận riêng lẻ của bảng cân đối tài sản.
- Nhược điểm: Rất khó áp dụng vào thực tiễn hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
+ Mô hình thời lượng sử dụng giả thuyết lãi suất thị trường thay đổi ngay lập
tức sau khi mua trái phiếu. Trong thực thế không phải lúc nào cũng như vậy, lãi suất


17

thị trường có thể thay đổi và bất cứ lúc nào trong suốt thời hạn của trái phiếu.
+ Thời lượng của trái phiếu thay đổi theo thời gian, nghĩa là càng gần đến

ngày đến hạn thì thời hạn của trái phiếu càng giảm. Điều này làm xuất hiện sự
không cân xứng về thời lượng giữa khoản tiền sẽ phải thanh toán và khoản tiền sẽ
nhận được. Điều đó đòi hỏi việc phòng ngừa rủi ro lãi suất dựa trên mô hình thời
lượng phải là một chiến lược linh hoạt.
+ Mô hình thời lượng có thể đo chính xác sự thay đổi của thị giá của chứng
khoán có thu nhập cố định khi lãi suất thị trường thay đổi ở mức nhỏ (1 điểm phần
trăm). Nếu lãi suất thay đổi ở mức lớn hơn (từ 2 đến 200 điểm) thì mô hình thời
lượng trở nên kém tin cậy, không thể dự đoán được sự thay đổi thị giá của chứng
khoán một cách chính xác.
+ Nếu chỉ nghiên cứu mô hình thời lượng đơn với tuyến lãi suất (hay cấu trúc
kỳ hạn của lãi suất) là nằm ngang, không thay đổi theo kỳ hạn của lãi suất, thì sẽ
tiềm ẩn một sai số đáng kể trong việc đo độ nhạy cảm của giá trị tài sản đối với sự
thay đổi lãi suất.
+ Trên thực tế khách hàng có thể chậm thanh toán khoản tiền lãi tín dụng cho
ngân hàng hoặc ngân hàng phải cơ cấu lại khoản nợ cho khách hàng. Điều này dẫn
đến các nguồn tiền mà ngân hàng nhận hoặc chi trả trong tương lai sẽ thay đổi
(được cơ cấu lại), đây cũng là nguyên nhân buộc ngân hàng phải tính toán và điều
chỉnh lại thời lượng tài sản và nguồn vốn.
1.2. QUẢN TRỊ RỦI RO LÃI SUẤT CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.2.1. Khái niệm quản trị rủi ro lãi suất
Quản trị rủi ro lãi suất là quá trình tiếp cận rủi ro lãi suất một cách khoa học, toàn
diện và có hệ thống nhằm nhận dạng, kiểm soát, phòng ngừa và giảm thiểu đến mức
thấp nhất những tổn thất, mất mát, những ảnh hưởng bất lợi của rủi ro lãi suất gây ra.
Mục tiêu của hoạt động quản trị rủi ro lãi suất
Một trong các mục tiêu quan trọng trong hoạt động quản lý rủi ro lãi suất là
hạn chế tới mức tối đa nhất mọi ảnh hưởng xuất của sự biến động cuẩ lãi suất đến
thu nhập của ngân hàng. Dù lãi suất thay đổi như thế nào, các ngân hàng luôn mong


18


muốn đạt được mức thu nhập dự kiến ở mức tương đối ổn định.
Để đạt được các mục tiêu này các ngân hàng phải tập trung vào những bộ phận
nhạy cảm nhất với lãi suất trong danh mục tài sản và nguồn vốn. Thông thường đó
là các tài sản sinh lời, như các khoản cho vay và đầu tư( bên tài sản) hay các khoản
tiền gửi, khoản vay trên thị trường tiền tệ, để bảo vệ thu nhập trước rủi ro lãi suất ,
ngân hàng duy trì một tỷ lệ thu nhập lãi cận biên (NIM) cố định. Tỷ lệ thu nhập cận
biên không phải là lợi nhuận của ngân hàng vì chúng ta chưa tính đến những chi phí
ngoài lãi khác như tiền lương, chi phí quản lý nếu trừ đi các chi phí này thu nhập
ngân hàng chỉ còn rất ít để bù đắp lại những sai lầm trong quản lý rủi ro lãi suất.
Nếu các nhà quản lý ngân hàng hài lòng với mức tỷ lệ thu nhập lãi cận biên này họ
sẽ áp dụng hàng loạt các biện pháp ngăn ngừa nhằm bảo vệ tỷ lệ thu nhập lãi cận
biên, qua đó ổn định được thu nhập ròng của ngân hàng.
Nếu lãi suất tăng khiến chi phí trả lãi cho các nguồn vốn vay tăng nhanh hơn
thu lãi trên các khoản cho vay và đầu tư chứng khoản, tỷ lệ thu nhập lãi cận biên sẽ
giảm và làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới lợi nhuận của ngân hàng. Nếu lãi suất thị
trường giảm khiến cho thu nhập từ các khoản cho vay và chứng khoán giảm nhanh
hơn chi phí trả lãi, tỷ lệ thu nhập lãi cận biên cũng giảm. Nói cách khác đường cong
thu nhập không bao giờ hoàn toàn cố định, do đó chênh lệch giữa chi phí trả lãi và
thu từ lãi không bao giờ hoàn toàn cố định. Các nhà quản lý ngân hàng phải nỗ lực
không ngừng để đảm bảo rằng chi phí huy động vốn không tăng hơn đáng kể so với
thu nhập từ các tài sản sinh lời vì điều này sẽ làm giảm tỷ lệ thu nhập lãi cận biên
Ngoài việc giảm thiểu những mất mát do RRLS gây ra, ngân hàng còn có thể
tối đa hóa lợi nhuận cho mình với những dự đoán đúng về biến động của lãi suất
trong tương lai.
Nếu các ngân hàng đoán trước được sự tăng lên của lãi suất, họ có thể ngăn
chặn tổn thất và sinh lời bằng cách thực hiện một số điều chỉnh đối với tài sản và nợ
để giảm quy mô của khe hở nhạy cảm lãi suất tích lũy hoặc sử dụng các công cụ
bảo vệ( hợp đồng hoán đổi lãi suất, hợp đồng kỳ hạn…)
1.2.2. Nôi dung quản trị rủi ro lãi suất.



19

Mỗi ngân hàng phải có một chính sách để quản lý rủi ro lãi suất và các chính
sách này cần phải đảm bảo những nội dung chủ yếu sau đây
1.2.2.1. Xây dựng chính sách quản lý rủi ro lãi suất
Chính sách Quản trị RRLS là một hệ thống các hạn mức và văn bản hướng
dẫn các hoạt động rủi ro được xây dựng cho toàn ngân hàng. Thông lệ quản trị rủi
ro hiệu quả phải bắt đầu từ cấp cao nhất, đó là các chức năng quản lý rủi ro lãi suất
do hội đồng quản trị và ban điều hành thực hiện.
Cấp quản lý cấp cao chịu trách nhiểm đảm bảo RRLS được quản lý theo chiều dọc
và mỗi ngày. Các cấp quản lý cấp cao nên: (1) Phát triển và thực thi những thủ tục và
hành động chuyển tải các mục tiêu và khả năng chịu đựng rủi ro của HĐQT đặt ra những
tiêu chuẩn hoạt động dễ hiểu và phù hợp với ý chí của HĐQT. (2) Đảm bảo phù hợp với
thẩm quyền và chức năng mà HĐQT đã đặt ra để đo lường, quản lý và báo cáo tình hình
rủi ro lãi suất.(3) Kiểm tra việc thi và duy trì thông tin quản trị và các hệ thống khác có
thể nhận biết đo lường giám sát và kiểm soát rủi ro lãi suất của ngân hàng. (4) Thiết lập
hệ thống kiểm toán nội bộ hiệu quả để kiểm tra quy trình quản trị RRLS.
Chính sách quản lý rủi ro lãi suất bao gồm các nội dung sau:
a. Mục tiêu của quản trị rủi ro lãi suất:
- Mục tiêu đầu tiên của quản trị RRLS: Mục tiêu quan trọng nhất của quản lý
RRLS là giảm thiểu sự sụt giảm của thu nhập ròng cũng như sự sụt giảm về giá trị
kinh tế của các tài sản từ sự thay đổi của lãi suất trong tương lai. Những sự sụt giảm
này sẽ được quản lý cùng hạn mức được chỉ rõ trong các chính sách, được định
lượng rủi ro một cách rõ ràng, cùng với các hoạt động quản trị RRLS và các biện
pháp được xác định rõ ràng.
- Mục tiêu thứ 2 của quản trị RRLS bao gồm:
+ Phối hợp mục tiêu quản lý rủi ro lãi suất với các mục tiêu quản lý khác của
ngân hàng.

+ Thiết lập các khung quản lý thích đáng về các yêu cầu để đảm bảo rằng
RRLS được đo lường một cách chính xác, giám sát và quản lý.
+ Trợ giúp, cải thiện mối liên lạc giữa tất cả các lãnh đạo, giám đốc … những


20

người mà hoạt động của họ ảnh hưởng tới hoạt động quản trị rủi ro lãi suất hoặc bị
tác động bởi hoạt động quản trị RRLS.
+ Quản lý rủi ro ở khung pháp lý phù hợp với kiểm soát nội bộ của ngân hàng.
+ Với những phạm vi cho phép, những mục tiêu của quản lý rủi ro lãi suất cao
hơn sẽ được đặt ra trong khi vẫn bảo đảm việc phục vụ khách hàng và nhu cầu của
khách hàng với các khả năng xấu thấp nhất ảnh hưởng tới lợi nhuận của ngân hàng
và vốn chủ sở hữu. Chính sách quản trị RRLS được thiết kế để cung cấp cho các
nhà quản lý các hướng dẫn bằng văn bản về việc đo lường RRLS, quản lý RRLS và
giám sát cùng với các hạn mức được thiết lập trong chính sách này.
b. Chính sách quản trị rủi ro thị trường – RRLS
Việc xây dựng chính sách quản trị rủi ro của ngân hàng có ảnh hưởng đến
QLRRLS của ngân hàng và phải chú ý đến quy mô, bản chất, phạm vi và mức độ
phức tạp trong kết cấu sản phẩm được giao dịch, điều kiện thị trường và chấp nhận
rủi ro của ngân hàng. Các chính sách đó là:
- Xác định khả năng chịu đựng rủi ro của ngân hàng.
- Cụ thể hóa phạm vi hoạt động có thể chấp nhận được.
- Mô tả các mức độ ủy quyền và trách nhiệm trong việc thực hiện và quản lý
rủi ro phát sinh từ những hoạt động này.
- Cụ thể hóa các biện pháp, kiểm soát, cơ cấu báo cáo và hạn mức rủi ro.
- Phạm vi thực hiện các chính sách hiệu quả cũng bao gồm việc đánh giá rủi
ro của những sản phẩm và dịch vụ mới hoặc đã có sẵn, các rủi ro được dẫn chứng
bằng tài liệu kỹ thuật đi lường các hạn mức rủi ro và các biện pháp kiểm soát.
Yêu cầu tất cả các đơn vị kinh doanh rủi ro phải đảm bảo các chính sách rủi ro

và các hạn mức rủi ro đã được phê chuẩn trước khi tình trạng rủi ro có thể xảy ra.
c. Quy định về hạn mức hoạt động.
Hạn mức hoạt động cũng như các thông lệ khác thường được thiết lập nhằm
đảm bảo rủi ro luôn được giữ ở mức phù hợp với các chính sách nội bộ. Mục tiêu
quản lý RRLS của ngân hàng là duy trì rủi ro này tại mức ngân hàng tự đặt ra trong
trường hợp có biến động lãi suất. Để đạt mục đích này, ngân hàng phải có các hạn


21

mức rủi ro và các hướng dẫn. Hệ thống này sẽ đặt ra các giới hạn rủi ro cho toàn
ngân hàng và nếu có thể thì phân bổ xuống từng bộ phận kinh doanh hay từng sản
phẩm danh mục đầu tư. Hệ thống hạn mức nhằm đảm bảo cho ban lãnh đạo ngân
hàng luôn phải lưu ý bất kỳ sự vượt giới hạn cho phép nào. Một hệ thống hạn mức
phù hợp sẽ cho phép quản lý ngân hàng có thể kiểm soát RRLS, thảo luận về các cơ
hội và RR, theo dõi mức rủi ro thực tế so với mức dự kiến.
Các hạn mức rủi ro phải thống nhất với phương pháp chung đo lường rủi ro
của ngân hàng. Các hạn mức thể hiện mức độ có thể chấp nhận rủi ro của ngân hàng
và cần được BGĐ điều hành thông qua cũng như xem xét lại theo từng giai đoạn.
Các hạn mức phải phù hợp với quy mô, độ phức tạp và mức đủ vốn của ngân hàng
cũng như khả năng đo lường và QLRR. Tùy thuộc vào bản chất các hạng mục ngân
hàng đang nắm giữ và mức độ phức tạp chung ngân hàng có thể đặt hạn mức cho
từng bộ phận kinh doanh, danh mục đầu tư, từng loại công cụ. Mức độ chi tiết hạn
mức rủi ro phản ánh đặc điểm của các hạng mục ngân hàng đang nắm giữ, các
nguồn rủi ro mà ngân hàng đang phải đối mặt.
Ban quản lý cấp cao phải nhanh chóng nắm bắt các ngoại lệ hạn mức. Ngân
hàng phải có chính sách rõ ràng trong các trường hợp này, quy định cách thức thông
báo và xử lý. Đặc biệt quan trọng cần làm rõ liệu các hạn mức này đã bao giờ bị vi
phạm hay chưa hay trong hoàn cảnh đặc biệt hạn mức này có thể chỉ vượt quá trong
một thời gian ngắn.

Các hạn mức phải tương thích với phương pháp đo lường rủi ro của ngân hàng
và phải phản ánh tác động dự đoán của biến động lãi suất lên lợi nhuận và trị giá
kinh tế của ngân hàng. Từ khía cạnh lợi nhuận ngân hàng cần xem xét các hạn mức
dưới góc độ biến động của thu nhập ròng và thu nhập ròng từ lãi suất để từ đó đánh
giá được đóng góp thu nhập phi lãi suất trong trường hợp ngân hàng đang chịu
RRLS. Các hạn mức này thể hiện mức độ biến động lợi nhuận mà ngân hàng có thể
chấp nhận trong các trường hợp lãi suất biến động.
Hình thức của hạn mức phản ánh tác động lãi suất đối với giá trị kinh tế của ngân
hàng cần phù hợp với quy mô và đặc điểm hạng mục ngân hàng đang nắm giữ. Nếu


22

ngân hàng thiên về hoạt động truyền thống và ít nắm các công cụ dài hạn, các giao dịch
quyền chọn hay các công cụ khác có giá trị thay đổi bất kể biến động lãi suất bất thường.
Các biến động lãi suất được dùng để phân tích tạo lập các hạn mức phải tính cả các biến
động lãi suất quá khứ và thời gian cần thiết để ban điều hành ngân hàng nhận biết RR.
Các hạn mức có thể tính dựa trên các kỹ thuật phân bố thống kê lãi suất, ví dụ như lợi
nhuận rủi ro (Earning at Risk) hay giá trị kinh tế rủi ro kinh tế(economi value at risk).
Ngoài ra các giả định tình huống còn phải lưu ý đến cả các nguồn gây rủi ro lãi suất như
rủi ro chênh lêch, rủi ro đường cong lợi nhuận, rủi ro cơ bản, rủi ro quyền chọn.
1.2.2.2. Tổ chức bộ máy quản trị rủi ro lãi suất
Một trong những nguyên nhân cơ bản phát sinh rủi ro lãi suất là do sự không
cân xứng về kỳ hạn TS và NV của ngân hàng nên việc tổ chức quản trị rủi ro lãi
suất được thực hiện ở cấp độ tập trung trong toàn ngân hàng. Mô hình tổ chức quản
trị rủi ro lãi suất đơn giản hay phức tạp tùy thuộc vào quy mô của từng ngân hàng.
Với những ngân hàng nhỏ, giám đốc điều hành có thể quán xuyến được toàn bộ
hoạt động của ngân hàng thì không nhất thiết phải hình thành những phòng chức
năng chuyên trách về quản trị rủi ro lãi suất mà chỉ cần một vài nhân viên chịu trác
nhiệm đo lường,đánh giá mức độ rủi ro lãi suất và trực tiếp báo cáo cho giám đốc.

Tại những ngân hàng lớn với hệ thống chi nhánh lớn, trong cơ cấu tổ chức của ngân
hàng thường hình thành khối chuyên trách quản trị rủi ro lãi suất với nhiều cấp độ
quản lý. Trong trường hợp này có sự phân định trách nhiệm rõ ràng ở từng cấp quản
trị trong ngân hàng và quản trị rủi ro lãi suất là quá trình thực hiện cả từ trên xuống
và từ dưới lên. Tại cấp độ cao nhất là việc xác định mục tiêu thu nhập và giới hạn
rủi ro. Trong quá trình quản trị được thực hiện từ trên xuống, mục tiêu chung của
ngân hàng cần được cụ thể hóa bằng các chỉ dẫn cho các bộ phận chức năng và
những nhà quản trị có trách nhiệm. Những chỉ dẫn này bao gồm: mục tiêu thu nhập,
giới hạn rủi ro và các văn bản hướng dẫn các chính sách quản trị rủi ro. Việc giám
sát và lập báo cáo rủi ro được định hướng từ dưới lên,bắt đầu từ các giao dịch và kết
thúc với những rủi ro đã được tổng hợp, mức thu nhập và doanh số hoạt động. Việc
tổng hợp được yêu cầu thực hiện vì mục tiêu giám sát và để so sánh giữa mục tiêu


23

đặt ra và thực tế hiện tại tất cả các cấp ra quyết định.
Việc tổ chức hoạt động của quản lý rủi ro lãi suất theo các nguyên tắc cơ bản sau đây:
- Hội đồng quản trị chịu trách nhiệm giám sát quản lý rủi ro lãi suất.
- Mô tả rõ ràng trách nhiệm của 3 tuyến phòng ngừa RRLS, đó là (1) các đơn
vị kinh doanh rủi ro, (2) các đơn vị kiểm soát rủi ro(3) kiểm toán nội bộ.
- Các chính sách, hạn mức và các tham số kiểm soát quản lý rủi ro thị trường
phù hợp được tạo ra nhằm quản lý tất cả các hoạt động kinh doanh chịu rủi ro, đặc
biệt là các hoạt động hoặc sản phẩm mới.
- Tất cả chính sách và phương pháp quản lý rủi ro thị trường được hội đồng
ALCO, giám đốc quản lý rủi ro xem xét và phê duyệt. Tất cả hạn mức rủi ro được
xem xét và phê duyệt. Tất cả các hạn mức rủi ro được xem xét theo định kỳ. Các
xem xét đột xuất được thực hiện khi thị trường có biến động.
- Các phương pháp thích hợp được áp dụng để xác định đo lường tổng hợp,
giám sát và báo cáo khả năng rủi ro trên thị trường. Khả năng rủi ro được đánh giá

theo giá thị trường trên cơ sở nhất quán trong khoảng thời gian thích hợp.
- Hiệu lực của các cách thức và giả định sử dụng trong mô hình rủi ro được
kiểm tra, phê chuẩn theo định kỳ. Xem xét việc thực hiện theo định kỳ được tiến
hành để bảo đảm hoạt động kinh doanh, đầu tư cân bằng trạng thái tuân thủ theo
quy định.
Hội đồng quản trị, ban giám đốc và các phòng ban liên quan có các nhiệm vụ
cơ bản sau:
A. Nhiệm vụ của hội đồng quản trị:
Thông qua các chính sách và chiến lược quản trị RRLS, đảm bảo ban giám
đốc(BGĐ) thực hiện các bước cần thiết để theo dõi và kiểm soát những rủi ro theo
các chính sách, chiến lược đã đề ra.
HĐQT phải được thông báo một cách thường xuyên về RRLS của ngân hàng
để đánh giá hoạt động, theo dõi và kiểm tra rủi ro này theo các chỉ thị hướng dẫn về
các cấp độ rủi ro được chấp nhận của ngân hàng. HĐQT phải thiết lập và hướng dẫn
chiến lược, mức chịu đựng của ngân hàng đối với rủi ro lãi suất, đồng thời chỉ định


24

các điều hành cấp cao có thẩm quyền và trách nhiệm QLRR này.
Giám sát việc thực hiện của ngân hàng và nhìn tổng thể tình hình rủi ro lãi
suất của ngân hàng đảm bảo RRLS được dùy trì ở mức độ thận trọng và được tài trợ
bởi nguồn vốn hợp lý. Khi đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của ngân hàng đối với
RRLS,HĐQT nên xem xét tình hình RRLS hiện tại, tiềm năng cũng như những rủi
ro khác có khả năng làm giảm nguồn vốn như rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản và
rủi ro giao dịch.
HĐQT đảm bảo ngân hàng thực hiện những nguyên tắc cơ bản hợp lý hỗ trơ cho
việc nhận biết, đo lường giám sát và kiểm soát RRLS. Đảm bảo nhân lực có khả năng
cho công tác quản lý RRLS, QLRR hiệu quả đòi hỏi cả kỹ thuật và nguồn nhân lực
B. Nhiệm vụ của Ban giám đốc

BGD đảm bảo cơ cấu hoạt động kinh doanh của ngân hàng và mức độ rủi ro
lãi suất của ngân hàng được quản lý hiệu quả, các chính sách và quy trình phù hợp
đã được thiết lập nhằm kiểm soát và hạn chế những rủi ro này, nguồn lực của ngân
hàng luôn sẵn sàng phục vụ cho việc đánh giá và kiểm soát RRLS.
Cần phải xác định rõ ràng các ủy ban chịu trách nhiệm quản lý RRLS và đảm
bảo rằng việc phân chia trách nhiệm được thực hiện một cách đầy đủ đối với những
hoạt động chính trong quy trình QLRR nhằm tránh mâu thuẫn lợi ích. Quy định rõ
nhiệm vụ, chức năng đối với việc tính toán, theo dõi và kiểm soát rủi ro hoàn toàn
độc lập với các chức năng thực hiện công việc kinh doanh, đầu tư của ngân hàng và
quy định phải báo cáo trực tiếp về tình hình rủi ro lên BGĐ và HĐQT.
Xác định rõ quy trình và chính sách quản lý RRLS phù hợp và nhất quán với
đặc tính và sự phức tạp của các hoạt động liên quan. Các chính sách này phải được
áp dụng trên cơ sở thống nhất và phù hợp theo từng cấp độ của các chi nhánh, đặc
biệt là khi nhận biết được những khác biệt về mặt pháp lý và những rào cản có thể
xảy ra đối với các luồng tiền giữa các chi nhánh.
BGD phải xem xét thường xuyên các báo cáo chi tiết về RRLS, các báo cáo này
có thể khác nhau tùy thuộc vào hồ sơ rủi ro của ngân hàng nhưng tối thiểu phải bao
gồm các nội dung sau: (1) Tóm tắt rủi ro của ngân hàng,(2) Các báo cáo thể hiện tuân
thủ các chính sách và hạn mức. (3) kết quả thử nghiệm tình huống căng thẳng bao gồm


25

cả các đánh giá trong trường hợp các giả định và thông số chủ chốt bị phá vỡ. (4) tóm
tát các kết quả xem xét các chính sách thủ tục và khả năng của hệ thống đo lường rủi
ro, bao gồm các kết quả từ kiểm toán nội bộ hoặc bên ngoài tư vấn.
C. Nhiệm vụ của phòng quản lý rủi ro:
Xác định được những rủi ro lãi suất tiềm ẩn trong các sản phẩm và hoạt động
mới, cần phải đảm bảo các sản phẩm và hoạt động này cần tuân theo các quy trình và
được kiểm soát chặt chẽ trước khi được đưa ra thực hiện. Những biện pháp quản lý rủi

ro hay dự phòng rủi ro phải được hội đồng quản trị hay ủy ban chuyên trách thông qua.
Tính toán được mức độ nhạy cảm dẫn đến thiệt hại trong các điều kiện căng
thẳng của thị trường, bao gồm cả trường hợp giả định bị phá vỡ, xem xét các hậu
quả khi thiết lập các chính sách, hạn mức cho RRLS.
Thường xuyên báo các tình hình đo lường rủi ro lãi suất và so sánh giữa mức
rủi ro hiện thời với các hạn mức đề ra trong các chính sách, ngoài ra cũng cần so
sánh các dự đoán rủi ro với kết quả thực tế nhằm nhận dạng được các điểm yếu
trong phương pháp phân tích.
Thực hiện các biện pháp điều chỉnh giám mức độ rủi ro hoặc đề xuất bổ sung
thêm vốn hoặc cả hai.
D. Nhiệm vụ của bộ phận kiểm toán nội bộ.
Ngân hàng cần phải có một bộ phận kiểm toán nội bộ mạnh để đảm bảo tất cả
các hoạt động kinh doanh được báo các lên quản lý cao cấp kịp thời và phù hợp với
chiến lược đã được cán bộ quản lý cấp cao phê duyệt.
Hệ thống kiểm tra nội bộ chặt chẽ phục vụ cho quy trình quản lý RRLS. Báo
cáo đánh giá độc lập thường kỳ và những đánh giá liên quan đến tính hiệu quả của
hệ thống này phải được thực hiện.
1.2.2.3. Các biện pháp phòng ngừa rủi ro lãi suất
a. Duy trì sự phù hợp về kỳ hạn của nguồn vốn và tài sản
Nguyên nhân gây ra rủi ro lãi suất của các ngân hàng thương mại đó là sự
không cân xứng về kỳ hạn của tài sản và nợ phải trả, vốn chủ sở hữu của ngân hàng
kết hợp với sự biến động của lãi suất thị trường. Một trong các biện pháp quan trọng
để phòng ngừa rủi ro lãi suất là các ngân hàng phải duy trì sự cân xứng về kỳ hạn


×