Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Biện pháp quản lý hoạt động dạy học tiếng anh đối với các trường trung học phổ thông huyện thường tín hà tây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (312.17 KB, 16 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA SƢ PHẠM

NGUYỀN THỊ THUÝ PHƢƠNG

BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC TIẾNG ANH
ĐỐI VỚI CÁC TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
HUYỆN THƢỜNG TÍN HÀ TÂY

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC

HÀ NỘI 2008


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chiến lược phát triển Giáo dục - Đào tạo giai đoạn 2001 - 2010 phục
vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH-HĐH) đất nước đã xác
định các mục tiêu ưu tiên của Giáo dục - Đào tạo là "nâng cao chất lượng
đào tạo nhân tài phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, trong đó
đặc biệt chú trọng nhân lực khoa học - công nghệ trình độ cao, cán bộ quản
lý giỏi và công nhân kĩ thuật lành nghề”. Đây là bước phát triển tiếp theo
của mục tiêu Giáo dục - Đào tạo nhằm "phát triển nguồn nhân lực đáp ứng
nhu cầu công nghiệp hoá - hiện đại hoá" đã được xác định trong nghị quyết
đại hội Đảng lần thứ VIII (tháng 6 năm 1996).
Trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất nƣớc, yêu cầu đặt ra cho ngành
giáo dục đối với việc dạy và học ngoại ngữ là phải đào tạo ra nguồn nhân lực lao
động có chất lƣợng cao, trong đó có khả năng sử dụng ngoại ngữ nhƣ là một công cụ
để giao tiếp, nghiên cứu và học tập. Từ thực tế đó, trong những năm gần đây việc
dạy và học ngoại ngữ đã đƣợc chú trọng. Bộ Giáo dục - Đào tạo đã quy định ngoại
ngữ là môn học bắt buộc đối với học sinh trung học phổ thông và là môn thi tốt


nghiệp Quốc gia ở bậc học này.

Nhiệm vụ dạy ngoại ngữ của các trường Trung học phổ thông là phải
rèn luyện cho học sinh các kỹ năng Nghe - Nói - Đọc - Viết và tư duy bằng
chính một ngoại ngữ nào đó để sau ba năm học các em có một lượng kiến
thức nhất định có thể tiếp tục theo học ở các trường Đại học, Cao đẳng,
Trung học chuyên nghiệp hoặc bước vào cuộc sống tìm việc làm. Quản lý
việc dạy và học ngoại ngữ có ý nghĩa quan trọng đối với việc nâng cao hiệu
quả đào tạo trong nhà trường phổ thông. Quản lý tốt sẽ giúp giáo viên và học
sinh làm việc hiệu quả trong từng khâu của quá trình dạy và học, như việc
xây dựng kế hoạch năm học của bộ môn, của cá nhân, kế hoạch dự giờ, thăm


lớp, việc chỉ đạo ra đề kiểm tra, đề thi; các hình thức ngoại khóa bộ môn, hội
thảo, biện pháp khắc phục chuyển di tiêu cực của tiếng mẹ đẻ, tiếng địa
phương trong việc học ngoại ngữ của học sinh. Các biện pháp này nhằm tác
động trực tiếp đến người dạy và người học để họ kịp thời điều chỉnh phương
pháp dạy và học, thực hiện đầy đủ, khoa học quá trình kiểm tra, đánh giá
trên cơ sở công bằng, khách quan đáp ứng các yêu cầu do mục tiêu giáo dục
đề ra.
Trong thực tiễn giảng dạy ngoại ngữ ở nhà trường phổ thông nói riêng
và ở các bậc khác nói chung, hiện nay việc quản lý quá trình dạy và học vẫn
còn nhiều bất cập, chậm đổi mới, nhiều học sinh chỉ chú trọng học ngoại
ngữ để đối phó khi thi, khả năng giao tiếp kém; người dạy và người học đều
ngại hoặc không có thói quen sử dụng các phương tiện hiện đại như đài,
băng cassette, máy tính, máy chiếu và khai thác mạng internet trong quá
trình dạy và học ngoại ngữ. Phần lớn sinh viên tốt nghiệp Đại học không đáp
ứng được yêu cầu khi được phỏng vấn để tuyển dụng vào các công ty nước
ngoài. Theo số liệu thống kê của các trung tâm Anh ngữ quốc tế tại Việt
Nam, tháng 11 năm 2005 thì trình độ Anh ngữ của học sinh Việt Nam là

dưới mức trung bình. Một ví dụ cụ thể là mùa tuyển sinh 2004, ông Phan
Quốc Khánh - Hiệu trưởng trường ĐH Quốc tế (ĐHQG TP HCM) cho biết
khi kiểm tra chất lượng đầu vào của 215 SV thì chỉ có 27 SV (12,5%) đủ
điểm ngoại ngữ tối thiểu tức là 500 điểm TOEFL như yêu cầu.
Là một giáo viên trực tiếp dạy ngoại ngữ, tôi thấy mình cần nghiên cứu để
tìm ra những biện pháp nhằm quản lý tốt hơn việc dạy và học ngoại ngữ hiện nay,
góp phần nâng cao chất lƣợng dạy học ngoại ngữ của trƣờng Trung học phổ thông.
Với lý do này, tôi chọn đề tài: "Biện pháp quản lý hoạt động dạy học tiếng Anh đối với
các trường Trung học phổ thông huyện Thường Tín, Hà Tây" là đề tài nghiên cứu luận
văn Thạc sĩ quản lý giáo dục.


2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất những biện pháp quản lý thích hợp và hiệu quả hoạt động dạy
học môn tiếng Anh cho các trường Trung học phổ thông huyện Thường Tín,
Hà Tây.
3. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Hoạt động dạy học môn tiếng Anh tại các trường Trung học phổ thông
huyện Thường Tín, Hà Tây.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp quản lý hoạt động dạy học môn tiếng Anh cho các trường
Trung học phổ thông huyện Thường Tín, Hà Tây.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý dạy học ngoại ngữ ở các trường
Trung học phổ thông
4.2. Nghiên cứu thực trạng việc tổ chức dạy học ngoại ngữ ở các trường
Trung học phổ thông trên địa bàn huyện Thường Tín, Hà Tây. Đánh giá
các ưu, nhược điểm trong công tác tổ chức và quản lý hoạt động này
4.3. Đề xuất một số biện pháp quản lý hoạt động dạy học ngoại ngữ (tiếng

Anh) ở các trường Trung học phổ thông huyện Thường Tín, Hà Tây
5. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tiến hành nghiên cứu tại 3 trường Trung học phổ thông huyện
Thường Tín: Trường Trung học phổ thông Thường Tín, trường Trung học
phổ thông Vân Tảo và trường Trung học phổ thông Nguyễn Trãi.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu, tôi sử dụng phối hợp các
phương pháp nghiên cứu sau.
6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận


- Sưu tầm sách, tài liệu liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
- Đọc, phân tích, tổng hợp các tài liệu để xây dựng cơ sở lý luận của đề
tài.
6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Điều tra, khảo sát các hoạt động dạy học của giáo viên và học sinh
trường Trung học phổ thông huyện Thường Tín, Hà Tây.
- Phỏng vấn ý kiến của phụ huynh học sinh.
- Phân tích và tổng kết kinh nghiệm quản lý.
6.3. Nhóm phương pháp thống kê toán học và xử lý số liệu để phân tích
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, luận văn được trình bày
trong ba chương như sau:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận của đề tài
Chƣơng 2: Thực trạng công tác quản lý hoạt động dạy học tiếng Anh
tại các trường Trung học phổ thông huyện Thường Tín, Hà Tây.
Chƣơng 3: Các biện pháp quản lý hoạt động dạy học tiếng Anh phù
hợp với các trường Trung học phổ thông huyện Thường Tín, Hà Tây



Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Trên thế giới
Quản lý hoạt động dạy và học ngoại ngữ là một phần quan trọng trong
chương trình phát triển giáo dục ở nhiều nước trên thế giới. Các hình thức
hoạt động dạy và học ngoại ngữ diễn ra phong phú, đa dạng và đều nhằm
mục đích thúc đẩy quá trình hội nhập của các nước, phục vụ cho việc phát
triển kinh tế đất nước. Xin nêu một số điển hình về hoạt động dạy và học
ngoại ngữ ở một số quốc gia trên thế giới:
Cùng với việc ổn định hệ thống chính trị, xây dựng và phát triển kinh
tế, hệ thống Giáo dục - Đào tạo luôn được quan tâm đầu tư đặc biệt là công
tác quản lý giáo dục. Hiện nay đất nước Singapore đang có những bước cải
cách giáo dục về cả nội dung sách giáo khoa, đội ngũ giáo viên, công nghệ
quản lý ... rất nổi bật trong khu vực và trên thế giới. Hệ thống giáo dục phổ
thông ở Singapore bao gồm 172 trường TH; 158 trường THCS; 16 trường
THPT. Sau khi tiếp nhận chức thủ tướng, thủ tướng Goh Chok Tông đã phê
duyệt chiến lược phát triển giáo dục lâu dài của Bộ giáo dục trong đó có
điểm nhấn là toàn bộ hệ thống giáo dục phổ thông tại Singapore phải sử
dụng tiếng Anh như là ngôn ngữ bắt buộc bên cạnh tiếng Trung sử dụng như
ngôn ngữ thứ hai. Vì học toàn bằng tiếng Anh nên nhiều gia đình ngoại quốc
sẵn sàng gửi con em đến học ngay từ bậc tiểu học với mức đóng góp học phí
rất cao, giúp cho Singapore có khoản thu nhập kinh phí lớn từ nguồn thu
nhập này. Singapore đặc biệt chú ý đến chất lượng đào tạo, ngoài việc không
ngừng trang bị cơ sở vật chất hiện đại phục vụ dạy và học, số lượng học sinh
trong một lớp cũng chỉ cho phép không quá 25 em. Việc chú trọng học và sử
dụng tiếng Anh này cũng đã giúp Singapore có nguồn nhân lực đạt chuẩn
quốc tế cao do trực tiếp tiếp nhận những tri thức khoa học mới nhất.


Tại Trung Quốc việc dạy và học ngoại ngữ cũng được hết sức chú

trọng. Chính phủ Trung Quốc cho rằng cần xem các hoạt động này là một
phần quan trọng trong chương trình giáo dục chung của quốc gia. Để nâng
cao chất lượng và tăng cường số lượng người học ngoại ngữ, chính phủ đã
đưa ra các quy định về trách nhiệm của giáo viên và nhà trường, tăng cường
các nguồn lực và các điều kiện cho việc tổ chức các hoạt động dạy và học
ngoại ngữ. Để chuẩn bị cho các hoạt động đón Thế vận hội 2008 tổ chức tại
Trung Quốc, chính phủ Trung Quốc đã phát động phong trào toàn dân học
ngoại ngữ. Các trung tâm dạy ngoại ngữ được mở ra với quy mô lớn và đặt
dưới sự quản lý của nhà nước về nội dung, chương trình và công khai mức
thu học phí để đảm bảo quyền lợi cho người học.
Đối với hệ thống giáo dục quốc dân, sau một loạt các cuộc cải cách
nhỏ, tháng 2 năm 1993 "Đề cương về cải cách và phát triển giáo dục” của
TW Đảng cộng sản Trung Quốc chính thức ra đời bắt đầu cuộc cải cách đổi
mới sâu rộng trong giáo dục, quy định tiếng Anh phải được đưa vào dạy
chính thức từ bậc tiểu học nhằm phục vụ thiết thực cho việc hội nhập mạnh
mẽ trong mọi lĩnh vực. Trung Quốc trở thành thị trường khổng lồ cho việc
"xuất khẩu ngôn ngữ” của nước Anh. Theo ông Gordon Brown - Bộ trưởng
tài chính Anh cho biết" Trong 20 năm qua, số người nói tiếng Anh ở Trung
Quốc dường như đã vượt xa số người sử dụng tiếng Anh như ngôn ngữ mẹ
đẻ trên toàn thế giới. Đây là cơ hội lớn đối với nước Anh”. Chính phủ Anh
cũng cho phép các sinh viên Trung Quốc đang học tập tại các trường đại học
tại Anh được phép ở lại và làm việc thêm một năm nữa sau khi tốt nghiệp.
Tại Nhật Bản, chính phủ thể hiện rõ quyết tâm đẩy mạnh hoạt động
dạy và học tiếng Anh ứng dụng ở quy mô toàn bộ nền giáo dục. Cụ thể:
Trong vài năm gần đây tiếng Anh bắt đầu được đưa vào tiểu học, mục đích
rèn kỹ năng giao tiếp đơn giản bước đầu cho học sinh, tránh gò ép về ngữ


pháp và từ vựng. Đối với bậc THCS (cấp 2), tiếng Anh được coi là 1 trong 5
môn chính, được đánh giá quan trọng ngang với môn Quốc ngữ, Toán, Xã

hội, Lý, Hóa với thời lượng 4tiết/ tuần, mỗi tiết 50 phút. ở bậc THPT (cấp
3), tiếng Anh được coi như giáo dục phổ cập với tỷ lệ theo học lên đến 95%.
Tiếng Anh được dạy như một ngoại ngữ duy nhất, rất ít trường dạy thêm các
ngoại ngữ khác.
Ở Ý cũng sử dụng Tiếng Anh phổ biến, là nƣớc xếp thứ 15 về % số ngƣời nói
tiếng Anh nhƣ ngôn ngữ thứ 2 (Second language), ở châu Âu với 28%. Các nƣớc có
số ngƣời nói tiếng Anh nhƣ ngôn ngữ thứ 2 nhiều nhất là Đan Mạch (79%), Thụy
Điển (76%), và Hà Lan (75%). Tiếng Anh là môn học bắt buộc ở bậc học phổ thông
ở nƣớc này. Thanh niên Ý học tiếng Anh để có cơ hội tìm việc làm nhiều hơn. Tại
các trung tâm Anh quốc, tiếng Anh nói (Spoken English) đƣợc nhiều ngƣời theo học
nhất. Họ có chƣơng trình quảng bá tiếng Anh trên các xe buýt, tại các bến xe. Nhiều
sinh viên Ý đã sang Mỹ làm thêm nhân kỳ nghỉ hè để có cơ hội giao tiếp bằng tiếng
Anh.

Tại Anh, người Anh tự hào vì ngôn ngữ của họ đã và đang được sử
dụng rộng rãi trên thế giới, song việc dạy và học ngoại ngữ trong nhiều năm
qua không được chú ý. Theo một kết quả khảo sát do hội đồng Châu Âu
thực hiện thì khoảng 66% người dân Anh không nói được bất kỳ thứ ngôn
ngữ nào ngoài tiếng mẹ đẻ, đây là tỉ lệ cao nhất trong số các nước châu Âu
được khảo sát. Bà Isabella More, giám đốc trung tâm ngôn ngữ quốc gia cho
biết: Sự suy giảm số học sinh học ngoại ngữ sẽ làm cho học sinh thiếu kỹ
năng cần thiết khi tốt nghiệp cũng như ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh
của các doanh nghiệp. Chính phủ Anh đang lên kế hoạch chi 115 triệu bảng
cho việc đưa ngoại ngữ vào các trường học. Những ngôn ngữ được dạy tại
quốc gia này chủ yếu là Tây Ban Nha, Pháp, Đức và tiếng Trung Quốc. Các
chuyên gia Anh cho rằng nền kinh tế của Trung Quốc đang tăng trưởng
nhanh chóng và sẽ ảnh hưởng đến nền kinh tế toàn cầu, không những thế


Trung Quốc là một quốc gia đông dân nhất thế giới, hiện đang là thị trường

xuất khẩu ngôn ngữ lớn nhất của Anh, 40 trường tiểu học của London đã
đưa chương trình tiếng Trung Quốc vào nhà trường, lên kế hoạch kết nghĩa
với các trường của Bắc Kinh.
Tại Hàn Quốc sau khi giải phóng đất nước khỏi sự chiếm đóng của
chính quyền Nhật Bản và sau cuộc chiến tranh năm 1953, Hàn Quốc đã
nhanh chóng xây dựng được một cơ sở giáo dục hạ tầng, mở rộng cung ứng
giáo dục, tạo điều kiện cho sự phát triển giáo dục cơ sở và giáo dục bậc cao
phục vụ cho "chiến dịch phát triển hướng ngoại”. Từ sau khi vượt qua khỏi
cuộc khủng hoảng kinh tế 1997, Hàn Quốc tiếp tục thực hiện cuộc cải cách
giáo dục để tiến vào thế kỷ 21 với tham vọng trở thành một nước có nền giáo
dục tốt nhất thế giới. Chiến lược phát triển giáo dục của Hàn Quốc được hoạch
định theo yêu cầu của mục tiêu, xây dựng một quốc gia hiện đại hóa với 3 đặc
trưng cơ bản đó là:
- Một quốc gia phúc lợi, công bằng, ổn định, dân chủ.
- Một xã hội phồn vinh, bình đẳng, công nghiệp hóa định hướng thông tin cao.
- Một hệ thống tự do, năng động của một xã hội mở và định hướng toàn
cầu.
Để phục vụ cho chiến lược đó chính phủ Hàn Quốc đã tăng cường
mạnh mẽ việc dạy và học ngoại ngữ đặc biệt là tiếng Anh trong toàn bộ hệ
thống giáo dục quốc dân từ bậc tiểu học trở lên. Tiếng Anh thực sự là nhu
cầu cấp thiết trong quan hệ làm ăn, giao dịch của Hàn Quốc vì đối tác chủ
yếu của họ là Mỹ và các nước phương Tây.
1.1.2. Ở trong nước
Vào những năm đầu thập kỷ 90, cùng với công cuộc đổi mới đất nƣớc, xu thế
hội nhập quốc tế, phong trào học ngoại ngữ đặc biệt là tiếng Anh ngày càng phát
triển. Việc quản lý dạy và học ngoại ngữ cũng đã dần đƣợc các cấp, ngành chú


trọng nhằm đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng cao của toàn xã hội. Hoạt động dạy
và học ngoại ngữ đã đƣợc đƣa vào chƣơng trình giáo dục phổ thông từ bậc tiểu học.

Song tình hình dạy và học cũng có nhiều bất cập, chƣơng trình chƣa đồng bộ, chƣa
đảm bảo tính liên thông từ bậc THPT lên đại học, ngay trong các bậc học phổ thông
đã không đảm bảo tính liên thông. tình trạng các trƣờng tiểu học sử dụng các nguồn
tài liệu giảng dạy khác nhau nhƣ giáo trình "Let’s go" hoặc "Let’s learn 1 + 2" của
NXB Oxford. Giáo viên đƣợc đào tạo từ nhiều nguồn khác nhau nhƣ Đào tạo Tại
chức, Đào tạo Liên kết, Đào tạo Từ xa ... nên kiến thức, phát âm và nghiệp vụ sƣ
phạm chƣa đƣợc chuẩn và vững, thêm vào đó họ hợp đồng đã nhiều năm nên mức
lƣơng cũng nhận đƣợc khác nhau, tùy vào điều kiện của từng trƣờng. Giáo viên dạy
trực tiếp làm kiểm tra đánh giá, không theo một chuẩn nào và thời lƣợng dạy một
tiết Tiếng Anh ở tiểu học chỉ khoảng 20 đến 30 phút. Hiện nay giáo trình Tiếng Anh
từ lớp 6 đến lớp 12 đƣợc biên soạn học theo đƣờng hƣớng giao tiếp cụ thể. Giáo
trình lớp 6-7 chủ yếu giới thiệu ngữ liệu ngôn ngữ mới, giáo trình lớp 8-9 và giáo
trình từ lớp 10-12 nội dung chƣơng trình nặng về ngữ pháp, từ vựng, bên cạnh đó
còn chú trọng đến chủ điểm để dạy theo vòng tròn đồng tâm, kỹ năng nghe và nói
chƣa đƣợc chú trọng. Việc kiểm tra thi cử theo hình thức tự luận trong hoàn cảnh
một lớp học có tới 50 học sinh. Tình trạng quay cóp trong thi cử đƣợc xem nhƣ là
quốc nạn nên kết quả kiểm tra thi cử không phản ánh đúng sự thật, kết quả của 10
năm học ngoại ngữ đối với nhiều học sinh giống nhƣ bắt đầu học.

Hoạt động dạy và học ngoại ngữ ở tỉnh Hà Tây những năm đầu cũng ở
tình trạng tương tự như vậy, nội dung chương trình đang dần đi vào thống
nhất theo đúng quy định của Bộ GD & ĐT, không đảm bảo tính liên thông,
ở nhiều nơi còn tồn tại tình trạng học sinh học tiếng Anh từ lớp 3 tới lớp 9
nhưng khi lên bậc THPT các em lại phải học tiếng Pháp hoặc tiếng Nga, chỉ
vì một lý do các thầy cô giáo vốn được đào tạo ngoại ngữ Nga hoặc Pháp
nay tuổi đã cao không thể đào tạo lại tiếng Anh. Trường hợp thầy, cô được
đào tạo cấp tốc chứng chỉ A, B, C, tiếng Anh để về dạy không phải hiếm.
Thực tế như vậy thì chất lượng dạy và học ngoại ngữ không thể nói là tốt.



Việc kiểm tra đánh giá dạy và học còn nặng về hình thức, thành tích. Trang
thiết bị phục vụ cho việc dạy và học hầu như không có, giáo viên chủ yếu
dạy chay.
Có thể nói dạy và học ngoại ngữ ở các địa phương cũng như trên cả
nước trong nhiều năm qua đều ở trong tình trạng manh mún dàn trải, kém
hiệu quả, chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế. Muốn dạy và học ngoại ngữ
đem lại kết quả thực sự cần hội đủ các yếu tố như số lượng và chất lượng đội
ngũ giáo viên, chương trình, sách giáo khoa, trang thiết bị, phương pháp dạy
và học, cách thức kiểm tra đánh giá, tất cả cần được đặt trong một cơ chế
quản lý khoa học, hiệu quả. Tuy nhiên việc quản lý dạy và học ngoại ngữ ở
Việt Nam tới nay vẫn chưa thấy có một công trình nghiên cứu chuyên biệt
nào, người làm công tác quản lý chủ yếu dựa vào kinh nghiệm hoặc sự chỉ
đạo dập khuôn từ cấp trên. Quản lý dạy và học ngoại ngữ vẫn được đặt
chung một cách với quản lý các môn học khác mà chưa tính đến nét đặc thù
bộ môn. Việc xây dựng cơ sở lý luận cho quản lý hoạt động dạy và học
ngoại ngữ sẽ giúp cho nhà quản lý có cơ sở điều hành công việc chuyên môn
của nhà trường nói chung và hoạt động dạy và học nói riêng đạt kết quả tốt.
1.2. Một số khái niệm cơ bản liên quan quan đến đề tài
1.2.1. Quản lý; chức năng quản lý
1.2.1.1. Khái niệm quản lí
Quản lý là một trong những loại hình lao động quan trọng nhất và lâu
đời của con người. Nó "xưa cũ như chính con người vậy” (14, tr. 10). Tuy
nhiên, đến cuối thế kỷ 19 khoa học quản lý mới bắt đầu hình thành. Có thể
điểm qua một số định nghĩa sau:
Theo K. Marx: "Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động
chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng cần đến
một sự chỉ đạo để điều hoà những hoạt động cá nhân và thực hiện những


chức năng chung phát sinh từ sự vận động của toàn bộ cơ thể sản xuất khác

với sự vận động của những khí quan độc lập của nó. Một người đọc tấu vĩ
cầm tự điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có một nhạc trưởng"
(31,tr. 408)
H. Koontz (Mỹ): "Quản lý là một hoạt động thiết yếu, nó đảm bảo sự
phối hợp những nỗ lực của cá nhân nhằm đạt được mục đích của nhóm (tổ
chức). Mục đích của mọi nhà quản lý là hình thành môn trường mà trong đó
con người có thể đạt được các mục đích của mình với thời gian, tiền bạc, vật
chất và sự bất mãn cá nhân ít nhất" [30, tr. 33].
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: "Quản lý là sự tác động có mục
đích tới tập thể những người lao động nhằm đạt được những kết quả nhất
định và mục đích đã định trước’’[16, tr 23].


TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHẦN TIẾNG VIỆT
1. Đặng Quốc Bảo, Nguyễn Đắc Hƣng (2004), Giáo dục Việt Nam
hướng tới tương lai - vấn đề và giải pháp, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2. Đặng Quốc Bảo, Nguyễn Thị Mỹ Lộc (2004), Bài giảng quản lý
giáo dục, quản lý nhà trường dành cho lớp cao học QLGD.
3. Lê Khánh Bằng, Lê Quang Long (1995), Công nghệ đào tạo với
vấn đề tổ chức QTDH có chất lượng hiệu quả ở Đại học và Chuyên nghiệp,
Hà Nội.
4. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2008), Đề án dạy và học ngoại ngữ trong
hệ thống giáo dục quốc dân, (Dự thảo), Hà Nội.
5. Bộ Giáo dục và đào tạo (2007), Những vấn đề chung về đổi mới
giáo dục THPT môn tiếng Anh, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
6. Bộ Giáo dục và đào tạo (2006), Chương trình giáo dục phổ thông,
Môn tiếng Anh (Ban hành kèm theo Quyết định số 16/2006/ QĐ-BGDĐT,
ngày 05/5/2006 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT), Nhà xuất bản Giáo dục, Hà
Nội.

7. Nguyễn Hải Châu, Vũ Thị Lợi (Chủ biên) (2006), Đổi mới
phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá môn tiếng Anh 10, Nhà xuất bản
Hà Nội.
8. Nguyễn Quốc Chí, Nguyễn Thị Mỹ Lộc (1996), Bài giảng cơ sở
khoa học quản lý dành cho lớp cao học quản lý giáo dục.
9. Nguyễn Quốc Chí (2003), Bài giảng những cơ sở lý luận quản lý
giáo dục dành cho lớp cao học quản lý giáo dục.
10. Nguyễn Đức Chính, Lâm Quang Thiệp (2004), Bài giảng đo
lường - đánh giá kết quả học tập của học sinh, sinh viên - dành cho lớp cao
học QLGD.


11. Hồ Ngọc Đại (1983), Tâm lý học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
12. Vũ Cao Đàm (2003), Phương pháp luận nghiên cứu khoa học,
NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện đại hội Đảng khoá
VIII, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
14. Đặng Xuân Hải (2004), Tập bài giảng quản lý sự thay đổi trong
giáo dục dành cho lớp cao học QLGD.
15. Quốc hội (2005), Luật Giáo dục, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
16. Thủ tƣớng Chính phủ (2002), Chiến lược phát triển Giáo dục
2001 - 1010, NXB Giáo dục, Hà Nội.
17. Nguyễn Văn Vân, Nguyễn Thị Chi, Hoàng Thị Xuân Hoa
(2006), Đổi mới phương pháp dạy tiếng Anh ở THPT Việt Nam, Nhà xuất
bản Giáo dục, Hà Nội.
18. Viện Khoa học Giáo dục (2001), Những đặc trưng của phương
pháp dạy học theo tư tưởng Giáo dục tích cực trong nhà trường phổ thông
hiện nay, Hà Nội.
19. Viện Khoa học Giáo dục (2002), Nghiên cứu ứng dụng đổi mới

phương pháp dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động học tập của học
sinh trường THCS, Hà Nội.
20. Viện Nghiên cứu phát triển giáo dục (2001), Tài liệu Lý luận
dạy học, Hà Nội.
21. Nguyễn Đức Chính (2005), Tập bài giảng đo lường và đánh giá
trong giáo dục, Tài liệu cho lớp cao học quản lý giáo dục Hà Nội.
22. Nguyễn Đức Chính (2003), Những vấn đề cơ bản trong đánh giá
chất lượng giáo dục - đào tạo, Hội thảo làm thế nào nâng cao chất lượng
giáo dục.


23. Đỗ Thị Châu (2001), Nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên
ngoại ngữ trong sự nghiệp CNH - HĐH, Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia
DDH ngoại ngữ - ĐHQGHN
24. Vũ Quốc Chung - Lê Hải Yến (2003), Để tự học đạt hiệu quả,
NXB. Đại học Sư phạm, Hà Nội.
25. Dự thảo lần thứ 10 của luật Giáo dục.
26. Bùi Hiền (1999), Phương pháp hiện đại dạy - học ngoại ngữ,
NXB. Đại học quốc gia, Hà Nội.
27. Phạm Minh Hiền – Phạm Mai Hƣơng (2005), Dạy đọc hiểu
theo đường hướng lấy người học làm trung tâm, Đặc san Ngoại ngữ số 1.
28. Phạm Viết Vƣợng (2000), Giáo dục học, NXB Đại học Quốc gia
Hà Nội.
29. Nguyễn Thị Mỹ Lộc (2001), Bài đọc thêm 2, Về khái niệm chất
lượng trong giáo dục và đào tạo, Chuyên đề những quan điểm giáo dục hiện
đại, Tài liệu cho lớp cao học quản lý giáo dục Hà Nội.
30. Nguyễn Thị Mỹ Lộc (2004), Quản lý nguồn nhân lực, Tài liệu
cho lớp cao học quản lý giáo dục Hà Nội.
PHẦN TIẾNG ANH
31. Crookes, G & C. Chaudron (1991), Guidelines for Classroom

language in Teaching English as a second or Foreign Language.
32. H. Douglous Brown (1993), Principles of Language Learning and
Teaching, San Francisco State University.
33. Michael Lewis (1992), Practical techniques for language
teaching.
34. Nunan, D, (1998), The learner-centered Curriculum, Cambridge:
CUP.
35. Slavin, J.W., (1983), Cooperative learning, New York.


36. Higher Education in the twenty-first Century (October 1998),
Vision and Action.World Conference on Higher Education. UNESCO Paris.
37. Myra Pallack Sadker, David Miller Sader (1991), Teachers,
schools and society, Mc Graw Hill, Inc.
38. Johnson, K... (1995), Understanding Communication in Second
Language Classrooms, Cambridge University Press.
39. University of Labour anh Social Affairs (2007), English for
Labour and Social Affairs.



×