Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Bệnh ho gà (pertussis) nguyên nhân, lây truyền, cách phát hiện, điều trị và dự phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (481.16 KB, 12 trang )

Bệnh ho gà (Pertussis): Nguyên nhân, lây
truyền, cách phát hiện, điều trị và dự
phòng
Posted in Ho, Khó thở, Nhi khoa, Sốt, Truyền nhiễm By admin On Tháng Một 30, 2015

Bệnh ho gà (pertussis hoặc whooping cough) là một bệnh rất
dễ lây, gây ra bởi một loại vi khuẩn có tên là Bordetella
pertussis. Vi khuẩn này bám vào các nhung mao (nhỏ, duỗi
thẳng như sợi tóc) lót ở phía trong một phần đường hô hấp
trên. Vi khuẩn giải phóng độc tố, làm tổn thương nhung mao
và gây viêm (phù nề).
BỆNH HO GÀ (PERTUSSIS, WHOOPING COUGH)
Nguyên nhân
Bệnh ho gà (pertussis hoặc whooping cough) là một bệnh rất dễ lây, gây ra bởi
một loại vi khuẩn có tên là Bordetella pertussis. Vi khuẩn này bám vào các
nhung mao (nhỏ, duỗi thẳng như sợi tóc) lót ở phía trong một phần đường hô
hấp trên. Vi khuẩn giải phóng độc tố, làm tổn thương nhung mao và gây viêm
(phù nề).


Ảnh chụp kính hiển vi khuẩn Bordetella pertussis sử dụng kỹ thuật nhuộm
Gram. Ảnh: CDC
Lây truyền
Ho gà là một bệnh rất dễ lây lan, chỉ được phát hiện ở người và được lây truyền
từ người sang người. Người bị ho gà thường lây bệnh khi ho hoặc hắt hơi trong
khi tiếp xúc gần với những người khác, sau đó những người này hít thở phải vi
khuẩn ho gà. Nhiều trẻ sơ sinh bị ho gà do lây bệnh từ anh chị em, bố mẹ hoặc
người chăm sóc mà thậm chí có thể họ không biết họ có bệnh. Các triệu chứng
của bệnh ho gà thường xuất hiện trong vòng 5 – 7 ngày sau khi phơi nhiễm,
nhưng đôi khi nó không biểu hiện trong khoảng thời gian 3 tuần.



Trong khi vắc xin ho gà là công cụ hiệu quả nhất mà chúng ta có để dự phòng
bệnh này thì không có vắc xin nào đạt hiệu quả 100%. Nếu ho gà lưu hành trong
cộng đồng, khả năng mà một người ở bất cứ tuổi nào đã được tiêm phòng đầy
đủ đều có thể mắc bệnh rất dễ lây lan này. Nếu bạn đã được tiêm phòng thì
nhiễm trùng thường ít nghiêm trọng hơn. Nếu bạn hoặc con bạn bị cảm lạnh bao
gồm ho nhiều hoặc ho kéo dài trong một thời gian dài thì đó có thể là ho gà.
Cách tốt nhất để biết chắc chắn là đi khám bác sĩ.
Các dấu hiệu và triệu chứng
Ho gà có thể gây bệnh nghiêm trọng cho trẻ sơ sinh, trẻ em và người lớn. Bệnh
thường bắt đầu bằng triệu chứng giống như cảm lạnh và có thể có ho ít hoặc sốt
nhẹ. Sau 1- 2 tuần thì ho nhiều bắt đầu. Không giống như cảm lạnh, ho gà có thể
biểu hiện một loạt các cơn ho liên tục trong nhiều tuần.
Ở trẻ sơ sinh, ho có thể tối thiểu hoặc thậm chí không có. Trẻ sơ sinh có thể có
một triệu chứng là “ngừng thở”. Ngừng thở là một tình trạng tạm dừng hô hấp
của trẻ. Ho gà là bệnh nguy hiểm nhất đối với trẻ nhỏ. Một nửa số trẻ nhỏ dưới
1 tuổi bị ho gà phải nhập viện.
Ho gà có thể gây ho dữ dội và ho nhanh, nhiều và nhiều nữa, cho tới khi khí ra
khỏi phổi và trẻ/bạn phải hít vào gắng sức tạo ra một tiếng rít lớn. Ho dữ dội có
thể khiến trẻ/bạn nôn khan và rất mệt. Thường không có tiếng rít và nhiễm trùng
thường nhẹ hơn (ít nặng nề) ở thiếu niên và người lớn, đặc biệt là những người
đã được tiêm chủng.
Các triệu chứng sớm có thể kéo dài trong 1 – 2 tuần và thường bao gồm:
– Chảy nước mũi
– Sốt nhẹ (thường nhẹ trong suốt quá trình bệnh)
– Ho nhẹ hoặc thúng thắng
– Ngừng thở – tạm dừng hô hấp (ở trẻ sơ sinh)
Bởi vì ho gà ở giai đoạn đầu dường như không có gì nhiều hơn so với cảm lạnh
thông thường, cho nên nó thường ít được nghĩ tới và ít được chẩn đoán cho tới



khi các triệu chứng nặng hơn xuất hiện. Người nhiễm bệnh dễ lây lan nhất vào
khoảng 2 tuần sau khi bắt đầu ho. Kháng sinh có thể làm giảm khoảng thời gian
dễ lây lan của người nhiễm bệnh.
Khi bệnh tiến triển, các triệu chứng điển hình/kinh điển của ho gà xuất hiện bao
gồm:
– Nhiều cơn ho nhanh theo sau bởi tiếng rít the thé
– Nôn mửa
– Kiệt sức (rất mệt) sau mỗi cơn ho

Những cơn ho có thể xuất hiện liên tục trong ít nhất 10 tuần. Ở Trung Quốc,
bệnh ho gà được gọi là “bệnh ho 100 ngày”.
Mặc dù trẻ/bạn thường kiệt sức sau mỗi cơn ho, nhưng trẻ/bạn lại thường có
biểu hiện khá tốt giữa các cơn ho. Cơn ho thường trở lên phổ biến hơn và
nghiêm trọng hơn khi bệnh tiến triển, và có thể xuất hiện nhiều hơn về ban đêm.


Bệnh có thể nhẹ hơn (ít nghiêm trọng hơn) và không có tiếng rít điển hình ở trẻ
em, thiếu niên và người lớn đã được tiêm vắc xin phòng bệnh ho gà.
Phục hồi sau ho gà có thể diễn ra chậm. Ho nhẹ hơn và ít hơn. Tuy nhiên, những
cơn ho có thể quay lại vì nhiễm trùng hô hấp sau nhiều tháng sau khi mắc bệnh
ho gà.
Biến chứng
Sơ sinh và trẻ em
Ho gà có thể gây ra các biến chứng nghiêm trọng và đôi khi đe dọa tính mạng ở
sơ sinh và trẻ nhỏ, đặc biệt là những trẻ chưa được tiêm phòng đầy đủ.
Có khoảng một nửa số trẻ dưới 1 tuổi bị ho gà phải nhập viện. Trẻ em càng nhỏ
tuổi thì việc điều trị tại bệnh viện sẽ càng cần thiết. Trong số những trẻ sơ sinh
nhập viện vì ho gà thì có khoảng:
– 1 trong số 4 trẻ (23%) bị viêm phổi (nhiễm trùng phổi)

– 1 hoặc 2 trong số 100 trẻ (1,6%) sẽ có co giật (run dữ dội, khó kiểm soát)
– 2/3 (67%) sẽ có ngừng thở (thở chậm hoặc ngừng thở)
– 1 trong 300 trẻ (0,4%) sẽ có bệnh não
– 1 hoặc 2 trong 100 trẻ (1,6%) sẽ tử vong


Bít tắc tiểu phế quản ở trẻ sơ sinh viêm phổi do bệnh ho gà. Ảnh CDC
Thiếu niên và người lớn
Thiếu niên và người lớn cũng có thể bị biến chứng do bệnh ho gà. Biến chứng
thường ít nghiêm trọng hơn ở những lứa tuổi này, đặc biệt với những người đã
được tiêm vắc xin phòng bệnh ho gà. Biến chứng ở thiếu niên và người lớn
thường gây ra bởi bản thân các cơn ho. Ví dụ, trẻ/bạn có thể bất tỉnh, gẫy xương
sườn trong cơn ho dữ dội. Trong một nghiên cứu, dưới 5% thiếu niên và người
lớn mắc bệnh ho gà được nhập viện. Viêm phổi (nhiễm trùng phổi) được chẩn
đoán trong 2% nhóm bệnh nhân này. Các biến chứng phổ biến nhất của một
nghiên cứu khác ở người lớn mắc bệnh ho gà là:
– Sút cân (33%)
– Mất kiểm soát bàng quang (28%)
– Bất tỉnh (6%)
– Gẫy xương sườn do ho nặng (4%)


Đứa trẻ có các mạch máu bị vỡ ở mắt và bầm tím trên mặt do ho nhiều trong
bệnh ho gà. Ảnh: CDC
Chẩn đoán và điều trị
Chẩn đoán
Bệnh ho gà có thể được chẩn đoán bằng cách cân nhắc tới nếu trẻ/bạn đã phơi
nhiễm với bệnh ho gà và bằng cách thông qua các biện pháp thăm khám sau:
– Bệnh sử/diễn biến của các dấu hiệu và triệu chứng điển hình
– Thăm khám thực thể

– Xét nghiệm bao gồm lấy mẫu dịch tiết ở thành sau họng
– Xét nghiệm máu
Điều trị
Bệnh ho gà thường được điều trị bằng thuốc kháng sinh và việc điều trị sớm rất
quan trọng. Điều trị có thể khiến nhiễm trùng ít nghiêm trọng hơn nếu nó được
bắt đầu sớm, trước khi những cơn ho xuất hiện. Điều trị cũng giúp dự phòng lây


bệnh cho những người tiếp xúc gần (những người đã dành nhiều thời gian ở
xung quanh người nhiễm bệnh). Điều trị sau 3 tuần bị bệnh gần như không giúp
ích gì bởi vì vi khuẩn đã biến mất khỏi cơ thể của trẻ/bạn, ngay cả khi trẻ/bạn
vẫn còn triệu chứng. Điều này là do vi khuẩn đã gây tổn thương cơ thể của
trẻ/bạn.
Có một số thuốc kháng sinh điều trị bệnh ho gà. Nếu bạn hoặc con bạn được
chẩn đoán bệnh ho gà, bác sĩ sẽ giải thích làm thế nào để điều trị nhiễm
trùng. Sẽ có bài riêng về điều trị kháng sinh được khuyến cáo bởi Trung
tâm Kiểm soát và Dự phòng Bệnh tật Hoa kỳ (CDC) trong điều trị bệnh
ho gà.
Bệnh ho gà đôi khi rất nghiêm trọng, cần được điều trị tại bệnh viện. Trẻ sơ sinh
có nguy cơ cao nhất bị các biến chứng nặng do bệnh ho gà. Xem một số hình
ảnh về trẻ sơ sinh đang được điều trị bệnh ho gà ở bệnh viện.


Trẻ sơ sinh đang được điều trị ho gà nặng. Cháu đang được chạy máy trao đổi
oxy qua màng ngoài cơ thể (ECMO), kỹ thuật này có thể đảm nhiệm chức năng
của phổi và tim. Cháu còn được lọc máu để giúp thận tiếp tục làm việc. Ảnh:
CDC
Nếu con bạn được điều trị bệnh ho gà tại nhà
Không cho thuốc ho trừ khi có sự chỉ dẫn của bác sĩ. Cho thuốc ho có thể sẽ
không giúp ích gì và nó thường không được khuyến cáo cho trẻ em dưới 4 tuổi.

Quản lý bệnh ho gà và làm giảm nguy cơ lây bệnh cho người khác bằng cách:


– Tuân thủ liệu trình sử dụng thuốc kháng sinh theo đơn của bác sĩ
– Giữ cho nhà cửa không có các chất kích thích, càng nhiều càng tốt, vì nó có
thể kích thích gây ho, chẳng hạn như khói thuốc, bụi, và hơi hóa chất
– Sử dụng bình xịt hơi sương sạch và mát để giúp làm lỏng chất tiết và làm dịu
ho
– Thực hành rửa tay tốt
– Uống nhiều chất lỏng, bao gồm nước, nước trái cây và súp, và ăn nhiều hoa
quả để dự phòng mất nước (thiếu dịch). Thông báo ngay lập tức với bác sĩ bất
cứ dấu hiệu mất nước nào phát hiện được. Các dấu hiệu mất nước bao gồm
miệng khô và dính, buồn ngủ hoặc mệt mỏi, khát, tiểu ít hoặc tã ướt ít hơn,
không có nước mắt khi khóc, yếu cơ, đau đầu, chóng mặt hoặc hoa mắt.
– Ăn các bữa nhỏ và thường xuyên giúp dự phòng nôn nếu có.
Nếu con bạn được điều trị bệnh ho gà tại bệnh viện
Con bạn có thể cần giúp giữ đường thở thông thoáng, điều này có thể cần đến
việc hút chất tiết đặc đường hô hấp. Nếu cần sẽ phải được theo dõi sát hô hấp và
thở oxy. Truyền dịch có thể cần thiết nếu con bạn có các dấu hiệu mất nước
hoặc biếng ăn. Các biện pháp dự phòng, như thực hành vệ sinh bàn tay tốt và
giữ sạch các bề mặt, cần được tuân thủ thực hiện.
Dự phòng
Vắc xin
Cách tốt nhất để dự phòng ho gà ở trẻ sơ sinh, trẻ em, thiếu niên và người lớn là
tiêm chủng. Ngoài ra, giữ trẻ sơ sinh và người có nguy cơ cao bị biến chứng do
bệnh ho gà xa những người bị nhiễm bệnh.
Tại Hoa Kỳ, vắc xin ho gà cho trẻ sơ sinh và trẻ em được khuyến cáo có tên là
DTaP. Đây là vắc xin phối hợp có tác dụng bảo vệ cơ thể trước ba bệnh: bạch
hầu, uốn ván và ho gà. Hiện nay tại Việt Nam, vắc xin dự phòng bệnh ho gà
được sử dụng làQuinvaxem, các bạn có thể tham khảo bài này “Những câu hỏi

thường gặp về vắc xin Quinvaxem”


Sự bảo vệ của vắc xin đối với ba bệnh này mất dần theo thời gian. Trước năm
2005, chỉ có loại vắc xin tăng cường (nhắc lại) bảo vệ trước hai bệnh uốn ván và
bạch hầu (gọi là Td), và đã được khuyến cáo cho thiếu niên và người lớn mỗi 10
năm. Ngày nay có loại vắc xin tăng cường cho trẻ lớn, thiếu niên, và người lớn
có tác dụng bảo vệ trước ba bệnh uốn ván, bạch hầu và ho gà (Tdap).
Điều dễ dàng nhất đối với người lớn cần làm là tiêm Tdap thay vì mũi Td tăng
cường chống uốn ván định kỳ tiếp theo mà họ dự định tiêm mỗi 10 năm. Liều
Tdap có thể được tiêm sớm hơn mốc 10 năm, do đó nó là một ý tưởng tốt đối
với người lớn để nói chuyện với nhân viên chăm sóc sức khỏe về điều gì là tốt
nhất cho tình huống đặc biệt của họ.
Nhiễm trùng
Nếu bác sĩ xác định rằng đứa trẻ/bạn bị bệnh ho gà thì đứa trẻ/bạn sẽ có sự bảo
vệ tự nhiên (miễn dịch) đối với nhiễm trùng trong tương lai. Một số nghiên cứu
quan sát cho thấy rằng bệnh ho gà có thể cung cấp khả năng miễn dịch trong 4 –
20 năm. Vì khả năng miễn dịch này giảm và không có khả năng bảo vệ suốt đời
cho nên tiêm vắc xin dự phòng định kỳ được khuyến cáo.
Kháng sinh
Nếu bạn hoặc một thành viên trong gia đình được chẩn đoán bệnh ho gà, bác sĩ
hoặc cơ sở y tế địa phương có thể khuyên bạn nên dùng kháng sinh dự phòng
(thuốc có thể giúp dự phòng các bệnh do vi khuẩn) cho các thành viên khác
trong gia đình để ngăn chặn sự lây lan của bệnh. Ngoài ra, những người khác
ngoài gia đình có tiếp xúc với người bị bệnh ho gà có thể được dùng kháng sinh
dự phòng tùy thuộc vào có hay không việc họ được coi là có nguy cơ bị bệnh
nghiêm trọng hoặc nếu họ có tiếp xúc thường xuyên với ai đó mà được cho là
có nguy cơ cao bị bệnh nghiêm trọng. Sẽ có bài riêng về sử dụng kháng sinh
dự phòng bệnh ho gà sau phơi nhiễm.
Trẻ nhỏ dưới 12 tháng tuổi có nhiều nguy cơ mắc các biến chứng nghiêm trọng

do bệnh ho gà. Mặc dù phụ nữ có thai không có nguy cơ gia tăng với bệnh


nghiêm trọng, nhưng những phụ nữ mang thai trong thời kỳ ba tháng cuối sẽ
được coi là có nguy cơ gia tang vì họ có thể khiến trẻ mới sinh của họ phơi
nhiễm với bệnh ho gà. Bạn cần thảo thuận có hay không cần dùng thuốc kháng
sinh dự phòng với bác sĩ, đặc biệt nếu có trẻ sơ sinh hoặc phụ nữ có thai trong
gia đình bạn hoặc bạn có kế hoạch tiếp xúc với một trẻ sơ sinh hoặc phụ nữ có
thai.
Vệ sinh
Cũng giống như nhiều bệnh về đường hô hấp, bệnh ho gà lây lan qua ho và hắt
hơi khi tiếp xúc gần gũi với người khác, sau đó họ hít phải vi khuẩn ho gà. Thực
hành vệ sinh tốt luôn được khuyến cáo để dự phòng sự lây lan của bệnh lý
đường hô hấp này:
– Che miệng và mũi bằng khan giấy khi ho và hắt hơi
– Bỏ khan giấy đã dùng vào thùng rác
– Nếu bạn không có khan giấy, thì ho hoặc hắt hơn vào tay áo trên hoặc khuỷu
tay của bạn, không ho hoặc hắt hơn vào bàn tay bạn
– Rửa bàn tay thường xuyên bằng xà phòng và nước trong tối thiểu 20 giây
– Nếu không có xà phòng và nước thì chà xát bàn tay bằng cồn.
ThS. BS. Lương Quốc Chính
Khoa Cấp cứu, Bệnh viện Bạch Mai



×