Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ sỹ quan chỉ huy ở đồn biên phòng trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (389.36 KB, 12 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

VŨ NGỌC HOẰNG

NÂNG CAO NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN
CHO ĐỘI NGŨ SĨ QUAN CHỈ HUY Ở ĐỒN BIÊN PHÒNG
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2004


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

VŨ NGỌC HOẰNG

NÂNG CAO NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN
CHO ĐỘI NGŨ SĨ QUAN CHỈ HUY Ở ĐỒN BIÊN PHÒNG
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Chuyên ngành: CNDVBC & CNDVLS
Mã số:
5.01.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. HỒ TRỌNG HOÀI


HÀ NỘI - 2004


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng
tôi dưới sự hướng dẫn của TS. Hồ Trọng Hoài. Các số liệu,
tài liệu nêu ra trong luận văn là trung thực, đảm bảo tính
khách quan, khoa học. Các tài liệu tham khảo có nguồn gốc
xuất xứ rõ ràng.

Hà Nội, ngày 01 tháng 11 năm 2004
Tác giả luận văn

Vũ Ngọc Hoằng

MỞ ĐẦU


1. Lý do chọn đề tài
Trong thời đại ngày nay tư duy, trí tuệ luôn là nguồn lực quý giá của con
người, của mỗi quốc gia, dân tộc. Năng lực và trình độ tư duy của loài người
ngày càng được tăng lên và ngày càng có vai trò to lớn, tác động đến mọi mặt
của đời sống xã hội, đem lại những thành tựu mới cho nền văn minh nhân loại.
Đối với nước ta hiện nay, vai trò của tư duy, trí tuệ lại càng quan trọng do
yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước, của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ
quốc theo tinh thần nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX. Bước vào thời
kỳ mới, cách mạng nước ta vừa đứng trước những thời cơ, vận hội lớn vừa phải
đối mặt với những nguy cơ, thách thức lớn không thể xem thường. Nắm bắt được
cơ hội, tận dụng mọi thời cơ, đẩy lùi nguy cơ, vượt qua mọi thử thách với tinh

thần cách mạng tiến công đưa cách mạng Việt nam tiến lên, đó là vấn đề có ý
nghĩa sống còn đối với dân tộc ta trong thời kỳ mới.
Nước ta có vị trí chiến lược quan trọng về kinh tế, chính trị, quốc phòng, an
ninh và đối ngoại v.v... Trên các tuyến biên giới, cả đất liền và biển - đảo đang diễn ra
xu thế hoà bình, hữu nghị, hợp tác nhưng vẫn còn chịu nhiều tác động, xâm nhập,
phá hoại của các loại đối tượng, các thế lực thù địch trong và ngoài nước. Chúng lợi
dụng đường lối đổi mới, mở cửa của Đảng và Nhà nước ta để thực hiện chiến lược
“diễn biến hoà bình” kết hợp với “bạo loạn lật đổ” nhằm xoá bỏ chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam. Tình hình trên, đang đặt ra yêu cầu mới cho sự nghiệp bảo vệ tổ quốc
xã hội chủ nghĩa và xây dựng quân đội nhân dân và công an nhân dân dân cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại.
Bộ đội Biên phòng là một thành phần của Quân đội nhân dân Việt Nam,
được giao nhiệm vụ nòng cốt, chuyên trách bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới
quốc gia, là lực lượng thành viên của khu vực phòng thủ của tỉnh, huyện biên giới.
Trong đó, đồn Biên phòng có vị trí đặc biệt quan trọng, là đơn vị cơ sở trực tiếp


thực hiện nhiệm vụ quản lý, bảo vệ, xây dựng biên giới của Tổ quốc ngày càng
vững mạnh.
Từ ngày thành lập đến nay, Bộ đội Biên phòng mà trực tiếp là các đồn
Biên phòng đã phấn đấu khắc phục nhiều khó khăn, chịu đựng nhiều gian khổ,
hoàn thành tốt nhiệm vụ quản lý, bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới, tham gia
thực hiện tốt các chương trình kinh tế - xã hội, góp phần to lớn trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tuy nhiên, trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay, bên cạnh những
thành tích to lớn đã đạt được, BĐBP đặc biệt là cấp đồn Biên phòng c òn bộc lộ
một số hạn chế, ảnh hưởng đến việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ của mình. Một
trong những hạn chế đó là năng lực tư duy lý luận của đội ngũ sĩ quan chỉ huy
đồn Biên phòng còn nhiều bất cập, đã ảnh hưởng đến nhận thức và hiệu quả thực
hiện nhiệm vụ. Đây là một trong những điểm yếu mà kẻ thù đang triệt để lợi

dụng, khoét sâu nhằm thực hiện chiến lược "Diễn biến hoà bình". Để góp phần
khắc phục mặt hạn chế, nâng cao sức mạnh chiến đấu của Bộ đội Biên phòng,
mà trước hết là đội ngũ sĩ quan chỉ huy đồn Biên phòng đáp ứng yêu cầu, nhiệm
vụ trong giai đoạn hiện nay, tác giả chọn đề tài: "Nâng cao năng lực tư duy lý
luận cho đội ngũ sĩ quan chỉ huy đồn Biên phòng trong giai đoạn hiện nay" thiết
nghĩ là một đề tài có ý nghĩa thiết thực cả về lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề tư duy từ lâu đã thu hút nhiều nhà lý luận nghiên cứu. Ở nước ta,
gần đây do yêu cầu thực tiễn đổi mới đất nước nhất là từ đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ VI (1986) đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu được công bố đề
cập khá toàn diện với những góc độ khác nhau, liên quan đến đề tài của luận văn,
phải kể đến những công trình sau:


- GS.TS. Nguyễn Ngọc Long: “Năng lực tư duy lý luận trong quá trình đổi
mới tư duy ”, Tạp chí Cộng sản, số 10 năm 1987.
- GS.TS. Lê Hữu Nghĩa: “Một số căn bệnh trong phương pháp tư duy của
cán bộ ta ”, Tạp chí Triết học, số 2 năm 1988.
- GS.TS Phạm ngọc Quang: "Yêu cầu mới về năng lực, trí tuệ của Đảng
trong giai đoạn hiện nay", Tạp chí Triết học, số 2 năm 1994.
- Hồ Văn Thông: "Một số vấn đề tư duy và đổi mới tư duy hiện nay" , Tạp
chí Cộng sản ,Tháng 10 năm 1987.
- Hồ Bá Thâm: "Nâng cao năng lực tư duy của đội ngũ cán bộ cấp xã hiện
nay" , Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995.
- Nguyễn Đình Trãi: Luận án tiến sỹ triết học: "Nâng cao năng lực tư duy lý
luận cho cán bộ giảng dạy lý luận Mác - Lênin ở các trường chính trị tỉnh" .
- Đào Văn Tiến: Luận án tiến sỹ khoa học quân sự: “Nâng cao năng lực tư
duy sáng tạo của đội ngũ sĩ quan cấp phân đội quân đội nhân dân Việt Nam hiện
nay ”.
- Dương Minh Đức: Luận văn thạc sỹ triết học: "Nâng cao năng lực tư duy

lý luận cho cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh trong giai đoạn hiện nay qua thực
tế tỉnh Bắc Giang ".
- Kiều Hồng Mai: luận văn thạc sỹ triết học: "Nâng cao năng lực tư duy lý
luận cho đội ngũ cán bộ cấp huyện trong tình hình hiện nay qua khảo sát tỉnh
Hà Tây ". v.v...
Tuy nhiên, vấn đề năng lực tư duy lý luận với tư cách là một phẩm chất
của người sĩ quan chỉ huy đồn Biên phòng trong lực lượng BĐBP hiện nay với
tư cách là một luận văn thạc sỹ triết học, thì chưa có một tác giả nào đi sâu
nghiên cứu. Hơn nữa, việc đánh giá thực trạng năng lực tư duy lý luận và đề ra
những giải pháp cụ thể nhằm nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ sĩ


quan chỉ huy đồn Biên phòng còn rất mới mẻ. Vì vậy, với đề tài luận văn này,
tác giả hy vọng sẽ góp phần nhỏ bé của mình vào công tác xây dựng và phát
triển đội ngũ cán bộ chỉ huy đồn Biên phòng trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
3.1. Mục đích của đề tài
Trên cơ sở đánh giá thực trạng năng lực tư duy lý luận của đội ngũ sĩ quan
chỉ huy ở đồn Biên phòng, luận văn đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm từng
bước nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ này nhằm đáp ứng yêu
cầu mới của sự nghiệp bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới của Tổ quốc.
3.2. Nhiệm vụ của đề tài
- Làm rõ năng lực tư duy lý luận, trên cơ sở đó phân tích vai trò của năng
lực tư duy lý luận đối với hoạt động lãnh đạo, chỉ huy của người sĩ quan ở các
đồn Biên phòng.
- Phân tích thực trạng năng lực tư duy lý luận của đội ngũ sĩ quan chỉ huy
ở các đồn Biên phòng từ năm 1996 đến nay và chỉ ra những nguyên nhân của
thực trạng đó.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực tư duy lý luận cho
đội ngũ sĩ quan chỉ huy ở đồn Biên phòng trong giai đoạn hiện nay.

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
Luận văn không nghiên cứu tất cả những sĩ quan Biên phòng và các phẩm
chất của người sĩ quan chỉ huy, mà chỉ nghiên cứu năng lực tư duy lý luận và vai
trò của năng lực tư duy lý luận đối với hoạt động lãnh đạo, chỉ huy của người sĩ
quan chỉ huy đồn Biên phòng, đó là các chức danh: Đồn trưởng và các phó đồn
trưởng đồn Biên phòng dưới góc độ triết học.
5. Cơ sở lý luận, nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu


- Luận văn vận dụng lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng ta về con
người, về năng lực tư duy lý luận của người cán bộ lãnh đạo nói chung và đội
ngũ sĩ quan trong quân đội nói riêng. Luận văn còn kế thừa kết quả nghiên cứu
của các tác giả đi trước về vấn đề này.
- Luận văn sử dụng các tài liệu của các cấp uỷ Đảng, Chính quyền và các
tài liệu liên quan đến đề tài của các cơ quan chức năng của Bộ tư lệnh BĐBP,
Học viện Biên phòng và kết quả khảo sát của tác giả ở các đồn Biên phòng.
- Để hoàn thành luận văn này, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên
cứu như phân tích và tổng hợp, lịch sử và lô gíc, cụ thể và trừu tượng, phương
pháp hệ thống, phương pháp điều tra xã hội học, phương pháp thống kê và các
phương pháp khác.
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho công tác giảng
dạy, nghiên cứu triết học ở các trường đại học, sĩ quan trong quân đội.
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc xây dựng,
hoạch định kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ sĩ quan chỉ huy ở các đồn Biên
phòng trong Bộ đội Biên phòng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo. Luận văn gồm
3 chương, 6 tiết.



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương (2003),Tài liệu học tập nghị quyết hội
nghị lần thứ Tám ban chấp hành Trung ương Đảng khoá X. Nxb Chính trị
quốc gia, Hà nội.

2.

Hoàng Chí Bảo (1989), “Từ tư duy kinh nghiệm tới tư duy lý luận”, Thông
tin lý luận, (6).

3.

Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng - Trường Đại học Biên phòng (2000). Giáo
trình Tổ chức chỉ huy bảo vệ biên giới.

4.

Nguyễn Đức Bình (1992), “Về công tác lý luận trong giai đoạn hiện nay”,
Tạp chí Cộng sản, (6).

5.

Vũ Đình Chuyên, Nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ lãnh đạo,
quản lý cấp huyện ở nước ta hiện nay qua thực tế tỉnh Kiên Giang , Luận
văn Thạc sĩ Triết học. Hà Nội.


6.

Đảng bộ quân đội, Đảng uỷ Bộ đội Biên phòng (2001), Văn kiện đại hội
đại biểu Đảng bộ Bộ đội Biên phòng lần thứ XI.

7.

Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.

8.

Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VII , Nxb Sự thật,.Hà Nội.

9.

Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc giữa
nhiệm kỳ khoá VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.

10.

Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII, Nxb Cính trị quốc gia, Hà Nội.

11.

Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.


12.

Vương Tất Đạt (1992), Lôgíc học, Đại học sư phạm Hà nội I.


13.

Dương Minh Đức (2001), Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ
cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh trong giai đoạn hiện nay (Qua thực tế
tỉnh Bắc Giang), Luận văn thạc sỹ triết học, Học viện CTQGHCM.

14.

Giáo trình triết học Mác-Lênin (1999), Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội.

15.

Kiều Hồng Mai (1998), Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cấp
huyện trong tình hình hiện nay qua khảo sát tỉnh Hà Tây, Luận văn thạc sĩ
triết học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG Hà Nội.

16.

Nguyễn Thế Kiệt (2001), Thực trạng tư duy lý luận của cán bộ lãnh đạo,
quản lý nước ta hiện nay. Trong sách học tập phong cách tư duy Hồ Chí
Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

17.

Đặng Xuân Kỳ (1987), “Vai trò của đổi mới tư duy”, Tạp chí Cộng sản, (8).


18.

V.I.Lênin (1975), Toàn tập, tập 6, Nxb Tiến bộ Matxcơva.

19.

V.I.Lênin (1979), Toàn tập, tập 9, Nxb Tiến bộ Matxcơva.

20.

V.I.Lênin (1980), Toàn tập, tập 18, Nxb Tiến bộ Matxcơva.

21.

V.I.Lênin (1980), Toàn tập, tập 20, Nxb Tiến bộ Matxcơva

22.

V.I.Lênin (1980), Toàn tập, tập 25, Nxb Tiến bộ Matxcơva.

23.

V.I.Lênin (1981), Toàn tập, tập 26, Nxb Tiến bộ Matxcơva.

24.

V.I.Lênin (1981), Toàn tập, tập 29, Nxb Tiến bộ Matxcơva.

25.


V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 39, Nxb Tiến bộ Matxcơva.

26.

V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ Matxcơva.

27.

Nguyễn Văn Linh (1987), Đổi mới tư duy và phong cách, Nxb Sự thật, Hà Nội.

28.

Nguyễn Ngọc Long (1987), “Năng lực tư duy lý luận trong quá trình đổi
mới tư duy”, Tạp chí Cộng sản, (10).

29.

C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.

30.

C.Mác-Ph.Ăng ghen (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.


31.

C.Mác- h.Ăng ghen (1994), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà

Nội.

32.

C.Mác-Ph.Ăng ghen (1994), Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.

33.

C.Mác-Ph.Ăng ghen (1993), Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.

34.

C.Mác-Ph.Ăng ghen (1996), Toàn tập, tập 29, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.

35.

Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

36.

Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

37.

Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

38.


Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

39.

Nghị quyết số 11/NQ-TW ngày 8/8/1995 của Bộ Chính trị (khoá VIII) về
xây dựng Bộ đội Biên phòng trong tình hình mới.

40.

Nghị quyết Bộ Chính trị về công tác lý luận trong giai đoạn hiện nay
(1992), Nxb Sự thật, Hà Nội.

41.

Lê Hữu Nghĩa (1988), “Một số căn bệnh trong phương pháp tư duy của cán
bộ ta”, Tạp chí Triết học, (2).

42.

Bùi Thanh Quất (1998), Giáo trình lôgíc hình thức, Trường Đại học Khoa
học Xã hội nhân văn.

43.

Đào Duy Quát (1991), “Đổi mới hoạt động lý luận trong giai đoạn hiện
nay”, Tạp chí Thông tin lý luận, (7).

44.


Phạm Ngọc Quang (1994), Yêu cầu đổi mới về năng lực trí tuệ của Đảng
trong giai đoạn hiện nay. Triết học (2).

45.

Hồ Bá Thâm (1995). Nâng cao năng lực tư duy của đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý chủ chốt cấp xã hiện nay, Nxb CTQG. Hà Nội.

46.

Hồ Văn Thông (1987), “Một số vấn đề tư duy và đổi mới tư duy hiện nay ở
nước ta”, Tạp chí Cộng sản, (10).


47.

Đào Văn Tiến ( 1988 ), Nâng cao năng lực tư duy sáng tạo của đội ngũ sĩ
quan cấp phân đội quân đội nhân dân Việt nam hiện nay, Luận án tiến sỹ
Khoa học quân sự, Học viện Chính trị Quân sự .

48.

Trần Hữu Tiến (1990), “Công tác tổng kết thực tiễn trong điều kiện đổi
mới”, Tạp chí Cộng sản, (7).

49.

Lại Văn Toàn (1988), “Đổi mới tư duy lý luận trong sự nghiệp đổi mới”,
Tạp chí Triết học, (1).


50.

Từ điển triết học (1976), Nxb Sự thật, Hà Nội.

51.

Từ điển tiếng Việt (2000), Nxb Đà Nẵng.



×