Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

LUẬN VĂN: Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh trong giai đoạn hiện nay pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.65 MB, 100 trang )












LUẬN VĂN:
Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho
cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh trong
giai đoạn hiện nay







Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh là vấn
đề có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, vừa cấp bách vừa lâu dài. Bởi lẽ, năng lực tư duy lý
luận là cơ sở quan trọng để cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh hoạch định đường lối, chủ trương,
chỉ đạo hoạt động thực tiễn.
Đường lối, chủ trương của Đảng là đường lối chung, khái quát ở tầm vĩ mô, khi
triển khai ở các địa phương đặc biệt là ở cấp tỉnh đòi hỏi một sự năng động, sáng tạo thì
kết quả mới cao. Để đáp ứng được yêu cầu đó, những cán bộ lãnh đạo chủ cốt của tỉnh


phải có trình độ tư duy lý luận mới đáp ứng được đòi hỏi của nhiệm vụ trong giai đoạn
hiện nay.
Sẽ là sai lầm khi cho rằng, ở địa phương chỉ là nơi triển khai nghị quyết của
Trung ương, nên yêu cầu về năng lực tư duy lý luận không cao. Thực ra, việc triển khai
nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ở địa phương đòi hỏi một sự
năng động sáng tạo lớn ở đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt. Hơn nữa, công cuộc đổi
mới của Đảng ta đã thu được những thành tựu quan trọng nhưng đồng thời đã và đang
đặt ra nhiều vấn đề gay gắt. Chính ở các địa phương là nơi nảy sinh những mâu thuẫn,
những vấn đề mới rất cần được giải quyết và khái quát cho nên năng lực tư duy lý luận có
ý nghĩa hết sức to lớn đối với cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh.
Theo chúng tôi, cấp tỉnh là cấp có đủ các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, an
ninh, quốc phòng, văn hóa, giáo dục để chúng ta nghiên cứu, thể nghiệm, đề xuất
những vấn đề thuộc về đường lối chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước.

Thực tiễn 15 năm đổi mới vừa qua cho thấy, các cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp
tỉnh đã năng động trong triển khai nghị quyết của Trung ương, song đó mới là những
giải pháp trước mắt chưa mang tính chiến lược lâu dài. Nhiều cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh
vẫn thụ động chờ sự chỉ đạo của cấp trên, chưa dám mạnh dạn đề xuất những biện pháp
mới phù hợp với địa phương, vì thế nhiều vấn đề thực tiễn nảy sinh chưa được giải quyết
kịp thời Tình hình ấy phải chăng phản ánh năng lực tư duy lý luận của cán bộ lãnh
đạo chủ chốt cấp tỉnh chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu của tình hình?
Vấn đề này đã và đang thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Với
mong muốn được đóng góp phần nào vào việc nghiên cứu vấn đề này, tôi chọn đề tài:
"Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh trong giai
đoạn hiện nay (Qua thực tế tỉnh Bắc Giang" làm luận văn thạc sĩ khoa học triết học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề trình độ lý luận và năng lực tư duy lý luận của người cán bộ lãnh đạo đã
thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học. Cho đến nay đã có nhiều công
trình được công bố với những mức độ thể hiện khác nhau trong đó có những công trình
có liên quan trực tiếp đến đề tài như: "Yêu cầu mới về năng lực, trí tuệ của Đảng trong

giai đoạn hiện nay" của GS.TS Phạm Ngọc Quang, Tạp chí Triết học, Số 2-1994; Hồ
Bá Thâm: "Nâng cao năng lực tư duy của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã hiện nay",
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995; "Nâng cao năng lực tư duy lý luận của
đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện ở nước ta hiện nay qua thực tế tỉnh Kiên
Giang" luận văn thạc sĩ triết học của Vũ Đình Chuyên; "Năng lực tư duy lý luận trong
quá trình đổi mới tư duy" của GS.TS Nguyễn Ngọc Long, Tạp chí Cộng sản, Số 10-
1987; "Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của năng lực trí tuệ và lý luận" của PGS Trần
Đình Huỳnh, Tạp chí Xây dựng Đảng, Số 2-1995; "Nâng cao năng lực tư duy lý luận
cho cán bộ giảng dạy lý luận Mác - Lênin ở các trường Chính trị tỉnh" luận án tiến sĩ
triết học của Nguyễn Đình Trãi

Cùng với những công trình nghiên cứu chuyên sâu về trình độ tư duy, năng lực
tư duy của cán bộ, đảng viên còn có những bài viết, những công trình nghiên cứu đánh
giá về những hạn chế, yếu kém về tư duy lý luận của cán bộ, đảng viên, chẳng hạn như:
"Chống chủ nghĩa chủ quan duy ý chí, khắc phục bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa và bệnh
giáo điều trong quá trình đổi mới"; "Mấy vấn đề về đổi mới tư duy", Học viện Nguyễn
ái Quốc, Hà Nội, 1988; "Một số căn bệnh trong phương pháp tư duy của cán bộ ta",
Tạp chí Triết học, số 2-1988
Tuy nhiên, việc nghiên cứu về năng lực tư duy lý luận như một phẩm chất tư duy
của người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh trong giai đoạn hiện nay với tư cách là một
luận văn thạc sĩ khoa học triết học thì chưa có tác giả nào đi sâu nghiên cứu. Vì vậy, việc
chọn nghiên cứu đề tài này mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn, nhằm góp phần vào công
tác cán bộ trong sự nghiệp đổi mới hiện nay ở tỉnh Bắc Giang nói riêng và trong cả
nước nói chung.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn: Trên cơ sở làm rõ vai trò của năng lực tư duy lý luận
đối với hoạt động lãnh đạo của người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh và thực trạng
năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ này (qua thực tế Bắc Giang), đề xuất một số
phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm từng bước nâng cao năng lực tư duy lý luận
cho họ.

Nhiệm vụ của luận văn:
- Làm rõ vai trò năng lực tư duy lý luận đối với hoạt động lãnh đạo của người
cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh và những yêu cầu nâng cao năng lực tư duy lý luận
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa (qua thực tế Bắc Giang).

- Phân tích thực trạng năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ
chốt cấp tỉnh từ năm 1986 đến nay và những nguyên nhân của thực trạng đó.
- Đề xuất một số phương hướng và những giải pháp chủ yếu để từng bước nâng
cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh hiện nay.
4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
Luận văn không nghiên cứu tất cả những đối tượng cán bộ lãnh đạo, cũng
không nghiên cứu tất cả các phẩm chất của người cán bộ lãnh đạo theo yêu cầu của sự
nghiệp đổi mới, mà chỉ nghiên cứu về năng lực tư duy lý luận và vai trò của nó với hoạt
động của người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh (qua thực tế Bắc Giang).
Cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh là toàn bộ Ban chấp hành tỉnh Đảng bộ.
Luận văn không nghiên cứu về người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh như là
đối tượng của khoa học xây dựng Đảng, cũng không nghiên cứu về năng lực tư duy với
tư cách là đối tượng của tâm lý học; mà nghiên cứu năng lực tư duy lý luận với tư cách
là một phẩm chất của tư duy dưới góc độ nhận thức luận theo lập trường của chủ nghĩa
duy vật biện chứng mácxít.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng lý luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm của Đảng ta về con người, về trình độ
tư duy lý luận và năng lực tư duy lý luận của người cán bộ lãnh đạo nói chung và cán bộ
lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh nói riêng. Luận văn kế thừa các tác giả đi trước về vấn đề
này.

Luận văn sử dụng các phương pháp lịch sử và lôgíc, trừu tượng và cụ thể, phân
tích và tổng hợp, điều tra, thống kê
Luận văn còn sử dụng những tài liệu của các cấp ủy Đảng và chính quyền ở tỉnh

Bắc Giang
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn bước đầu xác định được những phẩm chất tối thiểu thuộc về năng lực
tư duy lý luận - một năng lực cơ bản trong năng lực của người cán bộ lãnh đạo chủ chốt
cấp tỉnh; làm rõ vai trò của năng lực tư duy lý luận đối với hoạt động của người cán bộ
lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh.
Đồng thời, luận văn cũng đã vạch ra được thực trạng năng lực tư duy lý luận
của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh (qua thực tế Bắc Giang), trên cơ sở đó,
luận văn đề xuất một số phương hướng và giải pháp chủ yếu để phát huy và từng bước
nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ này.
7. ý nghĩa của luận văn
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc xây dựng, hoạch định chiến
lược, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ
lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh Bắc Giang.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo để giảng dạy, học tập triết học nói
chung và phần lý luận nhận thức nói riêng.
8. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn
gồm 2 chương, 5 tiết.

Chương 1
Năng lực tư duy lý luận
và vai trò của nó đối với hoạt động lãnh đạo
của người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh
1.1. Năng lực tư duy lý luận
1.1.1. Bản chất tư duy lý luận
Để xác định được nội dung của phạm trù năng lực tư duy lý luận, trên cơ sở ấy
mà nhận rõ vai trò của nó cũng như nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ
lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh, trước hết cần làm rõ nội dung khái niệm tư duy.

Để hiểu khái niệm tư duy, một mặt chúng ta phân biệt nó với "ý thức" và "nhận
thức" vì chúng là những khái niệm có mối liên hệ mật thiết, thống nhất hữu cơ với nhau.
Mặt khác, chúng ta nghiên cứu tư duy như một phạm trù có tính lịch sử.
Theo Mác, ý thức chỉ là vật chất được di chuyển vào trong bộ óc người và được
cải biến đi ở trong đó [41, tr. 35]. Còn Lênin thì cho rằng ý thức là hình ảnh chủ quan
của thế giới khách quan [24, tr. 138]. Nói ý thức là hình ảnh chủ quan là theo nghĩa sự phản
ánh thế giới bởi bộ óc người gắn liền với hoạt động khái quát hóa, trừu tượng hóa, có định
hướng, có lựa chọn, nhằm tạo ra những hình ảnh sâu sắc và nhiều mặt về thế giới khách
quan. Tuy là hình ảnh chủ quan nhưng ý thức lại lấy thế giới khách quan (các sự vật, hiện
tượng, quá trình ) làm tiền đề, bị chế định bởi "cái khách quan" và có nội dung phản

ánh là "cái khách quan" ấy. Cố nhiên, không phải chỉ cần thế giới xung quanh tác động
lên bộ óc con người là mặc nhiên sinh ra ý thức. Bởi vì, ý thức là một hiện tượng xã hội, "
ngay từ đầu ý thức đã là một sản phẩm xã hội, và vẫn là như vậy chừng nào con người
còn tồn tại" [39, tr. 43]. Sự ra đời, tồn tại của ý thức gắn liền với hoạt động thực tiễn của
con người, chịu sự chi phối không chỉ của các quy luật sinh học mà chủ yếu của các quy
luật xã hội, do nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt hiện thực của con
người quy định. ý thức có kết cấu phức tạp, bao gồm nhiều yếu tố như tri thức, tình
cảm, niềm tin, ý chí trong đó, tri thức là thành tố quan trọng nhất. Quá trình hình
thành và phát triển ý thức cũng chính là quá trình con người tìm hiểu, tích lũy tri thức về
thế giới xung quanh. Hiểu biết về sự vật càng nhiều thì ý thức của con người về sự vật
đó càng sâu sắc.
Tóm lại, ý thức là hình thức phản ánh riêng có ở con người, khác về chất so với
phản ánh tâm lý ở động vật. ý thức là toàn bộ các quá trình tâm lý tích cực tham gia vào
sự hiểu biết của con người đối với thế giới khách quan [63, tr. 711].
Nhận thức - theo lý luận nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng - là quá
trình phản ánh tích cực và sáng tạo hiện thực khách quan bởi con người trên cơ sở của
thực tiễn lịch sử - xã hội. Nhận thức cũng là sự phản ánh hiện thực khách quan bởi bộ
óc của con người. Nhưng sự phản ánh đó không phải là một hành động nhất thời, máy
móc giản đơn, thụ động mà là một quá trình phức tạp của hàng loạt hoạt động trí tuệ

tích cực và sáng tạo. Bởi vì, " con người không chỉ phản ánh thế giới khách quan mà
còn tạo ra thế giới khách quan" [28, tr. 228].
Nhận thức, tuy cũng là sự phản ánh hiện thực khách quan bởi bộ óc con người
nhưng khác với ý thức và hoàn toàn khác với hành vi phản ánh ở động vật về chất.
Nhận thức của con người là quá trình phản ánh hiện thực khách quan một cách
tích cực và sáng tạo là nhờ có hoạt động thực tiễn.

Theo Lênin, nhận thức là một quá trình "từ trực quan sinh động đến tư duy trừu
tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn - đó là con đường biện chứng của sự nhận
thức chân lý, của sự nhận thức hiện thực khách quan [28, tr. 179]. Nhận thức là một quá
trình biện chứng, quá trình ấy bao gồm hai giai đoạn là nhận thức cảm tính và nhận thức
lý tính. Tuy khác nhau về chất nhưng nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính có sự
thống nhất hữu cơ, tác động biện chứng với nhau. Chúng bổ sung, hỗ trợ cho nhau, đem
lại cho con người những hiểu biết ngày càng đầy đủ hơn, toàn diện hơn và sâu sắc hơn
về các sự vật, hiện tượng, quá trình trong thế giới.
Tóm lại, nhận thức là quá trình phản ánh và tái tạo lại hiện thực trong đầu óc
của con người, được quyết định bởi những quy luật phát triển xã hội và gắn liền với
hoạt động thực tiễn [72, tr. 407].
Vậy tư duy khác gì với nhận thức?
Tư duy không phải là hệ ý thức mà là hình thức cao của sự phản ánh tích cực
thực tại khách quan của con người [72, tr. 634].
Đó là hoạt động phản ánh ở giai đoạn cao nhất của nhận thức. Nếu chỉ bằng
cảm giác, tri giác thì nhận thức của con người rất hạn chế, bởi vì con người không thể
bằng cảm giác mà nhận thức, mà hiểu được những vấn đề như tốc độ ánh sáng, âm
thanh hay những hiện tượng xã hội phức tạp khác Muốn hiểu được những vấn đề đó
không thể có gì thay thế ngoài việc sử dụng sức mạnh của tư duy.
Tư duy là sự phản ánh khái quát và gián tiếp hiện thực khách quan. Đó là quá
trình năng động, sáng tạo, nó có thể phản ánh được những mối liên hệ bản chất, tất
nhiên bên trong của sự vật, đem lại cho nhận thức khoa học những tri thức mới về tính
quy luật chi phối sự vận động và phát triển của sự vật.


Tư duy phải gắn liền với ngôn ngữ, ngôn ngữ là cái vỏ vật chất của tư duy, tư
duy phải được biểu đạt thành ngôn ngữ, nhờ đó mà con người có thể sáng tạo ra những
khái niệm và những phạm trù khoa học, nêu lên những quy luật của các khoa học và do
đó hiểu sâu sắc hơn bản chất của các sự vật. Nếu không có ngôn ngữ sẽ không có
phương tiện để tư duy và tư tưởng của loài người không thể lưu giữ kế thừa và phát
triển được.
Chủ nghĩa duy tâm cho rằng, tư duy là sản vật của bản nguyên siêu tự nhiên,
độc lập, không phụ thuộc vào vật chất, đó là "ý niệm tuyệt đối", "ý niệm siêu nhiên"
song, sự phát triển của khoa học đã bác bỏ những quan điểm đó và đã chứng minh được
rằng tư duy là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người. Hoạt
động của bộ óc người phản ánh hiện thực khách quan bằng các hình thức khái niệm,
phán đoán, suy lý thông qua các phương pháp như so sánh, phân tích, tổng hợp, trừu
tượng hóa, khái quát hóa. Như vậy, xét về thực chất, tư duy là sự hoạt động đặc biệt của
quá trình con người phản ánh thế giới, là quá trình phản ánh dựa trên sự hoạt động của
bộ não nhằm nhận thức bản chất, quy luật vận động của thực tại khách quan và định
hướng quan hệ đối với thực tại khách quan đó. Những quy luật của tư duy là sự phản
ánh các quy luật của thực tại khách quan. Những hình ảnh của sự vật trong thế giới, từ
những hình ảnh trực tiếp, nguyên vẹn của cảm giác được tư duy chắt lọc loại bỏ những
mặt, những yếu tố bề ngoài ngẫu nhiên trên cơ sở sáng tạo mà tìm ra những mặt cơ bản,
tất yếu, những quan hệ bản chất, bền vững. Từ đó hình thành nên những khái niệm,
phạm trù tương ứng với các mặt, các quan hệ tất yếu của chúng; dựa vào đó mà xây
dựng nên hình ảnh mới, những quy luật khái quát xu hướng vận động và phát triển của
các sự vật. Với ý nghĩa đó, tư duy chỉ có ở con người và là trình độ cao nhất của nhận
thức con người trong quá trình phản ánh thế giới khách quan. Nhưng đó không phải là
sự phản ánh thụ động, phụ thuộc mà con người chủ động tác động vào thế giới và phản
ánh chủ động sáng tạo.

Để có thể tác động, biến đổi hiện thực, trước tiên con người phải tìm cách nhận
thức và hiểu biết về nó. Hoạt động tác động, biến đổi hiện thực lại là cơ sở cho nhận

thức, tư duy mang tính sáng tạo và phát triển không ngừng. Bởi vì, xuất phát từ hoạt
động làm biến đổi hiện thực đó mà các sự vật, hiện tượng trong thế giới hiện thực bộc lộ
các thuộc tính, tính chất Trên cơ sở đó con người mới hiểu biết về sự vật, hiện tượng.
Đây là quá trình không có giới hạn cuối cùng của hoạt động nhận thức của con người.
Hơn nữa, hoạt động của tư duy còn là hoạt động vận dụng, sử dụng, kết hợp các khái
niệm để sáng tạo ra các khái niệm mới, phản ánh các quan hệ tất yếu, các quy luật vận
động, phát triển của thế giới khách quan. Đồng thời, hoạt động của tư duy cũng là quá
trình vận dụng tri thức thu được vào hoạt động thực tiễn của con người, làm cho hoạt
động đó phát triển, từ đó mà tư duy lý luận cũng không ngừng phát triển. Chính vì thế,
cả nội dung và hình thức của tư duy đều phụ thuộc vào thực tiễn lịch sử - xã hội. Lịch
sử không phải bắt đầu từ tư duy mà là từ hoạt động thực tiễn của con người. Trong đó,
hoạt động lao động sản xuất của cải vật chất tạo ra nền tảng cho sự tồn tại và phát triển
của xã hội là hoạt động cơ bản nhất. Hoạt động này càng phát triển thì tư duy, trí tuệ của
con người cũng càng phát triển theo. Ăngghen đã nhận định rằng: "Trí tuệ con người đã
phát triển song song với việc người ta đã học cải biến tự nhiên" [40, tr. 720].
Như vậy, thông qua hoạt động thực tiễn của mình, con người đã chủ động nhận
thức và cải tạo thế giới. Tư duy của con người là do hiện thực khách quan quy định;
nhưng chính hoạt động thực tiễn của con người lại là cơ sở, động lực cơ bản cho sự xuất
hiện và phát triển của tư duy, thực tiễn cũng là tiêu chuẩn để kiểm tra, điều chỉnh quá
trình tư duy, xác nhận cho tính đúng đắn của tư duy, loại bỏ những sai lầm, tạo sự phát
triển liên tục của tư duy con người.
Tư duy của con người luôn mang tính sáng tạo, hoạt động của tư duy luôn vươn
tới những nhận thức mới thông qua hoạt động thực tiễn và nhận thức. Hoạt động thực
tiễn là cơ sở, động lực của tư duy. Do vậy, khi hoạt động thực tiễn còn ở một trình độ

thấp thì ứng với nó là cấp độ tư duy ở trình độ thấp. Khi hoạt động thực tiễn đạt đến
trình độ cao hơn thì phương pháp tư duy, trình độ tư duy cũng được nâng lên.
Như vậy, tư duy là trình độ cao của quá trình nhận thức nảy sinh trên cơ sở
nhận thức cảm tính. Đó là trình độ phản ánh khái quát hóa, trừu tượng hóa, mang tính
tích cực sáng tạo, hướng sâu vào nhận thức bản chất, quy luật vận động và phát triển

của thế giới khách quan.
Tư duy là quá trình suy nghĩ, tìm tòi, vận dụng kết hợp các khái niệm, phạm trù
theo các nguyên tắc, quy luật lôgíc hình thức và lôgíc biện chứng nhằm đạt đến chân lý.
Tư duy là quá trình sáng tạo lại hiện thực dưới dạng tinh thần, là sự tìm tòi đề
xuất những nhận thức mới và không ngừng bổ sung phát triển các nhận thức đó trên cơ
sở hoạt động thực tiễn của con người.
ở trình độ tư duy, sự vật được phản ánh khái quát trong các hình thức khái
niệm, phán đoán, suy lý. Tư duy luôn gắn liền với ngôn ngữ, ngôn ngữ là cái vỏ vật chất
của tư duy, tư duy phải được diễn đạt thành ngôn ngữ bởi vì đó là hiện thực trực tiếp của
tư tưởng, là phương tiện để diễn đạt kết quả của sự nhận thức, để lưu giữ và tiếp tục phát
triển kết quả của nhận thức đó.
Tư duy xuất hiện, biến đổi và phát triển trong quá trình hoạt động thực tiễn của
con người. Thực tiễn là cơ sở, động lực và là tiêu chuẩn kiểm tra sự đúng, sai của tư
duy. Mục đích của tư duy hướng tới là để phục vụ cho thực tiễn; chính quá trình tư duy
sẽ tìm ra những biện pháp, cách thức để hiện thực hóa mình thông qua hoạt động thực
tiễn của con người.

Tư duy là sản phẩm của lịch sử. Trong những thời đại khác nhau, với những
điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa, khoa học khác nhau, thì trình độ của tư
duy xét cả về nội dung và hình thức cũng ở mức cao, thấp khác nhau.
Tư duy của con người không phải là bất biến mà nó cũng có quá trình biến đổi và
phát triển ngày càng đạt được trình độ cao hơn. Khi xem xét tư duy như một quá trình,
một bản tính phát triển chung của con người thực tiễn xã hội, tư duy thể hiện ra khuynh
hướng phát triển tất yếu của nó. Tư duy con người theo Ăngghen vừa tối cao vừa không
tối cao. Xét theo sự thực hiện cá biệt - chủ thể cụ thể của tư duy thì nó không tối cao và
có hạn. Xét theo bản tính và khả năng thì tư duy của con người là tối cao và vô hạn.
Lênin khi đề cập về khả năng nhận thức của con người đã cho rằng, chỉ có những cái
con người chưa biết chứ không có những cái mà con người không thể biết.
Tư duy là vấn đề mấu chốt trong hoạt động nhận thức hoạt động của con người
cũng phải dựa trên cơ sở của tư duy. Tùy thuộc vào trình độ tư duy và năng lực tư duy

mà đạt tới những kết quả nhất định trong mỗi hoàn cảnh cụ thể. Nhìn chung, trình độ tư
duy được xem xét ở các cấp độ như tư duy kinh nghiệm và tư duy lý luận. Tư duy kinh
nghiệm có đối tượng là những khách thể hiện thực tồn tại trong không gian thời gian với sự
thống nhất giữa chung và riêng, đặc thù và phổ biến Tư duy kinh nghiệm mang tính
chất tác động trực tiếp cải biến khách thể hiện thực; thiên về phản ánh các hiện tượng,
nặng về mô tả các sự kiện. Tư duy lý luận có đối tượng là những khách thể trừu tượng,
những hình ảnh, khái niệm phạm trù. Bởi thế, tư duy lý luận mang tính chất tác động gián
tiếp đối với khách thể hiện thực, nặng về sự định hướng. ở trình độ phản ánh thì tư duy lý
luận phản ánh sâu sắc hơn bản chất của sự vật, hiện tượng. Nếu tư duy kinh nghiệm chỉ
mới dừng lại ở việc mô tả những đặc điểm, những mối liên hệ bên ngoài của các sự vật
hiện tượng thì tư duy lý luận đi sâu phản ánh các thuộc tính, mối liên hệ có tính bản chất,
tất yếu, tính quy luật của chúng. Khác với tư duy kinh nghiệm, tư duy lý luận có khả năng
phê phán rất sâu sắc và triệt để. Tư duy lý luận cũng có khả năng dự báo khoa học về xu
hướng vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Vì vậy, nó đóng vai trò rất quan

trọng trong sự phát triển của khoa học cũng như thực tiễn xã hội. Tư duy lý luận cũng
chính là biểu hiện trình độ phát triển cao của năng lực tư duy lý luận.
Từ những điều trình bày trên đây, chúng ta thấy: ý thức, nhận thức, tư duy là
những khái niệm có sự thống nhất hữu cơ với nhau; chúng đều là sự phản ánh hiện thực
khách quan bởi bộ óc người, cùng bị chi phối bởi những quy luật sinh học và xã hội
trong đó các quy luật xã hội giữ vai trò quyết định. Nhưng chúng không phải là những
khái niệm đồng nhất.
Trong mối quan hệ nội tại giữa ý thức, nhận thức và tư duy, cần thấy rằng, ý
thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc người, nó là phạm trù đối lập với
vật chất. Nhận thức là quá trình phản ánh đó. Tư duy là trình độ cao của nhận thức. Như
thế, nhận thức, tư duy đều là quá trình hoạt động để mang lại tri thức về sự vật. Tư duy
cũng thuộc hoạt động nhận thức nhưng là giai đoạn cao của quá trình nhận thức. Nhận
thức là quá trình phản ánh hiện thực khách quan bởi con người trên cơ sở hoạt động
thực tiễn. Nói đến tư duy lý luận là nói đến tư duy ở trình độ khái quát hóa, trừu tượng
hóa, phản ánh gián tiếp nhưng sâu sắc về mối liên hệ bản chất, tính tất yếu, tính quy luật

của sự vật, hiện tượng.
1.1.2. Năng lực tư duy lý luận và những yếu tố ảnh hưởng đến nó
Năng lực tư duy lý luận là một trong những phạm trù quan trọng của nhận thức
luận. Đã có những công trình, những bài viết đề cập đến bản chất, cấu trúc và vai trò
của năng lực tư duy lý luận hướng tới việc làm sâu sắc thêm lý luận nhận thức và làm
cơ sở lý luận cho việc nâng cao năng lực tư duy lý luận cho con người Việt Nam hiện
nay. Khi bàn về khái niệm năng lực tư duy, có ý kiến cho rằng, "năng lực tư duy là tổng
hợp những phẩm chất trí tuệ đáp ứng yêu cầu nhận thức thế giới và bảo đảm cho hành
động sáng tạo của con người". Năng lực đó "được biểu hiện ở khuynh hướng nhận thức
và hành động, ở kết quả xử lý thông tin và nhất là kết quả hoạt động. Phương pháp tiếp

cận vấn đề khác nhau chính là biểu hiện trình độ khác nhau của năng lực tư duy" [34, tr.
26]. Trong quan điểm trên, vấn đề trung tâm, bản chất của năng lực tư duy là tổng hợp
những phẩm chất trí tuệ và trên cơ sở phẩm chất trí tuệ mới có hành động sáng tạo.
Tác giả Hồ Bá Thâm trong sách "Nâng cao năng lực tư duy cho đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp xã" xem năng lực tư duy là "khả năng hiển thị tri thức thành phương pháp
và sử dụng thành thạo chúng để tiếp tục nhận thức tìm ra bản chất, quy luật, xu hướng
tất yếu của sự vật và vận dụng đúng đắn các quy luật đó trong cuộc sống. Khả năng ấy
được cụ thể: "Năng lực tư duy là tổng hợp những khả năng ghi nhớ, tái hiện trừu tượng
hóa, khái quát hóa, liên tưởng, luận giải và xử lý trong quá trình phản ánh, phát triển tri
thức và vận dụng chúng vào thực tiễn trên cơ sở quy luật khách quan mang lại những
kết quả nhất định" [66, tr. 13-15]. Tác giả cũng đã đề cập đến ba yếu tố cơ bản cấu
thành năng lực tư duy trong sự phân biệt với năng lực cảm giác đó là: a) Năng lực ghi
nhớ, tái hiện những hình ảnh bằng ngôn ngữ khái niệm, hình ảnh, do nhận thức cảm tính
đem lại; b) Năng lực trừu tượng hóa, khái quát hóa trong phân tích và tổng hợp; c) Năng
lực tưởng tượng suy luận, liên tưởng để nhận biết, phát triển, lựa chọn xử lý trong nhận
thức và hành động.
Như đã trình bày ở phần trên, tư duy là một quá trình nhận thức ở trình độ cao,
phản ánh những thuộc tính bản chất, những mối liên hệ có tính quy luật của đối tượng
mà trước đó chưa biết. Tư duy bao giờ cũng mang tính khái quát và tính gián tiếp. Với

những đặc trưng đó, quá trình hoạt động của tư duy phải dựa trên những phương pháp
khác nhau và phải tuân theo một trật tự lôgic nhất định. Những phương pháp đó là phân
tích, tổng hợp, so sánh, trừu tượng hóa, khái quát hóa Trong quá trình hoạt động của
tư duy, những phương pháp ấy không nhất thiết phải được kết hợp với nhau một cách
tuần tự mà có thể chúng đồng thời được tiến hành trong sự tương hỗ lẫn nhau giữa các
phương pháp. Bởi vì, mỗi phương pháp tuy có nội dung tác dụng khác nhau nhưng lại
quan hệ chặt chẽ với các phương pháp khác. Phương pháp này là điều kiện, tiền đề để

phương pháp khác phát huy hiệu quả. Chẳng hạn khi phân tích, tổng hợp các thuộc tính
của sự vật thì đòi hỏi phải có trừu tượng hóa để tách cái chung khỏi cái riêng v.v
Tuy nhiên, mỗi phương pháp khi được tiến hành theo những cách thức đặc
trưng của nó thì cũng được xem là một thao tác của quá trình tư duy. Như vậy, quá trình
tư duy được tiến hành trong sự huy động sức mạnh của mỗi phương pháp tư duy và sự
kết hợp các phương pháp ấy theo một trật tự lôgic phù hợp với lôgíc vốn có của đối
tượng nhận thức.
Quá trình tư duy được thể hiện ở các hình thức như khái niệm, phán đoán, suy
lý. Những hình thức này quan hệ mật thiết với nhau và giữ vai trò quan trọng trong tư
duy khoa học. Chính vì thế, năng lực tư duy còn thể hiện ở năng lực lựa chọn các vấn đề
có liên quan để liên kết các hình thức tư duy mà tìm ra các kết luận nhất định. Chẳng
hạn, năng lực lựa chọn các khái niệm để hình thành một phán đoán đúng và liên kết các
phán đoán để có suy lý đúng nhằm phát hiện khái niệm mới. Như vậy, năng lực tư duy
bao gồm cả năng lực lựa chọn, sắp xếp, kết hợp các phương pháp, hình thức tư duy và
khả năng sử dụng thành thạo, nhuần nhuyễn mỗi phương pháp, mỗi hình thức tư duy
theo những cách thức, tác dụng riêng của nó cho phù hợp với tính quy định khách quan
của các đối tượng nhận thức.
Năng lực tư duy là khả năng sử dụng một cách thành thạo, nhuần nhuyễn cả nội
dung và phương pháp của tư duy để phát hiện vấn đề và xây dựng được những phương
án tối ưu để giải quyết vấn đề đó.
Năng lực tư duy thường được tiếp cận ở các kiểu: Năng lực tư duy thực hành,
năng lực tư duy hình tượng và năng lực tư duy lý luận Xét theo cấp độ phát triển của

năng lực tư duy có thể phân ra thành năng lực tư duy kinh nghiệm và năng lực tư duy lý
luận. Năng lực tư duy lý luận khác với năng lực tư duy kinh nghiệm. Năng lực tư duy lý
luận là khả năng tư duy về những vấn đề chung, tổng thể, toàn vẹn, nắm bắt đối tượng

trong tính chỉnh thể của sự tồn tại, vận động và phát triển. Đó là khả năng tư duy khoa
học, sáng tạo trong sử dụng các khái niệm phạm trù để phân tích, so sánh, tổng hợp,
trừu tượng hóa, khái quát hóa đem lại những tri thức mang tính chính xác, sâu sắc, chặt
chẽ, lôgíc và hệ thống, phù hợp với tính quy luật khách quan của hiện thực. Hơn nữa,
năng lực tư duy lý luận còn có sức mạnh đưa lý luận vào cuộc sống, cụ thể hóa lý luận
thành mục tiêu, phương hướng, giải pháp cụ thể để giải quyết các vấn đề của cuộc sống có
hiệu quả cao. Như vậy, năng lực tư duy lý luận còn được thể hiện ở khả năng xác lập tri
thức, khả năng xác lập quan hệ giữa các tri thức và khả năng đối tượng hóa tri thức.
Năng lực tư duy lý luận và trình độ tư duy lý luận là những phạm trù dùng để
chỉ những mặt của quá trình hoạt động thống nhất của tư duy. Trình độ tư duy là trình
độ trừu tượng hóa, khái quát hóa trong phân tích và tổng hợp, là trình độ tưởng tượng,
phán đoán, suy lý để liên tưởng và phát hiện, khám phá lựa chọn, xử lý trong nhận thức
và hành động. Còn năng lực tư duy là bản thân sự trừu tượng hóa, khái quát hóa, liên
tưởng, luận giải Như vậy, trình độ tư duy gần với kết quả của quá trình rèn luyện năng
lực tư duy. Vì thế, có thể hiểu trình độ tư duy như là cấp độ của khả năng hoạt động
nhạy bén của các yếu tố cấu thành năng lực tư duy và khả năng liên kết sử dụng các yếu
tố đó như là những phương pháp tư duy khoa học. Tuy vậy, sự phân biệt năng lực tư
duy và trình độ tư duy chỉ là tương đối. Năng lực tư duy nào thì thể hiện một trình độ tư
duy như thế ấy. Trình độ tư duy là mức độ đạt được về nội dung và phương pháp tư
duy. Để đạt đến trình độ tư duy lý luận cao đòi hỏi phải không ngừng phấn đấu nâng
cao năng lực tư duy lý luận. Từ những phân tích ở trên có thể xem, năng lực tư duy lý
luận là tổng hợp các phẩm chất trí tuệ của chủ thể đáp ứng yêu cầu phát hiện, nhận
thức nhanh, nhạy, đúng đắn đối với hiện thực ở trình độ lý luận, nhờ vậy, có những đề
xuất sắc bén, sáng tạo, thiết thực góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động nhận thức và
hoạt động thực tiễn của con người.
Năng lực tư duy có nhiều cấp độ phát triển, nhiều loại hình khác nhau. ở mỗi

người lại mạnh về một loại hình tư duy riêng, với cấp độ phát triển cao thấp khác nhau.

Điều đó không phải chỉ do sự chi phối của lịch sử, mà ngay trong cùng một điều kiện
môi trường cũng diễn ra sự khác nhau đó. Chính vì thế, năng lực tư duy lý luận không
chỉ bị ảnh hưởng bởi các điều kiện chung mà còn do các yếu tố chủ quan của mỗi người
chi phối.
Trước hết, năng lực tư duy lý luận phụ thuộc vào yếu tố bẩm sinh, di truyền của
từng người. Đó là những yếu tố sinh ra đã có và do thế hệ trước di truyền lại như cấu tạo
của hệ thần kinh, gen Những yếu tố này đóng vai trò chính trong việc tạo ra năng khiếu
thông minh, trí nhớ, khả năng trực giác, nhạy cảm. Đó là cơ sở, tiền đề, là điều kiện của
năng lực trí tuệ nói chung và năng lực tư duy lý luận nói riêng. Như thế, tố chất bẩm
sinh di truyền mới chỉ là những khả năng tiềm tàng nó cần phải được khơi dậy phát
triển, rèn luyện thường xuyên, nếu không sẽ dẫn đến mai một. Như Ph. Ăngghen đã viết:
"Tư duy lý luận chỉ là một đặc tính bẩm sinh dưới dạng năng lực của người ta mà có
thôi" [40, tr. 487].
Thứ hai, quá trình giáo dục, đào tạo, quá trình học tập rèn luyện một cách tự
giác để nâng cao trình độ tri thức, trí tuệ có ảnh hưởng trực tiếp, đóng vai trò quyết định
đến năng lực tư duy lý luận. Trình độ tri thức, trí tuệ là điều kiện tiên quyết để con
người phát triển năng lực của mình về mọi mặt. Để đạt được một trình độ tri thức, trí tuệ
nhất định, không có con đường nào khác ngoài việc phải thông qua quá trình giáo dục,
đào tạo và tự đào tạo. Quá trình này mang lại cho con người không chỉ nội dung các tri
thức mà còn là những phương pháp tư duy khoa học ngày một hoàn thiện hơn. Đó chính
là nền tảng, là cơ sở để con người mài dũa khả năng tư duy, rèn luyện năng lực tư duy
nhạy bén sáng tạo. Nếu bị hạn chế về tri thức, trí tuệ thì không thể nâng cao được năng
lực tư duy lý luận.
Thứ ba, môi trường kinh tế - xã hội, nền tảng văn hóa, khoa học của xã hội có
ảnh hưởng quan trọng đến năng lực tư duy lý luận của con người. Sự phát triển về năng
lực tư duy lý luận phụ thuộc vào môi trường kinh tế - xã hội mà trong đó chủ thể tư duy

sống và hoạt động. Đó là toàn bộ những điều kiện, hoàn cảnh khách quan liên quan đến

đời sống, đến quá trình học tập, rèn luyện và công tác của mỗi người. C. Mác đã chỉ rõ,
"con người là sản phẩm của hoàn cảnh", hoàn cảnh kinh tế - xã hội như thế nào sẽ sản
sinh ra con người thực tiễn như thế ấy. Bản thân tư duy cũng là sự phản ánh của tồn tại
xã hội, là sản phẩm của lịch sử - xã hội. Cơ chế tập trung quan liêu bao cấp đã góp phần
hình thành thói lười suy nghĩ, tìm tòi, tư tưởng thụ động, trông chờ, ỷ lại. Cơ chế kinh tế
thị trường dễ hình thành được phong cách tư duy năng động, sáng tạo Năng lực tư duy
lý luận của con người đặc biệt phụ thuộc vào nền tảng văn hóa, khoa học mà xã hội đạt
được. Thật vậy, năng lực tư duy lý luận chịu sự chi phối chặt chẽ bởi sự phát triển của
bản thân khoa học và trình độ văn hóa xã hội. Nền tảng văn hóa với sức mạnh cuốn hút
của cái chân, thiện, mỹ, có tác động mạnh mẽ đến sự phát triển các tư chất đặc thù của
mỗi người, mở rộng, khơi sâu thêm nền tảng tâm - sinh lý, khơi dậy mọi năng lực tiềm
ẩn của con người. Cùng với sự phát triển của khoa học, năng lực tư duy lý luận cũng có
quá trình phát sinh, phát triển của mình; nó không phải là một cái gì vĩnh viễn, sinh ra
và mãi mãi như vậy. Khi đánh giá về sự phát triển của năng lực tư duy lý luận, Ăngghen
nhận xét: "Tư duy lý luận của mỗi một thời đại, cũng có nghĩa là cả thời đại chúng ta là
một sản phẩm lịch sử mang những hình thức rất khác nhau trong những thời đại khác
nhau và do đó có một nội dung rất khác nhau" [40, tr. 487]. Điều đó có nghĩa là, ứng với
mỗi giai đoạn khác nhau trong sự phát triển của khoa học, tư duy của con người cũng có
những loại hình khác nhau. Ngày nay, do sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công
nghệ, sự nâng cao trình độ văn hóa, khoa học, sự phát triển nhanh chóng các phương
tiện thông tin hiện đại nên việc nâng cao năng lực tư duy lý luận lại càng gắn liền với
sự phát triển của khoa học. Vì vậy, nâng cao năng lực tư duy lý luận trước hết phải nâng
cao trình độ tri thức khoa học, phương pháp tư duy khoa học, đặc biệt là phương pháp
tư duy biện chứng.
Thứ tư, hoạt động thực tiễn là yếu tố cơ bản ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực tư
duy lý luận của con người. Ăngghen đã chỉ rõ, "chính việc người ta biến đổi tự nhiên,
chứ không phải một mình giới tự nhiên với tính cách giới tự nhiên, là cơ sở trực tiếp
nhất, chủ yếu nhất của tư duy con người, và trí tuệ con người đã phát triển song song

với việc người ta đã học cải biến tự nhiên" [40, tr. 720]. Như vậy, con người quan hệ

với thế giới bắt đầu không phải bằng lý luận mà bằng thực tiễn. Chính thông qua hoạt
động thực tiễn mà con người có được những hiểu biết, những tri thức về hiện thực
khách quan và phát triển những năng lực của mình. Mọi tri thức, năng lực của con
người, nhất là năng lực tư duy lý luận, xét đến cùng đều bắt nguồn từ thực tiễn. Hơn
nữa, sự phát triển liên tục, không ngừng của thực tiễn luôn luôn đặt ra những yêu cầu
mới đòi hỏi con người phải luôn suy nghĩ, tìm tòi, phát hiện quy luật vận động, phát
triển của sự vật, hình thành những phương thức, nội dung mới trong năng lực tư duy
hướng về việc phát hiện và giải quyết các vấn đề theo yêu cầu của thực tiễn. Như thế,
trong hoạt động thực tiễn, năng lực trí tuệ con người nói chung, năng lực tư duy lý luận
nói riêng được phát triển. Thông qua hoạt động thực tiễn năng lực tư duy lý luận, đặc
biệt là khả năng xác lập tri thức và đối tượng hóa tri thức của con người mới được hình
thành và cũng thông qua đó mà những năng lực ấy mới được trau dồi, phát triển.
Thứ năm, nhu cầu và lợi ích là những yếu tố hình thành thái độ, động cơ cho
mọi hoạt động của con người. Trong đó, có hoạt động rèn luyện để hình thành và phát
triển năng lực tư duy lý luận. Xét cho cùng, mọi hoạt động của con người đều nhằm đạt
được một lợi ích nhất định nào đó về vật chất hoặc tinh thần để thỏa mãn nhu cầu của
mình. Hêghen đã viết: "Những lợi ích thúc đẩy đời sống của các dân tộc và các cá nhân
[28, tr. 98]. Như vậy cái chi phối mục đích hoạt động của con người là lợi ích.
Nhu cầu, lợi ích có ảnh hưởng thường xuyên và trực tiếp đến ý thức, động cơ
hoạt động thực tiễn, học tập và rèn luyện để nâng cao năng lực tư duy lý luận. Người có
động cơ không trong sáng, trong hoạt động, học tập, rèn luyện chỉ vì lợi ích cá nhân,
trước mắt, lợi ích cục bộ thì khó có thể rèn luyện được năng lực tư duy lý luận sắc
bén. Hoặc có được năng lực tư duy lý luận tốt những người đó có động cơ không trong
sáng thì cũng chỉ là "người có tài mà không có đức cũng trở thành vô dụng".

Những điều kiện, hoàn cảnh và nhân tố trên có quan hệ chặt chẽ với nhau, tác
động bổ sung lẫn nhau tạo thành một hệ thống các yếu tố cùng tác động đến năng lực tư
duy lý luận. Nếu những yếu tố trong hệ thống ấy cùng tác động đến năng lực tư duy lý
luận theo một chiều tích cực sẽ có tác dụng phát triển năng lực tư duy lý luận nhanh
chóng hơn. Ngược lại, sự tác động không thuận chiều giữa các yếu tố trong hệ thống sẽ

làm cho năng lực tư duy lý luận khó có khả năng phát triển. Tuy nhiên, phải thấy rằng
các yếu tố đó có vai trò, tác dụng, có mức độ ảnh hưởng rất khác nhau đối với năng lực
tư duy. Trong đó, yếu tố bẩm sinh, di truyền, sự phát triển của khoa học và thực tiễn xã
hội là điều kiện cần thiết; quá trình giáo dục, đào tạo đóng vai trò chủ đạo; quá trình tự
giáo dục rèn luyện để có được động cơ trong sáng là yếu tố mang tính quyết định trực
tiếp đến việc phát triển năng lực tư duy lý luận. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: Năng
lực của con người không phải hoàn toàn do tự nhiên mà có mà một phần lớn do công
tác, do luyện tập mà có. Như vậy, cùng với thực tiễn xã hội và sự phát triển của khoa
học, quá trình học tập nâng cao trình độ trí tuệ, trình độ lý luận là cơ sở chủ yếu của
năng lực tư duy lý luận.
Năng lực tư duy lý luận chịu sự chi phối chặt chẽ bởi sự phát triển của khoa học
và thực tiễn xã hội. Vì thế, cùng với sự phát triển không ngừng của khoa học và thực
tiễn, do nhu cầu khách quan của sự tồn tại và phát triển của con người, năng lực tư duy
lý luận cũng luôn trong quá trình phát sinh, phát triển và ngày càng hoàn thiện nâng cao
hơn. V.I. Lênin đã viết: "Trí tuệ con người đã tìm thấy nhiều điều kỳ diệu trong tự nhiên
và sẽ tìm thấy nhiều điều kỳ diệu hơn nữa, do đó làm tăng thêm quyền lực của mình với
tự nhiên" [29, tr. 348]. Lẽ dĩ nhiên, đó không phải là một quá trình tự phát mà là quá
trình con người tự giác rèn luyện, học tập nâng cao năng lực tư duy, tự giác tham gia
tích cực vào hoạt động thực tiễn nhằm trau dồi, phát triển khả năng xác lập những tri
thức phù hợp với tính quy luật khách quan của sự vật, khả năng xác lập quan hệ giữa các
tri thức và khả năng "đối tượng hóa" những tri thức của loài người vào hoạt động thực
tiễn. Chính vì thế mà ý tưởng nâng cao năng lực tư duy lý luận chủ yếu là nhằm nắm bắt
bản chất sâu xa của sự vật, biến chúng thành tri thức lý luận trên cơ sở đó mà hình thành
được các cách thức, phương pháp tối ưu cho hoạt động thực tiễn.

1.2. Năng lực tư duy lý luận với hoạt động lãnh đạo của người cán bộ lãnh
đạo chủ chốt cấp tỉnh
1.2.1. Thực chất hoạt động lãnh đạo của người cán bộ chủ chốt cấp tỉnh
Khái niệm "cán bộ lãnh đạo" nhìn chung là chỉ những người đứng đầu, phụ
trách một tổ chức, đơn vị, phong trào nào đó do bầu cử hoặc chỉ định. Cán bộ lãnh đạo

có trách nhiệm đề ra những phương hướng, chủ trương, quyết định, trước hết là những
quyết định có tính chiến lược về đơn vị mình. Cán bộ lãnh đạo là người có quyền lực, ra
những quyết định có tính chất quan trọng nhất. Ngoài ra, cán bộ lãnh đạo còn là người
dẫn dắt, tổ chức phong trào theo một hướng đi cụ thể; là người điều hành, chỉ đạo bằng
quyền hành qua các mệnh lệnh. Cán bộ lãnh đạo còn là người điều chỉnh những quyết
định cho phù hợp với sự thay đổi của điều kiện, hoàn cảnh khách quan.
Hoạt động lãnh đạo có bản chất là sự tác động định hướng, sự điều hành, điều
chỉnh hoạt động của con người nhằm vươn tới những mục đích nhất định. Điều đó đòi
hỏi chủ thể lãnh đạo, phải đạt được một trình độ nhất định về năng lực tư duy lý luận.
Bởi trình độ đó có tác dụng rất quan trọng trong việc nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu
quả của công tác lãnh đạo.
Hoạt động lãnh đạo là hoạt động tác động điều khiển mang tính chất định
hướng của chủ thể lãnh đạo đến đối tượng bằng các phương pháp động viên, giáo dục,
thuyết phục nhằm đạt mục đích nhất định. Trong Từ điển tiếng Việt ghi: "Lãnh đạo
bằng đề ra đường lối, chủ trương và tổ chức, động viên thực hiện" [62, tr. 720].
Đối tượng của chủ thể lãnh đạo, quản lý là những con người cụ thể có tri thức,
năng lực, có ý chí, mục đích và những ước vọng riêng nhất định. Vì thế, đòi hỏi chủ thể
lãnh đạo một mặt phải hiểu biết công việc; mặt khác phải có những hiểu biết nhất định

về năng lực, về thể chất, về tâm tư và ước vọng riêng của các đối tượng lãnh đạo. Từ đó
mà tạo điều kiện thuận lợi cho các đối tượng lãnh đạo làm việc đạt hiệu quả tối đa.
Chính vì thế, hoạt động lãnh đạo nếu được nâng lên trình độ nghệ thuật, khoa học làm
việc với con người, tác động đến con người để hình thành các quan hệ tốt đẹp giữa họ
với nhau và với công việc thì hiệu quả lãnh đạo sẽ cao hơn.
Hoạt động lãnh đạo có nhiều khâu, nhiều bước, có thể diễn đạt các khâu đó ở
hai trình độ; đó là, chủ thể lãnh đạo suy nghĩ, lựa chọn quyết định và điều hành tổ chức
hành động. Do đó, mặt hiện hữu của năng lực lãnh đạo là tổ chức hoạt động thực tiễn,
còn mặt năng lực tư duy trí tuệ, lý luận là cái ẩn giấu vào bên trong. Vì vậy, nhà lãnh
đạo khác với nhà khoa học. Nhà khoa học hoạt động chính là nghiên cứu, suy nghĩ, tìm
tòi, phát hiện, nêu ra lý thuyết, lý luận, vạch ra phương án thực hành, ứng dụng. Người

lãnh đạo cũng là người lao động trí óc dù ở họ không phải là lao động tìm tòi, tạo ra lý
luận khoa học mà chủ yếu là lao động cụ thể hóa, hiện thực hóa lý luận. Nhưng để có
thể hiện thực hóa lý luận đòi hỏi họ phải suy nghĩ, nghiên cứu phát hiện các tình huống
thực tiễn cụ thể, trên cơ sở đó mà đề ra các biện pháp giải quyết tình huống, ra quyết
định, tổ chức thực hiện quyết định thông qua hoạt động tập thể hoặc cá nhân.
ở đây cần phân biệt cán bộ lãnh đạo và cán bộ quản lý. Trong nhiều trường hợp,
chức năng, nhiệm vụ của cán bộ lãnh đạo và cán bộ quản lý trùng lặp nhau. Sự phân
loại hai khái niệm này chỉ có tính chất tương đối. Tuy nhiên, hoạt động lãnh đạo và
quản lý có những điểm khác nhau căn bản về mục tiêu, nội dung, về phương pháp và
phương tiện tác động. Nếu như hoạt động lãnh đạo nhằm mục tiêu định hướng chung,
thì mục tiêu của hoạt động quản lý là tổ chức, sắp xếp, chỉ huy các vấn đề theo một trật
tự nhất định. Do mục tiêu có sự khác nhau, nên nội dung hoạt động lãnh đạo, quản lý
cũng không đồng nhất, dù trong lãnh đạo và quản lý có những khâu tưởng chừng như có
sự trùng lặp. Nội dung lãnh đạo là đề ra chủ trương, đường lối chung, phương hướng
triển khai, thực hiện đường lối, kiểm tra việc thực hiện và bổ sung, sửa chữa, phát triển
đường lối theo yêu cầu của thực tiễn. Nội dung của quản lý là xây dựng các phương án,

các mô hình với những chỉ tiêu kế hoạch cụ thể, xây dựng các mối quan hệ giữa các đối
tượng quản lý và giữa đối tượng với chủ thể quản lý một cách hợp lý nhất để đạt hiệu
quả cao trong tổ chức thực hiện. Về phương pháp và phương tiện tác động, hoạt động
lãnh đạo dùng phương pháp động viên thuyết phục là chính, bằng uy tín và nghệ thuật
mà tập trung giáo dục xây dựng niềm tin, tính tự giác của con người. Quản lý tác động
đến đối tượng bằng mệnh lệnh có tính chất bắt buộc. Song, tùy thuộc vào tính chất của
quan hệ giữa cơ quan lãnh đạo với cơ quan quản lý, tùy thuộc vào cơ cấu tổ chức và
hoạt động trong cơ quan lãnh đạo và cơ quan quản lý, chủ thể lãnh đạo đồng thời phải
thực hiện cả chức năng quản lý và chủ thể quản lý phải đảm nhận cả chức năng lãnh
đạo.
Như vậy, hoạt động lãnh đạo và hoạt động quản lý có đặc trưng riêng của nó
không nên xóa nhòa ranh giới giữa chúng dẫn đến chồng chéo công việc. Mặt khác,
không nên xem đây là hai hoạt động tách biệt hoàn toàn. Trong một chừng mực nào đó,

chúng đan xen hòa hợp vào nhau bổ sung cho nhau. Trong đó, lãnh đạo là khâu quan
trọng của quản lý, đồng thời là cơ sở, tiền đề cho quản lý. Quản lý nhằm hiện thực hóa
đường lối lãnh đạo và giúp cho hoạt động lãnh đạo đạt hiệu quả hơn.
Từ đó có thể thấy rằng, người lãnh đạo phải là người có trình độ lý luận và am
hiểu thực tiễn. Họ là người góp phần xây dựng, đồng thời cũng là người vận dụng
đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước vào những lĩnh vực cụ thể, biến chúng
thành hiện thực trong cuộc sống. Do vậy, đối với người lãnh đạo, năng lực tổ chức thực
tiễn là rất quan trọng. Đồng thời họ vẫn rất cần phải có năng lực tư duy lý luận, năng lực
đó giúp họ nghiên cứu thực tiễn, nắm bắt và vận dụng đường lối của Đảng để tổ chức
thực tiễn, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và vận dụng kinh nghiệm ấy vào hoạt động
thực tiễn.
Hoạt động của chủ thể lãnh đạo về bản chất là có sự giống nhau ở các cấp;
nhưng có sự khác nhau về hình thức, mức độ, phạm vi và lĩnh vực hoạt động.

×