Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

Khảo sát một số đặc trưng ngôn ngữ thơ lục bát hiện đại ( trên tác phẩm của một số nhà thơ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (467.86 KB, 22 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN

HỒ VĂN HẢI

KHẢO SÁT MỘT SỐ ĐẶC TRƢNG NGÔN NGỮ THƠ
LỤC BÁT HIỆN ĐẠI
(TRÊN TÁC PHẨM CỦA MỘT SỐ NHÀ THƠ)

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

HÀ NỘI - 2004


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN

HỒ VĂN HẢI

KHẢO SÁT MỘT SỐ ĐẶC TRƢNG NGÔN NGỮ
THƠ LỤC BÁT HIỆN ĐẠI
(TRÊN TÁC PHẨM CỦA MỘT SỐ NHÀ THƠ)
Chuyên ngành: Lý luận ngôn ngữ
Mã số: 5.04.08

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
PGS-TS. Trần Trí Dõi
TS. Nguyễn Hữu Đạt


HÀ NỘI - 2004


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các dẫn liệu, kết quả
nêu trong luận án là trung thực và chƣa từng đƣợc ai công bố trong bất kỳ công
trình nào khác.

Tác giả luận án


Mục lục

Trang
Mở đầu

2

1. Lí do chọn đề tài

2

2. Lịch sử vấn đề

4

3. Nhiệm vụ nghiên cứu

8


4. Phương pháp nghiên cứu

8

5. Đóng góp mới của luận án

9

CHƢƠNG 1: Một số vấn đề chung về ngôn ngữ thơ và ngôn ngữ thơ lục bát
hiện đại

10

1.1. Các bình diện của ngôn ngữ thơ

10

1.2. Ngôn ngữ thơ trong vận động tạo lập đặc trưng thể loại

19

1.3. Vai trò và vị trí của thơ lục bát trong nền thi ca dân tộc

25

1.4. Các xu hướng và những thành tựu lục bát hiện đại tiêu biểu

27


1.5. Tiểu kết

38

CHƢƠNG 2: Một số biểu hiện ngữ âm mang tính đặc trưng trong âm luật thơ lục
bát hiện đại

40

2.1. Mặt ngữ âm trong thơ

40

2.2. Âm điệu, vần điệu và nhịp điệu thơ lục bát

42

2.3. Một số biểu hiện ngữ âm mang tính đặc trưng trong âm luật thơ lục bát hiện
đại nhìn từ lục bát Nguyễn Bính, Huy Cận, Tố Hữu, Nguyễn Duy
53
2.4. Tiểu kết
104
CHƢƠNG 3: Một số phương thức, phương tiện tạo nghĩa đặc trưng trong thơ lục
bát
hiện đại
107


3.1. Tiếp thu chất liệu ngôn ngữ dân gian
109

3.2. Tìm kiếm ngữ liệu và phương thức biểu hiện mới
156
3.3. “Định ngữ nghệ thuật” như một loại cấu trúc tu từ
177
3.4. Tiểu kết
182
Kết luận
184

Tài liệu tham khảo
193
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Những đặc trưng ngôn ngữ của một thể loại thơ ca thể hiện tập trung
nhất đặc điểm tâm lí - thẩm mỹ trong đời sống tinh thần của một dân tộc. Thể thơ
không phải là kết quả của một tác động cơ học mà là một sự chọn lọc tự nhiên của
cảm xúc con người trước hiện thực. Thơ lục bát là một trong những biểu tượng
văn hóa có vai trò đặc biệt quan trọng đối với thi ca và đời sống tinh thần dân tộc.
Trong chuyên luận về thơ, Nguyễn Phan Cảnh khẳng định, sự chọn lọc tự nhiên đã
kết tinh thơ Việt ở những thể từ 5 đến 8 tiếng [10, 182]. Lục bát là trung tâm của
quá trình này. Trong một cặp dòng (lục và bát), sự phân bố thanh điệu, hiệp vần,
ngắt nhịp một cách hài hoà... đã hàm chứa các tham số của quá trình chọn lọc tự
nhiên kia. Các nhà nghiên cứu sau một thời gian dài đã thống nhất nhận định: lục
bát là thể thơ thuần túy Việt Nam có thể sánh ngang với thơ Đường Trung Hoa,
hay các thể thơ khác của một số dân tộc châu Âu. Câu thơ Sáu-Tám đã được thử
thách qua thời gian và chứng tỏ sức sống mãnh liệt của mình. Là "nhịp thở giống
nòi", người ta có thể dùng lục bát để đọc, để ngâm, để ví, để hát ru hay hát giao


duyên... Đây là một thể thơ song hành với sự phát triển của ngôn ngữ và văn hóa

Việt Nam.
1.2. Vốn là một thể thơ bình dân, ra đời từ rất sớm, thoát thai từ ca dao, từ
những giai điệu đồng quê đã được tinh luyện đến độ tinh khiết, lục bát đã không
ngừng phát triển để tồn tại, chiếm lĩnh thi hứng chính thống và khẳng định vị trí
không thể thay thế của mình trong tiến trình văn học. Tính đến nay lục bát đã trở
nên phong phú và đa dạng nhờ những đóng góp của các tác giả tên tuổi như
Nguyễn Du, Tản Đà, Huy Cận, Nguyễn Bính, Tố Hữu, Nguyễn Duy... Khi một thể
thơ đồng hành cùng với tiến trình lịch sử - văn hóa dân tộc thì nó cũng đồng thời
trở thành một giá trị văn hóa có giá trị ổn định và có thể được xem như là thực
chứng cho sự tồn tại hay tiêu vong của cộng đồng dân tộc ấy. Vì vậy, phát triển
lục bát là trau dồi bản sắc và phát triển văn hóa dân tộc.
1.3. Khi một thể loại thơ được xác định là linh hồn dân tộc, nó trở thành đối
tượng hấp dẫn nhiều nhà nghiên cứu. Dù đứng trên những điểm nhìn khác nhau
nhưng chung quy lại họ vẫn có cùng một điểm xuất phát đó là ngôn ngữ - chất liệu
cơ bản làm nên tác phẩm văn chương. Ngôn từ tự thân nó đã là chất liệu nhưng lại
chứa đựng những phương thức tư duy nghệ thuật và các giá trị văn hóa tinh thần.
Vì vậy, dù thành công ở mức độ nào, một chuyên luận nghiên cứu về ngôn ngữ lục
bát cũng đều có ý nghĩa to lớn không những đối với ngôn ngữ học, văn học mà
còn đối với các khoa học khác như tâm lí học, lịch sử học, văn hóa học, xã hội
học...
1.4. Trong tiến trình phát triển, lục bát ở mỗi một giai đoạn đều có những đặc
điểm riêng. Có ý kiến cho rằng thể loại thơ ca này chỉ phát triển rực rỡ trong văn
học dân gian nên đến khi Truyện Kiều ra đời thì nó đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử
và nhường chỗ cho những thể loại thơ ca khác. Vì vậy lục bát hiện đại trong một
thời gian dài chưa được quan tâm nghiên cứu một cách thỏa đáng. Bên cạnh đó
trong khi có rất nhiều công trình nghiên cứu về lục bát, nhưng đa số lại tập trung
vào ca dao và xem xét nó từ bình diện lí luận phê bình. Chỉ có một số ít tác giả chú
trọng đến tiến trình thể loại và cấu trúc hình thức âm luật. Cho đến nay, lục bát



hiện đại với thành tựu to lớn của nó vẫn chưa có được một chuyên luận nghiên cứu
từ góc độ ngôn ngữ với cái nhìn xuyên suốt hai chiều đồng đại và lịch đại. Tzvetan
Todorov đã viết "Trên suốt chiều dài lịch sử của mình, nghiên cứu văn học
nghiêng hẳn về giải thích. Cần đấu tranh với sự thiên lệch này, nhƣng tức là với
chính sự thiên lệch chứ không phải với bản thân nguyên tắc giải thích" [112, 184].
Đó cũng là thực trạng của tình hình nghiên cứu văn học ở nước ta.
Những thực tế trên đặt ra vấn đề cần phải chọn những tác phẩm lục bát hiện
đại tiêu biểu làm trung tâm hệ quy chiếu và xem xét chúng trên góc độ ngôn ngữ
(là cách tiếp cận tỏ ra hiệu quả và mang tính thuyết phục cao) để đi đến những
nhận thức cần thiết về thực trạng, triển vọng và nhiều vấn đề quan trọng khác. Qua
khảo sát sơ bộ, chúng tôi đã chọn bốn tác giả lục bát tiêu biểu là Nguyễn Bính,
Huy Cận, Tố Hữu, Nguyễn Duy làm dẫn liệu chủ yếu. Từ đó đối sánh với lục bát
ca dao, lục bát Truyện Kiều để chỉ ra những đặc trưng ngôn ngữ lục bát hiện đại.
Thơ lục bát được giới nghiên cứu quan tâm tìm hiểu trên nhiều phương diện
khác nhau, riêng bình diện ngôn ngữ, nó có thể thuộc đối tượng nghiên cứu của
nhiều phân ngành khoa học như phong cách học, thi pháp học, ngữ dụng học... Do
tầm quan trọng của ngôn ngữ với tư cách là phương tiện, chất liệu tư duy và phản
ánh của thi phẩm, hướng tiếp cận này tỏ ra thiết thực và lí thú.
2. Lịch sử vấn đề
Thi ca nói chung từ lâu đã là đối tượng nghiên cứu của rất nhiều người trên
khắp thế giới, nhưng những thành tựu đã đạt được hay vừa mới đạt được lại không
bao giờ làm cho họ thỏa mãn hoàn toàn. Những nghiên cứu về nó từ trước đến nay
có thể đứng trên các bình diện khác nhau. Trên mỗi bình diện ta thu được những
kết quả đặc thù.
2.1. Từ góc độ lí luận và phê bình
ở bình diện này tập trung số đông các nhà nghiên cứu. Arixtote và Lưu Hiệp
đã đặt những viên gạch đầu tiên cho việc xây dựng những nguyên lí khám phá thơ
ca như một nghệ thuật trong đời sống tinh thần [1]. Dương Quảng Hàm với tác
phẩm Việt Nam văn học sử yếu (1943) đã đề cập đến một cách căn bản lịch sử của



các thể loại thi ca tiếng Việt [41]. Trong "Thơ ca Việt Nam - Hình thức và thể
loại" (1971) hai tác giả Bùi Văn Nguyên và Hà Minh Đức đã thừa kế những kết
quả nghiên cứu về các hình thức thơ ca dân tộc của các tác giả trước đó như Phan
Kế Bính (Việt Hán văn khảo - 1918), Bùi Kỉ (Quốc văn cụ thể - 1932), Dƣơng
Quảng Hàm (Việt Nam văn học sử yếu - 1943)... để chỉ ra cấu trúc hình thức phổ
quát và giản yếu về lịch sử phát triển của các thể thơ nói chung (trong đó có thơ
lục bát). Công trình này được xem như là một bước tiến quan trọng đặt nền tảng
cho vấn đề nghiên cứu thể loại thơ ca nói chung, ngôn ngữ thi ca nói riêng. Như là
cái gạch nối giữa hai xu hướng lí luận phê bình và ngôn ngữ học, Trần Đình Sử
với chuyên luận Thi pháp thơ Tố Hữu (1995) và Những thế giới nghệ thuật thơ
(1997) đã nghiên cứu thi pháp thơ và loại hình thơ dựa trên sự phân tích những cứ
liệu cụ thể của tác phẩm văn chương [97].
Nhìn chung trên bình diện lí luận phê bình đã có một số thành tựu được ghi
nhận về sự đóng góp công lao to lớn trong công cuộc khám phá thi ca nước nhà.
Tuy nhiên một thực thể phải được nhìn nhận từ nhiều phía mới đảm bảo tính
khách quan và toàn diện. Vì vậy, bình diện ngôn ngữ sẽ là một góc nhìn khác có
thể làm đối trọng để sự đánh giá tác phẩm văn chương ngày càng khoa học và
chính xác hơn.
2.2. Từ góc độ ngôn ngữ
Vào đầu thế kỉ XX, trường phái hình thức Nga đã đưa ra những cách tiếp cận
mới về nghệ thuật thi ca. Con đường khám phá của họ là dựa vào kết cấu hình
thức để lí giải nội dung ý nghĩa. Đây có thể coi là một bước nhảy vọt rất đáng ghi
nhận về quan điểm và nhận thức của giới nghiên cứu văn học. Lấy những yếu tố
mang tính phân biệt về hình thức giữa thơ và văn xuôi như âm luật, vần, câu thơ,
đoạn thơ... làm đơn vị khảo sát, trường phái này thực sự đã coi văn học là nghệ
thuật của ngôn ngữ. Đó là sự cụ thể hóa cái cơ bản nhất của các loại hình văn
chương nằm trong định nghĩa mang tính khái quát: "văn học là nhân học" (văn
học là khoa học về tính "ngƣời") của M. Gooki [4].



Các nhà hình thức Nga như R. Jacobson, V. Girmunxki đã đi sâu nghiên cứu
các yếu tố ngôn ngữ cấu thành nhịp điệu thơ, phân tích chức năng ngôn ngữ thông
qua các đơn vị cấu trúc hệ thống. Những quan điểm nghiên cứu của trường phái
này thể hiện rõ nét và tập trung nhất trong bài viết về "Những con mèo" của Ch.
Baudelaire [59, 69-75]. Các công trình nghiên cứu theo hướng cấu trúc - chức
năng mặc dù chưa làm cho những người quan tâm đến lĩnh vực thi ca thỏa mãn
hoàn toàn, song nó cũng đã tạo ra được những tiền đề quan trọng cho việc xây
dựng một lí thuyết vững chắc giúp các nhà nghiên cứu ngôn ngữ thơ có thể thực
hiện tốt những mục tiêu chưa hoàn thiện và các mục tiêu nghiên cứu mới.
Một số công trình nghiên cứu về thi ca tiếng Việt từ góc độ ngôn ngữ có giá
trị đã khởi động hướng tiếp cận văn chương từ góc độ ngôn ngữ. Tiêu biểu là
chuyên luận Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều (1985). Với
những thao tác định lượng, định tính trong nghiên cứu ngôn ngữ, Phan Ngọc đã
không sa vào sự lí giải chung chung mà tập trung thỏa đáng cho những mặt nổi
trội về ngôn ngữ đã làm cho Truyện Kiều trở nên nổi tiếng. Đây là một hướng đi
hợp lí trong việc đánh giá một tác phẩm thơ.
Tiếp thu những luận điểm trong tư tưởng của R. Jacobson về chức năng của
ngôn ngữ thi ca, Nguyễn Phan Cảnh đã đề cập vấn đề này một cách trực diện hơn
trong chuyên luận: Ngôn ngữ thơ (1987). Trong phần viết về thể lục bát, ông đã có
được những nhận định khái quát rất quan trọng. Ngoài việc đề cập đến cách thức
phát sinh thể loại lục bát, Nguyễn Phan Cảnh cũng đã có được những lập luận
thuyết phục cho vấn đề khả năng tồn tại của thể thơ truyền thống cách luật này.
Bên cạnh đó tác giả đã chú trọng đi vào một số bình diện của ngôn ngữ thơ như
tính đa trị của tín hiệu ngôn ngữ (nhờ phương thức tổ chức kép các lượng ngữ
nghĩa), nhạc thơ, mức độ và cách thức hoạt động của trường nét dư trong vận động
tạo thể... [10,165]. Có thể nói đây là một công trình nghiên cứu rất có ý nghĩa, đặt
nền móng cho lí thuyết nghiên cứu ngôn ngữ một thể loại văn học đặc thù (trong
cái nhìn phân biệt giữa ngôn ngữ thơ với ngôn ngữ văn xuôi).



Năm 1983 Bùi Công Hùng đã cho ra mắt cuốn Góp phần tìm hiểu nghệ thuật
thơ ca. Trong đó tác giả đã rất cố gắng để đưa ra tập hợp những nguyên tắc chung
về thi ca dưới ánh sáng của những luận điểm đã được tổng kết trước đó về kết cấu
hình thức và lí thuyết hệ thống. Bùi Công Hùng đã chỉ ra các bình diện, cấp độ,
các cấu trúc trong thơ, tuyệt đối hóa mặt hình thức, tạm thời không quan tâm đến
cơ chế sản sinh và cơ chế vận động để lí giải các biểu hiện của ngôn ngữ thơ.
Với chuyên luận Ngôn ngữ thơ Việt Nam (1998), Hữu Đạt đã sử dụng các lí
thuyết quan hệ hệ hình, quan hệ cú đoạn... để chỉ ra những đặc điểm cơ bản của
ngôn ngữ thơ tiếng Việt. Trong đó tác giả đã đưa ra được những luận điểm quan
trọng như kết cấu mảng miếng, nhạc thơ, một số đặc trưng của thơ lục bát... [33].
Một công trình nghiên cứu chuyên sâu về thể loại đầu tiên phải kể đến là Lục
bát và song thất lục bát (1998) của Phan Diễm Phương. Trong chuyên luận này
tác giả đã tập trung giải quyết tương đối triệt để những vấn đề chung về thể loại
thơ như quá trình ra đời và phát triển của hai thể thơ lục bát và song thất lục bát từ
điểm nhìn cấu trúc âm luật thể loại. Đây là một bước tiến đáng ghi nhận trong việc
phân định hình thức chính thống của thể thơ truyền thống cách luật. Công trình
này cũng cùng xu hướng với chuyên luận Thơ và các vấn đề trong thơ Việt Nam
hiện đại của Hà Minh Đức (1974). Tuy nhiên tác giả Phan Diễm Phương đã đưa ra
và giải quyết vấn đề này một cách tập trung và toàn diện hơn.
Những năm gần đây thơ lục bát được nhiều người quan tâm nghiên cứu, sưu
tầm, biên soạn. Trước đó trong một thời gian khá dài, người ta chỉ chú trọng vào
lục bát dân gian. Điều này cũng dễ hiểu vì lục bát ca dao, một bộ phận hợp thành
của thơ ca dân gian, chiếm vị trí chủ đạo không phải vì số lượng mà vì nó là một
loại hình thơ truyền thống có tính ổn định cao. Những tác giả có công biên soạn,
phê bình, giới thiệu lục bát dân gian phải kể đến là Đinh Gia khánh, Ninh Viết
Giao, Hoàng Tiến Tựu... Trong số đó có người đã đi sâu nghiên cứu lục bát ca dao
như Nguyễn Xuân Kính (với chuyên luận Thi pháp ca dao - 1992), Bùi Mạnh Nhị
(với Công thức truyền thống và đặc trƣng cấu trúc của ca dao dân ca trữ tình 1997)... Khi thơ lục bát thu hút được sự chú ý của giới nghiên cứu và công chúng



rộng rãi một cách đặc biệt thì cũng là lúc các tuyển tập lục bát ra đời. Mặc dù còn
nhiều ý kiến (dư luận) chưa thống nhất song 2 tuyển tập về lục bát (Tuyển tập lục
bát Việt Nam do Nxb VH ấn hành năm 1994 và Thơ lục bát mới do Hà Quảng
tuyển chọn và giới thiệu, Nxb Hội LHVHNT Hà Tĩnh ấn hành năm 1999) này
cũng đã gián tiếp khẳng định rằng cho đến nay vai trò to lớn của lục bát trong đời
sống tinh thần của người Việt Nam vẫn còn nguyên giá trị. Một số bài viết khác
như Tiếng Việt và thể thơ lục bát (Nguyễn Thái Hoà) [55, 37-42]; Nhịp chẵn, nhịp
lẻ trong thơ lục bát [102, 160-169]; Lục bát Huy Cận: Ngậm ngùi (Lý Toàn
Thắng) [107, 49-54]; Ngày tết đọc 5 bài thơ lục bát (Trần Đăng Khoa) [64]; Một
số chứng tích về ngôn ngữ, văn tự và văn hoá (Nguyễn Tài Cẩn) [18]... cũng góp
phần cổ động cho phong trào nghiên cứu lục bát đang ngày càng trở nên sôi nổi.
2.3. Thành tựu và những vấn đề đặt ra
Về thành tựu. Xung quanh vấn đề ngôn ngữ thơ và ngôn ngữ thơ lục bát, các
nhà nghiên cứu đã đạt được những thành tựu to lớn, tập trung trên một số hướng
sau:
* Ngôn ngữ thơ ca trong sự so sánh với ngôn ngữ văn xuôi.
* Tiến trình thể loại thơ ca và tiến trình thể loại lục bát.
* Cấu trúc hình thức (âm luật) của lục bát.
Những vấn đề đặt ra. Trong khi đã có khá nhiều chuyên luận nghiên cứu thi
ca hiện đại nói chung, thơ lục bát hiện đại nói riêng từ góc độ thi pháp, lí luận và
phê bình thì vẫn còn quá ít các chuyên luận tiếp cận chúng từ góc độ ngôn ngữ. Hệ
quả là đến nay vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu về ngôn ngữ lục bát hiện đại
một cách quy mô và hệ thống trên bình diện ngữ âm và phương thức, phương tiện
tạo nghĩa (nghiên cứu đặc điểm ngôn ngữ lục bát hiện đại từ thao tác so sánh lịch
đại). Vì vậy, trong phạm vi có thể, một công trình nghiên cứu hướng tới một sự
đánh giá nhất định về triển vọng và tương lai của thể lục bát từ góc nhìn ngôn ngữ
là hết sức cần thiết. Thực hiện được mục tiêu này sẽ góp phần vào việc từng bước
làm rõ hơn triển vọng, cách thức vận động và phát triển của thơ lục bát Việt Nam.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu



3.1. Trên cơ sở những nguyên tắc và lí thuyết ngôn ngữ học về ngôn ngữ thơ
và ngôn ngữ thơ lục bát, luận án phải chỉ ra được các đặc trưng ngôn ngữ của lục
bát hiện đại trên hai bình diện, đặc trưng hình thức ngữ âm và đặc trưng phương
thức, phương tiện tạo nghĩa trong sự so sánh lịch đại với các thành tựu lục bát tiêu
biểu từ trước đến nay. Cụ thể là:
*Từ lí thuyết về ngữ âm, luận án phải chỉ ra được đặc trưng hình thức ngữ
âm của lục bát hiện đại.
* Từ lí thuyết về phương thức, phương tiện tạo nghĩa, luận án phải chỉ ra
được những đặc trưng về việc lựa chọn, xây dựng các cấu trúc ngữ nghĩa có tính tu
từ cao trong thơ lục bát hiện đại.
Tóm lại, đi tìm những đặc trưng ngôn ngữ lục bát hiện đại cũng là cách định
nghĩa một cách có cơ sở khái niệm Thơ lục bát hiện đại là gì?
3.2. Từ chỗ chỉ ra những đặc trưng hình thức ngữ âm và phương thức,
phương tiện tạo nghĩa, luận án góp phần xây dựng và hoàn chỉnh thêm những
nguyên tắc và lí thuyết ngôn ngữ học nghiên cứu thi ca nói chung, ngôn ngữ lục
bát nói riêng.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trên nguyên lý chung là quy nạp, luận án sử dụng các phương pháp và các
thao tác nghiên cứu sau:
Thao tác thống kê, phân loại nhằm định lƣợng hóa một số đặc trưng ngôn
ngữ cơ bản và khái quát của các tác phẩm lục bát hiện đại được lựa chọn khảo sát.
Thao tác phân tích, tổng hợp nhằm định tính hóa một số đặc trưng ngôn ngữ
cụ thể của một số phương thức và phương tiện ngôn ngữ tiêu biểu.
Phƣơng pháp đối chiếu nhằm làm rõ các đặc trưng ngôn ngữ của lục bát hiện
đại trong cái nhìn hệ thống, lịch sử và biện chứng.
5. Đóng góp mới của luận án
5.1. Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu đặc trưng ngôn ngữ thơ lục bát
hiện đại trên cả hai bình diện cấu trúc âm luật và phương thức, phương tiện tạo

nghĩa. Luận án đặc biệt vận dụng các thao tác định lượng, định tính trong cái nhìn


đồng đại và lịch đại để chỉ ra các đặc trưng ngôn ngữ của một thể thơ truyền thống
cách luật thông qua tâm điểm của hệ quy chiếu là ngôn ngữ thơ lục bát hiện đại.
5.2. Luận án không dừng lại ở việc chỉ ra các đặc trưng ngôn ngữ mà thông
qua đó để phát hiện cái bất biến, cái khả biến, cái độc tôn trong ngôn ngữ nhằm lí
giải cách thức tồn tại, khuynh hướng vận động của thơ lục bát hiện đại cũng như
vai trò và vị trí của nó trong nền thi ca dân tộc.
5.3. Một vấn đề không kém phần quan trọng khác là phải đưa ra những dự
báo về thể thơ này: khả năng tồn tại và xu hướng phát triển.
6. Cấu trúc luận án
Tương ứng với những nhiệm vụ nghiên cứu đã đặt ra, ngoài phần Mở đầu và
phần Kết luận, nội dung luận án được triển khai trong 3 chương:
Chƣơng 1: Một số vấn đề chung về ngôn ngữ thơ và ngôn ngữ thơ lục bát hiện
đại
Chƣơng 2: Một số biểu hiện ngữ âm mang tính đặc trưng trong âm luật thơ lục
bát hiện đại
Chƣơng 3: Một số phương thức, phương tiện tạo nghĩa đặc trưng trong thơ lục
bát
hiện đại
Sau cùng là phần Tài liệu tham khảo

CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐÃ ĐƢỢC CÔNG BỐ
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1. Hồ Văn Hải (2001), Vần điệu lục bát Nguyễn Duy (qua khảo sát tập thơ Sáu &
Tám). Thông báo khoa học ĐHSP Vinh. Số 25.
2. Hồ Văn Hải (2001), Nhịp điệu thơ lục bát Nguyễn Duy qua tập "Sáu & Tám".
Ngữ học trẻ 2001. Hội ngôn ngữ học Việt Nam. Hà Nội.
3. Hồ Văn Hải (2001), Từ láy trong lục bát Nguyễn Duy. Tạp chí Ngôn ngữ & Đời

sống. Số 4 (66).


4. Hồ Văn Hải (2002), Về những con chữ "méo mó, oái oăm" trong thơ Nguyễn
Duy. Tạp chí Ngôn ngữ & Đời sống. Số 1+2 (75+76).
5. Hồ Văn Hải (2002), Ma lực ngôn từ trong "Kính thƣa Thị Nở" của Nguyễn Duy.
Tạp chí Ngôn ngữ & Đời sống. Số 10 (84).
6. Hồ Văn Hải (2002), Đi tìm "nhãn tự" trong thơ Nguyễn Duy. Ngữ học trẻ 2002.
Hội ngôn ngữ học Việt Nam. Hà Nội.
7. Hồ Văn Hải (2003), "Tiếng ru": điệu dân ca hay hồn dân tộc thăng hoa? Tạp
chí Ngôn ngữ & Đời sống. Số 4 (90).
8. Hồ Văn Hải (2003), Một số cách ngắt nhịp ấn tƣợng trong lục bát hiện đại
(nhìn từ lục bát Nguyễn Bính, Huy Cận, Tố Hữu, Nguyễn Duy). Ngữ học trẻ 2003.
Hội ngôn ngữ học Việt Nam. Hà Nội.
9. Hồ Văn Hải (2004), Tiếp cận bài thơ Tre Việt Nam từ góc độ ngôn ngữ học.
Tạp chí Ngôn ngữ (9).

TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG VIỆT
[1] Arixtote, Lưu Hiệp (1999), Nghệ thuật thi ca; Văn tâm điêu long. Nxb Văn học
Tái bản. Hà Nội.
[2] Dương Viết á (2000), Ca từ trong âm nhạc Việt Nam. Viện âm nhạc. Hà Nội.
[3] Lại Nguyên Ân (1986), "Tìm giọng mới thích hợp với ngƣời thời mình". Tuần
báo Văn nghệ số 15, ngày 12/4.
[4] M. Bakhtin (1992), Lí luận và thi pháp tiểu thuyết (Phạm Vĩnh Cư tuyển dịch
và giới thiệu). Trường viết văn Nguyễn Du xuất bản.


[5] M. Bakhtin (1993), Những vấn đề thi pháp Đôxtôiepxki (Trần Đình Sử, Lại
Nguyên Ân, Vương Trí Nhàn dịch). Nxb Giáo dục. Hà Nội.
[6] Diệp Quang Ban, Hoàng Văn Thung (1996), Ngữ pháp tiếng Việt. Nxb Giáo

dục. Hà Nội.
[7] Phan Kế Bính (1930), Việt Hán văn khảo. Nxb Trung Bắc Tân văn.
[8] Võ Bình (1975), "Bàn thêm về một số vấn đề về thơ". Tạp chí Ngôn ngữ (3)
[9] Võ Bình (1984), "Bƣớc thơ". Tạp chí Ngôn ngữ (số phụ 2).
[10] Nguyễn Phan Cảnh (1987), Ngôn ngữ thơ. Nxb Đại học và Giáo dục chuyên
nghiệp. Hà Nội.
[11] Nguyễn Phan Cảnh (1999), Thông điệp Nguyễn Bính (Thơ Nguyễn Bính những lời bình) Nxb Văn hoá - thông tin. Hà Nội.
[12] Huy Cận (1979), "Suy nghĩ về nghệ thuật". Báo Văn nghệ (48).
[13] Huy Cận - Hà Minh Đức (1997), Nhìn lại một cuộc cách mạng trong thi ca.
Nxb Giáo dục. Hà Nội.
[14] Huy Cận - Đời và thơ (1999), Nxb Văn học. Hà Nội.
[15] Huy Cận - Về tác gia và tác phẩm (2000), Nxb Giáo dục. Hà Nội.
[16] Nguyễn Tài Cẩn (1996), Ngữ pháp tiếng Việt. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
[17] Nguyễn Tài Cẩn (1997), Lịch sử ngữ âm tiếng Việt. Nxb Giáo dục. Hà Nội.
[18] Nguyễn Tài Cẩn (2001), Một số chứng tích về ngôn ngữ, văn tự và văn hoá.
Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
[19] Đỗ Hữu Châu (1981), Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt. Nxb Giáo dục. Hà Nội.
[20] Trương Chính (1990), "Từ ngôn ngữ đến văn chƣơng". Tạp chí Ngôn ngữ (4).
[21] Mai Ngọc Chừ (1991), Vần thơ Việt Nam dƣới ánh sáng ngôn ngữ học. Nxb
Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp. Hà Nội.
[22] J.Cohen (1998), "Thơ và nghiên cứu thơ". Tạp chí Văn học nước ngoài (4).
[23] Hoàng Cao Cương (1984), "Nhận xét về một số từ láy đôi tiếng Việt". Tạp chí
Ngôn ngữ (4).
[24] Bạch Cư Dị (1998), "Thƣ gửi Nguyên Chẩn", Nguyễn Khắc Phi dịch. Tạp chí
Văn học (5).


[25] Xuân Diệu (1984), Công việc làm thơ. Nxb Văn học. Hà Nội.
[26] Trần Trí Dõi (2001), Ngôn ngữ và sự phát triển văn hóa xã hội. Nxb Văn hóa
thông tin. Hà Nội.

[27] Trương Đăng Dung, Nguyễn Kiên (1990), Các vấn đề của khoa học văn học.
Nxb Văn học. Hà Nội.
[28] Trương Đăng Dung dịch (1998), "Thế giới nghệ thuật của Kápka Franz". Tạp
chí Văn học (1).
[29] Lê Tiến Dũng (1994), "Loại hình câu thơ của Thơ mới". Tạp chí Văn học (1).
[30] Phan Huy Dũng (1999), Kết cấu thơ trữ tình nhìn từ góc độ loại hình. Luận
án tiến sĩ Ngữ văn. ĐH Sư phạm Hà Nội.
[31] Phan Huy Dũng (2001), "Nhận diện nhịp điệu thơ trữ tình". Tạp chí Ngôn
ngữ (16).
[32] Hữu Đạt (1996), "Đặc điểm phong cách ngôn ngữ của thơ và ca dao". Tạp
chí Ngôn ngữ (4).
[33] Hữu Đạt (1998), Ngôn ngữ thơ Việt Nam. Nxb Khoa học xã hội. Hà Nội.
[34] Nguyễn Hữu Đạt (1999), Phong cách học tiếng Việt. Nxb Khoa học xã hội.
Hà Nội.
[35] Nguyễn Đăng Điệp (1994), "Giọng điệu thơ trữ tình". Tạp chí Văn học (1).
[36] Cao Huy Đỉnh (1966), "Lối đối đáp trong ca dao trữ tình". Tạp chí Văn học
(9).
[37] Đinh Văn Đức (1986), Ngữ pháp tiếng Việt - Từ loại. Nxb Đại học và Trung
học chuyên nghiệp. Hà Nội.
[38] Bùi Giáng - Mƣa nguồn (1993), Nxb Hội nhà văn.
[39] Nguyễn Thiện Giáp, Nguyễn Minh Thuyết, Đoàn Thiện Thuật (1977), Dẫn
luận ngôn ngữ học. Nxb Giáo dục. Hà Nội.
[40] Nguyễn Thị Bích Hải (1995), Thi pháp thơ Đƣờng. Nxb Thuận Hóa-Huế.
[41] Dương Quảng Hàm (2002) - (In theo bản in lần đầu năm 1943), Việt Nam văn
học sử yếu. Nxb Hội nhà văn. Hà Nội.


[42] Lê Bá Hán, Lê Quang Hưng, Chu Văn Sơn (1998), Thơ mới thẩm bình và suy
ngẫm. Nxb Giáo dục. Hà Nội.
[43] Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (1997), Từ điển thuật ngữ văn

học. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
[44] Hoàng Văn Hành (1979), "Về hiện tƣợng láy trong tiếng Việt". Tạp chí Ngôn
ngữ (2).
[45] Hoàng Văn Hành (1985), Từ láy tiếng Việt. Nxb Khoa học xã hội. Hà Nội.
[46] Trần Mạnh Hảo (1996), Thơ phản thơ. Nxb Văn học.
[47] Cao Xuân Hạo (1998), Tiếng Việt - Mấy vấn đề về ngữ âm, ngữ nghĩa, ngữ
pháp. Nxb Giáo dục. Hà Nội.
[48] Z.S. Harris (2001), Các phƣơng pháp của ngôn ngữ học cấu trúc (Cao Xuân
Hạo dịch). Nxb Giáo dục.
[49] Lê Anh Hiền (1973), "Vần thơ và cái nền của nó trong thơ ca Việt Nam". Tạp
chí Ngôn ngữ (4).
[50] Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại. Nxb hội nhà văn. Hà Nội.
[51] Phi Tuyết Hinh (1985), "Vai trò của các nguyên âm trong sự tạo nghĩa của từ
láy tiếng Việt". Tạp chí Ngôn ngữ (4).
[52] Phi Tuyết Hinh (1998), Từ láy, những vấn đề còn để ngỏ. Nxb Khoa học xã
hội. Hà Nội.
[53] Nguyễn Thái Hòa (1996), "Đi tìm cái mới trong biểu đạt thơ Việt Nam hơn
nửa thế kỉ qua". Tạp chí Văn học (7).
[54] Nguyễn Thái Hòa (1997), Dẫn luận phong cách học. Nxb Giáo dục. Hà Nội.
[55] Nguyễn Thái Hòa (1999),"Tiếng Việt và thể thơ lục bát". Tạp chí Văn học
(2).
[56] Nguyễn Văn Hoàn (1974), "Thể lục bát từ ca dao đến Truyện Kiều". Tạp chí
Văn học (1).
[57] Bùi Công Hùng (1985), "Nhạc điệu của thơ Việt Nam hiện đại trong 40 năm
qua". Tạp chí Văn học (5-6).


[58] Đoàn Thị Đặng Hương (1999), Thơ Nguyễn Bính - những lời bình (Nguyễn
Bính - nhà thơ chân quê). Nxb Văn hoá - thông tin. Hà Nội.
[59] Jacobson-Lévi Strauss (1997) "Những con mèo" của Ch. Baudelaire". Tạp chí

Văn học (7).
[60] Jakobson (2001), "Ngôn ngữ học và thi học". Tạp chí Ngôn ngữ (14).
[61] Jakobson (1996), "Thơ là gì?", Trịnh Bá Đĩnh dịch. Tạp chí Ngôn ngữ (12).
[62] Đinh Gia Khánh (1966), "Nhận xét về đặc điểm của câu mở đầu trong thơ ca
dân gian". Thông báo khoa học. Văn học - ngôn ngữ. Đại học Tổng hợp Hà Nội.
[63] Nguyễn Bách Khoa (2000), Kinh thi Việt Nam. Nxb Văn hoá - Thông tin (tái
bản theo bản gốc 1945, có sửa chữa).
[64] Trần Đăng Khoa (1999), Chân dung và đối thoại. Nxb Thanh niên, Hà Nội.
[65] Thuỵ Khuê (1996), Cấu trúc thơ. Nxb Văn nghệ, California. Hoa Kì.
[66] Nguyễn Xuân Kính (1992), Thi pháp ca dao. Nxb Khoa học xã hội. Hà Nội.
[67] Lê Đình Kỵ (1993), Thơ Mới-những bƣớc thăng trầm. Nxb Thành phố Hồ
Chí Minh.
[68] Đinh Trọng Lạc (chủ biên), Nguyễn Thái Hòa (1997), Phong cách học tiếng
Việt. Nxb Giáo dục. Hà Nội.
[69] Đinh Trọng Lạc (1999), 300 bài tập phong cách học tiếng Việt. Nxb Giáo
dục. Hà Nội.
[70] Nguyễn Lai (1996), "Tìm sự chuyển hóa từ mã ngữ nghĩa sang mã hình
tƣợng". Tạp chí Ngôn ngữ (3).
[71] Nguyễn Lai (1996), Ngôn ngữ với tiếp nhận và sáng tạo văn học. Nxb Giáo
dục. Hà Nội.
[72] Mã Giang Lân (1996), Tìm hiểu thơ. Nxb Thanh niên. Hà Nội.
[73] Đặng Thanh Lê (1979), Truyện Kiều và thể loại truyện Nôm. Nxb Khoa học
xã hội.
[74] Nguyễn Thế Lịch (1998), "Về các tính chất của ngôn ngữ nghệ thuật". Tạp
chí Ngôn ngữ (4).


[75] Mak Halliday (2001), Dẫn luận ngữ pháp chức năng (Hoàng Văn Vân dịch).
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. Hà Nội.
[76] Lê Xuân Mậu (2003), "Đồng nhất hóa - một biện pháp tu từ đặc sắc". Tạp chí

Ngôn ngữ và Đời sống (9).
[77] Dẫn theo Lê Hoài Nam (1985), Toán học trong thi văn. Nxb Khoa học - Kỹ
thuật. Tp Hồ Chí Minh.
[78] Anh Ngọc (2000), Từ thơ đến thơ. Nxb Thanh niên. Hà Nội.
[79] Phan Ngọc (1985), Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều. Nxb
Khoa học xã hội. Hà Nội.
[80] Phan Ngọc (1995), Cách giải thích văn học bằng ngôn ngữ học. Nxb trẻ.
Thành phố Hồ Chí Minh.
[81] Phan Ngọc (2000), Thử xét văn hóa-văn học bằng ngôn ngữ học. Nxb Thanh
niên. Hà Nội.
[82] Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức (1971), Thơ ca Việt Nam - Hình thức và thể
loại. Nxb Khoa học xã hội. Hà Nội.
[83] Vương Trí Nhàn (1994), "Về những tìm tòi hình thức trong thơ gần đây". Báo
Văn nghệ (32).
[84] Vương Trí Nhàn (1999), Cánh bƣớm và hoa hƣớng dƣơng. Nxb Hải Phòng.
[85] Bùi Mạnh Nhị (1997), "Công thức truyền thống và đặc trƣng cấu trúc của ca
dao - dân ca trữ tình". Tạp chí Văn học (1).
[86] Nguyễn Thị Nhung (1997), Hình thức âm nhạc. Nxb Giáo dục. Hà Nội.
[87] Vũ Ngọc Phan (1997), Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam. Nxb Khoa học xã
hội (tái bản lần thứ 12). Hà Nội.
[88] Hoàng Trọng Phiến (1974), Các bài giảng về phong cách học. Hà Nội.
[89] Lương Xuân Phương (1968), Cựu thi lƣợc luận, Phạm Thế Ngũ dịch và xuất
bản. Sài Gòn.
[90] Phan Diễm Phương (1998), Lục bát và song thất lục bát. Nxb Khoa học xã
hội. Hà Nội.


[91] Vũ Quần Phương (1995), "Nhìn lại tiến trình thơ hiện đại". Báo Việt Nam
(47).
[92] G.N. Poxpelop chủ biên (1998), Dẫn luận nghiên cứu văn học, Trần Đình Sử,

Lại Nguyên Ân, Lê Ngọc Trà dịch. Nxb Giáo dục. Hà Nội.
[93] Phạm Đan Quế (2000), Bình Kiều, vịnh Kiều, bói Kiều. Nxb Hải Phòng.
[94] Nguyễn Quang Sáng (1987), "Đi tìm tiềm lực trong thơ Nguyễn Duy", trong
tập thơ Mẹ và em. Nxb Thanh Hoá.
[95] F. Saussure (1973), Giáo trình ngôn ngữ học đại cƣơng. Nxb Khoa học xã
hội. Hà Nội.
[96] Vũ Văn Sĩ (1999), "Nguyễn Duy - Ngƣời "thƣơng mến đến tận cùng chân
thật". Tạp chí Văn học (10).
[97] Trần Đình Sử (1995), Thi pháp thơ Tố Hữu. Nxb Giáo dục. Hà Nội.
[98] Trần Đình Sử (1995), Những thế giới nghệ thuật thơ. Nxb Giáo dục. Hà Nội.
[99] Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học. Nxb Giáo dục. Hà Nội.
[100] Trần Đình Sử (2002), "Ẩn dụ trong Truyện Kiều". Tạp chí Ngôn ngữ và Đời
sống (1-2).
[101] Đào Thản (1990), "Nhịp chẵn, nhịp lẻ trong thơ lục bát". Tạp chí Ngôn ngữ
(3)
[102] Đào Thản (1998), Từ ngôn ngữ chung đến ngôn ngữ nghệ thuật. Nxb Khoa
học xã hội. Hà Nội.
[103] Hoài Thanh - Hoài Chân (1998), Thi nhân Việt Nam. Nxb Văn học (tái bản).
Hà Nội.
[104] Nguyễn Bá Thành (1996), Tƣ duy thơ và tƣ duy thơ hiện đại Việt Nam. Nxb
Văn học. Hà Nội.
[105] Trần Khánh Thành (1998), "Những đối cực của một hồn thơ". Tạp chí Văn
học (11).
[106] Trần Khánh Thành (2002), Thi pháp thơ Huy Cận, Nxb. Văn học.
[107] Lý Toàn Thắng (1999), "Lục bát Huy Cận: Ngậm ngùi". Tạp chí Văn học
(9).


[108] Lý Toàn Thắng (2001), "Bằng trắc lục bát Truyện Kiều". Tạp chí Ngôn ngữ
(4).

[109] Nguyễn Đình Thi (1992), "Mấy ý nghĩ về thơ". Tạp chí Tác phẩm mới (3. bộ
mới).
[110] Đoàn Thiện Thuật (1977), Ngữ âm tiếng việt. Nxb Đại học và Trung học
chuyên nghiệp. Hà Nội.
[111] Đỗ Lai Thúy (2000), Mắt thơ. Nxb Văn hoá - Thông tin. Hà Nội.
[112] Tzvetan Todorov, Trịnh Bá Đĩnh dịch (2000), Thi pháp học cấu trúc. Tạp
chí Văn học nước ngoài (4).
[113] Trần Văn Tích, Tứ thơ. Văn học. Số 124.
[114] Nguyễn Duy Tiến (2000), Tình yêu Thị Nở. Báo Tiền phong, số 122.
[115] Đỗ Quý Toàn (1992), Tìm thơ trong tiếng nói. Thanh Văn xuất bản.
California, USA.
[116] Nguyễn Văn Tu (1978), Từ và vốn từ tiếng Việt hiện đại. Nxb Đại học và
Trung học chuyên nghiệp. Hà Nội.
[117] Nguyễn Văn Tuấn (2002), "Đọc Truyện Kiều bằng thống kê học". Tạp chí
Văn học (1).
[118] Từ láy - những vấn đề còn để ngỏ (1978), Nxb Khoa học xã hội. Hà Nội.
[119] Hoàng Tuệ (1984), Cuộc sống ở trong ngôn ngữ. Nxb Tác phẩm mới, Hội
nhà văn Việt Nam.
[120] Lê Trí Viễn (1978), Lịch sử văn học Việt Nam, T3. Nxb Giáo dục. Hà Nội.
[121] E. Vinokurop (1967), Thơ và tƣ duy. Tài liệu dịch. Viện Ngôn ngữ. Hà Nội.
[122] Nguyễn Như ý (chủ biên) (1978), Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ
học. Nxb Giáo dục. Hà Nội.
[123] Phạm Thu Yến (1998),"Ca dao vọng về" trong thơ Nguyễn Duy". Tạp chí
Văn học (7).
TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG ANH
[124] Allie Patricia Wall (1995), Say It Naturally, London.


[125] Asher R.E. (1968), The Encyclopedia of Language and Linguistics.
Pergamon Press, New York.

[126] Bloofield (1935), Language. London.
[127] Chafe W. L (1971), Meaning and the Structure of language. Chicago and
London.
[128] Halliday (1985), An Introduction to Functional Grammar. London.
[129] Lyon. J (1972), Introduction to Theoritical Linguistics. London.
[130] Jakobson (1960), Linguistics and poestics, In Sebeok (ed), Style in
Language. New York, London.
[131] Julia Kristeva (1998), Language the Unknown. New York.
[132] Simon C. Dik (1989), The theory of Functional Grammar (part I: The
Structure of the Clause). Foris.



×