ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ĐÀ NẴNG
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
TIỂU LUẬN
Học phần: Chuyên đề lý luận về NNPQ và vấn đề xây dựng NNPQ
XHCN ở Việt nam
Đề tài:
Nhận thức về quyền tư pháp trong xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam
Giảng viên hướng dẫn: Th.S Dương Đình Tùng
Sinh viên thực hiện:
Lớp:
Trần Thị Phương Loan
13SGC
1
Đà Nẵng, 2016
PHẦN 1. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong quá trình hình thành và phát triển, nước ta từng trải qua giai
đoạn “sử dụng” nguyên tắc tập quyền, theo nguyên tắc này, quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân nhưng tập trung vào Quốc hội và Quốc hội được
Hiến pháp năm 1980 xác định là cơ quan có toàn quyền. tuy nhiên, bước
vào giai đoạn đổi mới, nguyên tắc này đã bộc lộ ra nhiều hạn chế, không
còn phù hợp với quan điểm phát huy quyền lực thuộc về nhân dân. Nhận
thức rõ điều này, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên xã
hội chủ nghĩa (1991) và Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001)
đã nhấn mạnh quyền lực nhà nước là thống nhất, Nhà nước cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân (Điều 2 khoản 1 Hiến pháp 1992 (sửa
đổi)).
Trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền, trong một xã hội dựa
trên nền kinh tế thị trường như nước ta, xu hướng lạm quyền và vi hiến của
cơ quan hành chính – nhà nước trong quá trình thực thi luật pháp là rất rõ
rệt. Vì vậy, để xây dựng một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam, đạt đến mục tiêu tổ chức, hoạt động tích cực, phát triển bền vững thì
cần có các cơ chế hành lang giúp nó vận hành hiệu quả. Trong đó, có yêu
cầu về hoàn thiện hệ thống luật pháp. Đặc biệt, theo tinh thần của Hiến
pháp 2013, vấn đề định hình lại quyền hạn, vị trí cũng như chiến lược cải
cách tư pháp trong giai đoạn đổi mới là một đòi hỏi cấp thiết, không những
2
có ý nghĩa về mặt tư duy pháp lý, lý luận mà còn đem lại hiệu quả thực tiễn
to lớn nếu được quan tâm và thực hiện đúng đắn.
Để góp phần làm rõ vấn đề trên, cũng như để nghiên cứu lý luận và đề
xuất các kiến nghị, giải pháp thích hợp, tôi lựa chọn đề tài: Nhận thức về
quyền tư pháp trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam
2. Đối tượng nghiên cứu
- Quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền
- Quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
3. Phạm vi nghiên cứu
Vị trí quyền tư pháp trong quyền lực nhà nước, thực trạng và định
hướng chiến lược cải cách tư pháp trong quá trình xây dựng nhà nước
pháp quyền ở Việt Nam.
3
PHẦN 2. NỘI DUNG
Chương I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN TƯ PHÁP TRONG XÂY
DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN Ở VIỆT NAM
1.1 Một số khái niệm
- Nhà nước pháp quyền (NNPQ): là một phạm trù thuộc khoa học
chính trị - pháp lý, xuất hiện khá sớm trong lịch sử tư tưởng nhân loại, bắt
nguồn từ tư tưởng về nguyên tắc cai trị bằng luật pháp (rule by law). Nhà
nước pháp quyền, hiểu một cách cơ bản nhất là một chế độ xã hội và một
chính thể nhà nước đặt pháp luật là nguyên tắc tối thượng.
- Quyền tư pháp: được hiểu là chức năng xét xử các hành vi vi phạm
pháp luật và giải quyết các tranh chấp pháp luật nhằm lập lại công bằng,
công lý trong xã hội. Theo nghĩa rộng, chức năng tư pháp bao gồm các hoạt
động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.
1.2 Cơ sở lý luận về quyền tư pháp trong xây dựng nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam
1.2.1 Lịch sử phát triển của nhà nước pháp quyền và vị trí quyền tư
pháp trong phân chia quyền lực nhà nước
Mặc dù ý niệm về “Nhà nước pháp quyền” (rule of law) được các nhà
nhà triết học Hy Lạp ít nhiều đã đề cập, nhưng phải đến thời kỳ Phục hưng
và Khai sáng châu Âu, khái niệm này mới được thực sự luận bàn và phát
triển và làm tiền đề cho sự thịnh hành ở thế kỷ XX trở đi trên quy mô toàn
cầu.
4
Thời kỳ Phục hưng và Khai sáng châu Âu là thời kỳ phát triển mạnh
mẽ của các trào lưu tư tưởng về đề cao vai trò của pháp luật trong việc xác
lập các nguyên tắc cho tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, cho việc
tôn trọng và bảo đảm các quyền và tự do cơ bản của công dân.
Nhà nước pháp quyền theo quan niệm của các nhà tư tưởng Phục
Hưng và Khai Sáng, đặc biệt là Charles Luis Montesquieu (1689 – 1775), đó
là sự phân chia quyền lực nhà nước thành các nhánh (lập pháp, hành pháp
và tư pháp) rạch ròi, sao cho pháp luật được đề cao và thực thi hiệu quả,
các quyền và tự do cơ bản của công dân được bảo đảm. Nhà nước pháp
quyền là nhà nước nơi những người được ủy giao trọng trách quản lý và
điều hành xã hội, hay nói chung là những người được giao cho việc cai trị,
phải thông qua cơ chế phổ thông đầu phiếu, do người dân bầu ra, dù bằng
hình thức bầu trực tiếp hay qua hình thức đại diện.
Montesquieu đặc biệt nhấn mạnh đến sự phân chia giữa các nhánh
quyền lực nhà nước và về mối quan hệ giữa cơ quan lập pháp (nghị
viện/quốc hội), với cơ quan hành pháp (chính phủ) và cơ quan tư pháp
(tòa án) để hạn chế sự tùy tiện hay vượt quá giới hạn của bất cứ quyền lực
nào, nhất là quyền hành pháp. NNPQ được thực hiện thông qua mô hình
dân chủ điển hình nhất là dân chủ nghị viện, theo đó quyền lập pháp (nghị
viện) hạn chế quyền lực của phía hành pháp (chính phủ). Như vậy chính
phủ không thể tự do hành động theo sở thích của mình và phải luôn có
được sự hậu thuẫn của nghị viện, nơi thể hiện ý chí và nguyện vọng của dân
chúng. Tương tự như vậy, quyền tư pháp cho phép tạo ra sự đối trọng với
một số quyết định của chính phủ, đồng thời giúp công dân bảo vệ được các
quyền và tự do trong trường hợp các quyền ấy bị tùy tiện tước đi bởi cơ
quan hành pháp.
Trong sự phân chia quyền lực nhà nước thành các nhánh rạch ròi như
vậy, quyền tư pháp tồn tại với vị trí độc lập, phân quyền và đáng được phân
5
quyền hơn cả. Đơn cử như Cộng hòa liên bang Hoa Kỳ, mô hình phân chia
quyền lực nhà nước của họ có thể tóm tắt như sau:
Quyền lực nhà nước
Lập pháp
(Nghị viện)
Hành pháp
(Tổng thống)
Tư pháp
(Tòa án)
Trong đó, tổng thống không được quyền trình dự án luật trước Nghị
viện. Quyền lập pháp của Hiến pháp được qui định dành riêng cho cơ quan
lập pháp ngay từ khi có sáng quyền lập pháp. Chỉ có nghị viện mới có quyền
này. Nhưng bằng các con đường không chính thức, tổng thống - người đứng
đầu hành pháp can thiệp rất sâu vào quá trình lập pháp của Nghị viện.
Nếu lạm quyền/ vi phạm pháp luật, tổng thống có thể bị xét xử theo thủ tục
đàn hạch (impeachment), Hạ viện sẽ buộc tội, Thượng viện sẽ xét xử. Ngược
lại, tổng thống cũng có thể kiềm chế Nghị viện bằng quyền phủ quyết
(VETO).
Như vậy, chúng ta có thể thấy lập pháp và hành pháp thực chất không có
sự phân chia tuyệt đối với nhau, theo chế độ đại nghị hay tổng thống đều phụ
thuộc vào mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp, mà không hề phụ thuộc
vào tư pháp. Vậy nên, tư pháp – được thực hiện bằng tòa án phải độc lập là
6
một nguyên tắc đảm bảo cho tòa án có thể xét xử công bằng và đúng đắn
quyền lợi các bên.
1.2.2. Cơ sở pháp lý của quyền tư pháp trong xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Trước đây, chưa có một văn bản pháp luật nào, kể cả Hiến pháp chính
thức xác định khái niệm tư pháp có nội hàm gì, cơ quan tư pháp bao gồm
những cơ quan nào, mà chỉ nêu chung chung trong các Nghị quyết của Bộ
chính trị về công tác tư pháp hay hoạt động tư pháp bao gồm: hoạt động điều
tra, hoạt động truy tố, hoạt động xét xử và hoạt động thi hành án.
Và Hiến pháp năm 2013 đã đánh dấu một giai đoạn mới trong nhận thức
về tư pháp ở Việt Nam. Cụ thể:
Theo điều 2, khoản 3 và điều 102, khoản 1 Hiến pháp nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy định “Quyền lực nhà nước là thống
nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”, “Tòa án nhân dân
là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện
quyền tư pháp”
Với quy định này, văn bản luật cao nhất nước ta đã định hình và thu hẹp
phạm vi của quyền tư pháp trong quyền xét xử, được thực hiện bởi Tòa án
nhân dân
Chương II. THỰC TRẠNG VIỆC THỰC HIỆN QUYỀN TƯ PHÁP VÀ
ĐỊNH HƯỚNG CẢI CÁCH TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM TRONG THỜI KÌ
ĐỔI MỚI.
2.1 Thực trạng việc thực hiện quyền tư pháp ở Việt Nam.
Để nhận thấy rõ hơn về công tác thực hiện tư pháp ở nước ta, cần xem
xét từ mô hình nhà nước pháp quyền mà nước ta đã và đang xây dựng: nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Vậy, nhà nước pháp quyền xã hội chủ
7
nghĩa có gì khác so với nhà nước pháp quyền tư sản- vốn là nơi đầu tiên hình
thành nên nhà nước pháp quyền.
Điểm khác biệt căn bản đó là ở các nhà nước xã hội chủ nghĩa nói chung
và đối với Việt Nam nói riêng, đều sử dụng chế độ nhất nguyên chính trị, đây
là sản phẩm tất yếu của cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản dưới sự lãnh đạo
của Đảng cộng sản chống lại giai cấp vô sản, đại diện cho quyền lợi và là lực
lượng tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động. Chính vì vậy,
khi xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta, Đảng cộng sản cũng trở thành
lực lượng cầm quyền, hướng tới nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa “của
dân, do dân và vì dân” (Điều 2 Hiến pháp 2013).
Đặc điểm trên cũng là tính đặc thù của nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa. Và thuận lợi cơ bản của nước ta- một nước đi theo định hướng xã hội
chủ nghĩa khi xây dựng nhà nước pháp quyền đó là sự đồng thuận từ xã hội,
với nền tảng liên minh công- nông- tri thức, khối đại đoàn kết dân tộc rộng rãi
trên cả nước, tạo nên một nguồn sức mạnh to lớn, phát huy sức mạnh dân chủ.
Tuy nhiên, việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội tại nước ta còn
mang nhiều hạn chế, đặc biệt là ở tính hoàn bị của hệ thống luật pháp. Cần
nhìn nhận rõ nguyên nhân đến từ sự thiếu thoàn thiện của luật pháp khiến cho
quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa gặp nhiều khó
khăn, chứ không phải đến từ việc giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ khi
xây dựng nhà nước pháp quyền ở một nước xã hội chủ nghĩa như nước ta.
2.1.1 Thực trạng việc thực hiện quyền tư pháp ở Việt Nam
Như đã trình bày, tư pháp vốn dĩ nên “là cành quyền lực đáng được phân
quyền hơn cả”1. Phân quyền ở đây, tức là công nhận tính độc lập trong các
hoạt động của nó. Trước khi được quy định về cơ quan thực quyền tư pháp
trong Hiến pháp 2013 (Hiến pháp 1992 sửa đổi) là Tòa án nhân dân thì quyền
1 N.Đ.Dung. Tạp chí khoa học DDHQGHN, Luật học 25 (2009), tr.135
8
tư pháp ở Việt Nam từng được phối hợp bởi nhiều cơ quan: Tòa án, Thủ
tướng, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Quốc hội. Có thể thấy, sự ảnh hưởng của
các cơ quan vốn mang chức năng lập pháp (Quốc hội), hành pháp (Chính phủ)
đã ảnh hưởng và tác động đến tính độc lập của cơ quan tư pháp như thế nào.
Không như ở các nước tư bản là hoạt động tư pháp thuộc về cơ quan xét
xử, ở nước ta còn bao gồm cả cơ quan điều tra, truy tố,… Xuất phát từ sự
phân quyền không rạch ròi giữa hành pháp và tư pháp. Ngoài ra còn bởi vì
nhà nước ta hoạt động và tổ chức theo nguyên tắc tập quyền, tòa án không thể
độc lập đưa ra quyết định mà còn phụ thuộc rất nhiều vào chỉ đạo, các văn
bản hướng dẫn từ cơ quan nhà nước và đảng lãnh đạo; phạm vi xét xử bị bó
hẹp vào khuôn khổ nhất định, không có thẩm quyền xét xử đối với các hoạt
động thuộc lập pháp, hành pháp, các cơ quan lãnh đạo.
2.1.2 Định hướng cải cách tư pháp trong thời kì đổi mới ở nước ta hiện
nay
“Cũng không có gì là tự do nếu quyền tư pháp không tách khỏi quyền
lập pháp và hành pháp. Nếu quyền tư pháp nhập lại với quyền lập pháp thì
người ta sẽ độc đoán với quyền sống và quyền tự do của công dân, quan tòa
sẽ là người đặt ra luật. Nếu quyền tư pháp nhập lại với quyền hành pháp thì
ông quan tòa sẽ có cả sức mạnh của kẻ đàn áp”2
Với tư cách là người phát triển hoàn thiện học thuyết tam quyền phân
lập, nền tảng trong xây dựng nhà nước pháp quyền, Montesquieu cũng đưa ra
nhận định về sự cần thiết độc lập của tư pháp.
Hay như Cộng hòa liên bang Hoa Kỳ- một nhà nước pháp quyền theo xu
hướng rắn (phân chia rạch ròi). Ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp
hoàn toàn độc lập với nhau nhưng có thể kiềm chế và đối trọng lẫn nhau.
Trong đó, quyền tư pháp được thực hiện bởi tòa án, hoàn toàn độc lập với
2 Montesquieu. Bàn về tinh thần pháp luật. Quyển XII, chương 3
9
quyền lập pháp và hành pháp; thẩm phán xét xử tuân theo pháp luật, được bổ
nhiệm suốt đời và không ai có quyền cách chức trừ khi vi phạm pháp luật, bị
thải hồi theo thủ tục đàn hạch (impeachment); đặc biệt, có quyền xét xử các
cơ quan nhà nước và các quan chức vi phạm pháp luật hành chính khi thực thi
công vụ, xem xét tính hợp hiến của các luật và văn bản dưới luật.
Từ thực trạng về thực hiện quyền tư pháp đã nêu trên ở nước ta, trong
đường lối đổi mới Đảng đã hết sức quan tâm đến việc đổi mới, cải cách hệ
thống tư pháp. Thể hiện qua chỉ đạo chung của Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XII: Xác định rõ cơ chế phân công, phối hợp thực thi quyền lực nhà
nước, nhât là cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước giữa các cơ quan nhà
nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp trên cơ
sở quyền lực nhà nước là thống nhất; xác định rõ hơn quyền lực và trách
nhiệm của mỗi quyền.3
Thực hiện theo chỉ đạo chung đó, Bộ Chính trị đã có Nghị quyết về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 (Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
2-6-2005)
Vấn đề trọng tâm về đổi mới, cải cách tư pháp trong xây dựng nhà nước
pháp quyền ở nước ta là tăng cường tính độc lập của tòa án , tính độc lập
trong thực hiện quyền xét xử, đảm bảo nguyên tắc này được có hiệu lực thực
tế. Hiến pháp 1992 (sửa đổi), Luật tổ chức tòa án nhân dân 2002 là những văn
bản quan trọng nhất làm cơ sở pháp lý cho việc thiết lập môt hệ thống tòa án
nhân dân độc lập
Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền, cải cách tư pháp phải
quán triệt các nguyên tắc của việc thực hiện quyền tư pháp như nguyên tắc
khách quan, vô tư, công bằng, độc lập và chỉ cần tuân theo pháp luật của các
chức danh tư pháp khi thực hiện tư pháp; nguyên tắc chịu trách nhiệm của
các cơ quan, chức danh tư pháp về các quyết định của mình; nguyên tắc đảm
3 Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, tr.40
10
bảo việc nhân dân tham gia và giám sát hoạt động tư pháp;…;nguyên tắc mọi
công dân bình đẳng trước pháp luậ, trước các cơ quan tố tụng.4
PHẦN 3. KẾT LUẬN
1. Kiến nghị giải pháp
Trước thực trạng tổ chức cũng như hoạt động còn nhiều hạn chế của hệ
thống tư pháp, đảng và nhà nước ta đã chủ động đưa ra những chính sách, chỉ
đạo điều chỉnh và có kế hoạch cải cách về lâu dài.
Với tư cách là công dân nước CHXHCN Việt Nam, cá nhân tôi muốn
nêu ra một số giải pháp về cải cách tư pháp ở nước ta:
-
Học hỏi: kinh nghiệm ở các nước trong khu vực và quốc tế về tính
hiệu quả của một số mô hình về nhà nước pháp quyền như đề cao tính tối
cao của Hiến pháp, tinh thần thượng tôn pháp luật, tính độc lập của tư pháp.
Áp dụng một cách linh hoạt vào đặc điểm tình hình nước ta, đảm bảo giữ
vững bản sắc.
Phân quyền rõ ràng: quyền tư pháp cũng như lập pháp và hành pháp
cần có sự phân chia rạch ròi (xu hướng rắn), không nhầm lẫn và tiếm quyền
lẫn nhau, có sự phối hợp, hỗ trợ nhưng không cản trở quá trình hoạt động
của nhau.
4 Giáo trình trung cấp lý luận chính trị-hành chính: Những vấn đề cơ bản về hệ thống chính trị, nhà nước và
pháp luật xã hội chủ nghĩa. Nxb Lý luận chính trị, tr.55
11
Hoàn thiện hệ thống luật pháp: tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động tư
-
pháp được độc lập trong quyền hạn của mình. Đồng thời, mở rộng quyền
hạn của tư pháp đến chỗ đối tượng xét xử các hành vi của lập pháp và hành
pháp.
2. Kết luận
Theo tinh thần Đại hội đại biểu toàn quốc XII đó là: Xây dựng, hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phải tiến hành đồng bộ cả lập
pháp, hành pháp, tư pháp và được tiến hành đồng bộ với đổi mới hệ thống
chính trị theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả. Các Bộ, ban ngành đã tích
cực hoàn thiện hệ thống luật pháp, đặc biệt là nhìn nhận và đánh giá đúng đắn
vai trò cũng như vị trí của tư pháp trong xây dựng Nhà nước pháp quyền. Chủ
động đưa ra chiến lược cải cách cho hệ thống tư pháp, cả về mặt lý luận và
đảm bảo thực tiễn thực hiện. Tuy khó tránh khỏi những khó khăn và hạn chế
nhưng đây là một tín hiệu đáng mừng đối với hệ thống tư pháp nói riêng và
quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói
chung.
12
PHẦN 4. TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. GS.TS Trần Ngọc Đường, Một số vấn đề về phân công, phối hợp và
kiểm soát quyền lực trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
(Sách chuyên khảo), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011
[2]. C.L.Montesquieu, Bàn về tinh thần pháp luật (De L’esprit Des
Lois), Hoàng Thanh Đạm dịch, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2006
[3]. TS. Mai Thị Thanh, Hình thức Nhà nước và vấn đề xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002
[4]. Học viện chính trị quốc gia TP.HCM, Giáo trình trung cấp lý luận
chính trị- hành chính: Những vẫn đề cơ bản về hệ thống chính trị, nhà nước
và pháp luật xã hội chủ nghĩa. Nxb Lý luận chính trị, 2016
[5]. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2016
[6]. Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam, Nxb chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2014
13
[7]. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2009 của Bộ Chính
Trị về Chiến lược cải cách Tư pháp đến năm 2020
[8]. Nguyễn Đăng Dung, Cải cách tư pháp trong tổ chức quyền lực Nhà
nước, Tạp chí Khoa học ĐH QGHN, Luật học 25 (2009), tr.135-144
[9]. />ItemID=181
[10]. />ItemID=1989
14