Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

TIỂU LUẬN tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH về NHÀ nước KIỂU mới và một số vấn đề xây DỰNG NHÀ nước PHÁP QUYỀN xã hội CHỦ NGHĨA ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.95 KB, 25 trang )

Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước kiểu mới và vấn đề xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện
nay
Mở đầu
Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng về Nhà nước kiểu mới là
nội dung cơ bản chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống qua điểm, tư
tưởng cách mạng của Người. Tư tưởng về nhà nước của dân, do dân và vì dân
sớm hình thành ở Hồ Chí Minh và Người đã hiện thực hóa những tư tưởng đó
ngay sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Nghiên cứu tư tưởng Hồ
Chí Minh về Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam có ý nghĩa cấp thiết về lý luận và
thực tiễn đối với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
của dân, do dân và vì dân đáp ứng những yêu cầu của nền kinh tế thị trường và hội
nhập quốc tế.
Quan tâm xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước là đòi hỏi khách quan.
Đảng ta khẳng định: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
nhà nước của dân, do dân, vì dân. Ở đó quyền làm chủ của nhân dân được
bảo đảm và phát huy trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong nhà nước
đó, dân chủ được bảo đảm bằng pháp luật, dân chủ đi đôi với kỷ cương trật
tự, được thể chế hoá bằng pháp luật, trong khuôn khổ pháp luật. Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam biểu hiện trực tiếp sức mạnh của của
hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó là một
nhà nước đại diện cho quyền lực của nhân dân, mọi tổ chức nhà nước dựa
trên nền dân chủ, vì dân chủ và do đó, bằng pháp luật và vì công lý. Điều đó
đã được thực tiễn chứng minh từ khi nhà nước ra đời đến nay


1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước kiểu mới
ở Việt Nam.
Xuất phát từ quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn đề nhà nước và
xây dựng nhà nước kiểu mới.


Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin thì nhà nước thực chất là một tổ
chức đặc biệt của quyền lực chính trị, một bộ máy chuyên làm nhiệm vụ cưỡng
chế và thực hiện chức năng quản lý đặc biệt nhằm duy trì trật tự xã hội, thực hiện
mục đích bảo vệ địa vị của giai cấp thống trị trong xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh
thấm nhuần một cách sâu sắc những quan điểm này và vận dụng một cách đúng
đắn, sáng tạo vào xây dựng và phát triển Nhà nước kiểu mới ở nước ta.
Những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề nhà
nước nói chung, Nhà nước xã hội chủ nghĩa nói riêng là cơ sở lý luận khoa
học để Người đánh giá phê phán các học thuyết khác về tổ chức nhà nước
cũng như khảo sát các kiểu thực tiễn Nhà nước một cách chính xác. Từ đó
hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam, làm
cho tư tưởng này của Hồ Chí Minh thật sự cách mạng, khoa học, trở thành
nền tảng tư tưởng của đường lối xây dựng và hoàn thiện Nhà nước xã hội
chủ nghĩa Việt Nam của Đảng ta.
* Hồ Chí Minh đã nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc những kinh
nghiệm quý báu trong lịch sử dân tộc về xây dựng nhà nước, và các kiểu
nhà nước tiêu biểu trong lịch sử nhân loại.
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, cha ông ta đã tích luỹ được
nhiều kinh nghiệm quý báu về xây dựng Nhà nước. Điều này thể hiện rõ qua
các bộ sử và các bộ luật lớn của dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nghiên
cứu rất kỹ lịch sử các triều đại, đặc biệt là triều đại nhà Lý, Trần, Lê và tiếp


thu ở đó nhiều kinh nghiệm quý báu. Đó là tư tưởng trị nước bằng nhân trị,
đức trị của nhiều bậc hiền tài, tư tưởng pháp quyền và tư tưởng “thân dân”
của nhà nước thời kỳ phong kiến hưng thịnh hoặc tư tưởng "nước lấy dân
làm gốc” tiếp thu được ở Nho giáo, là những cơ sở hành trang ban đầu mà
Hồ Chí Minh mang theo trên con đường cứu nước và tìm kiếm một mô hình
Nhà nước tiến bộ cho nước nhà sau khi giành được độc lập.
Hồ Chí Minh đã nghiên cứu, khảo sát các kiểu nhà nước tiêu biểu

trong lịch sử nhân loại. Đây là một trong những cơ sở quan trọng để Hồ Chí
Minh lựa chọn, xác lập mô hình Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam. Người đã trực
tiếp nghiên cứu, vạch trần bản chất xấu xa, tàn bạo của nhà nước thực dân
phong kiến ở các xứ "bảo hộ"; chỉ rõ thực chất cái gọi là "công lý", là "khai hoá
văn minh" mà đế quốc thi hành đối với nhân dân ở các xứ "bảo hộ", không có
gì khác là các hình thức hành hình tra tấn và giết người man rợ theo kiểu Linsơ
ở Mỹ. Vì thế, để thực hiện giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp không có
con đường nào khác là phải đấu tranh lật đổ chế độ nhà nước này.
Quá trình tìm đường cứu nước từ năm 1911 đến năm 1930, Hồ Chí
Minh đã đặc biệt chú ý xem xét những vấn đề chính quyền Nhà nước, thiết
chế chính trị và thể chế dân chủ. Người đã có những đánh giá rất sâu sắc về
cách mạng tư sản Mỹ 1776, cách mạng tư sản Pháp 1789; cách mạng xã hội
chủ nghĩa Tháng Mười Nga 1917. Những cuộc cách mạng xã hội lớn này đã
tạo lập nên các nhà nước tiêu biểu trong lịch sử: Nhà nước tư sản và Nhà
nước xã hội chủ nghĩa.
Từ nghiên cứu, so sánh bản chất các kiểu nhà nước trên thế giới, Hồ
Chí Minh đã kết luận: "Nhà nước phong kiến là công cụ của địa chủ để
thống trị nông dân. Nhà nước tư bản là công cụ của giai cấp tư sản để thống
trị giai cấp công nhân. Song, từ cách mạng Nga thành công, một xã hội mới


ra đời, nhà nước đã trở nên công cụ thống trị của nhân dân lao động" 1. Với
bản chất ưu việt của Nhà nước Xô viết - Nhà nước kiểu mới đầu tiên trên thế
giới, đã "gợi ý" cho Hồ Chí Minh về việc kiến lập và phát triển một Nhà
nước kiểu mới phù hợp với điều kiện ở Việt Nam. Thực tế cho thấy Hồ Chí
Minh là người Việt Nam đầu tiên tin và đi theo chủ nghĩa Mác - Lênin, đi
theo con đường Cách mạng Tháng Mười và đã lãnh đạo cách mạng Việt
Nam đi đến thành công, tạo dựng và phát triển Nhà nước kiểu mới đầu tiên ở
Đông Nam Á. Trong suốt quá trình cách mạng kể cả trong đấu tranh giải
phóng dân tộc, thống nhất đất nước cũng như trong quá trình xây dựng chủ

nghĩa xã hội, nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa luôn khẳng định vị trí vai
trò và sức mạnh to lớn to lớn và hoàn thành sứ mệnh cao cả của mình.
2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước kiểu mới.
2.1. Nhà nước kiểu mới là nhà nước của dân, do dân, vì dân
Tư tưởng cốt lõi và nhất quán của Hồ Chí Minh về Nhà nước Việt
Nam, đó là một chính quyền mạnh, một chính quyền sáng suốt, một chính
quyền của dân, do dân, thành lập và hoạt động vì nhân dân.
* Nhà nước của dân
Đó là nhà nước thể hiện đầy đủ tư tưởng “Bao nhiêu quyền hạn đều vì
dân”. Nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước. Nguồn gốc của quyền lực
nhà nước bắt nguồn từ nhân dân. Để nhà nước thực sự của dân, Hồ Chí Minh
yêu cầu không chỉ thể hiện bằng những khẩu hiệu trìu tượng, mà phải xác lập
bằng một cơ chế khoa học. Đó là cơ chế nhân dân tạo ra quyền lực nhà nước
một cách dân chủ, nhân dân có quyền kiểm soát quyền lực nhà nước một cách
hữu hiệu và nhân dân có quyền thu hồi lại quyền lực nhà nước nếu có sự tha
hoá từ chính cán bộ của nhà nước. Để xây dựng nhà nước của dân Hồ Chí
Minh đã nêu lên và thực hiện 3 vấn đề sau:
1

Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 216


1. Xây dựng một chế độ dân bầu cử dân chủ nhằm bảo đảm “chính
quyền từ xã đến chính phủ, Trung ương do nhân dân bầu cử ra”. Cách mạng
Tháng Tám thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ động xây dựng Nhà
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà - nhà nước pháp quyền, hợp pháp, hợp
hiến, dân chủ và coi trọng tính hiệu lực, hiệu quả thực tế - một cách bài
bản, quy củ, đúng đắn. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quan tâm cả hai mặt:
nhanh chóng tổ chức các thiết chế của bộ máy nhà nước và ban hành các
thể chế (hiến pháp và pháp luật) tạo cơ sở pháp lý và khoa học để tổ chức

"một chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân".
Trong bối cảnh cực kỳ khó khăn, phức tạp của ngày đầu giành được
chính quyền, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, ngày 3-91945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề nghị: "Chính phủ tổ chức càng sớm càng
hay cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu. Tất cả công dân
Việt Nam trai gái mười tám tuổi đều có quyền ứng cử và bầu cử, không phân
biệt giàu nghèo, tôn giáo, dòng giống…"2, và "Tổng tuyển cử là một dịp cho
toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người có tài, có đức để gánh vác
công việc nước nhà... Do Tổng tuyển cử mà toàn dân bầu ra Quốc hội. Quốc
hội sẽ cử ra Chính phủ. Chính phủ đó thật là Chính phủ của toàn dân”3.
2. Xây dựng một cơ chế bảo đảm “quyền kiểm soát của nhân dân đối
với đại biểu của mình” làm cho “tất cả các cơ quan nhà nước là phải dựa vào
nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm
soát của nhân dân”. Sự kiểm tra giám sát của nhân dân là một yêu cấu rất
cần thiết nhằm tiếp tục giữ vững quyền lực của mình.
3. Xây dựng cơ chế pháp lý để nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu
quốc hội và đại biểu hội đồng nhân dân các cấp nếu những đại biểu ấy tỏ ra
2
3

Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 8
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 133


không xứng đáng với tín nhiệm của nhân dân. Người nói: "Nếu chính phủ
làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ”4, “có quyền bãi miễn đại biểu
Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân, nếu những đại biểu ấy tỏ ra không
xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân. Nguyên tắc ấy bảo đảm quyền kiểm
soát của nhân dân đối với đại biểu của mình"5. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, từ
Chủ tịch nước đến giao thông viên, nếu không làm được việc cho dân thì dân
không cần nữa, và dân có quyền bãi miễn, tìm người khác có đủ đức tài để thay

thế. Cán bộ đó có biểu tư túng, thoái hoá, biến chất thì nhân dân sẽ thu hồi
những quyền đó bằng hình thức bãi miễn và trao lại quyền hành cho những
người khác mà nhân dân tín nhiệm.
* Nhà nước do dân
Nhà nước do dân là phản ánh mối quan hệ giữa nhân dân với nhà
nước. Hồ Chí Minh khẳng định “Không có nhân dân thì nhà nước không có
đủ lực lượng”, “Lực lượng bao nhiêu là ở dân hết”, “công việc đổi mới, xây
dựng là trách nhiệm của nhân dân”. Như vậy, nhân dân ở đây đóng vai trò là
lực lượng của mọi hoạt đông xây dựng và bảo vệ đất nước, còn nhà nước
đóng vai trò dẫn đường. Nhà nước có nhiệm vụ “đem tài dân, sức dân, của
dân để làm lợi cho dân. Nhà nước phải tạo khung pháp lý để cho nhân dân tự
do lao động sáng tạo, để tự nuôi bản thân họ và có trách nhiệm đóng góp cho
nhà nước như nộp thuế để nươi bộ máy nhà nước. Nhà nước có nhiệm vụ tổ
chức sắp đặt kế hoạch để mỗi công dân phát huy tốt quyền và nghĩa vụ của
mình.
Trong chiến tranh cũng như trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội, mọi thắng lợi của các phong trào cách mạng đều xuất phát từ lực lượng
nhân dân. Sự đóng góp của nhân dân đối với nhà nước không ngoài mục
4
5

Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 60
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 591


đích là lấy tài dân, sức dân để làm những việc cho dân. Nó vừa là nghĩa vụ
vừa là trách nhiệm, tình cảm của mỗi người dân.
Hồ Chí Minh cũng rất quan tâm đến công tác phê bình, kểm điểm của
cán bộ nhà nước trước nhân dân rthành một chế độ thường xuyên đẻ thâu
nhận được những nguyện vọng, ý kiến đóng góp của nhân dân đối với cán

bộ. Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ, đảng viên phỉa đi sâu, đi sát nhân dân, học
hỏi nhân dân, đúc kết ý kiến của nhân dân để khái quát thành chủ trương, kế
hoạch của người lãnh đạo rồi trở lại phục vụ nhân dân.
Ngoài những nội dung nhân dân thực hiện theo pháp luật, thì còn có
những vấn đề xã hội hoá sâu sắc trên các địa bàn dân cư phải do dân cư bàn
bạc, tự tổ chức, tự quản lý. Vấn đề này đồng nghĩa với việc nhân dân làm
chủ.
* Nhà nước vì dân
Trước hết nhà nước phải tôn trọng và bảo vệ quyền con người và
quyền công dân trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị , xã hội, đảm bảo quyền
làm chủ của nhân dân trong phạm vi cả nứơc, từng địa phương, từng cơ sở
và tập thể lao động. Trong thực tế, Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc thảo
luận, phát huy sáng kiến và tìm cách giải quyết mọi vấn đề của nhân dân.
Người chỉ rõ rằng: "Nghị quyết gì mà dân chúng cho là không hợp thì để họ
đề nghị sửa chữa. Dựa vào ý kiến của dân chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ
chức của ta"6.
Nhà nước vì dân thể hiện ở tinh thần “bao nhiêu lợi ích đề vì dân” để
thực sự nhà nước vì dân, Hồ Chí Minh chỉ rõ; các cơ quan của chính phủ,
cán bộ từ trung ương đến cơ sở là người “đầy tớ”, “công bộc” của nhân dân,
ở đây cũng phải hiểu rằng “đầy tớ” không có nghĩa là người ăn ở phục dịch
“bị sai khiến” mà là những công chức chuyên thực thi công vụ (tức là việc
6

Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 297


công) trong các cơ quan nhà nước, không vì tư lợi, mà vì lợi ích của toàn thể
nhân dân , trước hết là nhân dân lao động. Vì vậy, Hồ Chí Minh yêu cầu”
việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức
tránh”7. Người nhấn mạnh: “phải thường xuyên chăm lo xây dựng đội ngũ

cán bộ”. Cán bộ trong tư tưởng Hồ Chí Minh là người phải là cho dân yêu,
dân yêu, không tự kiêu, không mắc các bệnh làm quan cách mạng, phải
siêng năng, siêng nghe, siêng đi, siêng nghĩ và siêng làm. Một nhà nước vì
dân không chỉ thể hiển trên lời nói mà phải bằng những việc làm thiết thực
như: bảo đảm nhu cầu của nhân dân về ăn, mặc, ở, đi lại, học tập, chữa bệnh,
quyền tự do dân chủ. Nhà nước phấn đấu không ngừng để nâng cao đời sống
vật chất, tinh thần cho nhân dân, ban hành nhiều chế độ chính sách như; xoá
đói giảm nghèo, xây dựng quỹ giúp đỡ những gia đình chính sách, người có
công với cách mạng, người già cô đơn, người không còn nơi lương tựa,
người tàn tật…để mọi người đều được hưởng những quyền lợi như những
người khác.
Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu nhà nước phải biết yêu dân, kính dân
có trách nhiệm và chịu trách nhiệm trước dân. Sau cách mạng Tháng 8 năm
1945, Người đã sớm nhận ra và cảnh báo về những hiện tượng suy thoái đạo
đức trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và chỉ rõ những biện pháp phòng
ngừa, sửa chữa để chấn chỉnh bộ máy chính quyền, làm cho Nhà nước ta
thực sự là nhà nước của dân, do dân vì dân.
Như vậy, tin vào dân, dựa vào dân là một nguyên tắc căn bản trong
chiến lược đoàn kết của Hồ Chí Minh. Đối với người; yêu dân, tin dân, dựa
và dân sống đấu tranh vì dân là nguyên tắc tối cao xuyên suốt trong tư duy
chiến lược và hoạt động thực tiễn. Người khái quát ngắn gọn: “gốc có vững

7

Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 56, 57


cây mới bền, xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”, “Dễ trăm lần dân không
cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”.
2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa bản chất giai

cấp công nhân với tính nhân dân, tính dân tộc của nhà nước ta
Về lý luận, các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học đã đề cập rất
sâu sắc bản chất giai cấp của nhà nước. Chủ nghĩa Mác-Lênin đã khẳng định
nhà nước là sản phẩm của xã hội từ khi có giai cấp. Như vậy, nhà nước chỉ
xuất hiện và tồn tại khi nào trong xã hội có giai cấp. Các nhà kinh điển còn
cho rằng, nhà nước là ý chí và sự cai trị của một giai cấp nhất định trong xã
hội.
Trung thành với chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh khẳng định, nhà
nước Việt Nam ra đời sau cách mạng tháng Tám năm 1945 mang bản chất
giai cấp công nhân. Theo Hồ Chí Minh bản chất giai cấp công nhân của nhà
nước kiểu mới ở Việt Nam được thể hiện trên những mặt chủ yếu sau:
* Nhà nước ta do Đảng Cộng sản lãnh đạo
Đây là điều mà Hồ Chí Minh luôn luôn nhấn mạnh. Người xác định rõ
vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền. Đó là chức năng
của một Đảng cộng sản sau khi lãnh đạo toàn dân khởi nghĩa giành được
chính quyền về tay nhân dân. chính quyền nhà nước đó, xét cho đến cùng là
kết quả phấn đấu bền bỉ của Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở thực hiện ý
chí, nguyện vọng của nhân dân và toàn thể dân tộc Việt Nam. Mục tiêu hoạt
động của nhà nước ta phù hợp với vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân Việt Nam; bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội, giải phóng giai cấp công nhân và toàn thể dân tộc.
Ngay trong giai đoạn chính quyền nhà nước còn non trẻ, trong tình thế
thù trong, giặc ngoài, “ngàn cân treo trên sợi tóc”, nhưng nhà nước ta vẫn


đặt đưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Nói đúng hơn là nhân dân uỷ thác
cho đảng lãnh đạo xã hội, lãnh đạo nhà nước trong bất kỳ tình huống nào.
* Nhà nước ta dựa trên khối đoàn kết toàn dân mà nòng cốt là liên
minh công nhân, nông dân, trí thức do giai cấp công nhân lãnh đạo.
Hình mẫu nhà nước Xô Viết đã được các nghị quyết của Quốc tế III

đấu tranh, nhưng đó là cái chung nhất. Đối với từng nước phải tuỳ vào điều
kiện, hoàn cảnh cụ thể để lập chính quyền sau khi giành được thắng lợi.
Trong cao trào 1930-1931 ở nước ta đã xuất hiện Xô Viết – Nghệ Tĩnh theo
hình mẫu trên. Đảng ta đã nhận thức kiểu chính quyền như vậy trong các
nghị quyết của mình. Sau này Hồ Chí Minh nhận ra rằng, cơ sở Nhà nước
Việt Nam không chỉ dựa trên liên minh công nông mà còn là khối đại đoàn
kết toàn dân tộc mà nòng cốt là liên minh công nhân, nông dân và tầng lớp
trí thức. Đây là quan điểm phát triển sáng tạo so với quốc tế III, là sự vận
dụng mẫu hình chính quyền Xô viết cho phù hợp với hoàn cảnh của Việt
Nam.
Tại kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa I nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa, Quốc hội đã ủy nhiệm cho Chủ tịch Hồ Chí Minh thành lập một Chính
phủ mới. Trong lời tuyên bố sau khi thành lập, Người nói: "Chính phủ mới
phải tỏ rõ cái tinh thần đại đoàn kết, không phân đảng phái...là Chính phủ
toàn quốc có đủ nhân tài Trung, Nam, Bắc tham gia"8.
*Nhà nước tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ
Đây cũng là biểu hiện bản chất giai cấp công nhân của nhà nước ta,
được phản ảnh qua những quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng nhà
nước. Hiến pháp năm 1946 và năm 1959 do Hồ Chí Minh trực tiếp chỉ đạo
việc soạn thảo và được quốc hội khoá I nước Việt Nam dân chủ cộng hoà

8

Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 430


thông qua đều thể hiện rõ nguyên tắc tổ chức và hoạt động trên đây của
chính quyền nhà nước từ Trung ương đến cơ sở.
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân và vì
dân dưới sự lãnh đạo của Đảng đã hàm chứa sự thống nhất không thể tách

rời giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân và tính dân tộc. Suy
rộng ra, chúng ta thấy Người đã giải quyết thành công mối quan hệ biện
chứng giữa Nhà nước với các bộ phận hợp thành của hệ thống chính trị, trong
đó Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.
2.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước pháp quyền
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người có ý thức sớm về tầm quan trọng
của pháp luật trong quản lý xã hội. Năm 1919, trong yêu sách của người
dân An Nam, ký tên Nguyễn ái Quốc, gửi tới Vecxây, Hồ Chí Minh đã
quan tâm đến vấn đề pháp luật, yêu cầu thực dân Pháp thay thế chế độ ra
sắc lệnh ở Đông Dương bằng việc ra các đạo luật, cải cách nền công lý ở
Đông Dương; người bản xứ cũng có quyền được hưởng những bảo đảm
pháp luật xoá bỏ các toà án đặc biệt…
Sau khi Người đọc Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố với đồng bào
trong nước và thế giới về sự khai sinh ra Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam.
Tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
(3.9.1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập sáu vấn đề cấp bách, trong đó
vấn đề thứ ba là: "Chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ. Tôi đề nghị
Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử với chế độ
phổ thông đầu phiếu" 9 để sớm có một nhà nước hợp hiến do nhân dân
bầu ra. Ngày 20 tháng 9 năm 1945, Người ký Sắc lệnh số 34 thành lập
Uỷ ban dự thảo Hiến pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà để
chuẩn bị đệ trình quốc hội. Uỷ ban gồm 7 vị, do Người làm Trưởng ban.
9

Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 8


Mặc dù trước những khó khăn dồn dập do thù trong, giặc ngoài gây
ra, cuộc Tổng tuyển cử trong cả nước đã được tiến hành chỉ bốn tháng sau
ngày độc lập. Đây là một cuộc phổ thông đầu phiếu được tổ chức nhanh

nhất, diễn ra sớm nhất, một kỷ lục chưa quốc gia nào đạt được kể từ khi sau
khi lật đổ ách thống trị thực dân, đưa lực lượng chính trị của nhân dân lên
cầm quyền.
*Nhà nước pháp quyền thực hiện việc quản lý xã hội bằng pháp luật
và phải làm cho pháp luật có hiệu lực trong thực tế. Các nhà nước đều phải
dùng pháp luật để quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nhưng bản chất
pháp luật của các nhà nước có sự khác nhau, Hồ Chí Minh chỉ rõ bản chất
pháp luật của ta là pháp luật thật sự dân chủ vì nước ta là một nước dân chủ.
Trong một nhà nước dân chủ, dân chủ và pháp luật phải luôn luôn đi đôi với
nhau, nương tựa vào nhau mới bảo đảm được cho chính quyền trở nên mạnh
mẽ. Không thể có dân chủ ngoài pháp luật, vì pháp luật là bà đỡ của dân chủ.
Mọi quyền dân chủ của người dân phải được thể chế hoá bằng hiến pháp và
pháp luật, ngược lại hệ thống pháp luật phải đảm bảo quyền tự do, dân chủ
của người dân phải được tôn trọng trong thực tế. Xây dựng một nền pháp
chế xã hội chủ nghĩa bảo đảm được việc thực hiện quyền lực của nhân dân là
mối quan tâm suốt đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Là người sáng lập Nhà nước dân chủ mới Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí
Minh cũng là người có công lớn nhất trong sự nghiệp lập hiến và lập pháp.
Ở cương vị Chủ tịch nước, Người đã hai lần đứng đầu Uỷ ban soạn thảo
Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959, đã ký Lệnh công bố 16 đạo luật, 613
sắc lệnh và nhiều văn bản dưới luật khác...
Một mặt, chăm lo hoàn thiện Hiến pháp và hệ thống pháp luật của
nước ta; mặt khác, Người hết sức chăm lo đưa pháp luật vào cuộc sống, tạo
ra cơ chế đảm bảo cho pháp luật được thi hành, cơ chế kiểm tra, giám sát


việc thi hành đó trong cơ quan nhà nước và trong nhân dân. Hồ Chí Minh đã
từng chỉ rõ: “Công bố đạo luật này chưa phải đã là mọi việc đều xong, mà
còn phải tuyên truyền giáo dục lâu dài mới thực hiện được tốt"10.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn nêu gương trong việc khuyến khích

nhân dân phê bình, giám sát công việc của Chính phủ, đồng thời không
ngừng nhắc nhở cán bộ các cấp, các ngành phải gương mẫu trong việc tuân
thủ pháp luật, trước hết là các cán bộ thuộc ngành hành pháp và tư pháp.
Để tiến tới một Nhà nước pháp quyền mạnh mẽ, Hồ Chí Minh đã chỉ
rõ phải nhanh chóng đào tạo, bồi dưỡng nhằm hình thành một đội ngũ cán
bộ, viên chức có trình độ văn hoá, am hiểu pháp luật, thành thạo nghiệp vụ
hành chính và nhất là phải có đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư,
một tiêu chuẩn cơ bản của người cầm cân nảy mực cho công lý. Trong thư
gửi Hội nghị Tư pháp toàn quốc, Người viết: "…các bạn là những người phụ
trách thi hành pháp luật. Lẽ tất nhiên các bạn cần phải nêu cao cái
gương"phụng công, thủ pháp", "chí công vô tư" cho nhân dân noi theo"11.
2.4. Vấn đề cán bộ, công chức và bộ máy nhà nước kiểu mới theo tư
tưởng Hồ Chí Minh.
* Tiêu chuẩn cán bộ, công chức nhà nước
Hồ Chí Minh coi trọng vấn đề cán bộ, công chức nhà nước, đề cao vị
trí vai trò của họ. Người có quan niệm nhất quán về tiêu chuẩn cán bộ, công
chức nhà nước ta phải là người vừa có đức, vừa có tài, vừa hồng, vừa
chuyên. Hai mặt đó phải luôn luôn đi đôi với nhau mà đức là gốc. Ngay từ
khi nước Việt Nam dân chủ công hoà mới thành lập, Hồ Chí Minh đã yêu
cầu mọi cán bộ, công chức phải:

10
11

Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 524
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 382


Có lòng trung thành với cách mạng (trung với nước), đây là yêu cầu đầu
tiên cần phải có. Theo Hồ Chí Minh, trung với nước là trung thành với chế độ

xã hội chủ nghĩa, thể hiện trong cả nhận thức và hành động.
Hăng hái, thạo việc là yêu cầu đối với cán bộ, công chức trong các cơ
quan nhà nước, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ phải vững thì bộ máy nhà
nước mới mạnh, đủ năng lực thi thực thi quyền lực của nhân dân.
Thường xuyên liên hệ mật thiết với nhân dân. Đây là một nguyên tắc mà
Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh. Bởi vì, nếu coi nhà nước ta thể hiện quyền lực
của dân nhưng cán bộ, công chức nhà nước xa rời nhân dân, quan liêu, cửa
quyền, hách dịch…thì sẽ phản lại nguyên tắc ấy.
Có “gan quyết đoán” giám làm, giám chịu trách nhiệm nhất là khi gặp
những tình huống khó khăn . Hồ Chí Minh luôn đòi hỏi cán bộ, công chức phải
quán triệt phương châm thất bại không hoang mang, thắng lợi không kiêu ngạo,
công thần, “Lúc thi hành thì kiên quyết, gan góc”. Hồ Chí Minh nhắc nhở cần
hết sức tránh tình trạng để đội ngũ cán bộ thụ động, ỷ lại.
Biết việc, biết người không thành kiến hẹp hòi đố kỵ; không dấu diếm
khuyết điểm; thành khẩn trung thực, có chí tiến thủ.
*Về lựa chọn đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước
Hồ Chí Minh coi trọng cái “đức”, đồng thưòi coi trọng tính chất nghề
nghiệp cũng như sự thành thạo công việc của đội ngũ cán bộ, công chức nhà
nước. Do đó, Hồ Chí Minh thấy cần thiết phải có một chế độ tuyển dụng chặt
chẽ, phù hợp với sự nghiệp cách mạng của từng thời kỳ.
Trong sắc lệnh số 188 năm 1948 và sắc lệnh số 76 năm 1950, Hồ Chí
Minh đề ra các quy định tuyển chọn cán bộ, công chức vào các ngạch bậc của
nện hành chính quốc gia. Các môn thi được quy định là chính trị, kinh tế, pháp
luật, địa lý, lịch sử.


Chủ tịch Hồ Chí Minh còn ký sắc lệnh số 13 ngày 24/1/1946 quy định
tiêu chuẩn chuyên môn hoá cán bộ tư pháp. Chẳng hạn, thẩm phán sơ cấp
phải là người có quốc tịch Việt Nam, hạnh kiểm tốt, chưa can án, 21 tuổi trở
lên, có bằng tú tài, trúng tuyển các kỳ thi. Đối với thẩm phán đệ nhị cấp,

ngoài quy định về quốc tịch, còn phải có ít nhất 24 tuổi, có bằng cử nhân
luật và trúng tuyển trong kỳ thi…
* Về bộ máy nhà nước
Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng một bộ máy nhà nước hiện đại, dân
chủ, có hiệu lực; bộ máy đó phải phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của
từng giai đoạn. Nguyên tắc chung để xây dựng bộ máy nhà nước theo Hồ Chí
Minh là:
- Xây dựng quốc hội là cơ quan lập pháp cao nhất.
- Xây dựng một Chính phủ hoạt động có hiệu quả và dó là cơ quan hành
chính cao nhất.
- Nền hành chính quốc gia hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ,
đặt dưới sự kiểm soát của nhân dân.
- Xây dựng một bộ máy tư pháp hiện đại, có hiệu lực. Toà án được tổ
chức và hoạt động theo nguyên tắc của cơ quan tài phán, nghĩa là độc lập với
cơ quan hành chính, trong xét xử có phụ thẩm nhân dân tham gia; thẩm phán
do nhà nước bổ nhiệm; phiên toà xét xử công khai, quyền bào chữa của các bị
cáo được bảo đảm, trong quá trình xét xử các thẩm phán chỉ tuân theo pháp
luật, các cơ quan khác không được can thiệp.
3. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước, xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ở Việt Nam
hiện nay.
3.1. Những ưu điểm, hạn chế hoạt động của nhà nước pháp quyền
Việt Nam xã hội chủ nghĩa những năm đổi mới.


*Những ưu điểm:
Trong những năm qua tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước
Việt Nam đã có nhiều tiến bộ trên nhiều lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư
pháp, từ cơ cấu tổ chức đến cơ chế hoạt động; hiệu quả và chất lượng bộ
máy nhà nước đang được nâng cao. Dân chủ xã hội chủ nghĩa tiếp tục được

pháp huy, mở rộng và càng hoàn thiện trên nhiều lĩnh vực cả kinh tế, chính
trị, văn hoá, xã hội… Quyền của nhân dân lao động ngày càng được khẳng
định trong đời sống xã hội. Hệ thống hành chính nhà nước các cấp đang đổi
mới từng bước cả thể chế, chức năng, nhiệm vụ…chuyển dần sang phương
thức quản lý xã hội chủ yếu bằng pháp luật, phân biệt chức năng quản lý vĩ
mô của nhà nước với quyền cụ thể của người lao động.
Quốc hội đã có nhiều đổi mới về nội dung và phương thức hoạt động,
giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Quốc hội đã ban hành được nhiều nhiều bộ luật, luật, pháp lệnh, thể chế hoá
đường lối, chính sách của Đảng, cụ thể hoá các quy định của của hiến pháp
nhằm tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ và phát huy quyền làm
chủ của nhân dân. Quy trình xây dựng pháp luật ngày càng được cải tiến và
không ngừng hoàn thiện. Quốc hội đã quan tâm và làm khá tốt công tác
giám sát nhất là giám sát việc thực hiện giải pháp chống tiêu cực tham
nhũng trong đời sống xã hội. Giám sát của quốc hội góp phần bảo đảm cho
bộ máy nhà nước hoạt động đúng chức năng; bảo đảm hiến pháp và pháp
luật nhà nước và chính sách của nhà nước được thi hành nghiêm chỉnh.
Bộ máy hành chính nhà nước các cấp đã giảm dần và trực tiếp
tham gia vào quản lý sản xuất, kinh doanh, hướng mạnh vào chức năng
quản lý vĩ mô của Chính phủ, các bộ. Chính phủ và các cơ quan hành
chính các cấp đã có những đổi mới về tổ chức và điều hành, quản lý đất
nước bằng pháp luật, tập trung chủ yếu vào đổi mới, sử dụng có hiệu quả


các công cụ quản lý. Chính phủ đã cải cách thể chế và thủ tục hành chính
trong các lĩnh vực kinh tế – xã hội.
Các cơ quan tư pháp được kiện toàn đổi mới về một bước về tổ chức
và hoạt động về phối hợp đấu tranh phòng chống tiêu cực tham nhũng, giải
quyết các tranh chấp góp phần giữ vững anh ninh chính trị, trật tự an toàn xã
hội.

Việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở đã tạo ra nhiều chuyển biến
trong nề lối làm việc của chính quyền cơ sở và cán bộ, công chức nhà nước
twf quan liêu mệnh lệnh sang dân chủ hoá, công khai hoá sát dân, tôn trọng
và lắng nghe ý kiến của dân. Quyền của công dân được phát huy; dân biết
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra; chính quyền hướng dẫn, hỗ trợ … nhờ đó
mà nhiều công việc ở các địa phương được thực thi có hiệu quả mà tình
trạng tham ô, tham nhũng cũng phần nào hạn chế.
Những hạn chế:
Một là, cơ cấu bộ máy của tổ chức nhà nước trong hệ thống chính trị
vẫn còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc trung gian, công việc chồng. Trong hoạt
động còn kém hiệu quả, thiếu tính thống nhất không thông suốt, gây phiền
hà, chậm trễ trong công việc, lại làm tăng thêm biên chế và chi phí hành
chính là một trong những nguyên nhân làm phát sinh nhiều tiêu cực. Việc
phân định chức năng, nhiệm vụ, cơ chế phối hợp giữa cơ quan lập pháp,
hành pháp, tư pháp vẫn còn nhiều vấn đề chưa được giải quyết, chậm khắc
phục và trùng lắp. chồng chéo, vướng mắc về chức năng, thẩm quyền làm
ảnh hưởng đến sự thống nhất quyền lực và hiệu quả hoạt động của nhà nước.
Hai là, hệ thống thể chế và chính sách về quản lý nhà nước chưa cải
tiến kịp với quá trình đổi mới theo cơ chế quản lý của nền kinh tế thị trường.
Một mặt, hệ thống thể chế và chính sách hiện nay đang tạo ra những kẻ hở
để bọn xấu lợi dụng buôn lậu, tham những và làm ăn phi pháp vừa tinh vi,


vừa trắng trợn. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức bị thoái hoá biến
chất.
Ba là, bộ máy chính phủ tuy đã giảm một số bộ, nhưng có bộ ngành
chưa thực hiện đúng chức năng quản lý nhà nước. Tổ chức bộ máy còn cồng
kềnh, nặng nề, kém chất lượng, chậm được đổi mới khi cơ chế quản lý thay
đổi. Chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền các mối quan hệ chưa được phân
định rành mạch và hợp lý khiến cho bộ máy vận hành khong thông suốt,

kém năng động, thiếu phối hợp nên công việc chồng chéo và cản trở lẫn
nhau. Trong một thời gian dài hệ thống chính trị và đội ngũ cán bộ cơ sở xã,
phường, thị trấn không được quan tâm không được quan tâm xây dựng. Đội
ngũ cán bộ công chức trong các cơ quan và chính quyền nhà nước tuy có
nhiều tiến bộ, nhưng chưa ngang tầm nhiệm vụ, quy chế công chức chưa
theo kịp với sự vận động phát triển của đời sống xã hội hiện hành.
Bốn là, công cuộc cải tổ nền hành chính tiến hành còn chậm, kỷ luật,
kỷ cương chưa nghiêm minh. Thời gan qua tuy đã có một số bước tiến về
xây dựng thể chế, giảm bớt nhiều thủ tục phiền hà, nhưng hệ thống hành
chính nhà nước từ Trung ương đến cơ sở vẫn còn nhiều yếu kém, bộ máy và
đội ngũ cán bộ, công chức chưa ngang tầm với sự nghiệp đổi mới và phát
triển đất nước. Cải cách hành chính chưa đi liền và đồng bộ với đổi mới và
kiện toàn hệ thống chính trị nên kết quả bị hạn chế. Nhiều luật ban hành có
hiệu lực, nhưng chậm cụ thể hoá và hướng dẫn thực hiện, cá biệt có những
quy định của địa phương trái với quy định của pháp luật.
Đánh giá về hạn chế của bộ máy nhà nước Đảng ta chỉ rõ: “cải cách
hành chính chưa đạt yêu cầu đề ra, thủ tục hành chính còn gây phiền hà cho
tổ chức và công dân…quan liêu tham nhũng vẫn còn nghiêm trọng, với


những biểu hiện tinh vi, phức tạp, chưa được ngăn chặn đẩy lùi, gây bức xúc
xã hội”12.
Nguyên nhân yếu kém của nhà nước
Về khách quan đánh giá; do còn nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn
chưa được giải quyết và làm sáng tỏ. Mặt khác việc xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa trong điều kiện đang chuyển đổi nền kinh tế- là một
nhiệm vụ mới mẻ trong chúng ta còn có quá ít những kinh nghiệm về công
việc này.
Việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong điều kiện
nước ta đa dạng hoá các thành phần kinh tế với nhiều hình thức sở hữu khác

nhau, mặt khác chúng ta mở rộng quan hệ hữu nghị hợp tác với các nước
trong khu vực và trên thế giới… từ đó, dễ phát sinh những kẽ hở cho các thế
lực thù địch chủ nghĩa xã hội chống páh cách mạng Việt Nam.
Về phía chủ quan thấy sau cách mạng tháng Tám 1945 nước ta quá độ
lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, chưa trải
qua chế độ dân chủ tư sản, vì thế chúng ta chưa trải qua chế độ nhà nước
pháp quyền tư sản.
Các cấp chính quyền nhà nước chưa làm tốt việc cụ thể hoá nghị
quyết của Đảng về xây dựng nhà nước để có những giải pháp giải quyết kịp
thời những phát sinh trong quá trình đổi mới…Chưa làm tốt công tác tổng
kết thực tiễn, xây dựng cơ sở khoa học về xắp sếp điều chỉnh, tổ chức bộ
máy nhà nước; số lượng đại biểu chuyên trách còn ít và cơ cấu không đồng
đều giữa các lĩnh vực và các cấp trong bộ máy nhà nước;
Sự yếu kém của chính quyền cấp xã, phường và thị trấn cũng là một
nguyên nhân. Trước đây Đảng và Nhà nước ta quan niệm các cán bộ chủ
chốt ở cấp này là cán bộ bán chuyên nghiệp, bán thoát ly cho nên chế độ
12

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H.2011, tr.172


phụ cấp đối với họ bao nhiêu cũng được. Trong khi cán bộ ở xã phường thị
trấn mạnh thì chính quyền cấp trên mới mạnh. Vì thế, đối với cán bộ cấp xã,
phường, thị trấn họ không yên tâm công việc và không có nhu cầu nâng cao
trình độ nghiệp vụ…
3.2. Một số giải pháp cơ bản xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân hiện nay.
Để xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân, vì dân
đủ mạnh, đáp ứng những yêu cầu đòi hỏi của sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước chúng ta phải quán triệt và thực hiện một số những

giải pháp cơ bản sau:
Thứ nhất, nâng cao nhận thức về xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa.
Đẩy mạnh việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm
là Nhà nước thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, do Đảng lãnh
đạo; thực hiện tốt chức năng quản lý kinh tế và đời sống xã hội; giải quyết đúng
mối quan hệ giữa Nhà nước với các tổ chức khác trong hệ thống chính trị, với
nhân dân, với thị trường. Nâng cao năng lực quản lý và điều hành của Nhà nước
theo pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và kỷ luật, kỷ cương. Nhà
nước chăm lo, phục vụ nhân dân, bảo đảm quyền, lợi ích chính đáng của mọi
người dân.
Nghiên cứu xây dựng, bổ sung các thể chế và cơ chế vận hành cụ thể để
bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và nguyên tắc
quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa
các cơ quan trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước phù hợp với
yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tiếp tục hoàn


thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách để vận hành có hiệu quả nền kinh tế
và thực hiện tốt các cam kết quốc tế, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc.
Tiếp tục xây dựng, từng bước hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính
hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan công
quyền.
Thứ hai, tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước.
Đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, bảo đảm Quốc hội thực sự là
cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất.
Hoàn thiện cơ chế bầu cử đại biểu Quốc hội để cử tri lựa chọn và bầu những
người thực sự tiêu biểu vào Quốc hội. Tiếp tục phát huy dân chủ, tính công khai,
đối thoại trong thảo luận, hoạt động chất vấn tại diễn đàn Quốc hội.

Nghiên cứu xác định rõ hơn quyền hạn và trách nhiệm của Chủ tịch nước
để thực hiện đầy đủ chức năng nguyên thủ quốc gia, thay mặt Nhà nước về đối
nội, đối ngoại và thống lĩnh các lực lượng vũ trang; quan hệ giữa Chủ tịch nước
với các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng xây
dựng nền hành chính thống nhất, thông suốt, trong sạch, vững mạnh, có hiệu lực,
hiệu quả; tổ chức tinh gọn và hợp lý; tăng tính dân chủ và pháp quyền trong điều
hành của Chính phủ; nâng cao năng lực dự báo, ứng phó và giải quyết kịp thời
những vấn đề mới phát sinh. Tổng kết, đánh giá việc thực hiện chủ trương sắp
xếp các bộ, sở, ban, ngành quản lý đa ngành, đa lĩnh vực để có chủ trương, giải
pháp phù hợp.
Đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là thủ tục hành chính; giảm mạnh và
bãi bỏ các loại thủ tục hành chính gây phiền hà cho tổ chức và công dân. Nâng
cao năng lực, chất lượng xây dựng và tổ chức thực hiện các cơ chế, chính sách.
Đẩy mạnh xã hội hoá các loại dịch vụ công phù hợp với cơ chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa.


Đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, xây
dựng hệ thống tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo
vệ quyền con người.
Tiếp tục đổi mới tổ chức hoạt động của chính quyền địa phương. Nâng
cao chất lượng hoạt động của hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân các cấp,
bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong việc quyết định và tổ chức
thực hiện những chính sách trong phạm vi được phân cấp. Nghiên cứu tổ chức,
thẩm quyền của chính quyền ở nông thôn, đô thị, hải đảo. Tiếp tục thực hiện thí
điểm chủ trương không tổ chức hội đồng nhân dân huyện, quận, phường.
Thứ ba, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực
đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới.
Kịp thời rà soát, bổ sung, hoàn thiện quy chế quản lý cán bộ, công chức;

phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm và thẩm quyền của mỗi cán bộ,
công chức; tăng cường tính công khai, minh bạch, trách nhiệm của hoạt động
công vụ.
Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cả về bản lĩnh chính trị,
phẩm chất đạo đức, năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, quản lý nhà nước. Có
chính sách đãi ngộ, động viên, khuyến khích cán bộ, công chức hoàn thành
nhiệm vụ và có cơ chế loại bỏ, bãi miễn những người không hoàn thành nhiệm
vụ, vi phạm kỷ luật, mất uy tín với nhân dân.
Tổng kết việc thực hiện "nhất thể hóa" một số chức vụ lãnh đạo Đảng,
Nhà nước để có chủ trương phù hợp. Đây là điểm mới so với Đại hội X.
Thứ tư, tích cực thực hành tiết kiệm, phòng ngừa và kiên quyết chống
tham nhũng, lãng phí.
Phòng và chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm là nhiệm vụ
vừa cấp bách, vừa lâu dài. Mọi cán bộ lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, Mặt trận
Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân từ trung ương đến cơ sở và từng đảng viên phải


gương mẫu thực hiện và trực tiếp tham gia đấu tranh phòng, chống tham nhũng,
lãng phí. Tiếp tục hoàn thiện thể chế và đẩy mạnh cải cách hành chính phục vụ
phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tập trung vào các lĩnh vực dễ xảy ra tham
nhũng, lãng phí. Nghiên cứu phân cấp, quy định rõ chức năng cho các ngành,
các cấp trong phòng, chống tham nhũng. Chú trọng các biện pháp phòng ngừa
tham nhũng, lãng phí. Thực hiện chế độ công khai, minh bạch về kinh tế, tài
chính trong các cơ quan hành chính, đơn vị cung ứng dịch vụ công, doanh
nghiệp nhà nước.
Công khai, minh bạch về cơ chế, chính sách, các dự án đầu tư, xây dựng
cơ bản, mua sắm từ ngân sách nhà nước, huy động đóng góp của nhân dân, quản
lý và sử dụng đất đai, tài sản công, công tác tiếp nhận, bổ nhiệm cán bộ. Thực
hiện có hiệu quả việc kê khai và công khai tài sản, thu nhập của cán bộ, công
chức theo quy định. Cải cách chính sách tiền lương, thu nhập, chính sách nhà ở

bảo đảm cuộc sống cho cán bộ, công chức để góp phần phòng, chống tham
nhũng. Tổng kết, đánh giá cơ chế và mô hình tổ chức cơ quan phòng, chống
tham nhũng để có chủ trương, giải pháp phù hợp.
Coi trọng và nâng cao vai trò của các cơ quan dân cử, của Mặt trận Tổ
quốc, các đoàn thể nhân dân, các phương tiện thông tin đại chúng và của nhân
dân trong việc giám sát cán bộ, công chức, phát hiện, đấu tranh chống tham
nhũng, lãng phí; cổ vũ, động viên phong trào tiết kiệm trong sản xuất và tiêu
dùng./.
Kết luận
Quan điểm Hồ Chí Minh về nhà nước kiểu mới là sự vận dụng sáng
tạo quan điểm chủ nghĩa Mác - lênin và thực tiễn xây dựng nhà nước trong
lịch sử, trên thế giới về vấn đề nhà nước và xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa phù hợp với điều kiện hoàn cảnh thực tế của dân tộc Việt


Nam. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là hình thức tổ chức scủa một
giai cấp trên tinh thần đề cao pháp luật trong tổ chức, hoạt động của bộ máy
nhà nước trong đời sống xã hội. Trong nhà nước xã hội chủ nghĩa mọi quyền
lực nhà nước đều thuộc về nhân dân, bảo đảm tính tối cao của pháp luật,
thực hiện nguyên tắc phân quyền và và thống nhất quyền lực; bản chất của
pháp luật mang tính khách quan, công bằng, bình đẳng, bảo đảm quyền làm
chủ thực sự của nhân dân lao động.
Vận dụng những tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước kiểu mới để xây
dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa là đòi hỏi khách
quan. Hiện nay, xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta đã có nhiều nổ lực
và đã đạt được những thành tựu quan trọng trên các mặt lập pháp, hành pháp
và tư pháp. Tuy nhiên, cũng còn có những hạn chế trong cơ cấu tổ chức bộ
máy, cải cách hành chính, phẩm chất đạo đức của cán bộ, công chức… Để
tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ
nghĩa hiện nay cần phải: Nâng cao nhận thức về xây dựng nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa; tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà
nước; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực đáp ứng yêu
cầu trong tình hình mới; tích cực thực hành tiết kiệm, phòng ngừa và kiên quyết
chống tham nhũng, lãng phí.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X, Nxb CTQG, Hà Nội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc


lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội.
3. Nguyễn Linh Khiếu, Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới, Tạp chí Cộng sản (số
1/2013).
4. Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, Hà Nội, 2000.
5. Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 7, Nxb CTQG, Hà Nội, 2002.
6. Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 10, Nxb CTQG, Hà Nội, 2002.
7. Đỗ Đức Minh, Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam - những yếu tố tác động từ truyền thống và hiện tại, Tạp chí cộng
sản (số 10/2014).
8. Nguyễn Văn Tài, Vấn đề phát huy dân chủ, tiếp tục xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay,
Tạp chí Giáo dục lý luận chính trị quân sự, số 4- 2011.


×