Tải bản đầy đủ (.pdf) (124 trang)

Biện pháp cưỡng chế kê biên và xử lý tài sản của người phải thi hành án dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.39 MB, 124 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN ANH TUẤN

BIỆN PHÁP CƯỠNG CHẾ KÊ BIÊN VÀ XỬ
LÝ TÀI SẢN CỦA NGƯỜI PHẢI THI HÀNH
ÁN DÂN SỰ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2015
i


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN ANH TUẤN

BIỆN PHÁP CƯỠNG CHẾ KÊ BIÊN VÀ XỬ
LÝ TÀI SẢN CỦA NGƯỜI PHẢI THI HÀNH
ÁN DÂN SỰ

Chuyên ngành
Mã số

: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
: 60 38 01 03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. LÊ THU HÀ

Hà Nội – 2015
ii


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
và trích dẫn trong Luận văn là chính xác và trung thực. Những kết luận khoa
học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Hà Nội, ngày 25 tháng 12 năm 2015
Tác giả luận văn

Nguyễn Anh Tuấn

iii


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU............................................................................................................. 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐẾ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP CƯỠNG CHẾ KÊ
BIÊN VÀ XỬ LÝ TÀI SẢN CỦA NGƯỜI THI HÀNH ÁN DÂN SỰ............ 6
1.1. Khái niệm, đặc điểm, điều kiện, những nguyên tắc cơ bản và căn cứ áp
dụng của biện pháp cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án
dân sự .................................................................................................................. 6
1.1.1. Khái niệm biện pháp cưỡng chế kê biên và xử lý tài sản của người phải
thi hành án dân sự ............................................................................................... 6
1.1.2. Đặc điểm của biện pháp cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản của người phải
thi hành án dân sự ............................................................................................... 9

1.1.3. Điều kiện áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản của người
phải thi hành án dân sự ..................................................................................... 11
1.1.4. Nguyên tắc áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản của
người phải thi hành án dân sự ........................................................................... 13
1.1.5. Căn cứ áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên và xử lý tài sản của người
phải thi hành án dân sự ..................................................................................... 21
1.2. Ý nghĩa của biện pháp cưỡng chế kê biên và xử lý tài sản của người phải
thi hành án dân sự ............................................................................................. 22
1.3. Cơ sở của việc quy định biện pháp cưỡng chế kê biên và xử lý tài sản của
người phải thi hành án dân sự ........................................................................... 23
1.3.1. Cơ sở lý luận ........................................................................................... 23
1.3.2. Cơ sở thực tiễn .......................................................................................... 27
Chương 2: NỘI DUNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH
VỀ BIỆN PHÁP CƯỠNG CHẾ KÊ BIÊN VÀ XỬ LÝ TÀI SẢN CỦA
NGƯỜI PHẢI THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ........................................................ 29
2.1. Những quy định pháp luật hiện hành về trình tự, thủ tục kê biên tài sản của
người phải thi hành án....................................................................................... 31
2.1.1. Trình tự, thủ tục kê biên tài sản của người phải thi hành án .................. 31
2.1.1.1. Ra Quyết định kê biên tài sản .............................................................. 31
2.1.1.2. Thông báo việc kê biên tài sản ............................................................. 32
2.1.1.3. Xây dựng kế hoạch kê biên tài sản (Kế hoạch cưỡng chế) .................. 33
2.1.1.4. Chuẩn bị kê biên .................................................................................. 35
2.1.1.5. Tiến hành việc kê biên tài sản .............................................................. 36
2.1.1.6. Giao bảo quản tài sản đã kê biên ......................................................... 38
2.1.2. Tài sản kê biên và một số quy định về kê biên tài sản của người phải thi
hành án .............................................................................................................. 41
2.1.2.1. Kê biên tài sản là quyền sở hữu trí tuệ................................................. 41
iv



2.1.2.2. Kê biên tài sản là quyền sử dụng đất, tài sản phải đăng ký quyền sở
hữu hoặc đăng ký giao dịch bảo đảm................................................................ 42
2.1.2.3. Kê biên, xử lý tài sản đang cầm cố, thế chấp....................................... 48
2.1.2.4. Kê biên tài sản của người phải thi hành án đang do người thứ ba giữ 49
2.1.2.5. Kê biên vốn góp của người phải thi hành án ....................................... 49
2.1.2.6. Kê biên đồ vật bị khóa, đóng gói ......................................................... 51
2.1.2.7. Kê biên tài sản gắn liền với đất ............................................................ 52
2.1.2.8. Kê biên tài sản là nhà ở ........................................................................ 52
2.1.2.9. Kê biên tài sản là phương tiện giao thông ........................................... 55
2.1.3. Giải tỏa kê biên tài sản ............................................................................ 56
2.1.3.1. Điều kiện giải tỏa kê biên tài sản ......................................................... 56
2.1.3.2. Thẩm quyền và thủ tục giải tỏa kê biên tài sản.................................... 57
2.2. Định giá tài sản kê biên .............................................................................. 58
2.2.1. Các hình thức định giá tài sản kê biên .................................................... 58
2.2.2. Kỹ năng định giá tài sản kê biên ............................................................. 61
2.2.2.1. Đương sự thỏa thuận giá tài sản kê biên .............................................. 61
2.2.2.2. Ký hợp đồng dịch vụ thẩm định giá..................................................... 62
2.2.2.3. Chấp hành viên xác định giá ................................................................ 64
2.2.3. Định giá lại tài sản kê biên ...................................................................... 67
2.2.3.1. Những trường hợp được thực hiện việc định giá lại tài sản kê biên: .. 67
2.2.3.2. Thủ tục định giá lại .............................................................................. 68
2.3. Xử lý tài sản kê biên .................................................................................. 69
2.3.1. Giao tài sản cho người được thi hành án để thi hành án ......................... 70
2.3.2. Bán đấu giá tài sản .................................................................................. 70
2.3.2.1. Bán đấu giá tài sản do tổ chức bán đấu giá thực hiện .......................... 70
2.3.2.2. Bán đấu giá tài sản do Chấp hành viên thực hiện ................................ 76
2.3.3. Bán tài sản không qua thủ tục bán đấu giá ............................................. 89
2.3.4.1. Giao tài sản đấu giá .............................................................................. 90
2.3.4.2. Giao tài sản cho người nhận tài sản thi hành án .................................. 91
2.3.4.3. Trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền trong việc đăng ký

chuyển quyền sở hữu, sử dụng cho người mua tài sản bán đấu giá, người nhận
tài sản để trừ vào tiền thi hành án. .................................................................... 91
Chương 3:THỰC TIỄN ÁP DỤNG BIỆN PHÁP CƯỠNG CHẾ KÊ BIÊN,
XỬ LÝ TÀI SẢN CỦA NGƯỜI PHẢI THI HÀNH ÁN DÂN SỰ, NHỮNG
KIẾN NGHỊ, BÀI HỌC KINH NGHIỆM NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
TRONG CƯỠNG CHẾ KÊ BIÊN, XỬ LÝ TÀI SẢN CỦA NGƯỜI PHẢI
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ................................................................................. 94
3.1. Thực tiễn áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản của người
phải thi hành án dân sự. .................................................................................... 94
3.1.1. Những kết quả đạt được .......................................................................... 94
v


3.1.2. Những vướng mắc gặp phải trong quá trình áp dụng biện pháp cưỡng
chế kê biên, xử lý tài sản để thi hành án ........................................................... 97
3.1.2.1. Xuất phát từ nguyên nhân chủ quan ................................................... 97
3.1.2.2. Xuất phát từ nguyên nhân khách quan ................................................ 97
3.1.2.3. Những bất cập từ các quy định về kê biên, xử lý tài sản ..................... 98
3.2. Những kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản
của người phải thi hành án dân sự. ................................................................. 107
3.2.1. Về cơ chế quản lý công tác thi hành án ................................................ 107
3.2.2. Về xây dựng pháp luật .......................................................................... 107
3.2.3. Về công tác phối hợp trong việc áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên và
xử lý tài sản thi hành án dân sự ....................................................................... 108
3.2.4. Một số giải pháp khác ........................................................................... 109
3.3. Những bài học kinh nghiệm rút ra trong cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản
của người phải thi hành án dân sự. ................................................................. 109
3.3.1. Bảo đảm chặt chẽ về mặt thủ tục trong cưỡng chế kê biên thi hành án
dân sự .............................................................................................................. 109
3.3.2. Thực hiện đầy đủ các bước chuẩn bị trước khi cưỡng chế kê biên thi

hành án dân sự................................................................................................. 110
3.3.3. Bảo đảm an toàn, hiệu quả trong quá trình tổ chức thực hiện cưỡng chế
kê biên thi hành án dân sự .............................................................................. 111
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 115
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 116

vi


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài.
Kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành dân sự là một trong những
biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự được quy định tại điều 71 của Luật thi
hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014. Đây là biện pháp cưỡng chế
được áp dụng phổ biến nhất nhằm thực hiện quyền lực Nhà nước, do Chấp
hành viên quyết định áp dụng theo thẩm quyền trong trường hợp người phải thi
hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành án nhằm đảm
bảo hiệu lực của bản án, quyết định của Toà án, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của cá nhân, tổ chức và lợi ích của Nhà nước.
Hoạt động cưỡng chế thi hành án có hiệu quả thể hiện tính nghiêm minh
của pháp luật, của bản án, quyết định của Toà án nhân danh Nhà nước. Hơn
nữa, việc người phải thi hành án đã được giải thích, thuyết phục, mặc dù có
điều kiện thi hành án mà tìm mọi cách trì hoãn, trốn tránh để không tự nguyện
thi hành, thì buộc phải tổ chức cưỡng chế thi hành án nhằm bảo đảm tính
nghiêm minh của pháp luật, Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Các bản án và
quyết định của Toà án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ
quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và
mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan nghiêm chỉnh chấp
hành”.

Nhận thức được tầm quan trọng trong công tác thi hành án nói chung và
cưỡng chế thi hành án nói riêng, vì vậy trong những năm vừa qua Đảng và Nhà
nước ta đã đề ra mục tiêu là phải: “ Tiếp tục tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ
trong công tác thi hành án dân sự, nâng cao hiệu quả công tác thi hành án, giải
quyết căn bản tình trạng án tồn đọng. Đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ
thống cơ quan thi hành án dân sự, nâng cao vai trò trách nhiệm của các cơ quan
thi hành án”. Kết quả công tác thi hành án, trong đó có việc áp dụng biện pháp
1


cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản là đã thi hành xong triệt để nhiều vụ việc phức
tạp kéo dài trong nhiều năm đem lại niềm tin của nhân dân vào nhà nước. Tuy
nhiên, bên cạnh đó, việc áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản
vẫn còn gặp nhiều khó khăn, nhiều vấn đề bất cập đặt ra cần được giải quyết
như: Cơ chế quản lý, ưu đãi của ngành thi hành án dân sự còn chưa hợp lý, cán
bộ làm công tác thi hành án còn ngại va chạm, hơn nữa sự phối hợp giữa các
cơ quan bảo vệ pháp luật và giữa cơ quan bảo vệ pháp luật với các cơ quan nhà
nước khác còn chưa có sự đồng bộ, thống nhất; hệ thống các văn bản pháp lý
về việc áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản còn nhiều bất cập
gây cản trở và làm giảm hiệu quả của việc áp dụng biện pháp cưỡng chế.
Để giải quyết tình trạng trên, cần có sự tham gia phối hợp chặt chẽ giữa
các cơ quan bảo vệ pháp luật và giữa cơ quan bảo vệ pháp luật với các cơ quan
nhà nước khác cũng như cần có cơ chế ưu đãi hơn đối với cán bộ làm công tác
thi hành án để họ yên tâm công tác và một hệ thống văn bản pháp luật đầy đủ
để Chấp hành viên có đủ căn cứ áp dụng biện pháp cưỡng chế đối với các
trường hợp cố tình chây ỳ, chống đối, không chấp hành bản án, quyết định của
Toà án đã có hiệu lực pháp luật. Trong khuôn khổ luận văn này, tôi chỉ đi sâu
tìm hiểu những vấn đề liên quan đến pháp luật mà cụ thể là: “Biện pháp cưỡng
chế kê biên và xử lý tài sản của người phải thi hành án dân sự”.
Với tất cả những lý do nêu trên, việc lựa chọn đề tài: “Biện pháp cưỡng

chế kê biên và xử lý tài sản của người phải thi hành án dân sự” làm luận văn
thạc sĩ là cấp thiết và có ý nghĩa thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Trước những đòi hỏi khách quan của công tác thi hành án dân sự, trong
những năm qua đã có một số công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề thi
hành án dân sự, cụ thể là: Đề tài: “Thi hành án dân sự, thực trạng và hướng
hoàn thiện của Dự án VIE/98/001” do Bộ Tư pháp chủ trì thực hiện dự án. Một
số luận án và công trình nghiên cứu khác như: Luận văn thạc sĩ luật học “Các
2


biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự, thực tiễn áp dụng và hướng hoàn
thiện” của tác giả Nguyễn Công Long; Luận văn thạc sĩ luật học “Hoàn thiện
pháp luật thi hành án dân sự” của tác giả Nguyễn Thanh Thuỷ; Luận văn thạc
sĩ luật học của tác giả Lê Xuân Hồng về “Xã hội hoá thi hành án dân sự ở Việt
Nam”; Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn Quang Thái về “Đổi mới
tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở Việt Nam”; Luận văn thạc sĩ luật
học của tác giả Lê Anh Tuấn về “Đổi mới thủ tục thi hành án dân sự ở Việt
Nam”…Bên cạnh đó là Giáo trình Luật thi hành án dân sự Việt Nam của
trường Đại học Luật Hà Nội và các trường Đại học có chuyên ngành luật; một
số bài viết đăng trên các tạp chí Dân chủ và pháp luật, Tạp chí Luật học, Tạp
chí Nhà nước và pháp luật…
Các công trình nêu trên đã có nội dung nghiên cứu về thi hành án dân sự
ở những góc độ, khía cạnh và mức độ khác nhau. Ở một số công trình cũng có
đề cập đến các biện pháp cưỡng chế thi hành án, tuy nhiên chưa có công trình
nào nghiên cứu sâu về biện pháp cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản của người
phải thi hành án dân sự theo Luật thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung
năm 2014.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài.
3.1. Mục tiêu

Mục tiêu tổng quát của đề tài là làm sáng tỏ các quy định của pháp luật
về biện pháp cưỡng chế kê biên và xử lý tài sản của người phải thi hành án dân
sự hiện hành từ đó thấy được những bất cập trong thực tiễn áp dụng và đề xuất
một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự.
Đặc biệt qua việc nghiên cứu này, nâng cao được nhận thức của bản thân về
công tác thi hành án dân sự nói chung và biện pháp cưỡng chế kê biên, xử lý
tài sản của người phải thi hành án dân sự nói riêng, hoàn thiện thêm kiến thức
pháp luật, nâng cao năng lực công tác.
3.2. Nhiệm vụ
3


- Làm rõ những cơ sở lý luận về cưỡng chế thi hành án dân sự và cưỡng chế kê
biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án dân sự.
- Đánh giá đúng đắn những quy định về biện pháp cưỡng chế kê biên và xử lý
tài sản của người phải thi hành án dân sự theo Luật thi hành án dân sự được
sửa đổi, bổ sung năm 2014 và thực tiễn áp dụng.
- Đưa ra những giải pháp, kinh nghiệm nhằm nâng cao hiệu quả trong việc áp
dụng biện pháp cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án dân
sự.
4. Tính mới và những đóng góp của đề tài
- Luận văn đã đưa ra và luận giải được một số quan điểm cơ bản về khái niệm
kê biên tài sản, khái niệm cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản thi hành án dân sự,
đặc điểm và ý nghĩa của biện pháp cưỡng chế kê biên và xử lý tài sản của
người phải thi hành án dân sự, góp phần bổ sung, làm phong phú thêm cho
hoạt động nghiên cứu khoa học về pháp luật thi hành án dân sự.
- Trên cơ sở những quy định của Luật thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung
năm 2014 về biện pháp cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản của người phải thi
hành án dân sự, tác giả đã đưa ra những điểm mới về biện pháp cưỡng chế kê
biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án dân sự so với quy định trước đây

về cưỡng chế thi hành án dân sự.
- Từ thực tiễn áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản của người
phải thi hành án dân sự, tác giả đưa ra một số giải pháp và kinh nghiệm trong
việc áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản của người phải thi
hành án dân sự nhằm nâng cao hiệu quả.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận về biện pháp
cưỡng chế kê biên và xử lý tài sản của người phải thi hành án dân sự, là các
quy định của pháp luật về biện pháp cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản của người
4


phải thi hành án dân sự và thực trạng thực hiện biện pháp này trong hoạt động
thi hành án dân sự hiện nay.
“Biện pháp cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án
dân sự” là một đề tài có tính khái quát cao, nội dung phức tạp. Vì vậy, trong
khuôn khổ luận văn thạc sĩ luật học, tác giả tập trung nghiên cứu những quy
định cơ bản của pháp luật về biện pháp cưỡng chế kê biên và xử lý tài sản của
người phải thi hành án dân sự và thực tiễn áp dụng biện pháp này trong năm
qua đồng thời đưa ra một số giải pháp và kinh nghiệm nhằm nâng cao hiệu quả
áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án
dân sự
6. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê
Nin, phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, quan điểm của Đảng,
Nhà nước và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật.
Đồng thời trong quá trình nghiên cứu, tác giả còn sử dụng các phương
pháp nghiên cứu khoa học truyền thống như phương pháp nghiên cứu lý
thuyết, phương pháp quan sát, phương pháp so sánh, thống kê, tổng hợp.
7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về biện pháp cưỡng chế kê biên và xử
lý tài sản của người phải thi hành án dân sự.
Chương 2: Nội dung các quy định của pháp luật hiện hành về biện pháp
cưỡng chế kê biên và xử lý tài sản của người phải thi hành án dân sự.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản
của người phải thi hành án dân sự, những giải pháp, bài học kinh nghiệm nhằm
nâng cao hiệu quả trong cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản của người phải thi
hành án dân sự.
5


Chương 1: NHỮNG VẤN ĐẾ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP
CƯỠNG CHẾ KÊ BIÊN VÀ XỬ LÝ TÀI SẢN CỦA NGƯỜI
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm, điều kiện, những nguyên tắc cơ bản và căn cứ
áp dụng của biện pháp cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản của người phải thi
hành án dân sự
1.1.1. Khái niệm biện pháp cưỡng chế kê biên và xử lý tài sản của người
phải thi hành án dân sự
Theo từ điển từ và ngữ Việt Nam của nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí
Minh năm 1998 thì kê biên là một từ Hán - Việt. “Kê” nghĩa là tính toán,
còn “biên” có nghĩa là ghi chép lại theo một trật tự nhất định. Vậy kê biên
có nghĩa là tính toán và ghi chép lại theo một trật tự nhất định. Về tài sản,
hiện nay chúng ta chưa có một khái niệm khát quát về tài sản mà chỉ có một
định nghĩa mang tính chất liệt kê: Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và
các quyền tài sản (Điều 163 Bộ luật dân sự 2005). Thuật ngữ kê biên tài sản đã
được ghi nhận trong nhiều văn bản pháp luật của nước ta như Pháp lệnh thủ tục
giải quyết các vụ án dân sự 1989, Pháp lệnh thi hành án dân sự 1993, 2004…

do đó, có thể thấy rằng đây là một thuật ngữ pháp lý được sử dụng nhiều trong
pháp luật tố tụng dân sự. Trong cuốn từ điển các thuật ngữ pháp lý thông dụng
cũng của nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh năm 1999 có định nghĩa kê
biên tài sản như sau: “Kê biên tài sản là việc ghi lại từng tài sản, cấm việc tẩu
tán, phá hủy, để đảm bảo cho việc xét xử và thi hành án”.
Như vậy, kê biên tài sản là một thuật ngữ pháp lý chỉ việc tính toán và
ghi chép lại tài sản theo một trật tự nhất định nhằm mục đích cụ thể. Tài sản
ở đây có thể là vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản.
Từ những năm 1989 trở về trước, trong pháp luật tố tụng dân sự nước
ta chưa có sự phân biệt rõ ràng hai khái niệm kê biên tài sản và tịch biên tài
6


sản. Song mỗi khái niệm về một sự vật hiện tượng luôn gắn với một hoàn
cảnh lịch sử cụ thể, trong quá trình phát triển các nhà lập pháp đã có sự
phân biệt về hai khái niệm này. Kê biên chỉ là một hình thức ghi lại tài sản theo
thứ tự và áp dụng đối với tài sản hợp pháp của một chủ thể, còn tịch biên
thường được áp dụng đối với tài sản có nguồn gốc bất hợp pháp. Cũng chính vì
thế mà nó kéo theo hậu quả pháp lý khác nhau. Tài sản bị tịch biên thường
bị sung công quỹ Nhà nước, tài sản kê biên sẽ được xử lý để thực hiện nghĩa
vụ của người có tài sản bị kê biên, có nghĩa là không bị sung công quỹ
Nhà nước. Như vậy, tịch biên có thể gọi là tịch thu sung công quỹ Nhà
nước những tài sản có nguồn gốc bất hợp pháp, nó có bản chất hoàn toàn khác
với kê biên. Qua khái niệm kê biên tài sản ta thấy rằng trong đời sống hàng
ngày có những khái niệm tương tự, gần giống với kê biên. Nhưng kê biên tài
sản luôn gắn với một chủ thể nhất định, nhân danh cho quyền lực Nhà nước, vì
thế không phải ai cũng có quyền kê biên tài sản của người khác, không phải
hành động nào tương tự cũng được gọi là kê biên. Trong quá trình tố tụng dân
sự nhiều chủ thể có quyền áp dụng biện pháp kê biên tài sản nhưng việc áp
dụng ấy có tính chất và mục đích hoàn toàn khác nhau, không phải lúc nào kê

biên tài sản cũng được áp dụng với tính chất là một biện pháp cưỡng chế để thi
hành án.
Điều 27 Luật thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 quy
định: “Tòa án, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh, Trọng tài thương mại đã ra
bản án, quyết định được quy định tại Điều 2 của Luật này phải cấp cho đương
sự bản án, quyết định có ghi “Để thi hành”. Toà án phải giải thích cho người
được thi hành án, người phải thi hành án về quyền yêu cầu, thời hạn yêu cầu
thi hành án và nghĩa vụ thi hành án theo quy định của pháp luật ”. Người được
thi hành án căn cứ vào bản sao quyết định, bản án đó có quyền yêu cầu cơ quan
thi hành án thi hành. Đơn yêu cầu thi hành án phải được gửi kèm cùng bản sao
bản án, quyết định và phải được gửi trong thời hiệu thi hành án. Sau khi nhận
7


bản sao bản án, quyết định cùng với đơn yêu cầu của người được thi hành
án, cơ quan thi hành án dân sự phải vào sổ nhận bản sao bản án, quyết định, sổ
nhận đơn yêu cầu thi hành án. Đồng thời cơ quan thi hành án dân sự phải cấp
cho đương sự phiếu nhận đơn. Ngay sau khi nhận đơn yêu cầu thi hành án của
đương sự. Sổ nhận đơn yêu cầu thi hành án phải ghi rõ nội dung yêu cầu thi
hành án của đương sự. Theo Điều 31 Luật thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ
sung năm 2014 quy định về việc tiếp nhận đơn, từ chối yêu cầu thi hành án thì
nếu đơn yêu cầu thi hành án không đúng quy định thì cơ quan thi hành án dân
sự hướng dẫn người yêu cầu thi hành án làm lại đơn đúng quy định. Nếu người
được thi hành án trực tiếp trình bày yêu cầu thi hành án bằng lời nói tại cơ
quan thi hành án dân sự thì cơ quan thi hành án dân sự phải lập biên bản ghi rõ
nội dung yêu cầu theo đúng hướng dẫn về nội dung đơn yêu cầu. Sau đó, yêu
cầu người yêu cầu ký vào biên bản hoặc nếu không biết chữ thì điểm chỉ. Biên
bản cũng có chữ ký của cán bộ lập biên bản, biên bản thay cho đơn yêu cầu thi
hành án. Cán bộ lập biên bản cũng phải làm thủ tục vào sổ nhận đơn yêu cầu
và cấp cho người yêu cầu phiếu nhận đơn như đối với trường hợp nhận đơn

yêu cầu của đương sự. Thời hạn ra quyết định thi hành án là 05 ngày làm việc,
kể từ ngày nhận được bản án, quyết định hoặc đơn yêu cầu thi hành án; đối với
quyết định về biện pháp khẩn cấp tạm thời thì phải ra ngay quyết định thi hành
án. Sau khi có quyết định thi hành án, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân
sự phải phân công Chấp hành viên thi hành. Chấp hành viên bắt đầu thủ tục thi
hành án bằng thông báo cho người được thi hành án, người phải thi hành án,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (nếu có) về việc thi hành án. Chấp hành
viên cũng định cho người phải thi hành án thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận
được quyết định thi hành án để tự nguyện thi hành án. Nếu hết thời hạn này mà
người phải thi hành án không tự nguyện thi hành thì Chấp hành viên ra quyết
định cưỡng chế thi hành án. Trong trường hợp cụ thể Chấp hành viên có quyền
kê biên tài sản của người phải thi hành án.
8


Như vậy, kê biên và xử lý tài sản của người phải thi hành án dân sự là
biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự, chủ thể có quyền áp dụng là cơ quan
thi hành án dân sự mà cụ thể là Chấp hành viên được phân công trách nhiệm
thi hành bản án, quyết định dân sự đó. Tài sản bị kê biên, xử lý là tài sản của
người phải thi hành án, người phải thi hành án này có thể là cá nhân hoặc tổ
chức đã được xác định cụ thể, đích danh trong bản án, quyết định của Tòa
án được mang ra thi hành.

1.1.2. Đặc điểm của biện pháp cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản của người
phải thi hành án dân sự
Điều 71 Luật thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 đã quy
định 06 biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự. Kê biên, xử lý tài sản của
người phải thi hành án dân sự là một trong sáu biện pháp đó. Chính vì vậy,
biện pháp cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án dân sự
có đặc điểm chung của các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự như sau:

Thứ nhất, biện pháp cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản của người phải thi
hành án dân sự thể hiện quyền năng đặc biệt của Nhà nước và được đảm bảo
thực hiện bằng sức mạnh của Nhà nước.
Việc cưỡng chế thi hành án nói chung và cưỡng chế kê biên, xử lý tài
sản của người phải thi hành án dân sự nói riêng phải do cơ quan nhà nước có
thẩm quyền thực hiện. Người được thi hành án không có quyền tự mình dùng
sức mạnh để buộc người phải thi hành án thi hành nghĩa vụ đã được xác định
trong bản án, quyết định của Tòa án. Ở nước ta, thẩm quyền tổ chức thi hành
án dân sự thuộc về các cơ quan thi hành án dân sự của Nhà nước. Do vậy, khi
cần thiết phải cưỡng chế để thi hành án dân sự thì chỉ có Chấp hành viên đại
diện cho cơ quan thi hành án dân sự mới là chủ thể có thẩm quyền ra quyết
định áp dụng biện pháp cưỡng chế và lựa chọn biện pháp cưỡng chế thi hành
9


án dân sự phù hợp. Tuy vậy, theo xu thế xã hội hóa thi hành án dân sự, việc
cưỡng chế thi hành án dân sự Nhà nước cũng có thể giao cho chủ thể khác
không thuộc cơ quan thi hành án dân sự thực hiện việc cưỡng chế.
Thứ hai, biện pháp cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản của người phải thi
hành án dân sự được Chấp hành viên áp dụng trong trường hợp người phải thi
hành án không tự nguyện thi hành án nhằm buộc họ phải thực hiện nghĩa vụ
của mình theo bản án, quyết định của Tòa án.
Trong thi hành án dân sự, các đương sự có quyền tự định đoạt, do vậy
Nhà nước luôn khuyến khích các đương sự trong việc tự nguyện thi hành án.
Việc người phải thi hành án tự nguyện thi hành án trước khi người được thi
hành án có đơn yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự tổ chức thi hành án là thể
hiện tinh thần thượng tôn pháp luật và là một cách hành xử văn minh. Tuy vậy,
thực tế thi hành án dân sự cho thấy không phải tất cả các bản án, quyết định
của Tòa án sau khi có hiệu lực pháp luật đều được người phải thi hành án tự
nguyện thi hành. Trong những trường hợp như vậy việc áp dụng các biện pháp

cưỡng chế thi hành án được xem là giải pháp cuối cùng và cần thiết nhằm buộc
người phải thi hành án phải thực hiện nghĩa vụ thi hành án của họ, bảo đảm
quyền lợi chính đáng của người được thi hành án và thể hiện sự nghiêm minh
của pháp luật trước thái độ không chấp hành án của người phải thi hành án.
Thứ ba, đối tượng của biện pháp cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản của
người phải thi hành án dân sự là tài sản của người phải thi hành án.
Theo quy định tại Điều 71 Luật thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung
năm 2014, các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự đều không nhằm mục
đích trừng trị người phải thi hành án mà chỉ nhằm mục đích buộc họ phải thực
hiện những nghĩa vụ dân sự của mình đối với người được thi hành án.
Thứ tư, khi áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản của
người phải thi hành án dân sự, người bị áp dụng ngoài việc phải thực hiện các
10


nghĩa vụ trong bản án, quyết định do Tòa án tuyên, họ còn phải chịu các chi
phí cưỡng chế thi hành án dân sự.
Người phải thi hành án có bổn phận thi hành các nghĩa vụ của họ đã
được xác định trong bản án, quyết định. Việc người phải thi hành án không tự
nguyện thi hành nghĩa vụ thi hành án của họ dẫn tới việc Chấp hành viên phải
áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án do lỗi của họ, do đó họ phải có trách
nhiệm gánh chịu các phí tổn phát sinh từ việc tổ chức cưỡng chế thi hành án.
Thứ năm, biện pháp cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản của người phải thi
hành án dân sự được Chấp hành viên quyết định áp dụng không những có hiệu
lực đối với người phải thi hành án dân sự mà còn có hiệu lực đối với các cá
nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan.
Quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản của
người phải thi hành án dân sự là quyết định được Chấp hành viên ban hành
nhằm mục đích thi hành các bản án, quyết định của Tòa án được tuyên nhân
danh quyền lực nhà nước nên mọi chủ thể liên quan đến thi hành án dân sự

phải nghiêm chỉnh chấp hành quyết định này.
1.1.3. Điều kiện áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản của
người phải thi hành án dân sự
Thứ nhất, người phải thi hành án phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán tiền
theo bản án, quyết định được đưa ra thi hành hoặc phải nộp phí thi hành án.
Nghĩa vụ thanh toán tiền của người phải thi hành án được ấn định trong
bản án, quyết định của Tòa án hoặc của cơ quan có thẩm quyền như Tổ chức
trọng tài thương mại Việt Nam hoặc của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh,
được biểu hiện ở các dạng như: người phải thi hành án phải trả tiền bồi thường,
bồi thường do làm mất, làm hỏng tài sản, bồi hoàn chi phí đào tạo, bồi thường
tính mạng, sức khỏe… hoặc là việc trả tiền nợ, tiền thanh toán theo hợp đồng,
tiền công lao động, tiền chênh lệch giá trị tài sản khi phân chia tài sản… và
11


cũng có thể là nghĩa vụ nộp phí thi hành án khi người được thi hành án đã nhận
tài sản nhưng không tự nguyện nộp phí thi hành án.
Thứ hai, người phải thi hành án có điều kiện thi hành án.
Người phải thi hành án có điều kiện thi hành án là những người mà
Chấp hành viên đã xác minh khẳng định được người đó có tài sản (trừ tài sản
là tiền thì không áp dụng biện pháp cưỡng chế này). Tài sản của người phải thi
hành án có thể là động sản hoặc bất động sản và kể cả quyền sở hữu trí tuệ,
quyền sử dụng đất, vốn góp… theo quy định tại Mục 6 Chương IV Luật thi
hành án dân sự.
Thứ ba, hết thời gian tự nguyện thi hành án mà người phải thi hành án
không tự nguyện thi hành hoặc chưa hết thời gian tự nguyện, nhưng để ngăn
chặn việc tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc trốn tránh nghĩa vụ thi hành án (khoản
2 Điều 45 Luật thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014).
Thời gian tự nguyện thi hành án do Chấp hành viên ấn định là 10 ngày,
kể từ ngày nhận được hoặc được thông báo hợp lệ quyết định thi hành án theo

quy định tại các Điều 39 về thông báo thi hành án, Điều 40 về thủ tục thông
báo trực tiếp cho cá nhân, Điều 41 về thủ tục thông báo trực tiếp cho cơ quan,
tổ chức, Điều 42 về niêm yết công khai và Điều 45 về thời hạn tự nguyện thi
hành án của Luật thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014. Tuy
nhiên, trong thời gian tự nguyện thi hành án, nếu Chấp hành viên cần phải
ngăn chặn việc tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc trốn tránh nghĩa vụ thi hành án,
thì Chấp hành viên có quyền ra quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành
án dân sự được quy định tại Điều 66 hoặc biện pháp cưỡng chế thi hành án
được quy định tại Điều 71 Luật thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm
2014.

12


1.1.4. Nguyên tắc áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản của
người phải thi hành án dân sự
Để bảo đảm việc thi hành án có hiệu quả và đúng pháp luật, việc áp
dụng biện pháp cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án
phải tuân theo những nguyên tắc quy định tại Điều 74, Điều 75, Điều 89, Điều
95 của Luật thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 và Điều 13
Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết
và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thi hành án dân sự. Theo các quy
định này, khi áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản của người
phải thi hành án, ngoài việc phải tuân thủ các nguyên tắc chung của việc áp
dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án còn phải tuân thủ các nguyên tắc sau:
Thứ nhất, chỉ được áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án sau khi đã
hết thời gian tự nguyện thi hành án, trừ trường hợp cần áp dụng các biện pháp
bảo đảm hoặc biện pháp cưỡng chế theo quy định tại khoản 2 Điều 45 Luật thi
hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014.
Để tổ chức thi hành một bản án, quyết định trước tiên Chấp hành viên

phải ấn định thời gian tự nguyện thi hành án cho người phải thi hành án là 10
ngày, kể từ ngày nhận được hoặc được thông báo hợp lệ quyết định thi hành
án. Đây là thủ tục bắt buộc và là thủ tục đầu tiên của các Chấp hành viên khi
được phân công tổ chức thi hành một quyết định thi hành án của Thủ trưởng
Cơ quan thi hành án. Nếu trong thời gian tự nguyện thi hành án của người phải
thi hành án mà không đạt được kết quả như mong muốn, thì Chấp hành viên
mới dùng đến quyền lực của Nhà nước tức là áp dụng các biện pháp cưỡng chế
để buộc người có nghĩa vụ thi hành phải thi hành theo đúng bản án, quyết định
của Tòa án và quyết định thi hành án của Cơ quan thi hành án. Như vậy, Chấp
hành viên chỉ áp dụng các biện pháp cưỡng chế khi và chỉ khi đã hết thời gian
tự nguyện thi hành án. Tuy nhiên, để bảo đảm công tác thi hành án dân sự đạt
hiệu quả, với mục đích nhằm ngăn chặn các hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản
13


hoặc trốn tránh nghĩa vụ thi hành án của đương sự thì trong thời gian tự
nguyện thi hành án, Chấp hành viên được áp dụng các biện pháp bảo đảm, các
biện pháp cưỡng chế thi hành án quy định tại Chương IV về việc áp dụng các
biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự và khoản 2 Điều
45 về việc cần ngăn chặn việc tẩu tán tài sản, trốn tránh việc thi hành án của
Luật thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014.
Thứ hai, chỉ kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án khi có căn
cứ khẳng định tài sản đó thuộc sở hữu của người phải thi hành án đang quản lý
sử dụng hoặc đang do người thứ ba giữ.
Khác với việc áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án quy định tại
Điều 66 Luật thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014, việc kê biên,
xử lý tài sản của người phải thi hành án chỉ được tiến hành khi và chỉ khi đã
xác định được tài sản đó là tài sản thuộc sở hữu của người phải thi hành án
đang do họ quản lý, sử dụng hoặc đang do người thứ ba quản lý, sử dụng. Tài
sản của người phải thi hành án có thể là tài sản riêng và cũng có thể là tài sản

chung với người khác (như tài sản chung của vợ chồng khi người vợ hoặc
người chồng là người phải thi hành án hoặc tài sản là vốn góp của người phải
thi hành án với người khác…) và cũng có thể là tài sản của người phải thi hành
án, nhưng đang cho người khác vay, mượn, thuê, gửi giữ, sửa chữa…
Người phải thi hành án có quyền thỏa thuận với người được thi hành án
về tài sản được kê biên để bảo đảm thi hành án. Nếu hai bên không thỏa thuận
được, người được thi hành án có quyền đề nghị Chấp hành viên kê biên tài sản
nào trước và Chấp hành viên phải chấp nhận đề nghị đó nếu xét thấy việc đề
nghị đó không cản trở việc thi hành án.
Nếu người phải thi hành án không đề nghị kê biên tài sản nào trước thì
tài sản thuộc sở hữu riêng của người phải thi hành án được kê biên trước. Nếu
người phải thi hành án không có tài sản riêng hoặc tài sản riêng không đủ để
14


thi hành thì Chấp hành viên mới được kê biên phần tài sản của người phải thi
hành án trong khối tài sản thuộc sở hữu chung với người khác.
Theo quy định tại Điều 95 Luật thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung
năm 2014, việc kê biên nhà ở là nơi ở duy nhất của người phải thi hành án và
gia đình chỉ được thực hiện sau khi xác định người đó không có tài sản khác
hoặc có nhưng không đủ để thi hành án, trừ trường hợp người phải thi hành án
đồng ý kê biên nhà ở để thi hành án.
Ngoài ra, Luật thi hành án dân sự hiện nay không quy định cụ thể thứ tự
kê biên tài sản trong trường hợp người phải thi hành án vừa có tài sản riêng,
vừa có tài sản chung với người khác, trong đó tài sản riêng là động sản, tài sản
chung là bất động sản. Trong thực tiễn thi hành án dân sự thì quy tắc ưu tiên kê
biên tài sản là động sản được áp dụng. Theo đó, trường hợp tài sản riêng là bất
động sản, tài sản chung là động sản mà phần tài sản của người phải thi hành án
trong khối tài sản đó sau khi phân chia đủ để thi hành án thì vẫn có thể kê biên
tài sản chung trước nhưng phải đảm bảo quyền ưu tiên mua tài sản của người

đồng sở hữu tài sản. Ví dụ, trường hợp người phải thi hành án chỉ có tài sản
riêng là căn nhà có giá trị lớn đang dùng để ở, trong khi đó có tài sản chung là
động sản có giá trị nhỏ hơn mà phần của người phải thi hành án trong khối tài
sản chung đó đủ để thi hành án thì Chấp hành viên vẫn có thể kê biên tài sản
chung đó, trường hợp phần của người phải thi hành án trong khối tài sản chung
đó không đủ thì Chấp hành viên phải tính toán một cách kỹ lưỡng nghĩa vụ và
các chi phí phát sinh để quyết định kê biên tài sản riêng là căn nhà có giá trị
lớn. Trường hợp tài sản chung này là phương tiện kiếm sống chủ yếu của đồng
sở hữu chủ với người phải thi hành án mà người phải thi hành án vẫn có bất
động sản (không là tài sản duy nhất để người phải thi hành án và gia đình ở) thì
Chấp hành viên không kê biên phần động sản thuộc sở hữu chung này mặc dù
đủ để thi hành án mà kê biên bất động sản thuộc sở hữu riêng của người phải
thi hành án.
15


Thứ ba, chỉ kê biên tài sản của người phải thi hành án tương ứng với
nghĩa vụ của người phải thi hành án và các chi phí cần thiết.
Tại khoản 1 Điều 13 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của
Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thi
hành án dân sự quy định: Chấp hành viên căn cứ vào nội dung bản án, quyết
định; tính chất, mức độ, nghĩa vụ thi hành án; điều kiện của người phải thi
hành án; đề nghị của đương sự và tình hình thực tế của địa phương để lựa chọn
việc áp dụng biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế thi hành án thích hợp.
Việc áp dụng biện pháp bảo đảm, cưỡng chế thi hành án phải tương ứng với
nghĩa vụ của người phải thi hành án và các chi phí cần thiết. Trường hợp người
phải thi hành án chỉ có một tài sản duy nhất lớn hơn nhiều lần so với nghĩa vụ
phải thi hành án mà tài sản đó không thể phân chia được hoặc việc phân chia sẽ
làm giảm đáng kể giá trị của tài sản thì Chấp hành viên vẫn có quyền áp dụng
biện pháp bảo đảm, cưỡng chế thi hành án.

Quy định này được kế thừa từ các văn bản trước như: khoản 2 Điều 21
Nghị định số 173/2004/NĐ-CP ngày 30/9/2004 của Chính phủ quy định: Khi
kê biên tài sản, Chấp hành viên phải tính giá trị tài sản kê biên để kê biên
tương ứng với nghĩa vụ thi hành án và thanh toán các chi phí thi hành án;
khoản 3 Điều 41 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004: Chỉ được kê biên tài
sản của người phải thi hành án đủ để bảo đảm thi hành án và thanh toán các chi
phí về thi hành án; khoản 1 Điều 8 Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày
13/7/2009 của Chính phủ quy định: trường hợp người phải thi hành án chỉ có
một tài sản duy nhất có giá trị lớn hơn nghĩa vụ phải thi hành án và các chi phí
cần thiết, nhưng tài sản đó là một khối thống nhất, không thể phân chia được
hoặc nếu phân chia sẽ làm giảm đáng kể giá trị tài sản, thì Chấp hành viên vẫn
có quyền kê biên tài sản đó.
Như vậy, để tiến hành kê biên tài sản có giá trị tương ứng với nghĩa vụ
của người phải thi hành án và các chi phí cần thiết, thì ngay khi xác minh tài
16


sản Chấp hành viên phải ước tính được giá trị hoặc phải xác định được giá trị
sử dụng thực tế (giá trị hiện có) của từng tài sản của người phải thi hành án. Từ
đó, Chấp hành viên mới lựa chọn tài sản kê biên, dựa trên cơ sở xác định nghĩa
vụ của người phải thi hành án, gồm: Các khoản phải thi hành án theo quyết
định thi hành án và các chi phí cần thiết như chi phí về xác minh, chi phí thông
báo thi hành án… theo quy định tại Điều 73 về chi phí cưỡng chế thi hành án
của Luật thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014. Trên thực tế, có
rất nhiều trường hợp người phải thi hành án chỉ có một tài sản duy nhất có giá
trị lớn hơn nghĩa vụ phải thi hành án và các chi phí cần thiết, nhưng tài sản đó
là một khối thống nhất, không thể phân chia được hoặc nếu phân chia sẽ làm
giảm đáng kể giá trị tài sản, thì Chấp hành viên vẫn có quyền kê biên tài sản đó
theo quy định tại khoản 1 Điều 13 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày
18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều

của Luật thi hành án dân sự. Số tiền thu được do bán tài sản kê biên sẽ được
thanh toán theo Điều 47 Luật thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm
2014, số tiền còn lại Chấp hành viên sẽ trả cho người phải thi hành án. Như
vậy, các nguyên tắc như kê biên tài sản riêng trước, tài sản chung sau hoặc kê
biên tài sản là động sản trước, bất động sản sau hoặc chỉ kê biên quyền sử dụng
đất, nhà ở, trụ sở của người phải thi hành án nếu sau khi kê biên hết các tài sản
khác mà vẫn không đủ để thi hành án… (đã được quy định tại Điều 41 Pháp
lệnh thi hành án dân sự năm 2004) hoàn toàn được xóa bỏ đây là một trong
những điểm mới có tính đột phá trong thủ tục thi hành án dân sự mà Chấp hành
viên cần lưu ý áp dụng. Quy định trên giúp cho Chấp hành viên không còn
phải băn khoăn giữa việc kê biên tài sản nào trước, tài sản nào sau, kê biên tài
sản chung hay tài sản riêng mà quyền quyết định kê biên tài sản nào hoàn toàn
do Chấp hành viên.
Thứ tư, không được kê biên những tài sản mà pháp luật đã quy định
không được kê biên.
17


Điều 87 Luật thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 đã quy
định những tài sản không được kê biên, cụ thể như sau:
Một là, tài sản bị cấm lưu thông theo quy định của pháp luật; tài sản
phục vụ quốc phòng, an ninh, lợi ích công cộng; tài sản do ngân sách nhà nước
cấp cho cơ quan, tổ chức.
Những tài sản Chấp hành viên không được kê biên để thi hành án là
những tài sản mà pháp luật đã quy định cấm lưu thông như thuốc phiện, thuốc
nổ...; những tài sản phục vụ quốc phòng, an ninh như súng, đạn, gươm, giáo…
và những tài sản do ngân sách nhà nước cấp cho cơ quan, tổ chức như các
phương tiện giao thông, tiền lương của cán bộ, công chức, tiền chi khác để
phục vụ công tác của cán bộ, công chức trong đơn vị, cơ quan… Trong trường
hợp này, các cơ quan, tổ chức đó có văn bản đề nghị cơ quan có thẩm quyền hỗ

trợ tài chính để thi hành án. Nếu cơ quan, tổ chức có nguồn thu từ các hoạt
động có thu nhập hợp pháp khác thì Cơ quan thi hành án dân sự có quyền kê
biên các tài sản có được từ các hoạt động đó.
Hai là, tài sản của người phải thi hành án là cá nhân: Chấp hành viên
không được kê biên những tài sản, gồm:
- Số lương thực đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người phải thi hành án và
gia đình trong thời gian chưa có thu nhập, thu hoạch mới.
Đó là số lương thực đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người phải thi hành
án và gia đình của họ trong thời gian chưa có thu nhập, thu hoạch mới. Vì vậy,
khi kê biên tài sản là lương thực của cá nhân, Chấp hành viên không những
phải xác định được số lượng hiện có của người phải thi hành án mà còn phải
xác định được số người mà người phải thi hành án có nghĩa vụ nuôi dưỡng và
số lương thực cần thiết cho mỗi người kể từ ngày dự kiến kê biên cho đến khi
có thu nhập, thu hoạch mới. Căn cứ vào kết quả đã được xác định, Chấp hành
viên quyết định áp dụng hay không áp dụng biện pháp kê biên, xử lý lương
thực của người phải thi hành án để bảo đảm thi hành án. Nếu Chấp hành viên
18


quyết định áp dụng biện pháp kê biên này, thì phải xác định được kê biên bao
nhiêu tấn, tạ, yến, kg lương thực của người phải thi hành án.
- Số thuốc cần dùng để phòng, chữa bệnh của người phải thi hành án và
gia đình.
- Vật dụng cần thiết của người tàn tật, vật dụng dùng để chăm sóc người
ốm như xe lăn, máy đo huyết áp…
- Đồ dùng thờ cúng thông thường theo tập quán ở địa phương. Chấp
hành viên cần chú ý một số đồ thờ cúng có giá trị rất lớn như: Lư hương, đỉnh
đồng cổ hay bộ lục bình cổ… thì đây không thể xem là đồ thờ cúng thông
thường nên vẫn có thể tiến hành kê biên. Nhưng khi kê biên, Chấp hành viên
phải xác định rõ nguồn gốc của những tài sản này có phải của người phải thi

hành án không? hay của tổ tiên, ông bà, bố mẹ của người phải thi hành án để
lại thờ cúng tổ tiên. Chấp hành viên chỉ kê biên những tài sản thờ cúng có giá
trị lớn của người phải thi hành án.
- Công cụ lao động cần thiết, có giá trị không lớn được dùng làm
phương tiện sinh sống chủ yếu hoặc duy nhất của người phải thi hành án và gia
đình như: Cày, cuốc, xẻng, xe đạp thồ, xe xích lô… có giá trị không lớn. Các
công cụ lao động có giá trị lớn như xe máy để làm nghề xe ôm, ô tô, tàu
thuyền, máy cày, máy xay xát và các công cụ có giá trị lớn, thì Chấp hành viên
vẫn có thể kê biên, xử lý để thi hành án. Nhưng, để đảm bảo cuộc sống tối
thiểu của họ, Chấp hành viên cần lưu ý trích lại một khoản tiền để người phải
thi hành án có thể thay thế bằng một công cụ lao động khác có giá trị thấp hơn.
- Đồ dùng sinh hoạt cần thiết cho người phải thi hành án và gia đình như
quần áo, xoong nồi, bát đĩa, bàn ghế… có giá trị không lớn. Những đồ dùng
sinh hoạt hoặc tư trang có giá trị lớn hoặc không cần thiết cho người phải thi
hành và gia đình như tivi, tủ lạnh, điều hòa, máy giặt, máy vi tính… thì Chấp
hành viên vẫn có thể kê biên để đảm bảo thi hành án.
19


×