Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Quyền bình đẳng giữa vợ và chồng theo luật hôn nhân và gia đình việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.83 MB, 112 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRẦN THỊ MAI HƢƠNG

QUYỀN BÌNH ĐẲNG GIỮA VỢ
VÀ CHỒNG THEO LUẬT HÔN NHÂN
VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRẦN THỊ MAI HƢƠNG

QUYỀN BÌNH ĐẲNG GIỮA VỢ
VÀ CHỒNG THEO LUẬT HÔN NHÂN
VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Dân sự
Mã số: 60 38 01 03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. NGÔ HUY CƢƠNG

Hà Nội – 2015



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƢỜI CAM ĐOAN

Trần Thị Mai Hƣơng


MỤC LỤC
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục từ viết tắt
MỞ ĐẦU .................................................................................................................. 1
Chƣơng 1: KHÁI LUẬN VỀ QUYỀN BÌNH ĐẲNG GIỮA VỢ VÀ CHỒNG
.................................................................................................................................... 8
1.1. Khái niệm và đặc điểm của quyền bình đẳng giữa vợ và chồng ............... 8
1.1.1. Khái niệm quyền bình đẳng giữa vợ và chồng ............................................. 8
1.1.2. Đặc điểm của quyền bình đẳng giữa vợ và chồng...................................... 12
1.2. Hiến chƣơng Liên Hiệp Quốc và một số Luật Quốc tế về quyền bình đẳng
giữa vợ và chồng ............................................................................................. 16
1.3. Quyền bình đẳng giữa vợ và chồng dƣới góc độ xã hội và góc độ pháp lý ... 21

1.3.1. Quyền bình đẳng giữa vợ và chồng dƣới góc độ xã hội ............................ 22
1.3.2. Quyền bình đẳng giữa vợ và chồng dƣới góc độ pháp lý .......................... 24
1.4. Vai trò, ý nghĩa của quyền bình đẳng giữa vợ và chồng ......................... 25
1.4.1. Vai trò của quyền bình đẳng giữa vợ và chồng .......................................... 25
1.4.2. Ý nghĩa của quyền bình đẳng giữa vợ và chồng ........................................ 28
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ...................................................................................... 30
Chƣơng 2: NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ QUYỀN BÌNH ĐẲNG GIỮA VỢ VÀ
CHỒNG THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM ............. 31
2.1. Nguyên tắc chung về quyền bình đẳng giữa vợ và chồng theo quy định
pháp luật hiện hành ......................................................................................... 31
2.1.1. Nguyên tắc Hiến định................................................................................... 31
2.1.2. Nguyên tắc chung Luật Dân sự ................................................................... 32


2.2. Khái quát vấn đề quyền bình đẳng giữa vợ và chồng theo Luật Hôn nhân
và gia đình Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử ................................................. 33
2.2.1. Quyền bình đẳng giữa vợ và chồng trong pháp luật thời kỳ phong kiến .... 33
2.2.2. Quyền bình đẳng giữa vợ và chồng trong pháp luật thời kỳ Pháp thuộc .... 40
2.2.3. Quyền bình đẳng giữa vợ và chồng trong pháp luật hôn nhân và gia đình
Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám (1945) đến nay............................................ 47
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ...................................................................................... 30
Chƣơng 3: THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP GÓP
PHẦN TĂNG CƢỜNG HIỆU QUẢ BẢO ĐẢM QUYỀN BÌNH ĐẲNG
GIỮA VỢ VÀ CHỒNG ....................................................................................... 82
3.1. Thực trạng quyền bình đẳng giữa vợ và chồng........................................ 82
3.1.1. Thành tựu đạt đƣợc....................................................................................... 82
3.1.2. Một số bất cập, hạn chế ................................................................................ 88
3.2. Một số kiến nghị, giải pháp góp phần tăng cƣờng hiệu quả bảo đảm
quyền bình đẳng giữa vợ và chồng ................................................................. 92
3.2.1. Kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về quyền bình đẳng

giữa vợ và chồng ..................................................................................................... 93
3.2.2. Một số kiến nghị về tổ chức thực hiện và áp dụng quyền bình đẳng giữa
vợ và chồng ............................................................................................................. 95
3.2.3. Nâng cao vai trò của gia đình trong nhận thức và thực hiện quyền bình
đẳng giữa vợ và chồng ............................................................................................ 97
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 ...................................................................................... 30
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 101
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 102


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

HN&GĐ

Hôn nhân và gia đình

QTHL

Quốc Triều Hình Luật

HVLL

Hoàng Việt Luật Lệ


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong quá trình xã hội hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đang
trong quá trình chuyển đổi và phát triển về mọi mặt của đời sống xã hội. Việt
Nam là một trong những quốc gia luôn coi trọng vấn đề quyền bình đẳng và

coi đó chính là mục tiêu mang tính chiến lƣợc nhằm đảm bảo quyền con
ngƣời nói chung và quyền bình đẳng giữa các thành viên trong gia đình nói
riêng. Đặc biệt là sự bình đẳng giữa vợ và chồng. Chính vì vậy, trong các văn
kiện của Đảng và trong các văn bản pháp luật của Nhà nƣớc, quyền bình đẳng
giữa vợ và chồng luôn đƣợc quan tâm sâu sắc. Trong lĩnh vực HN&GĐ, nhìn
chung, quyền bình đẳng giữa vợ và chồng đƣợc đề cập khá cụ thể và chi tiết
trong các quy định của pháp luật và ngày càng có xu hƣớng hoàn thiện hơn.
Điều đó cho thấy sự quan tâm của Đảng, của Nhà nƣớc và của toàn xã hội đến
vấn đề này đồng thời góp phần vào mục tiêu chung là bình đẳng giới trên toàn
thế giới. Tuy nhiên, các quy định đó vẫn còn nhiều bất cập, chƣa hoàn thiện
trong từng trƣờng hợp cụ thể các vấn đề về quyền nhân thân và quyền tài sản
giữa vợ và chồng, ảnh hƣởng đến việc đảm bảo quyền bình đẳng cho các bên.
Hơn nữa, trên thực tế, sự giải phóng ngƣời phụ nữ, ngƣời vợ dƣờng
nhƣ chỉ dừng lại ở cái mà cơ chế xã hội mới mang lại, chƣa đi sâu vào đời
sống gia đình. Trong các gia đình ít nhiều vẫn tồn tại các hiện tƣợng bất bình
đẳng giữa vợ và chồng nhƣ chƣa ghi nhận đúng vai trò của ngƣời vợ, sự phân
công lao động trong gia đình chƣa hợp lý, sự phân biệt đối xử, bạo lực trong
gia đình…
Trƣớc tình hình thực tế về vấn đề quyền bình đẳng giữa vợ và chồng
trong những năm qua mặc dù đã đạt đƣợc những kết quả tốt đẹp, đáp ứng
đƣợc nhu cầu, nguyện vọng và đảm bảo quyền lợi cho cả đôi bên thì còn có
1


không ít những trƣờng hợp xảy ra mâu thuẫn, trong đời sống gia đình thì
ngƣời vợ thƣờng là ngƣời phải chịu nhiều thiệt thòi hơn. Đó là do phong tục
tập quán và tƣ tƣởng lạc hậu luôn bảo vệ quyền lợi của ngƣời chồng vốn dĩ đã
ăn sâu vào tiềm thức của mọi tầng lớp trong xã hội. Ngƣời phụ nữ, ngƣời vợ
còn có thái độ tự ti an phận không muốn tự đòi quyền lợi cho riêng mình. Bên
cạnh đó là công tác tuyên truyền pháp luật vẫn chƣa sâu rộng dẫn đến sự hiểu

biết về pháp luật còn quá ít. Chính vì thế vẫn tồn tại sự bất bình đẳng giữa vợ
và chồng trong gia đình.
Tuân thủ và thực hiện nguyên tắc quyền bình đẳng giữa vợ và chồng
trong HN&GĐ là yêu cầu bắt buộc với tất cả các cơ quan, tổ chức và mọi cá
nhân trong xã hội. Làm đƣợc điều đó sẽ góp phần xóa bỏ chế độ HN&GĐ
phong kiến lạc hậu đồng thời củng cố và xây dựng chế độ HN&GĐ xã hội
chủ nghĩa đặc biệt là bảo vệ quyền lợi chính đáng cho ngƣời phụ nữ, ngƣời vợ
trong gia đình giải phóng họ khỏi thân phận lệ thuộc và bất bình đẳng giữa vợ
và chồng cũng nhƣ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Vì những lý do trên, tác giả chọn đề tài “Quyền bình đẳng giữa vợ và
chồng theo Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam” làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu
Nghiên cứu pháp luật về quyền bình đẳng giữa vợ và chồng là một
mảng đề tài lớn đƣợc khá nhiều nhà khoa học, thuộc nhiều lĩnh vực quan tâm.
Trong khoa học luật nói chung và pháp luật về HN&GĐ nói riêng, quyền bình
đẳng giữa vợ và chồng đƣợc nghiên cứu nhƣ một cơ sở pháp lý quan trọng tạo
khung sƣờn cho việc ban hành các quy phạm pháp luật nhằm thực hiện tốt
mọi chính sách về quyền bình đẳng của con ngƣời.
Đã có một số công trình khoa học nghiên cứu ở nhiều cấp độ khác nhau
đề cập có liên quan tới vấn đề quyền bình đẳng giữa vợ và chồng, nhƣ sau:

2


Nhóm luận văn: Ở nhóm này có thể liệt kê đến một số công trình
nghiên cứu khoa học tiêu biểu nhƣ: Luận án tiến sĩ luật học, Nguyễn Văn Cừ,
Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật HN&GĐ Việt Nam, Đại học luật Hà
Nội; Luận văn thạc sĩ luật học, Bùi Thị Mừng, Bảo vệ quyền lợi của phụ nữ
trong Luật HN&GĐ Việt Nam, Đại học luật Hà Nội; Luận văn thạc sĩ luật
học, Vũ Thị Thanh Huyền, Bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ trong pháp

luật HN&GĐ Việt Nam, Khoa luật – Đại học Quốc gia Hà Nội,… Những
luận văn trên các tác giả đã đi vào nghiên cứu, đề cập tới vấn đề quyền bình
đẳng giữa vợ và chồng theo luật HN&GĐ, tuy nhiên mới chỉ đi sâu nghiên
cứu vấn đề ở từng khía cạnh cụ thể nhƣ về chế độ tài sản hay bảo đảm quyền
bình đẳng của phụ nữ trong HN&GĐ. Vì vậy, chƣa có cái nhìn tổng quát về
vấn đề quyền bình đẳng giữa vợ và chồng theo luật HN&GĐ Việt Nam.
Nhóm giáo trình, sách bình luận chuyên sâu: Giáo trình Luật Dân sự;
Giáo trình Luật HN&GĐ Việt Nam; Sách chuyên khảo, TS. Nguyễn Văn Cừ,
Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật HN&GĐ Việt Nam; TS. Nguyễn
Văn Cừ và TS. Ngô Thị Hƣờng, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về Luật
HN&GĐ năm 2000; Nguyễn Ngọc Điện, Bình luận khoa học Luật HN&GĐ
Việt Nam – Tập 1,… Hầu hết các công trình này mới chỉ dừng lại ở việc phân
tích, bình luận các quy định của luật HN&GĐ về vấn đề quyền bình đẳng
giữa vợ và chồng nói chung chƣa đề cập cụ thể qua các giai đoạn lịch sử và
đƣa ra thực tiễn thi hành pháp luật HN&GĐ về vấn đề trên.
Nhóm các bài báo, tạp chí chuyên ngành Luật: Các bài nghiên cứu
thuộc nhóm này chủ yếu đƣợc đề cập trên các tạp chí nhƣ: Tạp chí luật học,
TS. Nguyễn Văn Cừ, Quyền sở hữu của vợ chồng theo Luật HN&GĐ năm
2000; Tạp chí nhà nƣớc và pháp luật, TS. Nguyễn Văn Cừ, Quyền bình đẳng
của vợ chồng đối với tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất theo Luật HN&GĐ
năm 2000; Tạp chí tòa án, TS. Nguyễn Văn Cừ, Chia tài sản chung của vợ
3


chồng khi hôn nhân đang tồn tại,… Phần lớn các bài viết này chỉ đề cập tới
một số khía cạnh cụ thể của vấn đề quyền bình đẳng giữa vợ chồng mà chƣa
có tính khái quát, tổng hợp vấn đề.
Tóm lại, cho đến nay dù đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về
quyền bình đẳng giữa vợ và chồng theo luật HN&GĐ Việt Nam nhƣng các công
trình đó chỉ chủ yếu tập trung vào một khía cạnh cụ thể của vấn đề hoặc nghiên

cứu vấn đề ở một thời kỳ nhất định. Chƣa có công trình nào đề cập tới vấn đề
quyền bình đẳng giữa vợ và chồng theo luật HN&GĐ Việt Nam một cách tổng
hợp và toàn diện. Tiếp tục kế thừa những thành quả nghiên cứu của các công
trình, bài viết trên đây, luận văn đi sâu tìm hiểu một cách có hệ thống, toàn diện về
vấn đề quyền bình đẳng giữa vợ và chồng theo luật HN&GĐ Việt Nam.
3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu vấn đề quyền bình đẳng giữa vợ và chồng theo luật HN&GĐ
Việt Nam. Đây không chỉ đơn thuần là sự tổng hợp các quy định của pháp luật
HN&GĐ về quyền bình đẳng giữa vợ và chồng mà còn nhằm để xem xét diễn
biến của quá trình đảm bảo quyền con ngƣời qua từng giai đoạn lịch sử nƣớc ta,
qua đó thấy đƣợc sự phát triển của xã hội về vấn đề này cũng nhƣ nhận ra những
điểm còn hạn chế để đề xuất kiến nghị và giải pháp nhằm khắc phục. Luận văn
đặt ra những mục tiêu nghiên cứu cụ thể sau đây:
Một là, phân tích, tìm hiểu nội hàm của khái niệm quyền bình đẳng
giữa vợ và chồng; nhận diện những đặc điểm cơ bản của khái niệm này; tìm
hiểu các quy định của Liên hợp quốc và pháp luật Quốc tế về quyền bình
đẳng giữa vợ và chồng; phân tích quyền này dƣới góc độ xã hội và góc độ
pháp lý và vai trò, ý nghĩa của quyền bình đẳng giữa vợ và chồng.
Hai là, tìm hiểu, hệ thống hóa cơ sở lý luận pháp luật HN&GĐ Việt
Nam về quyền bình đẳng giữa vợ và chồng qua các thời kỳ lịch sử và đƣa ra
các đánh giá sơ bộ mức độ phát triển, hoàn thiện luật;
4


Ba là, nghiên cứu, đánh giá thực trạng áp dụng luật HN&GĐ Việt Nam
hiện nay về quyền bình đẳng giữa vợ và chồng và đƣa ra định hƣớng các giải
pháp góp phần tăng cƣờng hiệu quả áp dụng luật HN&GĐ về giải quyết các
vấn đề liên quan đến quyền bình đẳng giữa vợ và chồng.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng tổng hợp các phƣơng pháp lịch sử, so sánh, phân

tích, tổng hợp, thống kê và vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng chủ nghĩa
Mác – Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc về
vấn đề quyền bình đẳng giữa vợ và chồng và làm sáng tỏ các vấn đề đƣợc
nghiên cứu trong luận văn. Bên cạnh đó, luận văn vận dụng các thành tựu
nghiên cứu khoa học, những luận điểm khoa học trong các công trình nghiên
cứu, sách chuyên khảo, bài viết của các tác giả khác để phát triển nội dung
nghiên cứu trong luận văn.
5. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Cho đến nay đã có một số tác giả bƣớc đầu đã nghiên cứu pháp luật về
quyền bình đẳng giữa vợ và chồng, song những tác giả này chỉ mới đề cập
một số khía cạnh của vấn đề hoặc gián tiếp, có liên quan đến vấn đề chứ
không trực tiếp đề cập vấn đề một cách cụ thể và tổng hợp trong hệ thống
pháp luật HN&GĐ Việt Nam. Vì vậy, đây là công trình mới nghiên cứu có hệ
thống lý luận qua từng giai đoạn lịch sử nƣớc ta cũng nhƣ thực trạng áp dụng
và đề xuất phƣơng hƣớng, giải pháp hoàn thiện pháp luật HN&GĐ Việt Nam
về vấn đề quyền bình đẳng giữa vợ và chồng. Những đóng góp của luận văn
thể hiện tập trung ở các nội dung sau đây:
Thứ nhất, trên cơ sở phân tích, tổng hợp các quy định của pháp luật, tác
giả đƣa ra quan điểm của mình về khái niệm quyền bình đẳng giữa vợ và
chồng, đặc điểm cơ bản của quyền này; đồng thời phân tích các quy định
trong Liên hợp quốc và pháp luật Quốc tế có liên quan về quyền bình đẳng
5


giữa vợ và chồng và nhìn nhận về vấn đề này dƣới hai góc độ xã hội và pháp
lý; qua đó thấy đƣợc tầm quan trọng của quyền này trong thực tiễn đời sống.
Thứ hai, tổng hợp, phân tích, so sánh, đánh giá các quy định của luật
HN&GĐ Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử về quyền bình đẳng giữa vợ và
chồng, qua đó thấy đƣợc diễn biến cũng nhƣ mức độ hoàn thiện pháp luật về
vấn đề quyền bình đẳng giữa các thành viên trong gia đình, đặc biệt là quyền

bình đẳng giữa vợ và chồng ở nƣớc ta. Những điểm mới của Luật HN&GĐ
năm 2014 có những đóng góp và khắc phục hạn chế về quyền bình đẳng giữa
vợ và chồng mà những năm về trƣớc chƣa thực hiện đƣợc.
Thứ ba, phân tích, nhận xét, đánh giá khái quát thực tiễn áp dụng luật
HN&GĐ Việt Nam hiện nay về quyền bình đẳng giữa vợ và chồng và một số
kiến nghị nhằm hoàn thiện quyền bình đẳng giữa vợ và chồng theo Luật
HN&GĐ Việt Nam.
6. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài xoay quanh các vấn đề:
Quyền bình đẳng giữa vợ chồng và các quy phạm pháp luật quy định về
quyền bình đẳng của vợ chồng, cụ thể trong pháp luật HN&GĐ Việt Nam qua
các thời kỳ.
Kết quả đạt đƣợc của việc thực hiện các quy định pháp luật HN&GĐ Việt
Nam về quyền bình đẳng giữa vợ và chồng trong tình hình nƣớc ta hiện nay.
Do tính chất phức tạp và rộng lớn của đề tài, luận văn giới hạn phạm vi
nghiên cứu ở việc phân tích, tìm hiểu các quy định về vấn đề quyền bình đẳng
giữa vợ và chồng quy định trong pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử: cụ
thể, trong Cổ luật Việt Nam (Quốc triều hình luật, Hoàng Việt luật lệ); pháp luật
thời kỳ Pháp thuộc (Dân luật Bắc Kỳ, Dân luật Trung Kỳ, Dân luật giản yếu
Nam Kỳ); pháp luật thời kỳ từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay ( Luật
Gia đình năm 1959, Sắc lệnh số 15/64, Bộ luật Dân sự 1972, Sắc lệnh số 97/SL,
6


Sắc lệnh số 159/SL, Luật HN&GĐ năm 1959, Luật HN&GĐ năm 1986, Luật
HN&GĐ năm 2000, Luật HN&GĐ hiện hành năm 2014 và thực tiễn áp dụng
Luật HN&GĐ hiện nay về quyền bình đẳng giữa vợ và chồng).
7. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chƣơng:
Chương 1: Khái luận về quyền bình đẳng giữa vợ và chồng.

Chương 2: Nội dung cơ bản về quyền bình đẳng giữa vợ và chồng theo
Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam.
Chương 3: Thực trạng và một số kiến nghị, giải pháp góp phần tăng
cƣờng hiệu quả bảo đảm quyền bình đẳng giữa vợ và chồng.

7


Chƣơng 1
KHÁI LUẬN VỀ QUYỀN BÌNH ĐẲNG GIỮA VỢ VÀ CHỒNG
1.1. Khái niệm và đặc điểm của quyền bình đẳng giữa vợ và chồng
1.1.1. Khái niệm quyền bình đẳng giữa vợ và chồng
Quyền bình đẳng giữa vợ và chồng là một trong các quyền cơ bản của
công dân đƣợc pháp luật HN&GĐ quy định nhằm mục đích xây dựng gia
đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững. Để có thể hiểu và
thực hiện đúng quyền này trong HN&GĐ, cần thiết phải xây dựng một khái
niệm đầy đủ và tổng hợp về quyền bình đẳng giữa vợ và chồng trong khoa
học pháp lý. Để có đƣợc tiếng nói chung về vấn đề này, xã hội loài ngƣời đã
phải trải qua không ít khó khăn trên một chặng đƣờng tiến hóa khá dài.
Năm 1948, Liên Hiệp quốc ra Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con
ngƣời, khẳng định: "Mọi người sinh ra đều tự do và bình đẳng về phẩm giá và
các quyền". Câu đầu tiên trong Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam cũng khẳng
định: "Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng". Ý tƣởng về sự bình
đẳng này đƣợc trích dẫn từ tuyên ngôn độc lập của Mỹ và Bản Tuyên ngôn Nhân
quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp. Điều đó cho thấy “bình đẳng” là một
nguyên lý căn bản đƣợc chấp nhận bởi mọi quốc gia, mọi dân tộc. Bình đẳng là
một khái niệm chung của cả nhân loại, nó hƣớng đến việc khẳng định quyền lợi
ngang nhau của mọi ngƣời, mọi đối tƣợng, mọi nhóm ngƣời trong xã hội. Bình
đẳng là mục tiêu phấn đấu của mọi dân tộc, mọi xã hội tiến bộ và là lý tƣởng
chung của mọi cuộc cách mạng trên thế giới [10, tr.3].

Kế thừa ý tƣởng bình đẳng này, ở nƣớc ta, các quyền bình đẳng của
công dân đã đƣợc tôn trọng và bảo vệ, đồng thời đƣợc ghi nhận trong Hiến
pháp và các văn bản quy phạm pháp luật. Quyền bình đẳng ở đây có nghĩa là
mọi công dân đều đƣợc bình đẳng về cơ hội, nghĩa là mọi ngƣời đều đƣợc tạo
8


một cơ hội nhƣ nhau để phấn đấu và vƣơn lên trong xã hội, nếu ai nỗ lực
nhiều hơn, làm việc hiệu quả hơn, tất nhiên sẽ thu đƣợc nhiều lợi ích hơn.
Hơn nữa, bình đẳng cũng bao gồm cả việc tạo điều kiện cho những nhóm
ngƣời có khó khăn hơn nhƣ ngƣời nghèo, ngƣời già, trẻ em, ngƣời tàn tật, dân
tộc thiểu số, ngƣời ở vùng sâu vùng xa… giảm bớt những khó khăn của họ
[10, tr.3]. Việc ghi quyền bình đẳng của công dân trong Hiến pháp và các đạo
luật đã thể hiện bản chất Nhà nƣớc ta là Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, khẳng định mọi công dân, không phân biệt nam nữ, đều
bình đẳng trƣớc pháp luật và trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó
có quyền bình đẳng giữa vợ và chồng.
Trong pháp luật Việt Nam, các nhà lập pháp không nêu ra khái niệm
quyền bình đẳng giữa vợ và chồng là gì mà chỉ đƣa ra các quy định về quyền
và nghĩa vụ giữa vợ và chồng với nhau để đảm bảo quyền bình đẳng giữa vợ
và chồng trong HN&GĐ, cụ thể:
Theo Điều 40 Luật Dân sự năm 2005 quy định về quyền bình đẳng của
vợ chồng: “Vợ, chồng bình đẳng với nhau, có quyền, nghĩa vụ ngang nhau về
mọi mặt trong gia đình và trong quan hệ dân sự, cùng nhau xây dựng gia
đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững”.
Điều 17 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định về bình đẳng về quyền,
nghĩa vụ giữa vợ, chồng nhƣ sau: “Vợ, chồng bình đẳng với nhau, có quyền,
nghĩa vụ ngang nhau về mọi mặt trong gia đình, trong việc thực hiện các
quyền, nghĩa vụ của công dân được quy định trong Hiến pháp, Luật này và
các luật khác có liên quan”.

Có thể thấy, cả hai điều luật quy định về quyền bình đẳng giữa vợ và
chồng nêu trên đều có những điểm chung nhƣ sau:
Thứ nhất, vợ, chồng bình đẳng với nhau, có quyền, nghĩa vụ ngang
nhau về mọi mặt trong gia đình. Mọi mặt trong gia đình có thể hiểu là vợ
9


chồng đƣợc xác lập trên cở sở bình đẳng về nhân thân và tài sản trong quan hệ
hôn nhân cũng nhƣ khi chấm dứt hôn nhân.
Cụ thể, quyền bình đẳng giữa vợ và chồng trong quan hệ HN&GĐ thể
hiện thông qua các nguyên tắc cơ bản của chế độ HN&GĐ và quy định của
pháp luật HN&GĐ nhƣ sau:
- Quyền bình đẳng giữa vợ và chồng thể hiện qua hôn nhân tự nguyện,
tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng. Nhà nƣớc và xã hội không
thừa nhận sự phân biệt đối xử giữa vợ và chồng.
- Vợ, chồng bình đẳng với nhau, có nghĩa vụ và quyền ngang nhau về
mọi mặt trong gia đình.
- Vợ chồng chung thuỷ, thƣơng yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau,
cùng nhau xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững.
- Vợ, chồng tôn trọng quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo của nhau; giúp
đỡ, tạo điều kiện cho nhau học tập, nâng cao trình độ văn hoá, chuyên môn,
nghiệp vụ; tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội theo nguyện
vọng và khả năng của mỗi ngƣời.
- Vợ chồng có thể uỷ quyền cho nhau xác lập, thực hiện và chấm dứt các
giao dịch mà theo quy định của pháp luật phải có sự đồng ý của cả vợ chồng.
- Vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử
dụng, định đoạt tài sản chung. Việc xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch
dân sự liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn hoặc là nguồn sống duy nhất
của gia đình, việc dùng tài sản chung để đầu tƣ kinh doanh phải đƣợc vợ
chồng bàn bạc, thoả thuận.

- Quyền đƣợc chăm sóc, giáo dục và tạo điều kiện nhƣ nhau giữa vợ và
chồng để học tập, lao động, vui chơi, giải trí và phát triển.
- Vợ, chồng có trách nhiệm chia sẻ công việc gia đình.

10


Có thể thấy quyền bình đẳng giữa vợ và chồng trƣớc hết là thể hiện
việc vợ chồng có quyền, nghĩa vụ ngang nhau về mọi mặt trong gia đình và
trong quan hệ dân sự; bình đẳng trong việc vợ chồng cùng nhau bàn bạc và
quyết định các vấn đề liên quan đến nhân thân và tài sản của vợ chồng, của
mỗi thành viên trong gia đình, liên quan đến đời sống chung của gia đình.
Thứ hai, với mục đích xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, bình đẳng, bền
vững, hạnh phúc; quyền bình đẳng giữa vợ và chồng trong quan hệ hôn nhân
cần đƣợc thực hiện dựa trên nguyên tắc dân chủ, công bằng, tôn trọng lẫn
nhau và không phân biệt đối xử giữa vợ và chồng trong gia đình. Khi cả hai
đều tôn trọng lẫn nhau, đƣợc thực hiện các quyền và nghĩa vụ nhƣ nhau, sẽ
không có vấn đề đặt ra là ai có quyền hạn hơn ai mà chỉ có một sự phối hợp
hài hòa để cùng nhau giải quyết mọi công việc trong gia đình. Khi cả hai đều
quên mình để hy sinh cho nhau sẽ không có vấn đề đặt ra là ai đóng góp nhiều
hơn ai mà chỉ có một sự nỗ lực nơi tự thân mỗi ngƣời để cũng nhau xây dựng
gia đình. Trong gia đình, vợ và chồng bình đẳng không có sự phân biệt đối
xử, vợ chồng tôn trọng lẫn nhau, đó là những nhân tố quyết định để xóa bỏ rất
nhiều nguyên nhân gây ra sự bất bình đẳng giữa vợ và chồng và sự rạn nứt
trong quan hệ hôn nhân, nhất là trong thời đại hiện nay vốn rất dễ chịu sự chi
phối lớn lao của yếu tố vật chất.
Qua những phân tích khái quát ở trên tác giả xin mạnh dạn tổng hợp các
quy định và đƣa ra khái niệm về quyền bình đẳng giữa vợ và chồng nhƣ sau:
Quyền bình đẳng giữa vợ và chồng là vợ chồng có quyền, nghĩa vụ
ngang nhau về mọi mặt trong gia đình và trong quan hệ dân sự; thể hiện việc

vợ chồng cùng nhau bàn bạc và quyết định các vấn đề liên quan đến nhân
thân và tài sản của vợ chồng, của mỗi thành viên trong gia đình, liên quan
đến đời sống chung của gia đình; cùng nhau xây dựng gia đình no ấm, bình
đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững.
11


1.1.2. Đặc điểm của quyền bình đẳng giữa vợ và chồng
Quyền bình đẳng giữa vợ và chồng đƣợc pháp luật HN&GĐ quy định
xuất phát từ những quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân đã đƣợc ghi nhận
trong Hiến pháp – đạo luật cơ bản của Nhà nƣớc ta. Có thể thấy, về bản chất,
các quyền công dân chính là những quyền con ngƣời đƣợc Nhà nƣớc thừa
nhận và áp dụng cho công dân của mình. Do vậy, quyền bình đẳng giữa vợ
chồng mang đầy đủ các đặc điểm của quyền con ngƣời trong HN&GĐ, cụ thể
nhƣ sau:
“Thứ nhất, quyền bình đẳng giữa vợ và chồng phụ thuộc chặt chẽ vào
bản chất của chế độ xã hội qua mỗi giai đoạn phát triển của đất nƣớc. Dƣới
các chế độ cũ, quyền bình đẳng giữa vợ và chồng đƣợc xác định theo giáo lý
Nho giáo. Tƣ tƣởng “phụ quyền” và “gia trưởng” là nguyên tắc chủ đạo trong
các quan hệ HN&GĐ. Quyền đƣợc xác lập và ƣu tiên cho ngƣời đàn ông,
ngƣời chồng trong gia đình; trong đó, quyền và nghĩa vụ của ngƣời phụ nữ,
ngƣời vợ lại mang tính phụ thuộc vào lợi ích của ngƣời chồng. Dƣới chế độ
Nhà nƣớc ta hiện nay, quyền bình đẳng giữa vợ và chồng về HN&GĐ đã trở
thành một trong các quyền cơ bản nhất của cá nhân đƣợc pháp luật ghi nhận
trong Hiến pháp, các văn bản pháp luật có liên quan. Quyền bình đẳng giữa
vợ và chồng đƣợc thực hiện trên cơ sở nguyên tắc dân chủ, công bằng, không
phân biệt đối xử, kế thừa và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp
của dân tộc.
Thứ hai, quyền bình đẳng giữa vợ và chồng thƣờng đƣợc đặt trong lợi
ích chung của gia đình và xã hội. Việt Nam là một đất nƣớc nông nghiệp ở

phƣơng Đông thuộc nền văn minh lúa nƣớc – nền văn minh gắn chặt gia đình
trong vai trò là đơn vị xã hội cơ bản. Kết cấu chặt chẽ gia đình – làng xã –
Nhà nƣớc đi liền với toàn bộ tiến trình phát triển của dân tộc Việt Nam. Do
đó, khác với ngƣời phƣơng Tây thƣờng đề cao tự do cá nhân còn gia đình
12


nhiều khi xếp vào hàng thứ yếu; ngƣời Việt Nam và một số nƣớc Á Đông lại
khác mỗi cá nhân gắn bó chặt chẽ với một gia đình, làng xã. Quyền của cá
nhân vợ, chồng trong HN&GĐ vì thế thƣờng bị hạn chế bởi lợi ích của gia
đình và xã hội. Trong thực tiễn cuộc sống, một ngƣời phụ nữ Việt Nam hiện
đại khi cần cân nhắc giữa lợi ích cá nhân với lợi ích của gia đình, thì lựa chọn
lợi ích gia đình vẫn mang tính phổ biến. Đặc điểm này cho thấy, ở Việt Nam
nếu công nhận, thực thi và bảo đảm quyền bình đẳng giữa vợ và chồng nhƣ
quyền cơ bản của cá nhân mà không có sự quan tâm về mặt pháp luật, chính
sách đối với vai trò của gia đình, thì quyền bình đẳng giữa vợ và chồng mới
chỉ dừng lại ở tính chất tuyên ngôn mà chƣa thực sự tiếp nhận quyền cụ thể
trên thực tế.
Thứ ba, quyền bình đẳng giữa vợ và chồng ở Việt Nam không phải là
điều mới lạ so với nền văn hóa truyền thống của Việt Nam, nhƣng cũng có sự
xung đột nhất định bởi yếu tố tôn giáo, tín ngƣỡng. Dân tộc Việt Nam dù bất cứ
giai đoạn lịch sử nào, truyền thống tôn trọng phụ nữ, đề cao tình cảm trong gia
đình là một nét văn hóa không thay đổi. Ngƣời dân luôn thể hiện khát vọng
mong muốn đƣợc hƣởng quyền dân chủ hơn, bình đẳng hơn trong gia đình,
một loạt các bài thơ của nữ thi sĩ Hồ Xuân Hƣơng, hay các câu ca dao, tục ngữ
“thuận vợ, thuận chồng tát bể đông cũng cạn”, “râu tôm nấu với ruột bầu,
chồng chan vợ húp gật gù khen ngon”…đã phản ánh phần nào truyền thống tốt
đẹp đó. Do vậy, xét ở khía cạnh thích ứng văn hóa, ngƣời dân Việt Nam dễ tiếp
nhận quyền bình đẳng giữa vợ chồng, đặc điểm các quyền liên quan đến vai trò
của ngƣời phụ nữ, ngƣời vợ trong gia đình và xã hội. Tuy nhiên, Việt Nam

cũng là đất nƣớc chịu ảnh hƣởng bởi tôn giáo và tín ngƣỡng. Trong suốt các
triều đại phong kiến Việt Nam, tƣ tƣởng Nho giáo đã đƣợc du nhập và đề cao.
Trong đó, đức hy sinh của ngƣời phụ nữ vì gia đình, sự phụ thuộc giữa các thế
hệ, sự trọng nam – khinh nữ,…là một trong các nội dung cơ bản. Quan niệm
13


“phu xướng, phụ tùy”, “thuyền theo lái, gái theo chồng”, “trai năm thê, bảy
thiếp, gái chính chuyên một chồng”…đã trở thành nguyên tắc phổ biến về ứng
xử và xác định quyền trong gia đình truyền thống ở Việt Nam. Ngoài ra, cùng
với sự xuất hiện giao lƣu Đông – Tây, đặc biệt ở giai đoạn thuộc Pháp, đạo Cơ
đốc đã xuất hiện và có ảnh hƣởng nhiều vùng, địa phƣơng của Việt Nam. Giáo
lý nhà thờ cũng có những tác động không nhỏ đến thực thi quyền bình đẳng
giữa vợ và chồng, đặc biệt các quyền về kết hôn, ly hôn… Ảnh hƣởng của tôn
giáo, tín ngƣỡng đã và đang là những rào cản rất lớn trong việc thực thi và bảo
đảm quyền cá nhân của vợ, chồng trong HN&GĐ.
Thứ tư, quyền bình đẳng giữa vợ và chồng gắn bó chặt chẽ với các
quyền con ngƣời về dân sự và chính trị khác. Thực tế nhiều quyền giữa vợ và
chồng chỉ thực hiện trên thực tế ở Việt Nam nếu các quyền dân sự, chính trị
khác đã đƣợc công nhận và thực thi cho các thành viên gia đình. Ví dụ: quyền
tự do lựa chọn nơi ở, nghề nghiệp, kinh doanh của ngƣời vợ chỉ có thể đƣợc
thực hiện khi trƣớc hết nó là quyền cơ bản của công dân đƣợc Nhà nƣớc tôn
trọng và bảo vệ. Do vậy, khi công nhận, thực thi và bảo đảm quyền bình đẳng
giữa vợ và chồng phải gắn liền chặt chẽ quyền này với các quyền con ngƣời
về dân sự, chính trị khác nhƣ là sự tƣơng hỗ, điều kiện cần cho quyền bình
đẳng giữa vợ và chồng trong HN&GĐ” [40].
Thứ năm, quyền bình đẳng giữa vợ và chồng có mối liên hệ mật thiết với
pháp luật. Điều này trƣớc hết là bởi cho dù quyền bình đẳng giữa vợ và chồng có
là quyền vốn có (nguồn gốc tự nhiên) hay phải do Nhà nƣớc quy định, thì việc
thực hiện các quyền vẫn cần có pháp luật. Hầu hết những nhu cầu vốn có, tự nhiên

của con ngƣời (quyền tự nhiên của con ngƣời) không thể đƣợc bảo đảm đầy đủ
nếu không đƣợc ghi nhận bằng pháp luật, mà thông qua đó, nghĩa vụ tôn trọng và
thực thi các quyền không phải chỉ tồn tại dƣới dạng những quy tắc đạo đức mà trở
thành những quy tắc cƣ xử chung, có hiệu lực bắt buộc và thống nhất với tất cả
14


mọi chủ thể trong xã hội. Pháp luật Nhà nƣớc, đặc biệt Luật HN&GĐ đã và đang
đóng vai trò là một công cụ hữu hiệu giúp Nhà nƣớc đảm bảo sự tuân thủ, thực thi
quyền bình đẳng giữa vợ và chồng trong gia đình thông qua việc vận dụng các
quy phạm pháp luật và cơ chế pháp lý [12, tr.46].
Ngoài ra, quyền bình đẳng giữa vợ và chồng còn mang những đặc điểm
riêng biệt khác:
Thứ nhất, quyền bình đẳng giữa vợ và chồng thể hiện rõ nét trong các
quyền và nghĩa vụ về nhân thân và tài sản. Thực hiện những quyền và nghĩa
vụ về nhân thân và tài sản là nhằm bảo đảm thỏa mãn những nhu cầu tình cảm
và vật chất trong đời sống vợ chồng, bảo đảm lợi ích chung của gia đình và xã
hội. Nghĩa vụ và quyền về nhân thân giữa vợ và chồng mang yếu tố tình cảm,
là lợi ích tinh thần giữa vợ và chồng, gắn liền với bản thân vợ chồng trong
suốt thời kỳ hôn nhân. Chỉ với tƣ cách là vợ chồng của nhau thì họ mới có các
quyền và nghĩa đó. Quyền và nghĩa vụ về tài sản giữa vợ chồng đóng vai trò
quan trọng trong đời sống gia đình, mang những nét đặc trƣng gắn liền với
nhân thân của vợ chồng. Quyền và nghĩa vụ tài sản giữa vợ và chồng bao gồm
quyền sở hữu tài sản, quyền và nghĩa vụ cấp dƣỡng và quyền thừa kế tài sản
[7, tr.136]. Với tƣ cách là công dân, vợ chồng có đầy đủ các quyền và nghĩa
vụ đó và đƣợc pháp luật bảo hộ. Bên cạnh đó, vợ chồng còn có các quyền và
nghĩa vụ với nhau, với gia đình và xã hội.
Thứ hai, quyền bình đẳng giữa vợ và chồng phát sinh khi có sự kiện kết
hôn, xác lập quan hệ hôn nhân giữa vợ chồng và chấm dứt khi có sự kiện làm
quan hệ hôn nhân chấm dứt cụ thể trong các trƣờng hợp nhƣ sau:

Đối với quyền và nghĩa vụ về nhân thân, trong trƣờng hợp vợ, chồng
chết; ly hôn và có quyết định của Tòa án tuyên bố vợ, chồng chết: các quyền
và nghĩa vụ nhân thân giữa vợ chồng sẽ chấm dứt. Nghĩa là những quyền và
nghĩa vụ nhân thân giữa vợ chồng phát sinh từ khi kết hôn, gắn bó tƣơng ứng
15


giữa vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân (nhƣ nghĩa vụ thƣơng yêu, quý trọng,
chăm sóc, giúp đỡ nhau tiến bộ, nghĩa vụ chung thủy giữa vợ chồng; quyền đại
diện cho nhau..) sẽ đƣơng nhiên chấm dứt. Một số quyền nhân thân khác mà vợ,
chồng với tƣ cách là công dân thì không ảnh hƣởng, không thay đổi (nhƣ các
quyền về họ tên, tôn giáo, dân tộc, quốc tịch, nghề nghiệp, chỗ ở…). Ngƣời vợ,
chồng còn sống hay sau khi ly hôn; vợ, chồng có quyền kết hôn với ngƣời khác
theo nguyên tắc tự do hôn nhân, phù hợp với quy định của pháp luật về điều kiện
kết hôn và cấm kết hôn. Tuy nhiên, trong trƣờng hợp vợ, chồng bị tuyên bố là đã
chết nhƣng sau một thời gian, vì lý nào đó mà họ lại trở về thì việc hủy bỏ quyết
định của Tòa án hoặc giấy báo tử là cơ sở phục hồi quan hệ hôn nhân, trừ trƣờng
hợp ngƣời chồng, vợ đã kết hôn với ngƣời khác. Pháp luật của Nhà nƣớc ta đã
xóa bỏ việc cấm kết hôn trong thời kỳ “cư sương” hoặc “cư tang” đối với ngƣời
vợ góa dƣới pháp luật thời kỳ phong kiến [7, tr.241].
Đối với quyền và nghĩa vụ về tài sản, sau khi có sự kiện làm quan hệ
hôn nhân chấm dứt trong cả ba trƣờng hợp, khối tài sản chung hợp nhất giữa
vợ và chồng sẽ không hình thành thêm nữa. Việc chia tài sản chung giữa hai
vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân trong trƣờng hợp vợ, chồng ly hôn sẽ do các
bên thỏa thuận, nếu không thỏa thuận đƣợc thì yêu cầu Tòa án giải quyết; tài
sản riêng của bên nào thì thuộc quyền sở hữu của bên đó [7, tr.281]. Trƣờng
hợp vợ, chồng chết hoặc có quyết định của Tòa án tuyên bố vợ, chồng đã
chết; tài sản chung của vợ chồng sẽ đƣợc chia theo quy định của pháp luật;
vợ, chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau. Tuy nhiên, trong trƣờng hợp
ngƣời vợ, ngƣời chồng bị tuyên bố là đã chết mà còn sống có quyền yêu cầu

những ngƣời đã nhận tài sản thừa kế trả lại tài sản hiện còn hoặc đƣợc nhận
lại tài sản của mình do ngƣời quản lý tài sản chuyển giao.
1.2. Hiến chƣơng Liên Hiệp Quốc và một số Luật Quốc tế về quyền bình
đẳng giữa vợ và chồng
16


*) Hiến chƣơng Liên Hiệp Quốc năm 1945
Trải qua 70 năm tồn tại vẫn giữ nguyên giá trị pháp lý và các ý nghĩa
xã hội, Hiến chƣơng Liên Hiệp Quốc năm 1945 đã đặt nền móng đầu tiên cho
việc thiết lập một cơ chế pháp lý quốc tế để bảo vệ và thúc đẩy quyền con
ngƣời trên thế giới, đặc biệt là các điều khoản quy định về bảo vệ và thực hiện
quyền bình đẳng nam, nữ nói chung; bình đẳng giữa vợ và chồng nói riêng.
Ngay lời mở đầu của Hiến chƣơng đã khẳng định: “Khẳng định lại sự
tin tưởng vào những quyền cơ bản của con người, vào nhân phẩm và giá trị
của con người, vào quyền bình đẳng giữa nam và nữ và giữa các quốc gia lớn
bé” [7, tr.13]. Lần đầu tiên, bình đẳng về các quyền giữa phụ nữ và đàn ông
đã đƣợc khẳng định trong Hiến chƣơng Liên Hiệp Quốc, đặt nền tảng cho tất
cả mọi ngƣời không phân biệt chủng tộc, màu da, dân tộc, giới tính, tôn
giáo,...tất cả mọi ngƣời đều đƣợc hƣởng các quyền và tự do một cách bình
đẳng. Bên cạnh đó, Hiến chƣơng kêu gọi tất cả các nƣớc hành động phối hợp
với Liên Hiệp Quốc để đạt đƣợc việc tôn trọng và thực hiện quyền bình đẳng
nam nữ trên phạm vi toàn thế giới. Với những mục đích hoạt động đã đƣợc
thể hiện trong Hiến chƣơng, trong đó vấn đề bảo vệ quyền con ngƣời, đặc biệt
quyền bình đẳng nam nữ là một trong những mục đích chính của Liên Hiệp
Quốc nên trong hầu hết các điều khoản của Hiến chƣơng đều có những quy
định nhằm thúc đẩy, khuyến khích bảo vệ từ các cơ quan chuyên trách của
Liên Hiệp Quốc đến nghĩa vụ của cộng đồng quốc tế, các quốc gia.
Mặc dù, Hiến chƣơng chỉ mới dừng lại ở mức độ là những tuyên bố,
khuyến nghị, thúc đẩy của Liên Hiệp Quốc đối với các tổ chức trực thuộc

hoặc các quốc gia để nhằm bảo vệ và thực thi quyền bình đẳng giữa vợ và
chồng một cách gián tiếp thông qua quyền bình đẳng nam, nữ trên phạm vi
toàn thế giới nhƣng đây chính là tiền đề, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho các
quốc gia trên thế giới có thể dựa vào đó ký kết và thực hiện các điều ƣớc quốc
17


tế đa phƣơng cũng nhƣ song phƣơng, khu vực hay toàn thế giới về quyền con
ngƣời. Hiến chƣơng Liên hợp quốc đã trở thành khuôn khổ pháp lý quốc tế
nhằm bảo đảm vị thế bình đẳng giữa vợ và chồng trong cƣơng vị chủ thể các
quyền con ngƣời; làm tiền đề cho sự ra đời của các Công ƣớc quốc tế khác
nhằm hoàn thiện những quyền cơ bản của con ngƣời.
*) Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948
“Quyền bình đẳng giữa vợ và chồng lần đầu tiên đƣợc đề cập trong Điều
16 của Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền quy định về quyền kết hôn, lập gia
đình và bình đẳng trong hôn nhân. Nam và nữ có quyền bình đẳng trong việc kết
hôn, trong thời gian chung sống và khi ly hôn. Các quy định kể trên của Tuyên
ngôn sau đó đƣợc tác khẳng định và cụ thể hóa trong Điều 23 Công ƣớc quốc tế
về các quyền dân sự, chính trị và Điều 10 Công ƣớc quốc tế về các quyền kinh
tế, xã hội và văn hóa. Chính vì vậy, khi xếp các quyền có liên quan vào một
nhóm chung là quyền về gia đình, nhóm chung này sẽ mang đặc trƣng và đôi khi
đƣợc xếp vào cả hai nhóm quyền dân sự và quyền xã hội.
Cụ thể, về khía cạnh quan hệ nhân thân và tài sản, quyền về gia đình
thuộc nhóm quyền dân sự, tuy nhiên, ở khía cạnh an sinh xã hội, quyền này
thuộc nhóm quyền xã hội. Các quốc gia thành viên Công ƣớc phải tiến hành
các biện pháp thích hợp để đảm bảo sự bình đẳng về quyền và trách nhiệm
của vợ và chồng trong suốt thời gian chung sống và sau khi ly hôn. Liên quan
đến Điều 23 Công ƣớc quốc tế về các quyền dân sự, chính trị, Hội đồng quyền
con ngƣời Liên Hiệp Quốc đã giải thích thêm về ý nghĩa và nội dung của các
quyền ghi nhận trong Điều này tại Bình luận chung số 19 thông qua phiên họp

thứ 39 năm 1990 của Ủy ban, theo đó, về quyền bình đẳng khi kết hôn, cần
đặc biệt lƣu ý việc bảo đảm không có sự phân biệt đối xử về giới tính liên
quan đến việc nhập hay từ bỏ quốc tịch do kết hôn, cũng nhƣ bảo đảm quyền
của cả vợ và chồng đƣợc bình đẳng trong việc giữ nguyên hay lựa chọn mới
18


cho mình sau khi kết hôn (đoạn 7). Vợ chồng có quyền bình đẳng liên quan
đến tất cả các vấn đề nảy sinh trong đời sống gia đình, ví dụ nhƣ việc lựa
chọn nơi cƣ trú, tổ chức cuộc sống, giáo dục con cái, quản lý tài sản, kể cả
trong việc ly hôn và trông nom, chu cấp, nuôi dƣỡng, thăm nom con cái sau
khi ly hôn…(các đoạn 8-9)” [12, tr.188].
*) Công ƣớc về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử với phụ
nữ năm 1979
Trong quan hệ HN&GĐ, sự bất bình đẳng giữa vợ và chồng vẫn luôn
tồn tại trong xã hội, phần lớn ngƣời phụ nữ phải chịu sự đối xử bất công bằng,
chịu nhiều thiệt thòi trong gia đình và xã hội. Công ƣớc về xóa bỏ tất cả các
hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ là văn kiện quốc tế quan trọng nhất về
quyền con ngƣời của phụ nữ, góp phần bảo đảm quyền lợi của ngƣời phụ nữ,
ngƣời vợ trong gia đình. Công ƣớc là một trong 9 Công ƣớc quốc tế quan
trọng nhất hiện nay về quyền con ngƣời của Liên Hiệp Quốc. Mặc dù vậy,
Công ƣớc không xác lập các quyền mới cho phụ nữ, mà thay vào đó, Công
ƣớc này đề ra những phƣơng thức, biện pháp nhằm loại trừ sự phân biệt đối
xử chống lại phụ nữ trong việc hƣởng thụ các quyền con ngƣời mà họ đã
đƣợc thừa nhận trong những điều ƣớc quốc tế trƣớc đó. Cụ thể, Công ƣớc chỉ
ra những lĩnh vực mà có sự phân biệt đối xử nặng nề với phụ nữ trong đó có
lĩnh vực HN&GĐ, đồng thời, xác định những cách thức, biện pháp để xóa bỏ
những sự phân biệt đối xử đó [12, tr.234]. “Điều 16 Công ƣớc đề cập việc xóa
bỏ sự phân biệt đối xử chống lại phụ nữ trên lĩnh vực riêng tƣ mà có ý nghĩa
rất quan trọng đến cuộc sống của con ngƣời nói chung và của phụ nữ nói

riêng, đó là hôn nhân, gia đình. Điều này xuất phát từ thực tế là trong hầu hết
các xã hội, phụ nữ thƣờng phải chịu đựng sự đối xử bất bình đẳng ngay trong
gia đình, thể hiện ở các hình thức nhƣ hôn nhân cƣỡng bức (hay sắp đặt),
quyền quyết định về con cái, quản lý tài sản, quyền đƣợc nghỉ ngơi… Sự
19


×