Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

Quyền bình đẳng giữa vợ chồng trong việc chia tài sản theo pháp luật Hôn nhân gia đình hiện hành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (346.2 KB, 64 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quan hệ kinh tế quốc tế là một trong những yếu tố cơ bản quyết định sự
hình thành và phát triển của nền kinh tế thế giới, các xu hướng vận động của
quan hệ kinh tế quốc tế rất đa dạng, nhưng nổi bật trong giai đoạn hiện nay là
hội nhập kinh tế quốc tế và hội nhập kinh tế khu vực. Quá trình hội nhập này chi
phối sự phát triển của tất cả các quốc gia, có thể tạo ra những tác động tích cực
cũng như gây ra tác động tiêu cực đối với sự phát triển của mỗi quốc gia.
Là một khu vực có vị trí chính trị, kinh tế quan trọng, châu Á - Thái Bình
Dương cũng không nằm ngoài xu hướng chung này. Trong mấy chục năm qua,
châu Á - Thái Bình Dương đã nổi lên là một khu vực phát triển kinh tế năng
động, đóng vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế và chính trị thế giới.
Từ nửa cuối những năm 1980 của thế kỷ XX, để duy trì tính năng động kinh tế
của khu vực, đối phó với sự canh tranh ngày càng cao về kinh tế trên thế giới,
một số nước châu Á - Thái Bình Dương đã liên kết với nhau tạo ra nền thương
mại và đầu tư quốc tế thông thoáng. Trong bối cảnh đó, Diễn đàn hợp tác kinh tế
châu Á - Thái Bình Dương (APEC) được thành lập vào tháng 11 năm 1989 tại
Canberra (Australia).
Việt Nam đã là thành viên của APEC từ năm 1998, đã có nhiều cơ hội
thuận lợi và nhất là những bài học kinh nghiệm về hội nhập quốc tế, nhưng cũng
phải đối diện với những khó khăn thách thức rất lớn khi tham gia APEC. Do
vậy, việc duy trì môi trường hoà bình ổn định và tăng cường hợp tác cùng có lợi
với các nước trong khu vực có tầm quan trọng đặc biệt, góp phần vào sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện thành công mục tiêu công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước.
APEC là một thực thể đa dạng, qua hơn một thập kỷ tồn tại, phát triển đã
từng bước lớn mạnh và đến nay đã có 21 thành viên với trình độ phát triển kinh
tế khác nhau. Đối với APEC, chúng ta đã và sẽ tiếp tục đưa ra các cam kết trong
kế hoạch hành động quốc gia hàng năm, đồng thời tham gia ngày càng sâu vào
1


Website: Email : Tel : 0918.775.368
một số lĩnh vực của kế hoạch hành động tập thể, nhằm bảo đảm thực hiện mục
tiêu chung của APEC.
Tuy nhiên, hiểu biết của người dân và nhất là của giới doanh nghiệp về
Diễn đàn này còn rất hạn chế, mặt khác xu thế liên kết ở nhiều tầng nấc với
nhiều hình thức mức, độ khác nhau đang diễn ra mạnh mẽ trong khu vực. Điều
này đòi hỏi một nước đang phát triển như Việt Nam phải đẩy mạnh công cuộc
cải cách và phát triển về kinh tế, để tận dụng được sức mạnh của các nhân tố bên
ngoài, kết hợp với các tiềm lực bên trong, trong quá trình hợp tác kinh tế -
thương mại với các nước khu vực châu Á - Thái Bình Dương, đặc biệt là với các
nước thành viên APEC.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng khẳng định: “Chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế” và đến Đại hội X, Đảng ta tiếp tục khẳng định, bổ sung
“Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế” đã thể hiện chiến lược phát
triển hướng ngoại của Việt Nam theo đường lối đổi mới đối ngoại độc lập, tự
chủ theo tinh thần Việt Nam “sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các
nước trong cộng đồng thế giới” phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển. Xuất
phát từ vị trí và tầm quan trọng của APEC, việc tìm hiểu, nghiên cứu về Diễn
đàn luôn là công việc cần thiết và bổ ích. Vì vậy, em đã chọn đề tài “Hợp tác
kinh tế - thương mại giữa Việt Nam và APEC _ thực trạng và giải pháp” làm
đề tài nghiên cứu của Khoá luận.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Khoá luận hướng tới nghiên cứu một cách toàn diện về sự hình thành,
phát triển quan hệ hợp tác kinh tế- thương mại giữa Việt Nam với các thành viên
APEC.
Phân tích cơ sở khách quan: bao gồm cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn, mối
quan hệ hợp tác này trong những năm qua. Nhận thức rõ thực trạng và giải pháp
cần thiết thúc đẩy sự phát triển kinh tế đất nước.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của khoá luận là:
- Nghiên cứu cơ sở pháp lý của hợp tác kinh tế- thương mại giữa Việt

Nam và APEC.
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Một số nội dung pháp lý về hợp tác kinh tế- thương mại giữa Việt Nam và
APEC.
- Hợp tác kinh tế- thương mại giữa Việt Nam và các nước APEC.
- Thực trạng và giải pháp về hợp tác kinh tế- thương mại Việt Nam và APEC.
3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chủ đạo được sử dụng trong Khoá luận là tổng
hợp, phân tích, so sánh dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Trong quá trình nghiên cứu, còn sử dụng các số liệu về phát triển kinh tế
của các nước thành viên APEC, về các sự kiện lịch sử trong quá trình hình thành
và hoạt động của APEC.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Khoá luận
Khoá luận sẽ làm rõ hơn một số vấn đề lý luận và thực tiễn của mối quan
hệ hợp tác kinh tế- thương mại giữa Việt Nam và APEC. Hiểu hơn nữa về Diễn
đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương, thấy được thực trạng kinh tế
nước nhà, giúp chúng ta có một cái nhìn đúng đắn, tổng thể về tình hình kinh tế
và tiến trình hội nhập APEC.
Khoá luận còn nêu lên một số vấn đề đặt ra, chỉ ra mối liên hệ và tác động
qua lại của quá trình hội nhập APEC, từ đó đưa ra ý kiến đề xuất là những việc
cần thiết phải làm trong thời gian tới, nhằm đẩy mạnh phát triển mối quan hệ
hợp tác này, đưa đất nước phát triển.
5. Kết cấu Khoá luận
Khoá luận bao gồm: Lời nói đầu, Nội dung và Kết luận
Phần Nội dung gồm có 3 chương:
Chương I. Cơ sở pháp lý của hợp tác kinh tế - thương mại giữa Việt Nam
và APEC.
Chương II. Một số nội dung pháp lý về hợp tác kinh tế - thương mại giữa

Việt Nam và APEC.
Chương III. Hợp tác kinh tế - thương mại giữa Việt Nam và các nước APEC.
3
CHƯƠNG I
CƠ SỞ PHÁP LÝ CỦA HỢP TÁC KINH TẾ - THƯƠNG MẠI
GIỮA VIỆT NAM VÀ APEC
1. Lịch sử hình thành và phát triển của APEC
1.1. Tính tất yếu khách quan của hợp tác kinh tế - thương mại giữa các
nước APEC
1.1.1. Bối cảnh thế giới và khu vực
Từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai tới cuối thập niên 1960, đã hình thành
và phát triển hai khối kinh tế đối lập nhau: khối kinh tế tư bản chủ nghĩa
(TBCN) và khối kinh tế xã hội chủ nghĩa (XHCN); các thể chế liên kết kinh tế
toàn cầu và khu vực phát triển mạnh, với sự ra đời của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF)
và Ngân hàng thế giới (WB), Hiệp định chung về thuế quan và thương mại
(GATT). Từ cuối thập kỷ 1980, các nước XHCN lâm vào tình trạng khủng
hoảng sâu sắc và đến đầu thập kỷ 1990, chế độ XHCN ở Liên Xô và các nước
Đông Âu sụp đổ. Mỹ có ý đồ muốn thiết lập trật tự thế giới mới, nhưng bị thách
thức bởi sự phát triển của nền kinh tế Nhật Bản và mức độ nhất thể hoá về kinh
tế, chính trị của Cộng đồng châu Âu được nâng cao. Sự lệ thuộc kinh tế giữa các
nước ngày càng rõ rệt, thay thế cho xu thế đối đầu giữa các nước là xu hướng
khu vực hoá, liên kết kinh tế thế giới ngày càng gia tăng.
Châu Á - Thái Bình Dương là một khu vực địa lý rộng lớn với Đại Dương
Thái Bình Dương chiếm trên một nửa diện tích biển của Trái Đất. Biển Đông và
Thái Bình Dương có tiềm năng lớn về khoáng sản và hải sản, đặc biệt là về dầu
mỏ, khí đốt. Đây là khu vực rất đa dạng về địa lý, diện tích, dân số và các điều
kiện tự nhiên khác.
Gần 30 năm qua, tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm của châu Á -
Thái Bình Dương đạt trên 6%, cao gấp đôi so với mức tăng trưởng của các khu
vực khác trên thế giới. Cùng với sự tăng trưởng nhanh chóng về kinh tế, thương

mại và đầu tư trong khu vực cũng tăng rất nhanh. Những năm 1980 - 1991 mức
tăng trưởng bình quân hàng năm về mậu dịch trong nội bộ khu vực châu Á -
Thái Bình Dương lên tới 9,51%, cao hơn tốc độ bình quân 5,61% hàng năm của
mậu dịch thế giới cùng thời gian đó [1, tr. 24].
Các hình thức hợp tác song phương và đa phương về đầu tư, thương mại,
chuyển giao kỹ thuật, xuất khẩu lao động cũng phát triển rất nhanh, đặc biệt là
đối với các nước lớn trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Châu Á - Thái Bình Dương là khu vực có cường quốc kinh tế mạnh nhất
thế giới đó là Mỹ, có vị trí ở khu vực Bắc Mỹ, nằm giữa Canada và Mexico,
giáp bắc Thái Bình Dương và bắc Đại Tây Dương, với nguồn vốn lớn, kỹ thuật
hùng hậu, thêm vào đó là nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và thị trường
tiêu thụ rộng lớn, kim ngạch xuất nhập khẩu vào loại cao nhất thế giới. Ở châu
Á, Trung Quốc là một nước có diện tích lớn, nguồn tài nguyên thiên nhiên tương
đối phong phú, nhiều chủng loại, hơn nữa có nguồn lao động dồi dào. Ngoài ra
cũng phải kể đến các nước ASEAN và các nước Đông Dương: có nguồn tài
nguyên và lao động tương đối phong phú, lại thiếu vốn và kỹ thuật, là điểm đến
của các nhà đầu tư trên thế giới. “ASEAN cũng là đối tượng thu hút nhiều vốn
đầu tư của thế giới, vào cuối những năm 1980 bình quân hàng năm tranh thủ
được 13,5 tỷ USD, so với 4,6 tỷ USD vào đầu những năm 1980” [2, tr. 7].
Một nhân tố góp phần không nhỏ vào sự phát triển của ASEAN là sự hợp
tác giữa các nước thành viên và các nước ở bên ngoài, chủ yếu là các nước được
gọi là “đối thoại” bao gồm Mỹ, Canada, Nhật, Australia, Niu Zealand, Liên
minh châu Âu, Hàn Quốc. Các quốc gia trong khu vực có những lợi thế so sánh
khác nhau, có thể bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau cùng tồn tại và phát triển. Bên cạnh
các yếu tố sản xuất và kết cấu ngành nghề khác nhau, thì sự ổn định tương đối
về chính trị trong mỗi quốc gia là hết sức quan trọng trong việc tạo ra tiền đề
xúc tiến hợp tác kinh tế khu vực, “các nước Đông Nam Á có trách nhiệm chính
trong việc tăng cường ổn định kinh tế và xã hội của khu vực” [3, tr. 23]. Các
quốc gia sẽ phải tăng cường hợp tác kinh tế với quan điểm hướng ngoại, làm cho
sự hợp tác đó đóng góp vào việc thúc đẩy tự do hoá thương mại toàn cầu.

Như vậy, trước tình hình thực tế này và từ đòi hỏi khách quan của tình
hình thế giới, khu vực và cũng là để giải quyết những vấn đề toàn cầu, Diễn đàn
hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương ra đời là kết quả tất yếu của sự hội tụ
các yếu tố trên, đáp ứng yêu cầu liên kết chặt chẽ hơn nữa của các nền kinh tế
trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
1.1.2. Sự ra đời của APEC
Trong bối cảnh đó và trong sự phù hợp lợi ích giữa các quốc gia, 12 quốc
gia khu vực châu Á - Thái Bình Dương là Hoa Kỳ, Canada, Nhật Bản, Australia,
Hàn Quốc, Thái Lan, Brunây, Indonesia, Malaysia, Singapore, Philippin và Niu
Zealand đã họp tại Caberra (Australia) theo sáng kiến của Thủ tướng Australia
lúc đó là Bobhawke để thành lập Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình
Dương vào tháng 11 năm 1989.
Để củng cố thêm tổ chức và cũng để mở rộng thêm các thành viên mới,
tháng 11 năm 1991, APEC kết nạp thêm Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan.
Tháng 11 năm 1994 kết nạp thêm Chilê, Mêxico, Papua Niughinê. Tháng 11
năm 1997 Hội nghị Thượng đỉnh thường niên APEC tại Vancuvơ - Canada đã
quyết định kết nạp Việt Nam, Nga, Pêru là thành viên chính thức của APEC vào
tháng 11 năm 1998. Tại Hội nghị Bộ trưởng APEC lần thứ 10 tổ chức tại
Kualalampua (Malaysia) ngày 14 tháng 11 năm 1998 Việt Nam chính thức trở
thành thành viên APEC.
Với tổng số 21 thành viên, APEC hiện có tổng dân số 2,6 tỷ người (chiếm
khoảng 43% dân số thế giới) với tổng GDP là 19,2 ngàn tỷ USD (khoảng 60%
tổng GDP toàn cầu). Tổng giá trị giao dịch thương mại của APEC là trên 5,5
ngàn tỷ USD, chiếm khoảng 47% tổng thương mại toàn cầu. Hiện nay APEC đã
quyết định ngừng việc kết nạp thành viên mới để chấn chỉnh tổ chức [4, tr. 23].
1.2. Các giai đoạn phát triển của APEC
Từ khi thành lập (1989) đến nay, APEC luôn luôn củng cố và phát triển
về nội dung hoạt động của mình, có thể chia làm các giai đoạn sau:
1.2.1. Giai đoạn đầu (1989 - 1993)
APEC tập trung xây dựng khuôn khổ ban đầu cho hợp tác kinh tế, xác

định dần các lĩnh vực cần đưa ra hợp tác ở cấp khu vực và thành lập các uỷ ban,
nhóm chuyên gia, nhóm công tác. Hội nghị Bộ trưởng APEC lần thứ nhất ở
Canberra 1989 mới chỉ đưa ra 2 lĩnh vực hoạt động, Hội nghị Bộ trưởng lần thứ
hai ở Singapore 1990 đã đưa ra 7 lĩnh vực hợp tác, Hội nghị Bộ trưởng APEC
lần thứ ba 1991 tại Seoul (Hàn Quốc) đã bổ sung thêm 3 lĩnh vực hoạt động. Tại
hội nghị này, tự do hoá mậu dịch và thương mại là một nội dung quan trọng, đề
xuất việc tham khảo nguyên tắc của GATT để thúc đẩy tự do hoá, đồng thời
cũng nhấn mạnh tính quan trọng của việc mở cửa phát triển kinh tế, hợp tác
khoa học - kỹ thuật.
1.2.2. Giai đoạn từ 1993 - 1998
Chú trọng vào tự do hoá và thuận lợi hoá thương mại, đầu tư với việc xây
dựng các văn kiện nền tảng. Tại hội nghị không chính thức các nhà lãnh đạo
kinh tế APEC (AELM) lần đầu tiên tại Xiatơn (Mỹ) tháng 11/1993 đã đề ra viễn
cảnh: “Tinh thần cộng đồng tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương” làm thay
đổi căn bản cơ cấu tổ chức của APEC, hình thành cơ cấu quyết sách ba tầng:
Hội nghị quan chức cao cấp, Hội nghị Bộ trưởng, Hội nghị cấp cao. Những
quyết định quan trọng phải được Hội nghị cấp cao quyết định.
Hội nghị cấp cao lần thứ 2 ở Bogor (Indonesia) tháng 11 năm 1994 đã có
cống hiến quan trọng cho việc thúc đẩy APEC phát triển theo chiều sâu, cụ thể
hoá kế hoạch đưa ra tại hội nghị Xiatơn. “Tuyên bố Bogor” đưa ra thời gian biểu
thực hiện tự do hoá mậu dịch và đầu tư khu vực châu á - Thái Bình Dương đối
với các thành viên phát triển không muộn hơn năm 2010, các thành viên đang
phát triển không muộn hơn năm 2020.
Hội nghị cấp cao lần thứ 3 tại Osaka - Nhật Bản năm 1995 đã thông qua
“chương trình hành động Osaka” với ba nội dung chính: tự do hoá thượng mại
và đầu tư, tạo thuận lợi cho thương mại và đầu tư, hợp tác kinh tế - kỹ thuật.
Hội nghị cấp cao lần thứ 4 tại Manila - Philippin tháng 11 năm 1996 với
chủ đề chính: “Từ tầm nhìn đến hành động”đã thông qua kế hoạch hành động
quốc gia (IAP) và kế hoạch hành động tập thể (CAP).
Hội nghị cấp cao lần thứ 5 tại Vacuvơ (Canada) tháng 11 năm 1997 xác

định chủ đề chính: “Kết nối cộng đồng APEC” xây dựng “Tầm nhìn thế kỷ XXI”
khẳng định những mối liên kết hiện nay cũng như trong tương lai giữa các thành
viên và cam kết hợp tác trong ba lĩnh vực trụ cột: tự do hoá; thuận lợi hoá; hợp
tác kinh tế - kỹ thuật.
Hội nghị cấp cao lần thứ 6 tại Kualalumpua (Malaysia) tháng 11 năm
1998 với chủ đề chính: “Tăng cường nền tảng cho phát triển”. Các nhà lãnh đạo
cùng bàn thảo về các biện pháp ngắn và dài hạn để sớm phục hồi và phát triển
các nền kinh tế trong khu vực.
1.2.3. Giai đoạn từ 1998 đến nay
Các hoạt động của APEC chuyển hướng sang các hoạt động thuận lợi hoá
thương mại và hợp tác kinh tế - kỹ thuật. Bên cạnh đó, cũng chú trọng tới một số
nội dung khác tác động sâu sắc tới môi trường kinh tế, an ninh trong khu vực,
tăng cường các hoạt động cải thiện hình ảnh của Diễn đàn trên trường quốc tế
cũng như tăng cường sự hiểu biết và hỗ trợ của các tầng lớp xã hội.
Hội nghị cấp cao lần thứ 7 tại Ocklân (Niu Zealand) tháng 9 năm 1999
với chủ đề chính: “Thách thức Ocklân” tán thành bắt đầu vòng đàm phán mới
của WTO và thông qua các nguyên tắc chính sách cạnh tranh, chuẩn bị xây dựng
các tiêu chuẩn về Ngân hàng.
Hội nghị cấp cao lần thứ 8 tại Bandaxeri Bêgaoan (Brunây) tháng 11 năm
2000 với chủ đề chính: “Mang lại lợi ích cho cộng đồng” nhấn mạnh ba trọng
tâm là phát triển nguồn nhân lực, doanh nghiệp vừa và nhỏ, công nghệ thông tin.
Hội nghị cấp cao lần thứ 9 tại Thượng Hải (Trung Quốc) tháng 10 năm
2001 xác định chủ đề chính: “`Đối phó với những thách thức mới trong thế kỷ
mới” thông qua “Thoả thuận Thượng Hải”tập trung vào việc mở rộng viễn cảnh
APEC. Đưa ra tuyên bố chống khủng bố đầu tiên của các nhà lãnh đạo APEC.
Hội nghị cấp cao lần thứ 10 tại Lôtcabôt (Mêxico) tháng 10 năm 2002 với
chủ đề chính: “Thực hiện tầm nhìn APEC về thương mại, đầu tư mở và tự do”.
Tuyên bố chống khủng bố thứ hai được đưa ra cùng với việc thông qua sáng
kiến về an ninh thương mại trong khu vực.
Hội nghị cấp cao lần thứ 11 tại Băng Kốc (Thái Lan) tháng 10 năm 2003

xác định chủ đề chính: “Thế giới của những khác biệt” “Đối tác vì tương lai”
thông qua tiêu chuẩn minh bạch hoá trong tám lĩnh vực cụ thể gồm: dịch vụ, đầu
tư, luật và chính sách cạnh tranh, tiêu chuẩn và hợp chuẩn, sở hữu trí tuệ, thủ tục
hải quan, tiếp cận thị trường, đi lại của doanh nhân.
Hội nghị cấp cao lần thứ 12 tại Xantiago (Chilê) tháng 11/2004 chủ đề
chính: “Một cộng đồng - tương lai của chúng ta” khẳng định quyết tâm trong
việc thúc đẩy sự thịnh vượng và tăng trưởng bền vững của các nền kinh tế thành
viên.
Hội nghị cấp cao lần thứ 13 tại Busan (Hàn Quốc) năm 2005 xác định chủ
đề chính: “Hướng tới một cộng đồng: đối mặt với thách thức, tạo ra sự thay
đổi”.
Hội nghị cấp cao lần thứ 14 tại Hà Nội (Việt Nam) năm 2006 với chủ đề:
“Hướng tới cộng đồng APEC năng động vì ổn định và phát triển” thể hiện mục
tiêu trước mắt của APEC là “Năng động, ổn định và phát triển” vừa bao hàm
tầm nhìn của APEC trong tương lai là “Hướng tới một cộng đồng”. Tại hội nghị
này, các ưu tiên đã được APEC 2006 thông qua: Tăng cường và thúc đẩy hợp
tác thương mại, đầu tư, phát triển bền vững; an ninh con người; phòng chống
dịch cúm gia cầm; phát triển nguồn nhân lực; nâng cao năng lực cạnh tranh của
các doanh nghiệp vừa và nhỏ; cải cách APEC; chống tham nhũng; liên kết giữa
các thành viên APEC thông qua du lịch và văn hoá. Có thể nói, các ưu tiên hợp
tác của APEC thể hiện trên nhiều lĩnh vực theo tôn chỉ mục đích của APEC,
thúc đẩy thịnh vượng và phát triển trong khu vực vì lợi ích và an ninh của người
dân và doanh nghiệp.
Chủ trì năm APEC 2006 và tổ chức Hội nghị Thượng đỉnh APEC lần thứ
14 là vinh dự của Việt Nam, góp phần khẳng định vai trò của Việt Nam trong
APEC, trên trường quốc tế.
Hội nghị Thượng đỉnh APEC lần thứ 15 sẽ được tổ chức tại Australia.
Như vậy, qua hơn một thập kỷ tồn tại và phát triển, từ một Diễn đàn tư
vấn kinh tế với cơ chế hoạt động lỏng lẻo, APEC đã từng bước lớn mạnh và đến
nay đã có 21 thành viên. Nội dung hoạt động trong từng năm APEC đều được cụ

thể hoá và được thực hiện, trong đó có tính đến sự khác biệt về trình độ giữa các
nước thành viên. APEC đã góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - thương mại
ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương và trên toàn thế giới.
2. Cơ cấu tổ chức, mục tiêu, nguyên tắc hoạt động của APEC
2.1. Cơ cấu tổ chức của APEC
Từ khi thành lập đến nay, tuy hình thức là một Diễn đàn hợp tác kinh tế
khu vực mở, nhưng qua thời gian hoạt động, cơ cấu tổ chức của APEC cũng
được bổ sung, hoàn thiện dần và hoạt động khá chặt chẽ theo mô hình dưới đây:
2.1.1. Cấp chính sách
- Hội nghị các nhà lãnh đạo kinh tế APEC:
Là cơ quan có quyết định cao nhất của APEC, nơi định ra các định hướng
chiến lược và viễn cảnh dài hạn cho APEC. Hội nghị thường được tổ chức vào
tháng 11 hàng năm để phê duyệt các kế hoạch, kiến nghị do Hội nghị Bộ trưởng
đệ trình và vạch ra phương hướng, nhiệm vụ cho năm kế tiếp. Chủ tịch Hội nghị
lãnh đạo do các thành viên thay phiên nhau đảm nhiệm hàng năm. Kết quả đạt
được của Hội nghị được thể hiện qua Tuyên bố chung của các nhà lãnh đạo
APEC.
- Hội nghị liên Bộ trưởng Ngoại giao - Thương mại:
Được tổ chức định kỳ hàng năm, trước Hội nghị các nhà lãnh đạo kinh tế
APEC.
- Hội nghị các quan chức cao cấp:
Thường được triệu tập thường kỳ ba lần trong một năm, trước khi diễn ra
Hội nghị Hộ trưởng Ngoại giao - Thương mại, nhiệm vụ chính là triển khai
quyết định của Hội nghị Bộ trưởng, đệ trình các khuyến nghị chương trình hợp
tác lên Hội nghị Bộ trưởng xem xét.
- Hội đồng tư vấn doanh nghiệp APEC (ABAC):
Nhiệm vụ là tăng cường sự hợp tác của APEC với khu vực doanh nghiệp
và thúc đẩy sự tham gia của giới doanh nghiệp vào các hoạt động hợp tác của
APEC. ABAC bắt đầu hoạt động sau Hội nghị Bộ trưởng Osaka năm 1995. Mỗi
nền kinh tế cử một đến ba đại diện, trong đó thường có một đại diện cho SMES

(doanh nghiệp vừa và nhỏ).
2.1.2. Cấp chuyên viên
- Uỷ ban thương mại và đầu tư (CTI)
- Uỷ ban kinh tế (EC)
- Uỷ ban quản lý và ngân sách (BMC)
- Uỷ ban điều hành SOM về hợp tác kinh tế và kỹ thuật (ESC)
Để triển khai các nhiệm vụ và mục tiêu hợp tác kinh tế- thương mại trong
APEC, do các nhà lãnh đạo kinh tế giao phó theo từng giai đoạn, hoặc từng năm
công tác, APEC thành lập các tiểu ban và nhóm công tác trực thuộc Uỷ ban
thương mại và đầu tư và Uỷ ban kinh tế (EC) dưới sự chỉ đạo chung của SOM.
APEC hiện có 11 tiểu ban trực thuộc CTI là: Tiếp cận thị trường bao gồm
lĩnh vực thuế và phi thuế; dịch vụ; đầu tư; sở hữu trí tuệ; tiêu chuẩn và hợp
chuẩn; thủ tục hải quan; chính sách cạnh tranh và cải cách cơ chế; đi lại của
doanh nhân; giải quyết tranh chấp; nhóm xây dựng năng lực WTO; mua sắm
Chính phủ... và một số nhóm công tác trực thuộc SOM như: Nhóm chuyên gia
về kỹ thuật nông nghiệp; năng lượng; nghề cá; phát triển nguồn nhân lực; khoa
học công nghệ công nghiệp; du lịch; xúc tiến thương mại; giao thông vận tải;
doanh nghiệp vừa và nhỏ và bảo tồn tài nguyên biển v.v…
Ngoài ra còn một số các mạng lưới, tiến trình, tổ hợp, diễn đàn khác trong
APEC bao gồm: Mạng lưới đầu mối liên hệ về giới; Mạng lưới đầu mối liên hệ
về văn hoá; Tiến trình Bộ trưởng tài chính; Tổ hợp tác trung tâm nghiên cứu
APEC; Diễn đàn về đổi mới khoa học đời sống; Hệ thống thực phẩm APEC.
2.1.3. Ban thư ký
Làm việc dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Hội nghị quan chức cấp cao và có
quan hệ thông tin liên lạc trực tiếp, thường xuyên với các nền kinh tế thành viên,
các uỷ ban, các nhóm công tác và nhóm đặc trách của APEC.
Nhiệm vụ mang tính chất hành chính, phục vụ các hội nghị của APEC,
theo dõi việc triển khai các dự án.
2.1.4. Cơ chế hoạt động của APEC
APEC hoạt động như một diễn đàn hợp tác kinh tế và thương mại đa

phương. Thành công của diễn đàn đạt được thông qua việc tăng cường đối thoại
chính sách và tôn trọng ý kiến của các thành viên. Các quyết định đều dựa trên
cơ sở cùng có lợi, đồng thuận, tự nguyện và phù hợp với các quy định của
GATT/WTO. Đây là diễn đàn mà các cam kết cắt giảm các rào cản thương mại
và tăng cường đầu tư mà không đòi hỏi sự ràng buộc pháp lý về mặt thực thi đối
với các thành viên. Các nền kinh tế thành viên thực hiện IAP, CAP nhằm mở
rộng thị trường và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
APEC phải tiếp tục phát huy sức mạnh thể chế và lợi thế so sánh của
mình trong việc thúc đẩy xây dựng chính sách theo hướng cởi mở, minh bạch và
cải tiến công tác quản lý, hài hoà lợi ích các thành viên, phối hợp giữa ba mặt
hành động: hành động đơn phương có phối hợp hành động tập thể và hành động
đa phương.
2.2. Mục tiêu hoạt động của APEC
Năm 1989, các thành viên sáng lập APEC xây dựng 3 mục tiêu:
- Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững.
- Phát triển và củng cố hệ thống thương mại đa phương.
- Tăng cường sự phụ thuộc lẫn nhau và thịnh vượng của các nền kinh tế
thành viên.
Tầm nhìn APEC được xác định rõ hơn vào năm 1994, khi các nhà lãnh
đạo APEC cam kết thực hiện “Các mục tiêu Bogor” về thương mại mở và tự do
trong khu vực. Mục tiêu dài hạn được nêu rõ trong tuyên bố Bogor 1994
“Thương mại và đầu tư tự do và thông thoáng trong khu vực châu Á - Thái Bình
Dương vào năm 2010 đối với thành viên APEC phát triển và 2020 đối với thành
viên APEC đang phát triển” được thực hiện dựa trên 3 trụ cột: Tự do hoá thương
mại và đầu tư, thuận lợi hoá kinh doanh, hợp tác kinh tế và kỹ thuật.
* Tự do hoá thương mại và đầu tư
Tập trung vào việc mở cửa thị trường, cắt giảm và dần dần dẫn đến loại
bỏ
hoàn toàn các rào cản thuế và phi thuế đối với thương mại, đầu tư. Các
nền kinh tế thành viên cùng nhau tiến hành thực hiện các IAP, theo đó các quốc

gia sẽ đưa ra các cam kết một cách tự nguyện về tự do hoá thuế quan, phi thuế
quan, dịch vụ và đầu tư phù hợp với nguyên tắc của WTO, giúp các nền kinh tế
thành viên củng cố nền kinh tế của mình, thông qua việc chia sẻ ý kiến và mang
lại nhiều lợi ích cho hoạt động hợp tác kinh tế trong APEC.
* Thuận lợi hoá kinh doanh
Một trong những mục tiêu chính của APEC chính là việc tạo thuận lợi tối
đa cho sự phát triển thương mại của các nền kinh tế thành viên. Kể từ khi thành
lập APEC luôn nỗ lực, tạo thuận lợi cho thương mại bằng cách đặt ra các mục
tiêu cụ thể, nhất là có chương trình hỗ trợ xây dựng năng lực cho các nền kinh tế
đang phát triển. Thuận lợi hoá kinh doanh tập trung vào việc giảm chi phí giao
dịch trong kinh doanh, tăng cường trao đổi thông tin và tự do thương mại, làm
cho thị trường hoạt động có hiệu quả hơn.
Trong bối cảnh thương mại thế giới ngày càng gia tăng, thuế quan giảm
dần và công nghệ phát triển, thuận lợi hoá thương mại càng trở lên quan trọng,
đồng thời lợi ích tiềm tàng của nó cũng không ngừng tăng theo. APEC đã xây
dựng bộ nguyên tắc thuận lợi hóa thương mại và kế hoạch hành động thuận lợi
hoá thương mại (TFAP), đưa ra các biện pháp cụ thể giảm chi phí giao dịch và
đơn giản hoá các quy định hành chính và thủ tục theo một thời gian biểu nhất
định, bảo đảm việc thực hiện của các thành viên.
* Hợp tác kinh tế và kỹ thuật (ECOTECH)
Chương trình ECOTECH được thực hiện dưới dạng các dự án, chương
trình hợp tác trên các lĩnh vực cụ thể, bao gồm đào tạo và các hoạt động hợp tác
khác, nhằm hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực, nâng cao năng lực của các nền
kinh tế thành viên, tạo điều kiện để các thành viên tận dụng thương mại toàn cầu
và nền kinh tế mới, đảm bảo cân bằng và phát triển bền vững.
2.3. Nguyên tắc hoạt động của APEC
Sau hơn một thập kỷ tồn tại và phát triển, dựa trên những nguyên tắc cơ
bản của Luật Quốc tế, các nước thành viên APEC đã từng bước xây dựng và
cùng khẳng định những nguyên tắc, tư tưởng cơ bản làm cơ sở cho quan hệ
trong nội bộ các nước thành viên và giữa các nước này với các nước khác trong

và ngoài khu vực, bao gồm:
* Các nguyên tắc chủ đạo
Các hoạt động trong khuôn khổ APEC được điều tiết bởi những nguyên
tắc chung, áp dụng cho tất cả các thành viên, Tuyên bố Bogor đề ra bốn nguyên
tắc chủ đạo:
- Bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau.
- Hỗ trợ và hai bên cùng có lợi.
- Quan hệ đối tác chân thành và theo tinh thần xây dựng.
- Mọi quyết định đưa ra trên cơ sở nhất trí chung.
* Các nguyên tắc cơ bản
Các nguyên tắc chủ đạo trên đã được chi tiết hóa thành 9 nguyên tắc cơ
bản trong chương trình tự do hoá, thuận lợi hoá thương mại và đầu tư:
- Nguyên tắc toàn diện (Comprehensiveness): Thực hiện tự do hóa và
thuận lợi hóa toàn diện ở tất cả các lĩnh vực, nhằm tháo gỡ những cản trở trong
quá trình thực hiện mục tiêu lâu dài của APEC nêu trong tuyên bố Bogor năm
1994.
- Nguyên tắc phù hợp với GATT/WTO (GATT/WTO Consistency):
Là một Diễn đàn kinh tế mở, các biện pháp và chương trình hành động áp
dụng thực hiện mục tiêu tự do hoá và thuận lợi hoá thương mại và đầu tư phải
phù hợp với quy tắc, luật lệ, thoả thuận trong khuôn khổ WTO.
- Nguyên tắc đảm bảo mối tương đồng (Comparability):
Các nền kinh tế thành viên phải đảm bảo tính tương đồng trong việc thực
hiện tự do hoá, thuận lợi hoá thương mại và đầu tư, trên cơ sở xem xét thích
đáng mức độ tự do hóa và thuận lợi hoá đã đạt được ở mỗi thành viên trong tiến trình
này.
- Nguyên tắc không phân biệt đối xử (Non - Discrimination):
Các thành viên sẽ áp dụng hoặc cố gắng áp dụng nguyên tắc không phân
biệt đối xử giữa các thành viên và các quốc gia không phải là thành viên. Kết
quả thực hiện tự do hoá và thuận lợi hoá thương mại và đầu tư không những áp
dụng cho tất cả các nước thành viên mà còn áp dụng cho các quốc gia không

phải là thành viên.
- Nguyên tắc bảo đảm công khai, minh bạch (Transparency):
Mọi chính sách, pháp luật hiện hành tại các thành viên phải được công
khai minh bạch hoá, phải đảm bảo tính trong sáng của các chính sách, pháp luật
này.
- Nguyên tắc lấy mức bảo hộ hiện tại làm mốc (Standstill):
Chỉ tiến hành giảm không tăng thêm các biện pháp bảo hộ. Theo nguyên
tắc này, các thành viên luôn phải tuân thủ mức bảo hộ đã được thoả thuận hiện
tại, không tăng các biện pháp bảo hộ, đảm bảo sự công bằng trong đối xử giữa
các thành viên.
- Nguyên tắc vận dụng linh hoạt (Flexibility):
Trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến tiến trình tự do hoá thương
mại và đầu tư, không thể áp dụng một cách cứng nhắc. Do trình độ phát triển
kinh tế không đồng đều của các thành viên, có sự ưu tiên và hỗ trợ năng lực đối
với các nước đang phát triển.
Như vậy, để các nền kinh tế thành viên phát triển thịnh vượng nói riêng
và cũng để tồn tại và phát triển bền vững của APEC, đòi hỏi các thành viên phải
cùng nhau nỗ lực phấn đấu vì mục tiêu chung và thực hiện theo những nguyên
tắc đã được xác định. Thắt chặt hơn nữa mối liên hệ, tình đoàn kết giữa các
thành viên, để bảo đảm ổn định khu vực và phát triển kinh tế.
3. Sự cần thiết của hợp tác kinh tế - thương mại giữa Việt Nam và APEC
3.1. Nhu cầu phá thế bị bao vây cấm vận kinh tế, cô lập về chính trị
APEC ra đời vào thời điểm quan hệ giữa Việt Nam với các nước tham gia
sáng lập diễn biến phức tạp, phần lớn các thành viên APEC đều là nước thân
Mỹ, đồng minh với Mỹ và đã ủng hộ Mỹ trong cuộc chiến tranh với Việt Nam.
Trong giai đoạn từ 1989 – 1995, thực hiện chủ trương của Đảng về mở
rộng quan hệ đối ngoại với tất cả các nước, hội nhập khu vực và quốc tế, hoạt
động đối ngoại Việt Nam tập trung giải quyết các trở ngại, mặc cảm trong quan
hệ với các nước láng giềng, khu vực, trong đó lưu ý đặc biệt tới các nước lớn, có
quan hệ phức tạp với Việt Nam trong lịch sử như Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản,

các nước ASEAN, nhất là đối với Mỹ. Mỹ là một nước lớn thành viên của
APEC, nên trong quan hệ này phải làm cho phía Mỹ nhận rõ việc bình thường
hoá quan hệ Việt - Mỹ là phù hợp với lợi ích của hai nước, khu vực và lợi ích
quốc tế. Và ngày 03/02/1994, Chính phủ Mỹ tuyên bố bãi bỏ lệnh cấm vận đối
với Việt Nam.
Trong phát triển kinh tế đối ngoại, hai vấn đề kinh tế và chính trị quốc tế
có mối quan hệ mật thiết với nhau. Thông thường, mối quan hệ chính trị - ngoại
giao mở đường và thúc đẩy mối quan hệ thương mại - kinh tế phát triển. Ngược
lại, mối quan hệ thương mại - kinh tế phát triển sẽ có tác dụng củng cố, tăng
cường mối quan hệ chính trị quốc tế. Vì thế, cần phải xử lý tốt mối quan hệ giữa
kinh tế với chính trị quốc tế, trên cơ sở đó xác định sự cân bằng lợi ích giữa các
bên theo nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi; thấy được hoạt động kinh tế đối
ngoại phụ thuộc vào yếu tố chính trị quốc tế, vào lợi ích của các nước đối tác và
chính sách đối ngoại phải phù hợp với xu thế của thời đại, hội nhập được với các
quốc gia thay vì trở thành đối tượng chống đối của các quốc gia.
Vấn đề quyết định nhất đối với sự phát triển của Việt Nam trong năm sắp
tới đó là phải có tư duy mới về phát triển, nhận diện đúng các chiều hướng thay
đổi của quốc tế và khu vực, hành động quyết đoán theo nguyên tắc hợp thông lệ
quốc tế cũng như đặc thù phát triển của đất nước[5, tr. 11].
Để tránh bị bao vây kinh tế, cô lập về chính trị, thì việc mở rộng quan hệ
đối ngoại, nâng cao uy tín và vị trí của Việt Nam là hết sức quan trọng. Để tạo
môi trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phải
tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện chính sách đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở,
tranh thủ tối đa mặt tương đồng, hạn chế mặt bất đồng trong quan hệ với các
nước, phải thấy rõ khó khăn và thách thức cũng như thuận lợi và cơ hội, theo dõi
sự diễn biến phức tạp trong quan hệ quốc tế, để có chủ trương thích hợp, giữ
vững nguyên tắc năng động, linh hoạt. Đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ
quốc tế trên nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không
can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, không dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng
vũ lực, hợp tác bình đẳng cùng có lợi, giải quyết các bất đồng và tranh chấp

bằng thương lượng hoà bình; lấy lợi ích quốc gia, dân tộc là cao nhất, xác định
đúng đối tác, đối tượng, kiên định về chiến lược, linh hoạt về sách lược, ưu tiên
cho việc củng cố quan hệ với các nước láng giềng, tránh bị rơi vào thế đối đầu,
bị cô lập hay lệ thuộc.
Việc tăng cường hợp tác song phương và đa phương sẽ tạo nên sự đan xen
quyền lợi, sự phụ thuộc về lợi ích kinh tế giữa các nước với nhau và giữa các
nước với Việt Nam. Là một nước nằm trong khu vực Thái Bình Dương, thành
viên Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á, thành viên sáng lập tiến trình hợp tác
Á - Âu (ASEM), Việt Nam đã chủ động tham gia APEC, đây là bước đi tiếp
theo hết sức quan trọng, tạo hình thái không phụ thuộc thái quá vào một nước cụ
thể. Là điều kiện quan trọng góp phần giữ vững an ninh, độc lập dân tộc và cũng
là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế nước ta.
3.2. Nhu cầu chống tụt hậu về kinh tế
Các xu hướng vận động của quan hệ kinh tế quốc tế rất đa dạng, chi phối
sự phát triển của tất cả các quốc gia. Các xu hướng nổi bật của quan hệ kinh tế
quốc tế trong giai đoạn hiện nay là hội nhập kinh tế quốc tế và hội nhập kinh tế
khu vực. Các xu hướng này trở nên ngày càng đặc biệt quan trọng, bởi vì khó có
thể có quốc gia nào đứng ngoài xu hướng hội nhập, và APEC là sự lựa chọn phù
hợp với xu thế khách quan của nước ta.
Hiện nay, sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng giữa các quốc gia, cho
nên để tránh tụt hậu về kinh tế, hội nhập khu vực và quốc tế là những chính sách
ngoại giao chủ chốt của mỗi quốc gia. “Mở cửa” nền kinh tế ra bên ngoài, nhưng
phải đảm bảo sự ổn định chính trị, an ninh quốc gia. Nhận thức rõ những cơ hội
và thách thức của vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế đối với các nước đang phát
triển nói chung và đối với Việt Nam nói riêng, xuất phát từ mục tiêu hội nhập
kinh tế quốc tế là để đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo
định hướng XHCN, Đại hội Đảng lần thứ IX (năm 2001) khẳng định chủ trương
“Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế” và nghị quyết 07/NQ-TW ngày 27/11/2001
của Bộ Chính trị đã khẳng định tính tất yếu của toàn cầu hoá, chỉ rõ khả năng
tận dụng những cơ hội mà hội nhập kinh tế quốc tế mang lại, để tránh khỏi nguy

cơ tụt hậu, đổi mới phương châm đối ngoại “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối
tác tin cậy với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình,
độc lập và phát triển”.
Đại hội Đảng lần thứ X vẫn tiếp tục khẳng định đường lối đối ngoại của
Đại hội IX và có bổ sung thêm: “Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc
tế”, đồng thời xác định rõ lộ trình, quy mô, bước đi thích hợp, với tinh thần
mạnh mẽ, toàn diện và sâu rộng, thật sự vững chắc.
Việt Nam đã tham gia tích cực vào Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) ký
Hiệp định khung với Liên minh châu Âu, khai thông quan hệ với các tổ chức tài
chính tiền tệ quốc tế, để tranh thủ các điều kiên thuận lợi, nắm bắt được thông
tin, cập nhật đầy đủ chiều hướng phát triển của thế giới và điều chỉnh chính sách
trong nước.
Tham gia APEC, Việt Nam có cơ hội đối thoại chính sách với các nền
kinh tế phát triển hơn, tận dụng cơ hội to lớn này để tham gia vào chuỗi giá trị
khu vực và mạng sản xuất toàn cầu, để thúc đẩy khả năng hội nhập thực tế từ
bên trong đất nước, nâng cao năng lực và hiệu quả cạnh tranh trong khu vực và
trên thế giới theo cách tham gia tích cực vào hệ thống phân công lao động khu
vực, không đối đầu và “phối hợp” hiệu quả hơn với các nước lớn, các nước phát
triển và các nước láng giềng. Là một nước đang phát triển, nhưng trong các quan
hệ hợp tác chúng ta có tư cách một thành viên bình đẳng. “Thông qua các lĩnh
vực hợp tác về kinh tế, thương mại, đầu tư, khoa học, công nghệ v.v… sẽ giúp
nước ta phát triển nhanh hơn, làm cho khoảng cách chênh lệch trình độ phát
triển sớm được thu hẹp” [6, tr. 17].
Hội nhập kinh tế quốc tế có cả hình thức đa dạng và song phương, vừa
tham gia vào các tổ chức và diễn đàn kinh tế thế giới và khu vực, vừa thiết lập
quan hệ thương mại, đầu tư, khoa học kỹ thuật với từng nước trên nguyên tắc cơ
bản và bao trùm trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, là phải bảo đảm giữ
vững độc lập tự chủ, giữ vững định hướng XHCN, giữ vững an ninh quốc gia,
phát triển kinh tế.
CHƯƠNG II

MỘT SỐ NỘI DUNG PHÁP LÝ VỀ HỢP TÁC
KINH TẾ - THƯƠNG MẠI GIỮA VIỆT NAM VÀ APEC
1. Một số nội dung cơ bản của tiến trình APEC
1.1. Phát triển về thể chế
Từ ngày thành lập đến nay, APEC đã trải qua một quá trình tương đối dài
và là kết quả của những mong muốn, nỗ lực hợp tác ở khu vực châu Á - Thái
Bình Dương. APEC là một diễn đàn kinh tế, một cơ chế liên chính phủ nhằm
xúc tiến hợp tác, tăng trưởng và phát triển khu vực, không đưa ra những quyết
định, nguyên tắc có tính chất bắt buộc đối với các thành viên. Mọi hoạt động
hợp tác, cũng như các thoả thuận đạt được đều dựa trên nguyên tắc đồng thuận,
cam kết của các thành viên và việc thực hiện cam kết dựa trên cơ sở tự nguyện,
không chịu sự giám sát của một cơ quan với các chế tài hay giải quyết tranh
chấp, phù hợp với lợi ích của các bên. Điều này phản ánh tính đặc thù của quá
trình hội nhập kinh tế trong khu vực.
Về mặt thể chế, APEC được coi là thực thể liên kết kinh tế liên khu vực
lỏng lẻo, được xem là một diễn đàn đối thoại nhiều hơn là một tổ chức với cơ
chế chặt chẽ, mang tính ràng buộc cao; và đồng thời APEC có sự khác biệt
tương đối rõ ràng so với các tổ chức hợp tác khu vực khác, đặc biệt là Liên minh
châu Âu (EU) có cơ cấu tổ chức hết sức chặt chẽ, với cơ quan liên chính phủ
như Hội đồng châu Âu, Toà án châu Âu, Nghị viện châu Âu để điều phối sự hợp
tác giữa các thành viên .
Từ khi mới thành lập, trong APEC luôn diễn ra cuộc đấu tranh giữa hai xu
hướng phát triển: Xu hướng thứ nhất là muốn đẩy nhanh quá trình tự do hoá
thương mại, đầu tư, dịch vụ và thể chế hoá APEC, mà đại diện là các thành viên
phát triển, đứng đầu là Mỹ. Những thành viên này ấp ủ ý tưởng phát triển
APEC thành một diễn đàn chặt chẽ, mang tính ràng buộc cao hơn, giữ vai trò
quan trọng trong việc thúc đẩy tự do hoá thương mại trên thế giới và khu vực.
Tham gia APEC sẽ mở ra cho Mỹ thị trường mậu dịch và đầu tư to lớn ở châu
Á, tăng cường quan hệ giữa Mỹ và khu vực kinh tế năng động nhất trên thế giới,
tạo môi trường thúc đẩy chính sách tự do hoá toàn cầu. Xu hướng thứ hai trong

APEC, mà đại diện là các nước ASEAN và Trung Quốc, muốn APEC tiến hành
tự do hoá thương mại, đầu tư từng bước phù hợp với tình hình phát triển kinh tế
của từng thành viên, duy trì APEC như một diễn đàn lỏng lẻo với các quyết định
không mang tính bắt buộc. Sự ra đời của APEC đã mặc nhiên trở thành diễn đàn
quốc tế rộng rãi để các nước ASEAN phát huy vai trò của mình trong khu vực
châu Á - Thái Bình Dương.
Mặc dù luôn có sự đấu tranh về hướng phát triển của APEC nhưng các
thành viên vẫn không ngừng tìm cách củng cố Diễn đàn này về bộ máy làm việc
và thành viên. Về cơ cấu tổ chức, các hoạt động của APEC đều nằm trong
khuôn khổ các cuộc họp các quan chức cao cấp (SOM) và các Bộ trưởng, chỉ
đưa ra hai dự án làm tiền đề: Dự án tổng hợp các dữ liệu về thương mại và đầu
tư và Dự án xác định các cơ hội thương mại, đầu tư và chuyển giao công nghệ
trong khu vực.
Năm 1990, các Bộ trưởng APEC họp tại Singapore đã đưa ra 7 lĩnh vực
hợp tác; Hội nghị Bộ trưởng APEC lần thứ ba năm 1991 tại Seoul (Hàn Quốc)
bổ sung thêm 3 lĩnh vực hoạt động về nghề cá, giao thông vận tải và du lịch,
nâng tổng số nhóm công tác lên thành 10 nhóm, đồng thời các Bộ trưởng cũng
xác định phạm vi và phương thức hoạt động cụ thể, đưa nội dung hoạt động của
APEC dần dần đi vào chi tiết hơn. Đến năm 1992, Ban thư ký APEC mới được
thành lập, có trụ sở tại Singapore. Trong thời gian này, quỹ APEC cũng được
thành lập để hình thành nguồn lực cho các hoạt động hợp tác của diễn đàn.
Năm 1993, để thực hiện chủ trương “Cộng đồng Thái Bình Dương mới”
Tổng thống Mỹ Bill Clinton tích cực thu xếp cuộc họp đầu tiên giữa các nhà
lãnh đạo kinh tế APEC. Mỹ đã dự tính xây dựng diễn đàn thành mô hình tiêu
biểu thực hiện các bước đột phá trong tự do hoá thương mại, từ đó thúc đẩy môi
trường thương mại tự do trên toàn cầu. Để thúc đẩy chủ trương này, trong
chuyến đi thăm Nhật Bản và Hàn Quốc, Tổng thống Bill Clinton đã đề nghị
nâng Hội nghị cấp Bộ trưởng của APEC lên thành Hội nghị Thượng đỉnh của
APEC.
Năm 1994, Uỷ ban kinh tế (EC) được thành lập tại Hội nghị Bộ trưởng

APEC tại Indonesia có nhiệm vụ tiến hành các nghiên cứu về xu hướng và các
vấn đề kinh tế của khu vực.
Năm 1995, APEC thành lập thêm nhóm công tác về doanh nghiệp vừa và
nhỏ dưới hình thức nhóm đặc trách ở cấp độ chính sách về doanh nghiệp vừa và
nhỏ.
Năm 1996, nhóm công tác về hợp tác nông nghiệp (ATC) được thành lập.
Tại Hội nghị cấp cao lần thứ 4 tại Manila (Philippin) tháng 11/1996 các chương
trình hợp tác kinh tế và kỹ thuật cụ thể được tiến hành nhằm bổ trợ cho kế hoạch
tự do hoá và thuận lợi hoá của APEC. APEC chuyển sang giai đoạn hoạt động
thực sự với việc các thành viên bắt đầu thực hiện IAP từ 01/01/1997, các kế
hoạch này xác định lộ trình các thành viên thực hiện mục tiêu tự do hoá thương
mại đề ra.
Năm 1998, Tiểu ban SOM về ECOTECH được thành lập (năm 2002 đổi
thành Uỷ ban SOM về ECOTECH) hoàn thành cơ bản cơ cấu tổ chức của Diễn
đàn cho đến nay.
Về cấp độ hội nghị hợp tác chuyên ngành, ngày càng nhiều những cuộc
họp cấp Bộ trưởng chuyên ngành được tổ chức, trên các lĩnh vực như: giáo dục,
năng lượng, phát triển môi trường bền vững, tài chính, phát triển nguồn nhân
lực, hợp tác công nghệ và khoa học khu vực, doanh nghiệp vừa và nhỏ, viễn
thông và thông tin, thương mại giao thông vận tải, các vấn đề về phụ nữ, du lịch,
các vấn đề về đại dương và y tế.
APEC là một Diễn đàn “mở” theo nghĩa APEC ủng hộ chế độ thương mại
đa phương, không tạo ra sự phân biệt đối xử giữa APEC với các nước và nhóm
nước khác trên thế giới, đồng thời APEC mở cửa cho các nền kinh tế không phải
là thành viên tham gia. APEC đã chấp nhận những nguyên tắc như chủ nghĩa tự
nguyện và chủ nghĩa khu vực mở, theo đó những điểm khác nhau trở nên rõ ràng
hơn giữa APEC và WTO. Đối với WTO thì hiệu lực ràng buộc được coi là một
yếu tố cần thiết trong các hiệp định về thúc đẩy tự do hoá thương mại, còn
APEC thì cho rằng tự do hoá trong khuôn khổ của nó chỉ có thể đạt được thông
qua các hành động tự nguyện của mỗi thành viên. Mặt khác, nguyên tắc nhất trí

trong GATT/WTO là một thủ tục chính thức để ra quyết định có tính ràng buộc
pháp lý như nguyên tắc bỏ phiếu theo đa số và nhất trí. Trong APEC, nguyên tắc
nhất trí trong quá trình ra quyết định lại không phải là một thủ tục pháp lý.
1.2. Các chương trình, sáng kiến của APEC
Nếu như, từ khi thành lập đến năm 1998, APEC chủ yếu tập trung xây
dựng các văn kiện cơ bản, đặt nền tảng cho sự phát triển lâu dài của mình, thì
trong giai đoạn từ 1998 đến nay, hoạt động của APEC đã tập trung vào xây dựng
các sáng kiến hợp tác nhằm thực hiện các mục tiêu đã đề ra. Các sáng kiến đưa
ra khá phong phú, phạm vi ngày càng rộng và ngày càng đi vào thực chất. APEC
đang đi về đâu? là một câu hỏi thường xuyên được đặt ra trong bối cảnh có
những bổ sung về mục tiêu và chương trình nghị sự của APEC. Nhiều quan
điểm cho rằng, các mục tiêu cơ bản của APEC đặt ra ban đầu càng ngày càng lu
mờ dần và trở nên kém hấp dẫn khi đưa thêm các nội dung mới của hợp tác, kể
cả các hợp tác trong lĩnh vực phi kinh tế.
Các quan điểm khác cho rằng, APEC là một Diễn đàn mở, không cần phải
có những ràng buộc, nên việc đưa thêm các vấn đề mới vào chương trình nghị
sự cũng như việc bổ sung thêm các mục tiêu về hợp tác là cần thiết và có thể
chấp nhận được. “Nhiều quan điểm chưa được thống nhất trong nhận thức và
hành động đã làm cho tiến trình APEC chậm chạp, ít hiệu quả” [7,tr. 19]. Chính
vì vậy, để phát triển hơn nữa, phát huy hiệu quả trong quan hệ hợp tác, thì đó
chính là vấn đề APEC đang phải đối diện và phải giải quyết.
Bên cạnh các kế hoạch hành động tập thể (CAP) và kế hoạch hành động
quốc gia (IAP) được đưa ra từ trước, như là cơ chế hàng năm để thúc đẩy các
thành viên cải thiện dần dần và tự nguyện các dòng thuế quan, các biện pháp phi
thuế quan hướng tới thực hiện mục tiêu Bogor, APEC đã xây dựng mạng e- IAP,
kết hợp sáng kiến cũ với sự tiến bộ của khoa học công nghệ mới để phổ cập các
cam kết trong IAP của các thành viên thông qua mạng Internet tới đông đảo
công chúng, đặc biệt là giới doanh nghiệp với mục đích cung cấp thông tin
chuẩn xác và có tính dự báo về môi trường kinh doanh.
1.2.1. Tự do hoá thương mại và đầu tư

Các nhà lãnh đạo tại Hội nghị cao cấp lần thứ hai, năm 1994 tại Indonesia
đã đề ra mục tiêu thực hiện tự do hoá thương mại và đầu tư tại châu Á - Thái
Bình Dương đối với các nền kinh tế phát triển vào năm 2010, với các nền kinh
tế đang phát triển vào năm 2020. Hội nghị cấp cao Osaka tại Nhật Bản 1995 đã
thông qua chương trình hành động, Osaka giúp cho APEC thực hiện mục tiêu tự
do hoá thương mại và đầu tư. Hội nghị cấp cao Xubic tại Philippin 1996 đã
thông qua kế hoạch hành động quốc gia (IAP). Hội nghị cấp cao Vancuvơ tại
Canada 1997 đã nhất trí với kiến nghị của Hội nghị Bộ trưởng thương mại
APEC về xác định các lĩnh vực tự nguyện tự do hoá sớm (EVSL) ngay trong
năm 1997 và 15 lĩnh vực được đưa vào EVSL, bao gồm: lâm sản, cá và sản
phẩm từ cá, đồ chơi, đá quý và đồ trang sức, hóa chất, thiết bị và dụng cụ y tế,
hàng hoá và dịch vụ liên quan tới môi trường, năng lượng, thoả thuận công nhận
lẫn nhau về thiết bị viễn thông, cao su tự nhiên và cao su tổng hợp, phân bón,
thực phẩm, ôtô, hạt có dầu, máy bay dân dụng.
Mặc dù đã đạt được kết quả đáng kể, nhưng trước cuộc khủng hoảng tài
chính tiền tệ châu Á đã làm nhiều thành viên APEC không có khả năng tuân thủ
các cam kết tự nguyện tự do hoá sớm, mặc dù vậy các thành viên APEC vẫn cố
gắng duy trì nỗ lực tự do hoá thương mại.
1.2.2. Thuận lợi hoá thương mại và đầu tư
Sau khi chương trình EVSL đi vào bế tắc và thất bại, thì thuận lợi hoá
thượng mại và đầu tư được đẩy mạnh hơn và trở thành ưu tiên hàng đầu trong
APEC. APEC đã triển khai hàng loạt các hoạt động tại các nhóm công tác và
diễn đàn khác nhau như nhằm triển khai trụ cột thuận lợi hoá thương mại và đầu
tư, tập trung nhất vào các lĩnh vực sau: về thuế quan và các biện pháp phi thuế
quan, việc triển khai các hoạt động hợp tác thuế quan và phi thuế quan nhằm
tiến tới giảm dần thuế quan và các hàng rào phi thuế quan, góp phần tạo thuận
lợi cho việc giao lưu thương mại trong khu vực, giảm thiểu sự bảo hộ và tăng
cường tính minh bạch trong thương mại.
Về dịch vụ: APEC đã đưa ra chương trình hành động về dịch vụ, nhằm
giảm dần hạn chế việc mở cửa thị trường dịch vụ của các thành viên và tăng

cường việc dành chế độ tối huệ quốc, chế độ đãi ngộ quốc gia và các ưu đãi
khác trong thương mại dịch vụ.
Về đầu tư: Khu vực APEC đã trở nên mở hơn rất nhiều đối với đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDI), đặc biệt là đã đơn giản hóa các thủ tục hành chính với
những nỗ lực không ngừng của các thành viên, nhằm loại bỏ các rào cản và có
các biện pháp cải thiện để thu hút đầu tư.
Về tiêu chuẩn và chứng nhận hợp chuẩn: khuyến khích việc liên kết tiêu
chuẩn của các thành viên với các tiêu chuẩn quốc tế, công nhận lẫn nhau giữa
các thành viên APEC về chứng nhận hợp chuẩn trong các lĩnh vực được quy
định và ưu tiên khuyến khích hợp tác phát triển hạ tầng kỹ thuật, bảo đảm minh
bạch hoá về tiêu chuẩn và chứng nhận hợp chuẩn của các nền kinh tế thành viên.
Về thủ tục hải quan: Mục tiêu chính của chương trình hợp tác này là nhằm
đơn giản hoá và thực hiện hài hoà các thủ tục hải quan ở các nền kinh tế thành
viên, Tiểu ban thủ tục hải quan hiện đang nghiên cứu khả năng áp dụng thương
mại điện tử để thay thế các công việc sử dụng giấy tờ.
Về đi lại của doanh nhân: Sự ra đời của chương trình thẻ đi lại của doanh
nhân APEC (ABTC) đã khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nhân
trong khu vực tự do đi lại và kinh doanh tại các nền kinh tế thành viên.
1.2.3. Hợp tác kinh tế - kỹ thuật
Hội nghị Xubic năm 1996 đánh dấu một bước quan trọng trong việc thúc
đẩy hợp tác kinh tế - kỹ thuật, Hội nghị thông qua tuyên bố Manila, được coi là
văn kiện chính thức đầu tiên về hợp tác ECOTECH trong APEC . ECOTECH đã
đề ra một loạt các sáng kiến hợp tác trong các lĩnh vực khác nhau như:
Chương trình hành động Kualalumpơ về phát triển kỹ năng năm 1998 là
sáng kiến của nhóm công tác APEC về phát triển nguồn nhân lực, nhằm đào tạo
và phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Chương trình xúc tiến xây dựng năng lực nguồn nhân lực được thông qua
năm 2000 tại Hội nghị cấp cao APEC Brunây, các nhà lãnh đạo xác định mục
tiêu để tất cả người dân trong khu vực có thể tiếp cận thông tin và dịch vụ qua
mạng Internet vào năm 2010.

Đi đôi với việc thực hiện mục tiêu này là một chương trình hỗ trợ năng
lực về xây dựng nguồn nhân lực. Chương trình này càng được đẩy mạnh tại Hội
nghị cấp cao Thượng Hải năm 2001 bằng việc thông qua sáng kiến Bắc Kinh về
xây dựng năng lực APEC.
Chương trình nghị sự APEC về hợp tác khoa học, kỹ thuật, công nghệ
hướng tới thế kỷ 21.
Phát triển bền vững, ba vấn đề được đưa vào chủ đề phát triển bền vững
của ECOTECH là: Thành phố phát triển bền vững, sản xuất sạch, tính bền vững
của môi trường biển. Tuy nhiên, không có nhóm công tác về vấn đề này, nên
vấn đề chưa được thúc đẩy phát triển mạnh.
Chương trình hành động ECOTECH (EAP) được các thành viên tham gia
trên cơ sở tự nguyện, nhằm khuyến khích việc tự nguyện đóng góp cho các hoạt
động ECOTECH. Các quan chức cao cấp APEC đã thông qua 4 lĩnh vực ưu tiên
của ECOTECH năm 2003 gồm: hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu, xây dựng
năng lực đối phó với chủ nghĩa khủng bố, thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế
tri thức và giải quyết những tác động xã hội của toàn cầu hoá.
Cũng trong năm này, tiểu ban hợp tác ECOTECH đã tổ chức đối thoại bàn
tròn lần đầu tiên với các thể chế tài chính quốc tế, thảo luận những lĩnh vực có
thể hợp tác thông qua các chương trình nhằm đào tạo và phát triển doanh nghiệp
vừa và nhỏ; hỗ trợ năng lực cũng như trao đổi chuyên gia kỹ thuật. Các cuộc đối
thoại tiếp theo cũng đã được tổ chức sau 2 năm bên lề hội nghị quan chức cao
cấp APEC lần thứ 3 năm 2005 tại Hàn Quốc.
Để đẩy nhanh việc thực hiện mục tiêu Bogor, các thành viên APEC đã
xây dựng “Sáng kiến người tìm đường”. Theo phương thức này, một số thành
viên có thể đi trước trong việc thực hiện các sáng kiến, nhằm tiến tới mục tiêu tự

×