Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

Khả năng hợp tác và thống nhất tiền tệ khu vực Đông Nam Á +3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (709.79 KB, 44 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN THƯƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ

ĐỀ ÁN
MÔN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
Đề tài:

KHẢ NĂNG HỢP TÁC VÀ THỐNG NHẤT TIÊN TỆ
KHU VỰC ĐÔNG NAM Á +3

Giảng viên hướng dẫn
Sinh viên thực hiện
Mã sinh viên
Lớp

: TS. Đỗ Thị Hương
: Đỗ Lan Phương
: 11123099
: KTQTB

Hà Nội - 2015


MỤC LỤC


LỜI MỞ ĐẦU

ASEAN (viết tắt của Association of Southeast Asian Nations) - Hiệp hội các
Quốc gia Đông Nam Á là một liên minh chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội của các
quốc gia trong khu vực Đông Nam Á. Tổ chức này được thành lập ngày 8/8/1967


với các thành viên đầu tiên là Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Singapore và
Philippines. Đến năm 1999, ASEAN gồm 10 thành viên: Thái Lan, Indonesia,
Malaysia, Singapore, Philippines, Brunei, Việt Nam, Lào, Myanmar, Campuchia
(riêng Đông Timo chưa kết nạp). Đến năm 2015, Cộng đồng ASEAN sẽ được hình
thành với mục tiêu xây dựng Hiệp hội thành một tổ chức hợp tác liên Chính phủ
liên kết sâu rộng hơn và ràng buộc hơn trên cơ sở pháp lý là Hiến chương ASEAN;
nhưng không phải là một tổ chức siêu quốc gia và không khép kín mà vẫn mở rộng
hợp tác với bên ngoài.
ASEAN+3 hay Cộng đồng Đông Á (EAS: East Asian Community) là một
cơ chế hợp tác đa phương mang tính khu vực giữa ASEAN và 3 quốc gia Đông Bắc
Á là Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc. Tiến trình hợp tác ASEAN+3 đã được
thành lập với Hội nghị thượng đỉnh giữa các nguyên thủ ASEAN và các nhà lãnh
đạo 3 quốc gia ở Đông Bắc Á ngày 16/12/1997.
Nhìn lại quá trình ra đời và phát triển của ASEAN + 3 từ 1997 đến nay ta có
thế thấy rằng tiến trình Hợp tác ASEAN+3 đã phát triển từ một hội nghị không
chính thức giữa các nhà lãnh đạo ASEAN và 3 nhà lãnh đạo đến từ Đông Bắc Á trở
thành khuôn khổ hợp tác giữa 13 nước Đông Á với phạm vi hợp tác ngày càng mở
rộng, và cùng với quá trình phát triển, bản sắc của hợp tác ASEAN+3 đã dần dần
hình thành và ngày càng được củng cố. Bên cạnh đó, sự mở rộng nhanh chóng các
mối liên hệ thương mại và đầu tư giữa các nền kinh tế ASEAN nói riêng cũng như
các nền kinh tế ở Đông Á cũng tạo nhu cầu hợp tác chính sách trong các nước
ASEAN và Đông Á-cần thiết một liên minh kinh tế và tiền tệ ra đời . Kinh nghiệm

1


khu vực Châu Âu cho thấy, sự cạnh tranh quyết liệt giữa các nền kinh tế đã đẩy
nhanh quá trình liên kết và hoà nhập kinh tế của các nước EU. Kết quả của những
nỗ lực thống nhất Châu Âu là đã ký được Hiệp ước Maastricht tháng 2/1992, trong
đó đề ra mục tiêu quan trọng nhất là thành lập Liên minh tiền tệ châu Âu, nhằm xoá

bỏ hàng rào cuối cùng ngăn cản quá trình nhất thể hoá kinh tế. Khác với các liên
minh tiền tệ trước đây hình thành trên cơ sở một mối quan hệ chính trị nào đó, Liên
minh tiền tệ châu Âu liên kết 16/27 quốc gia độc lập có chủ quyền với một mục tiêu
chung là biến châu Âu trở thành khu vực thịnh vượng và ổn định nhất trên thế giới.
Sự thành công và bài học kinh nghiệm của các nước châu Âu đã cho các nước niềm
tin vào triển vọng hình thành một đồng tiền chung cho khu vực. Xuất phát từ quan
điểm đó em đã chọn đề tài “Khả năng hợp tác và thống nhất tiên tệ khu vực
Đông Nam Á +3”
Đối tượng nghiên cứu: sự hợp tác và thống nhất tiền tệ
Phạm vi nghiên cứu: các quốc gia khu vực Đông Nam Á +3
Kết cấu đề án:
A. LỜI MỞ ĐẦU
B. NỘI DUNG
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HỢP TÁC TIỀN TỆ ASEAN+3
1.1 Sự phát triển và hình thành của ASEAN+3
1.2 Các cơ chế hoán đối tiền tệ
1.3 Hình thành khu mậu dịch ASEAN với 3 quốc gia Trung Quốc, Nhật Bản,
Hàn Quốc
1.4 Phát triển thị trường trái phiếu Châu Á ( ABMI)
1.5 Xúc tiến cho ra đời đơn vị tiền tệ chung Châu Á (ACU)
Chương 2.Khả năng hợp tác và thống nhất tiền tệ của ASEAN+3 và tác động
đối với Việt Nam
2.1 Thực trạng về khả năng hợp tác và thống nhất tiền tệ của ASEAN +3

2


2.2 Tác động của hợp tác và thống nhất tiền tệ của ASEAN +3
Chương 3. Đề xuất giải pháp hợp tác, thống nhất tiền tệ khu vực ASEAN+3 và
giải pháp đối với Việt Nam

3.1 Giải pháp chung trong khối
3.2 Giải pháp đối với Việt Nam
C. KẾT LUẬN

3


CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HỢP TÁC
TIỀN TỆ ASEAN+3
1.1 Sự phát triển của ASEAN+3
ASEAN+3 hay Cộng đồng Đông Á (EAS: East Asian Community) là một cơ
chế hợp tác đa phương mang tính khu vực giữa ASEAN và 3 quốc gia Đông Bắc Á
là Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc. Cơ chế hợp tác khu vực ở Đông Á này ra
đời vào năm 1997 với những nguyên nhân:
• Thứ nhất, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á (1997-1998) đã giúp
các nước Đông Á nhận thấy rõ hơn mức độ phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế
trong khu vực của họ.
• Thứ hai, sự phát triển của chủ nghĩa khu vực ở những khu vực khác, đặc biệt
là ở châu Âu và Bắc Mỹ đã thúc đẩy các nước Đông Á khai sinh chủ nghĩa khu vực
của mình nhằm nâng cao vị thế của Đông Á trong nền kinh tế và chính trị thế giới.
1.1.1 Sự phát triển của ASEAN+3 giai đoạn 1997-2005
Trong giai đoạn này những nỗ lực của các nước ASEAN+3 tập trung vào 3
hoạt động chính:
• Một là, xác định mục đích, mục tiêu hợp tác và đề xuất các biện pháp nhằm
đạt tới các mục tiêu của Hợp tác Đông Á
• Hai là, xây dựng thể chế hợp tác
• Ba là, triển khai một số hoạt động hợp tác cụ thể
- Tại hội nghị thượng đỉnh đầu tiên (12-1997), các nhà lãnh đạo chưa có quyết
định gì về tương lai của Hợp tác ASEAN+3 nhưng đến hội nghị thượng đỉnh
ASEAN+3 lần thứ 2 tại Hà Nội thì các nhà lãnh đạo đã quyết định thường niên hóa

hội nghị.
- Đến hội nghị thượng đỉnh ASEAN+3 lần thứ 3 họp tại Malina (11-1999) đã
đưa ra 2 quyết định quan trọng:
• Một là, ra tuyên bố chung về hợp tác Đông Á, trong đó chỉ rõ mục đích, các

4


lĩnh vực và cơ cấu thể chế để triển khai hợp tác Đông Á.
• Hai là, thành lập Nhóm tầm nhìn Đông Á (EAVG), với nhiệm vụ là nghiên
cứu để xây dựng một tầm nhìn chung về hợp tác Đông Á.
- Tại hội nghị thượng đỉnh ASEAN+3 lần thứ 5 (11-2001), EAVG đã trình bày
báo cáo của họ, đề ra mục tiêu cuối cùng của Hợp tác Đông Á là xây dựng cộng
đồng Đông Á hòa bình, thịnh vượng và tiến bộ, đồng thời đề xuất 57 biện pháp để
hiện thực hóa tầm nhìn trên. Những báo cáo này đã được EASG xem xét, đánh giá,
để từ đó đến hội nghị thượng đỉnh ASEAN+3 lần thứ 6 (11 - 2001) EASG đề xuất
26 biện pháp cụ thể, trong đó bao gồm 17 biện pháp ngắn hạn, 9 biện pháp trung và
dài hạn nhằm hiện thực hóa mục tiêu xây dựng cộng đồng Đông Á.
-> Như vậy, với 6 hội nghị thượng đỉnh ASEAN+3 đầu tiên, Tầm nhìn của
Hợp tác Đông Á đã được hoạch định, và các biện pháp để hiện thực hóa tầm nhìn
đó đã được ra đời đánh dấu bước phát triển mới của ASEAN+3.
- Tại hội nghị thượng đỉnh ASEAN+3 lần thứ 8 tại Viêng Chăn (11-2004) khi
các kết quả của hội nghị được công bố trong một tuyên bố riêng được gọi là Tuyên
bố của chủ tịch hội nghị thượng đỉnh ASEAN+3. Điều này có nghĩa là hội nghị
thượng đỉnh ASEAN+3 trở thành một hội nghị riêng, độc lập chứ không phải là một
cuộc họp chung giữa các nhà lãnh đạo ASEAN và 3 nhà lãnh đạo đến từ Đông Á
như trước.
1.1.2 Sự phát triển của ASEAN+3 giai đoạn từ 2005 đến nay
Tại hội nghị thượng đỉnh ASEAN + 3 lần thứ 14 (7-2011), các bộ trưởng
đánh giá tiến trình ASEAN + 3 là một trong những cơ chế hợp tác năng động và

hiệu quả trong khu vực, góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy xây dựng một cấu
trúc khu vực vì hòa bình, an ninh, ổn định và phát triển trong khu vực cũng như hỗ
trợ tích cực cho tiến trình xây dựng Cộng dồng và kết nối ASEAN; nhất trí tiếp tục
triển khai hiệu quả Tuyên bố chung lần hai về Hợp tác Ðông Á và Kế hoạch công
tác ASEAN + 3 giai đoạn 2007 - 2017; tăng cường hợp tác sâu rộng ở cả cấp độ
song phương và khu vực về các vấn đề tài chính- tiền tệ, thương mại, đầu tư, du
lịch, giao thông vận tải, phát triển cơ sở hạ tầng, giao lưu nhân dân...; cam kết thực

5


hiệu hiệu quả "Thỏa thuận Ða phương hóa Sáng kiến Chiềng Mai" (CMIM), ủng hộ
sớm ký kết Hiệp định Quỹ dự trữ gạo khẩn cấp ASEAN + 3 (APTERR), nghiên
cứu tính khả thi của việc thành lập Khu vực Mậu dịch Tự do Ðông Á (EAFTA)
cũng như ứng phó hiệu quả với các thách thức toàn cầu.
* Nhìn lại quá trình ra đời và phát triển của ASEAN + 3 từ 1997 đến nay ta có
thế thấy rằng tiến trình Hợp tác ASEAN + 3 đã phát triển từ một hội nghị không
chính thức giữa các nhà lãnh đạo ASEAN và 3 nhà lãnh đạo đến từ Đông Bắc Á trở
thành khuôn khổ hợp tác giữa 13 nước Đông Á với phạm vi hợp tác ngày càng mở
rộng, và cùng với quá trình phát triển, bản sắc của hợp tác ASEAN + 3 đã dần dần
hình thành và ngày càng được củng cố.
1.2 Cơ chế hoán đổi tiền tệ
Hoạt động hoán đổi tiền tệ giữa các nước ASEAN được thực hiện thông qua
Quỹ Hoán đổi Tiền tệ ASEAN và hệ thống hoán đổi đa phương giữa các nền kinh
tế Đông Á trong khuôn khổ Thỏa thuận Đa phương hóa Sáng kiến Chiang Mai
(Chiang Mai Initiative Multilateralisation - CMIM).
1.2.1 Thỏa thuận hoán đổi tiền tệ ASEAN (ASEAN Swap Agreement - ASA)
Được hình thành năm 1997 với sự tham gia của các nước thành viên gốc của
ASEAN là Thái Lan, Philippines, Singapore, Indonesia và Malaysia. Đến năm
1999, Quỹ Hoán đổi Tiền tệ được mở rộng với các nước thành viên mới của

ASEAN là Việt Nam, Lào, Campuchia và Myanmar. Quỹ này cho phép các nước
thành viên vay mượn bằng đồng USD, yên Nhật hay Euro. Nghĩa vụ đóng góp được
xác định cho từng nước và mức tối đa mà mỗi nước có thể vay sẽ không vượt quá
hai lần mức đóng góp của mỗi nước. Tuy nhiên, nguồn vốn của ASA tương đối nhỏ,
khoảng 2,5 tỷ USD vào năm 2005, hạn chế đáng kể khả năng của ASA trong việc
hỗ trợ các nền kinh tế thành viên.
1.2.2 Thỏa thuận Hoán đổi tiền tệ song phương (Bilateral Swap Agreement- BSA)
Cùng với ASA, một mạng lưới các thỏa thuận hoán đổi tiền tệ đã được hình
thành giữa các nền kinh tế ASEAN với các nước Đông Bắc Á năm 2000 trong
khuôn khổ CMIM. Quy mô mạng lưới Thỏa thuận Hoán đổi tiền tệ song phương

6


(Bilateral Swap Agreement - BSA) lớn hơn nhiều so với ASA, với tổng giá trị các
thỏa thuận hoán đổi tiền tệ lên tới trên 80 tỷ USD năm 2007. Các khoản cho vay của
BSA thường có thời hạn là 3 tháng, nhưng có thể kéo dài đến 2 năm trên cơ sở
thỏa thuận giữa các nước thành viên. Tuy nhiên, mạng lưới BSA không có một cơ
quan điều phối chung để giám sát tình hình kinh tế trong các nước thành viên cũng
như không có các nguyên tắc chung đối với việc vay mượn. Việc sử dụng các đồng
tiền khu vực trong các thỏa thuận hoán đổi cũng hạn chế đáng kể khả năng hỗ trợ
các nước thành viên.
1.2.3 Hiệp định CMIM
Giữa 10 nước thành viên ASEAN cùng với Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc
và Hồng Kông có hiệu lực vào năm 2010 đã đánh dấu một bước ngoặt mới trong
quá trình hợp tác tiền tệ của ASEAN cũng như ở Đông Á.
CMIM thống nhất tất cả các quỹ hoán đổi tiền tệ song phương, đồng thời xác
lập các nguyên tắc chung cho việc giải ngân và thanh toán. Nguồn vốn của quỹ
hoán đổi tiền tệ đã tăng lên rõ rệt, với tổng số vốn cam kết ban đầu là 120 tỷ USD.
trong đó 80% do Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản cam kết đóng góp, tương

đương với 96 tỷ USD. Việt Nam cam kết tham gia 1 tỷ USD, bằng 0,83% và đứng
thứ 10 về mức đóng góp.
Với mục tiêu chính của CMIM là:
• Giải quyết khó khăn về cán cân thanh toán và những khó khăn về thanh
khoản trong ngắn hạn trong khu vực.
• Bổ sung cho các thỏa thuận tài chính hiện có.
• Nhằm tạo thuận lợi cho việc thực hiện các giao dịch hoán đổi tiền tệ đồng
thời và nhanh chóng thông qua việc thành lập một cơ chế ra quyết định chung trong
khuôn khổ của một thỏa thuận.
CMIM sẽ cung cấp các hỗ trợ về tài chính thông qua các giao dịch hoán đổi
tiền tệ giữa các thành viên của CMIM trong những trường hợp cần thanh khoản.
Mỗi quốc gia tham gia CMIM theo các điều kiện và thủ tục được nêu trong thỏa

7


thuận sẽ thực hiện hoán đổi đồng bản tệ với đồng Đô la Mỹ với một mức tối đa
tương đương với mức cam kết đóng góp của quốc gia đó nhân với hệ số được áp
dụng cho nước đó. (Việt Nam có hệ số là 5 và cũng là một trong 5 quốc gia được áp
hệ số cao nhất).
Việc khởi động thành công Thỏa thuận CMIM, cùng với việc hình thành sớm
một cơ quan giám sát độc lập trong khu vực, thể hiện những cam kết vững chắc và
những nỗ lực của các nước thành viên ASEAN+3 trong việc tăng cường hơn nữa
năng lực của khu vực để đối phó với những rủi ro suy giảm và thách thức của kinh
tế toàn cầu.
- Năm 2012, nhằm thực hiện chủ trương tăng cường tính hiệu quả của
CMIM và mở rộng hơn nữa vai trò tích cực và tầm ảnh hưởng của Sáng kiến này
trong khu vực, ASEAN+3 đã xây dựng Thỏa thuận CMIM mới thay thế cho
Thỏa thuận trước đây.
So với Thỏa thuận CMIM năm 2010, quy mô Quỹ CMIM mới đã được tăng

gấp đôi từ 120 tỷ USD lên 240 tỷ USD, đồng thời Thỏa thuận CMIM mới đã bổ
sung thêm cơ chế ngăn ngừa khủng hoảng bên cạnh cơ chế xử lý khủng hoảng hiện
hành. Bên cạnh đó, tỷ lệ cho vay, thời hạn vay đối với các khoản vay xử lý khủng
hoảng CMIM cũng được cải thiện đáng kể.
Là biểu trưng cho sự thành công của hợp tác tài chính, tiền tệ ASEAN+3,
Thỏa thuận CMIM mới thể hiện quyết tâm chính trị của các nhà lãnh đạo cấp cao
khu vực trong cam kết hợp tác và hỗ trợ lẫn nhau ở mức độ cao hơn và chặt chẽ hơn
giữa các nước nhằm đối phó với những rủi ro và thách thức của kinh tế toàn cầu.
- Ngày 17/7/2014, Thỏa thuận Đa phương hóa Sáng kiến Chiềng Mai (CMIM)
mới đã được các nước thành viên ASEAN+3 (bao gồm ASEAN, Nhật Bản, Hàn
Quốc và Trung Quốc) tuyên bố chính thức có hiệu lực.
* Mặc dù đã khắc phục được nhiều vấn đề của hệ thống BSA, nhưng vẫn còn
một số tồn tại trong cơ chế CMIM. Chỉ có 30% giá trị khoản vay có thể được giải
ngân mà không đòi hỏi nước đi vay phải có các chương trình điều chỉnh cơ cấu

8


được IMF chấp thuận. Việc gắn phần lớn các khoản cho vay với các điều kiện chính
sách của IMF tạo ra mối quan ngại từ các nước thành viên ASEAN vốn đã gặp khó
khăn với các chương trình điều chỉnh cơ cấu của IMF trong cuộc khủng hoảng tài
chính - tiền tệ năm 1997. Việc gắn các khoản cho vay ngắn hạn của CMIM với các
chương trình điều chỉnh cơ cấu cũng làm tăng chi phí vay mượn và giảm tính hữu
ích của cơ chế hoán đổi CMIM. Tuy nhiên, trở ngại lớn nhất đối với việc tách ra
khỏi các điều kiện chính sách của IMF và xây dựng chính sách cho vay độc lập
là việc thiếu các thể chế cũng như cơ chế giám sát kinh tế hiệu quả. Mặc dù Văn
phòng Nghiên cứu Kinh tế ASEAN+3 (AMRO) đã được thành lập năm 2011
nhưng tổ chức này vẫn cần được tăng cường về thể chế, nhân lực và tài chính để
có thể hoạt động hiệu quả.
1.4 Xây dựng khu vực mậu dịch tự do Đông Á (EAFTA)

Kể từ sau cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực năm 1997, phương thức hình
thành các FTA song phương là một biểu hiện mới trong hợp tác và hội nhập kinh tế
khu vực Đông Á. Quá trình hội nhập kinh tế khu vực đang được chính thức hóa
bằng một loạt các sáng kiến tự do hóa thương mại thông qua các hiệp định Thương
mại Tự do (FTA: Free Trade Area) song phương và đa biên giữa các chính phủ tại
Đông Á.
1.4.1 Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN-Trung Quốc (ACFTA)
ACFTA là một khu vực thương mại tự do năng động với dân số trên 1,9 tỉ
người và tổng GDP lên tới 6000 tỷ USD. Trung Quốc là đối tác thương mại lớn
nhất của ASEAN và ASEAN là đối tác thương mại lớn thứ 4 của Trung Quốc.
Hiệp định Thương mại tự do ASEAN-Trung Quốc (ACFTA) được bắt đầu
thực hiện với việc ASEAN và Trung Quốc ký kết Hiệp định khung về Hợp tác Kinh
tế toàn diện ASEAN-Trung Quốc vào tháng 11 năm 2002. Để cụ thể hóa Hiệp định
khung này, ASEAN và Trung Quốc đã đàm phán và ký kết Hiệp định Thương mại
hàng hóa ASEAN-Trung Quốc vào tháng 11 năm 2004, Hiệp định dịch vụ ASEANTrung Quốc vào năm 2007 và Hiệp định đầu tư ASEAN-Trung Quốc năm 2009.
Hiệp định ACFTA chính thức có hiệu lực đầy đủ từ ngày 01/01/2010.

9


Theo đó, việc cắt giảm và tự do hóa thuế quan của Việt Nam trong ACFTA
được chia thành 3 danh mục hàng hoá: Thu hoạch sớm, danh mục giảm thuế thông
thường (NT) và danh mục nhạy cảm.
* Ngoài việc tích cực tiến tới loại bỏ thuế và hàng rào phi thuế đối với hầu hết
thương mại hàng hoá thì ACFTA còn:
(a) Tiến tới tự do hoá thương mại dịch vụ đối với hầu hết các lĩnh vực
(b) Thiết lập một cơ chế đầu tư cạnh tranh và cởi mở để tạo thuận lợi và thúc
đẩy đầu tư trong khuôn khổ FTA.
(c) Áp dụng các đối xử đặc biệt, khác biệt và linh hoạt cho các nước thành
viên mới của ASEAN

(d) Áp dụng linh hoạt cho các Bên trong đàm phán FTA đối với các khu vực
nhạy cảm của lĩnh vực hàng hoá, dịch vụ và đầu tư. Sự linh hoạt này sẽ được đàm
phán và cùng thống nhất thoả thuận dựa trên nguyên tắc có đi có lại và cùng có lợi.
(e) Thiết lập các biện pháp tạo thuận lợi đầu tư và thương mại có hiệu quả,
gồm không hạn chế việc đơn giản hoá thủ tục hải quan và các thoả thuận công nhận
lẫn nhau
(f) Mở rộng hợp tác kinh tế ra các lĩnh vực khác nhằm hỗ trợ tăng cường đầu
tư và thương mại giữa ASEAN và Trung Quốc, hình thành nên các chương trình
hành động để thực hiện các lĩnh vực hợp tác.
1.4.2 Hiệp định khung về Đối tác Kinh tế Toàn diện ASEAN – Nhật Bản
(AJCEP)
ASEAN và Nhật Bản đã tuyên bố kết thúc đàm phán Hiệp định khung về Đối
tác Kinh tế Toàn diện ASEAN - Nhật Bản (AJCEP) tại Hội nghị cấp cao ASEAN
13 (19-21/11/2007, Singapore). Từ đầu năm 2008, Hiệp định đã được ký luân phiên
tại Thủ đô từng nước (Việt Nam ký ngày 01/4/2008 tại Hà Nội) và có hiệu lực từ
ngày 1/12/2008.
Ngoài phần Mở đầu, Hiệp định bao gồm 10 chương, 80 điều và 5 phụ lục quy
định khung hợp tác kinh tế ASEAN – Nhật Bản và quy định chi tiết về tự do hóa

10


thương mại hàng hóa. Theo đó, Nhật Bản cam kết loại bỏ ngay thuế suất tương
đương 80% biểu thuế khi hiệp định có hiệu lực và sẽ bãi bỏ các biểu thuế của 93%
giá trị hàng hóa nhập khẩu từ ASEAN trong vòng 10 năm kể từ khi AJCEP có hiệu
lực; ASEAN-6 cam kết loại bỏ thuế đối với 90% hàng hóa nhập khẩu từ Nhật Bản
trong vòng 10 năm; CLMV sẽ loại bỏ thuế theo lịch trình chậm hơn. Trong số đó,
ASEAN-6 và Nhật Bản sẽ loại bỏ thuế suất cho 90% biểu thuế vào năm 2012,
CLMV được chậm sau 4 năm. Dự kiến đến năm 2018 FTA về hàng hoá ASEANNhật Bản căn bản được thực hiện.
Vào tháng 12/2013, các nước ASEAN và Nhật Bản đã tuyên bố cơ bản hoàn

thành đàm phán nội dung Chương Thương mại Dịch vụ và Chương Đầu tư và sẽ
thúc đẩy để sớm ký kết và thực hiện.
Các mục tiêu của Hiệp định này gồm:
(a) Từng bước tự do hóa và tạo thuận lợi thương mại hàng hóa và dịch vụ
giữa các bên.
(b) Cải thiện các cơ hội đầu tư và bảo đảm bảo hộ vốn đầu tư và các hoạt
động đầu tư của các bên
(c) Thiết lập khuôn khổ tăng cường hợp tác giữa các Bên nhằm hỗ trợ hội
nhập kinh tế ASEAN, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các Quốc gia thành viên
ASEAN, và thúc đẩy thương mại và đầu tư giữa các Bên.
Trong lĩnh vực kinh tế, ASEAN và Nhật Bản tập trung triển khai kế hoạch
AJCEP. Quan hệ mậu dịch và đầu tư giữa hai bên tăng lên nhanh chóng. Nhật Bản
luôn giữ vị trí là đối tác thương mại lớn thứ hai của ASEAN sau Trung Quốc. Tuy
nhiên, thương mại song phương ASEAN-Nhật Bản đã giảm 4% trong giai đoạn
2011-2012. Năm 2013, thương mại song phương đạt con số 241 tỷ USD. Đầu tư
trực tiếp của Nhật Bản vào ASEAN tăng 26.4% từ 16.4 tỷ USD năm 2011 lên tới
20.8 tỷ USD năm 2012. Nhật Bản là nguồn đầu tư FDI lớn thứ hai của ASEAN.
1.4.3 Hiệp định mậu dịch Tự do ASEAN-Hàn Quốc (AKFTA)
Hiệp đinh khung về Hợp tác Kinh tế Toàn diện ASEAN – Hàn Quốc (ký

11


tháng 12/2005, Kualar Lumpur) đã tạo cơ sở pháp lý cho việc thiết lập Khu vực
Mậu dịch Tự do ASEAN – Hàn Quốc. Đến nay, ngoài Hiệp định khung, hai bên đã
kết thúc đàm phán và ký kết Hiệp định Cơ chế Giải quyết Tranh chấp (12/2005,
Kualar Lumpur) và Hiệp định Thương mại Hàng hóa (ký lần 1 tháng 12/2005 tại
Kualar Lumpur, lần 2 05/2006 tại Manila và lần cuối tháng 08/2006 tại Kualar
Lumpur), Hiệp định Thương mại Dịch vụ (12/2007) và Hiệp định Đầu tư (6/2009).
Trong lĩnh vực kinh tế, các hoạt động hợp tác diễn ra rất sôi động. Tại Hội

nghị thượng đỉnh lần thứ 9 tổ chức ở Cua-la Lăm-pơ (năm 2005), các nhà lãnh đạo
ASEAN và Hàn Quốc đã ký Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện. Hiện
nay, ASEAN và Hàn Quốc là các đối tác kinh tế quan trọng của nhau. Thương mại
hai chiều ASEAN-Hàn Quốc đạt 135 tỷ USD năm 2013 (năm 2012 là 131 tỷ USD)
và đang nỗ lực đạt mục tiêu 150 tỷ USD năm 2015, hướng tới đạt 200 tỷ USD năm
2020. Hiện Hàn Quốc là đối tác thương mại lớn thứ 5 của ASEAN và ASEAN là
đối tác thương mại và đầu tư lớn thứ 2 của Hàn Quốc. Đầu tư trực tiếp của Hàn
Quốc vào ASEAN giảm 20.8% từ 2.4 tỷ USD xuống 1.9 tỷ USD trong giai đoạn
2011-2012.
Về thương mại dịch vụ, Hiệp định thương mại dịch vụ (TIS), khởi động đàm
phán năm 2006 và ký tại HNCC ASEAN ngày 21/11/2007 ở Xinh-ga-po và có hiệu
lực ngày 01/5/2009. Tương tự hiệp định với TQ, các bên chấp thuận nguyên tắc tự
do hoá từng bước và chủ động theo mô hình của GATS/WTO. Vì vậy, các điều liên
quan đến cam kết cụ thể (Điều 19 - Tiếp cận thị trường, 20 - Đối xử quốc gia), 21 Các cam kết bổ sung) và 22 - Biểu cam kết cụ thể) được xây dựng hoàn toàn tương
tự như WTO.
Tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN+3 tại Viêng-chăn, Lào (2004), nguyên thủ
10 quốc gia ASEAN và 3 quốc gia Đông Bắc Á là Hàn Quốc, Nhật Bản và Trung
Quốc đã đi đến nhất trí về tính cần thiết của một Khu vực Thương mại Tự do toàn
Đông Á (EAFTA) và giao cho các Bộ trưởng kinh tế của 13 quốc gia tổ chức
nghiên cứu và soạn thảo báo cáo về việc xây dựng EAFTA trong thời gian tới. Để
cụ thể hoá ý tưởng này, Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo đại diện cho Trung

12


Quốc đã nhận đăng cai thành lập Nhóm chuyên gia hỗn hợp (JEG) nghiên cứu về
tính khả thi của Khu vực Thương mại Tự do Đông Á (gọi tắc là Nhóm nghiên cứu
EAFTA). Nghiên cứu của Nhóm nghiên cứu EAFTA giai đoạn I (2005-2006) cho
thấy hiện các nước ASEAN+3 đang hội tụ những điều kiện kinh tế-chính trị tiền đề
thuận lợi cho việc hình thành một khu vực thương mại tự do ASEAN+3. Phân tích

mô phỏng định lượng cũng cho kết quả phúc lợi tổng của một FTA gồm 13 nước
ASEAN+3 sẽ lớn hơn của phương thức mạng lưới FTA song phương hay tổng 3
FTA ASEAN+1. Do đó, Nhóm chuyên gia EAFTA giai đoạn I (JEGFSE, 20052006)(5) đã đệ trình Báo cáo của mình lên Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN+3 vào
Tháng 1 năm 2007 vừa qua tại Cebu (Philíppin) với khuyến nghị cần sớm khởi
động một lộ trình mới cho việc hình thành một FTA ASEAN+3. Hiện nay, Nhóm
nghiên cứu EAFTA giai đoạn II(6) (Nhóm EAFTA-II) do Hàn Quốc nhận làm
Trưởng nhóm nghiên cứu và đang tiến hành phân tích sâu tác động ngành của một
EAFTA trong tương lai nhằm đưa ra những cơ sở khoa học đáp ứng tốt hơn yêu cầu
của lãnh đạo cấp cao ASEAN+3.
Đây là phương thức thể chế hoá hợp tác và hội nhập thương mại Đông Á dựa
trên nền tảng là khung khổ hợp tác ASEAN+3 đã hình thành và phát triển gần 10
năm qua, do đó khá thuận lợi về cam kết chính trị và tiền đề hội nhập thương mạiđầu tư nội khối. Đây cũng là phương thức nhận được động lực dẫn dắt mạnh mẽ từ
Trung Quốc, do đó các nước Đông Bắc Á khác như Nhật Bản hay Hàn Quốc
không thể không tham gia nếu muốn duy trì lợi thế cạnh tranh tại Đông Á. Tuy
nhiên, chiều hướng dẫn dắt của Trung Quốc đối với tiến trình FTA ASEAN+3 này
cũng khiến các nước tham gia phải lo ngại về tầm ảnh hưởng, chi phối ngày càng
mạnh của Trung Quốc trong quan hệ kinh tế khu vực, do đó tìm cách thiết lập thế
“cân bằng mới” với Trung Quốc trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực ngày
càng sâu rộng.
1.5 Sáng kiến phát triển thị trường trái phiếu Châu Á ( ABMI)
Sáng kiến Phát triển thị trưởng trái phiếu Châu Á (ABMI) được khởi xướng

13


năm 2003 nhằm mục đích phát triển sâu rộng thị trường trái phiếu các nước thành
viên, đặc biệt là thị trường trái phiếu bằng đồng nội tệ, ABMI đã đạt được những
thành tựu quan trọng thể hiện nỗ lực và cam kết mạnh mẽ của các nước nhằm xây
dựng một thị trường trái phiếu khu vực.
Sáng kiến này tập trung vào những nỗ lực và hành động của các nước trên hai

lĩnh vực là (i) thúc đẩy khả năng tiếp cận thị trường của các nhà phát hành trái
phiếu; (ii) tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển của các thị trường trái phiếu
khu vực. Theo sáng kiến, ASEAN+3 thiết lập các Nhóm công tác để triển khai
nghiên cứu, thực hiện các sáng kiến khu vực về phát triển thị trường trái phiếu bao
gồm 4 Nhóm đặc trách theo lĩnh vực, 1 Nhóm Hỗ trợ kỹ thuật, 1 Nhóm hỗ trợ và
Nhóm điều phối chung. Nhằm thúc đẩy hơn nữa ABMI, Hội nghị Bộ trưởng Tài
chính ASEAN+3 lần thứ 11 tháng 5/2007 đã thông qua Lộ trình ABMI mới, theo đó
thiết lập lại cơ cấu và mục tiêu hoạt động của sáng kiến này. Để triển khai nội dung
trên, trong thời gian qua, các Nhóm đặc trách đã tập trung vào các công việc chính
bao gồm lập kế hoạch triển khai cho các nhóm, bầu chủ trì các nhóm công tác, rà
soát lại toàn bộ hoạt động nghiên cứu đang triển khai, tiếp tục thực hiện các nghiên
cứu mới. Hiện nay, một trong các nội dung chính được các nước thành viên tập
trung thảo luận là tăng cường tính hiệu quả của Sáng kiến thông qua rà soát, đánh
giá và điều chỉnh mục tiêu, quy mô, cơ cấu của ABMI cho phù hợp với điều kiện và
nhu cầu phát triển của khu vực. Với sáng kiến này, các nước sẽ có thể gia tăng
nguồn vốn của mình một cách dễ dàng hơn và cũng giúp cho tốc độ gia tăng kinh tế
trong khu vực được nhanh chóng hơn. Đây là một sáng kiến chung, và sẽ tạo ra lợi
ích chúng cho toàn khu vực.
Đồng thời với đó là việc thành lập Quỹ Bảo lãnh tín dụng và đầu tư (CGIF)
nhằm thúc đẩy hoạt động bảo lãnh trái phiếu trong nước của khu vực. CGIF được
chính thức tuyên bố thành lập tại Hội nghị Bộ trưởng Tài chính ASEAN+3 vào
tháng 5/2010 tại U-dơ-bê-kít-xtan với quy mô là 700 triệu USD. CGIF được thành
lập dưới hình thức một Quỹ tín thác do ADB quản lý, hoạt động độc lập với ADB

14


và chỉ sử dụng nguồn vốn góp từ ADB và các nước ASEAN+3. CGIF sẽ bảo lãnh
cho doanh nghiệp phát hành trái phiếu huy động vốn trên thị trường vốn trong nước
và dưới sự bảo lãnh của CGIM, trái phiếu doanh nghiệp sẽ được xếp hạng AAA

(bằng mức xếp hạng của ADB). Việt Nam cam kết đóng góp 1,1 triệu USD vào
Quỹ từ nguồn ngân sách trung ương hàng năm.
Theo báo cáo của ABD, tỷ lệ nước ngoài nắm giữ các trái phiếu chính phủ
bằng đồng nội tệ của khu vực vẫn ổn định trong ba tháng cuối năm 2013 trong bối
cảnh triển vọng vững vàng của kinh tế khu vực và lợi tức hấp dẫn hơn so với các thị
trường khác. In-đô-nê-xi-a có tỷ lệ nước ngoài sở hữu trái phiếu cao nhất tính đến
cuối năm 2013 với việc các nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ 32,5% lượng trái phiếu
chính phủ chưa thanh toán, tiếp đó là Ma-lay-xi-a với 29,4%.
Các thị trường trái phiếu trong khu vực vẫn tiếp tục mở rộng về quy mô. Cho
đến cuối năm 2013, khu vực có 7,4 nghìn tỷ đô-la trái phiếu chưa thanh toán, tăng
2,4% so với cuối tháng 9 năm 2013 và 11,7% so với cuối năm 2012. Thị trường
Việt Nam có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất theo quý, tăng 14,8%, trong khi đó Inđô-nê-xi-a có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất theo năm, tăng 20,1%.
Bảng theo dõi trái phiếu châu Á mới nhất của ADB cho thấy, tổng dư nợ trái
phiếu của các nền kinh tế mới nổi Đông Á tăng lên 7,9 nghìn tỷ USD tính đến tháng
6/2014, tăng 2,5% so với thời điểm cuối tháng 3 và tăng 9,3% so với thời điểm cuối
tháng 6 năm 2013.
Trong đó, Việt Nam sở hữu thị trường trái phiếu nội tệ phát triển nhanh nhất
xét trên cơ sở hàng quý và hàng năm. Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn là thị trường trái
phiếu lớn thứ 2 tại châu Á, chỉ sau Nhật Bản, với tổng dư nợ trái phiếu quý II là 4,9
nghìn tỷ USD. Con số này tăng 3,4% so với quý I và 10,8% so với cùng kỳ năm
ngoái. Nguyên nhân chủ yếu là, dư nợ trái phiếu ngân hàng và doanh nghiệp nội địa
tăng mạnh.
1.6 Xúc tiến cho ra đời đơn vị tiền tệ chung Châu Á (ACU)
Sau khủng hoảng năm 1997, các quốc gia châu Á đã bắt đầu nung nấu ý

15


tưởng về một đồng tiền chung. Và sau khi đồng EURO ra đời vào năm 1999, ý
tưởng này ngày một được quyết tâm hiện thực hóa hơn. đồng ACU sẽ đóng góp rất

lớn thúc đẩy kinh tế châu Á phát triển, củng cố thêm quá trình liên kết kinh tế châu
Á, phù hợp với trào lưu toàn cầu hóa. Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) vào
tháng 06/2006 đã khởi động đơn vị tiền tệ châu Á-một chỉ số có trọng số của rổ
tiền tệ Châu Á, theo đó coi đây là công cụ để giám sát những biến động về giá trị
của các đồng tiền trong khu vực. Trong dự án xây dựng một đơn vị tiền tệ châu Á
thống nhất (ACU) sẽ có sự tham gia của ít nhất 13 quốc gia. Trong số này có những
nền kinh tế khá hùng mạnh như Trung Quốc, Nhật, Hàn Quốc và 10 nước láng
giềng nhỏ hơn trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN).
Một số quy luật chung trong sự phát triển của quá trình hợp tác, hội nhập,
cũng như những giai đoạn phát triển phải trải qua của quá trình đó:
1. Khu vực tự do thương mại (Free Trade Zone)
2. Liên minh thuế quan (Custom Union)
3. Thị trường chung (Common Market)
4. Liên minh kinh tế (Economic Union)
5. Liên minh tiền tệ (Monetary Union)
Sau khi đã trải qua tất cả các giai đoạn nêu trên, quá trình liên kết, hội nhập sẽ
thúc đẩy hình thành một cơ cấu kinh tế thống nhất, thực tế sẽ là một nhà nước
chung với việc thực hiện một chính sách kinh tế chung duy nhất trên cơ sở thống
nhất về mặt luật pháp. Hiện nay các nước trong khối đang ở giai đoạn thứ 2 và sắp
sửa hoàn tất các kí kết để lên giai đoạn thứ 3 để tiến tới liên minh tiền tệ. Ở giai
đoạn khi một quốc gia tham gia vào liên minh tiền tệ- được xem như là một phần
của sự hội nhập- lúc này, vấn đề cơ bản là phải đảm bảo việc tự do hóa dòng luân
chuyển vốn, kể cả nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài vào, có các biện pháp
nhằm tăng cường tính ổn định của nền kinh tế, hạ thấp chỉ số lạm phát. Tất cả
những điều này đều có chung mục đích để kết nối đồng nội tệ và hệ thống tiền tệ
chung thống nhất, đảm bảo cho khả năng chuyền đổi của nó.

16



Lộ trình giới thiệu đồng ACU
Giai đoạn một: Xây dựng cơ chế hợp tác khu vực trong những năm 2010 Nhật
Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc cần đạt được thỏa thuận chắc chắn về việc thực hiện
một đơn vị tiền tệ chung châu Á (ACU). Thành lập một hội đồng bao gồm thống
đốc ngân hàng trung ương châu Á và bộ trưởng tài chính là cần thiết và đưa vấn đề
ra thảo luận chi tiết giữa các nước.
Tăng cường hợp tác về chính sách tài chính, tiền tệ, và kinh tế giữa các quốc
gia, và xây dựng một chức năng giám sát cho các xu hướng kinh tế vĩ mô và tài
chính khu vực và chương trình hỗ trợ tài chính mở rộng và đa tầng. Thúc đẩy sự
chuyển đổi đồng tiền của các nước, giảm thiểu kiểm soát ngoại hối, thay đổi sang
một hệ thống trao đổi lãi suất thả nổi, và bảo đảm sự độc lập của các ngân hàng
trung ương, loại bỏ các rào cản đối với sự di chuyển tự do về vốn trong khu vực.
Giai đoạn hai: Thiết lập 1 đơn vị tiền tệ Châu Á. Thiết lập một cơ chế tiền tệ
chung cho Châu Á và định ra một đơn vị tiền tệ chung cho Châu Á thông qua thúc
đẩy tiêu dùng cá nhân và thúc đẩy việc phát hành của các tổ chức trái phiếu quốc tế
tính bằng đơn vị tiền tệ châu Á.Nhật Bản tận dụng các nguồn dự trữ ngoại tệ để chủ
động đầu tư vào cơ chế tiền tệ chung Châu Á và chuyển qua tính các khoản cho vay
bằng đồng yên bằng các đơn vị tiền tệ chung Châu Á và tích cực thúc đẩy việc phát
hành trái phiếu tính bằng đơn vị tiền tệ chung Châu Á, sử dụng tiết kiệm và đầu tư
trong nước và đầu tư ra nước ngoài ghi bằng các đơn vị tiền tệ chung Châu Á .
Thiết lập một cơ chế tiền tệ chung cho Châu Á và định ra một đơn vị tiền tệ chung
cho Châu Á thông qua thúc đẩy tiêu dùng cá nhân và thúc đẩy việc phát hành của
các tổ chức trái phiếu quốc tế tính bằng đơn vị tiền tệ châu Á.Nhật Bản tận dụng các
nguồn dự trữ ngoại tệ để chủ động đầu tư vào cơ chế tiền tệ chung Châu Á và
chuyển qua tính các khoản cho vay bằng đồng yên bằng các đơn vị tiền tệ chung
Châu Á và tích cực thúc đẩy việc phát hành trái phiếu tính bằng đơn vị tiền tệ chung
Châu Á, sử dụng tiết kiệm và đầu tư trong nước và đầu tư ra nước ngoài ghi bằng
các đơn vị tiền tệ chung Châu Á . Cuộc họp thường xuyên của các bộ trưởng tài
chính và thống đốc ngân hàng trung ương phải được nâng cấp lên một cuộc họp hội


17


nghị thượng đỉnh châu Á.Thúc đẩy hiệp ước quốc tế trong tài chính quốc tế và các
tổ chức thương mại, xây dựng sự đồng thuận với các nước ngoài khu vực châu Á,
chẳng hạn như Mỹ và các quốc gia châu Âu
Giai đoạn ba: Giới thiệu một đồng tiền chung châu Á. Các nước tham gia
trong hệ thống tiền tệ mới cần phải đặt nền tảng và xây dựng sự đồng thuận trong
nước.Các ngân hàng trung ương mới và tiền tệ mới sẽ được thành lập. Các chính
sách của ngân hàng trung ương châu Á thống nhất sau đó sẽ được xây dựng và đồng
tiền duy nhất được giới thiệu.
Không ai dám nghi ngờ về quyết tâm của các nước châu Á trong nỗ lực xây
dựng một đồng tiền chung. Với đồng ACU, họ sẽ có cơ hội không chỉ giảm đáng kể
mức độ phụ thuộc vào đồng đôla, mà còn là tiền đề cho những tham vọng lớn hơn
nữa trên bình diện toàn cầu. Rõ ràng, những “con hổ châu Á” không thể hài lòng
với tư thế của một “phân xưởng lắp ráp cho thế giới”, mà họ sẽ phải nỗ lực hơn để
giành lấy một “vị trí danh dự” thực sự trong nền kinh tế thế giới. Đồng tiền chung
châu Á sẽ là một đảm bảo quan trọng đầu tiên cho mục tiêu này.

18


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG KHẢ NĂNG HỢP TÁC VÀ
THỐNG NHẤT TIỀN TỆ CỦA ASEAN+3 VÀ TÁC ĐỘNG
2.1 Thực trạng về khả năng hợp tác và thống nhất tiền tệ của ASEAN +3
2.1.1 Điểm sáng trong khả năng hợp tác và thống nhất tiền tệ của
ASEAN+3


ASEAN + 3 là một trong những khu vực có tăng trưởng cao và ổn định


Ổn định kinh tế vĩ mô là một trong những điều kiện quan trọng để hình
thành một liên minh tiền tệ tiền tệ. Môi trường kinh tế vĩ mô của các nước
thành viên tương lai càng ổn định thì các nước này càng ít cần phải sử dụng đến
chính sách tiền tệ của riêng nước mình để đối phó với các cú sốc, và như vậy sẽ
sẵn sàng tham gia vào một khu vực đồng tiền chung hơn. Kinh nghiệm của
EMU thậm chí còn cho thấy rằng ổn định kinh tế vĩ mô và ổn định tỷ giá là hai
mục tiêu hỗ trợ cho nhau, nghĩa là thực hiện tốt một mục tiêu sẽ hỗ trợ việc
thực hiện mục tiêu kia.
Trong giai đoạn 1980-2013, tốc độ tăng trưởng hàng năm của ASEAN cao
hơn tốc độ tăng trưởng toàn cầu 2 phần trăm. Thành tựu này đã thu hẹp khoảng
cách GDP bình quân đầu người giữa ASEAN và mức bình quân toàn cầu từ 6 lần
vào năm 1980 xuống còn 2,7 lần vào năm 2013. Đáng chú ý hơn nữa là tốc độ
tăng trưởng của khu vực luôn được duy trì ổn định. Từ 1980 đến 2013, tốc độ
tăng trưởng chung đạt trên 5%/năm, ngoại trừ thời gian khủng hoảng tài chính
châu Á và khủng hoảng tài chính toàn cầu. Ngay cả trong giai đoạn khủng hoảng
tài chính toàn cầu, tốc độ tăng trưởng của ASEAN vẫn đạt 4,9%/năm. Hiện tốc
độ tăng trưởng này đang được ghi nhận ở các quốc gia như Myanmar, Lào và
Campuchia. Với tốc độ tăng trưởng 7%, quy mô của một nền kinh tế sẽ gia tăng
gấp đôi sau mỗi chu kỳ 10 năm.

19


Hình : GDP các nước ASEAN năm 2013

Nguồn: theo báo cáo của World Bank
 Hội nhập tài chính trong cộng đồng kinh tế ASEAN
Hội nhập thị trường vốn và tài chính ASEAN vào năm 2015 được đề cập đến
trong bản kế hoạch hành động AEC sẽ tạo ra hệ thống tài chính khu vực thông suốt

với cơ chế tài khoản vốn tự do hơn. Các thị trường vốn được liên kết với nhau theo
đó sẽ thúc đẩy hoạt động thương mại và đầu tư khu vực, tạo điều kiện: tự do hóa
dịch vụ tài chính, tự do hóa tài khoản vốn và phát triển thị trường vốn.
 Tự do hóa dịch vụ tài chính sẽ khiến cho hoạt động thương mại được tự do
nhiều hơn thông qua tiếp cận rộng hơn với dịch vụ tài chính.
 Tự do hóa tài khoản vốn: Việc dỡ bỏ kiểm soát và hạn chế vốn như: xóa bỏ
hạn chế đối với các giao dịch trên tài khoản vãng lai, xóa bỏ hạn chế đối với hoạt

20


động đầu tư trực tiếp nước ngoài và danh mục đầu tư (dòng vào và dòng ra) sẽ nâng
cao lợi thế của dòng chu chuyến vốn tự do trong ASEAN. Những nỗ lực đáng kể đã
được thực hiện nhằm nới lỏng hạn chế đối với giao dịch mua bán ngoại tệ, thanh
toán cho các giao dịch vô hình và giao dịch chuyển tiền. Các nước thành viên
ASEAN đã hoàn thành việc đánh giá và đưa ra quy định đối với sự chu chuyển tự
do hơn của các dòng vốn FDI đồng thời cũng bắt đầu thực hiện công tác đánh giá
hoạt động đầu tư theo danh mục.
 Sự phát triển của thị trường vốn: Xây dựng cơ sở vật chất dài hạn cho thị
trường vốn là để thúc đẩy hợp tác xuyên quốc gia giữa các thị trường vốn trong khu
vực. Bản kế hoạch hành động cho thị trường vốn hội nhập đã được xây dựng và
phát triển nhằm mục đích nâng cao phương pháp tiếp cận thị trường, kết nối thị
trường cũng như khả năng thanh khoản trên thị trường.
2.1.2 Hạn chế trong khả năng hợp tác và thống nhất tiền tệ của ASEAN+3
Bên cạnh thuận lợi trên, các nhà hoạch định cho đồng ACU phải đối mặt với
rất nhiều khó khăn.
 Sự liên kết về kinh tế giữa các thành viên trong khu vực còn ở mức thấp
Các liên kết phổ biến hiện nay trên thế giới là: Khu vực mậu dịch tự do, Liên
minh thuế quan, Thị trường chung, Liên minh tiền tệ và liên minh kinh tế.
Bảng : Các liên kết phổ biến hiện nay

A2/A1

(1)

(2)

(3)

(4)

(5)

FTA
Liên minh thuế quan
Thị trường chung
Liên minh tiền tệ
Liên minh kinh tế
Nguồn: Tổng hợp
A1: Đặc trưng
A2: Mức độ liên kết

21


(1): Hàng hoá dịch vụ di chuyển tự do
(2): Thống nhất chính sách thuế quan với các nước không phải là thành viên
(3): Sức lao động và tư bản di chuyển tự do
(4): Phát hành đồng tiền tập thể thống nhất
(5): Hình thành trung tâm kinh tế mới
Hiện nay, châu Âu đang trải qua liên kết liên minh kinh tế còn các nước châu

Á mới dừng lại ở liên minh khu vực mậu dịch tự do còn sơ khai. Khu vực mậu dịch
tự do của ASEAN+3 vẫn chưa được hình thành, chúng ta mới chỉ có khu vực mậu
dịch tự do ASEAN - AFTA và ACFTA. AFTA ra đời với mục đích đưa các nước
ASEAN trở thành cơ sở sản xuất của thế giới, thu hút đầu tư nước ngoài và tăng
cường giao thương nội khối. Nhưng đến thời điểm này, kết quả AFTA mang lại
không như kỳ vọng của các thành viên. Cụ thể như sau:
+ Thứ nhất, giao dịch nội khối của các nước trong khu vực còn quá thấp, mới
đạt được khoảng 20-25%, trong khi đó tại châu Âu tỷ lệ này cao gấp khoảng 4 lần là
từ 70-75% kim ngạch thương mại của toàn khối. Hội nghị thượng đỉnh vừa qua
cũng đã đề cập tới các biện pháp nhằm thúc đẩy giao dịch nội khối lên khoảng 3035% vào năm 2015.

22


Nguồn: Tổng cục Hải Quan, 2009

Biểu đồ : Tỷ trọng FDI nội khối trên tổng FDI vào ASEAN

Nguồn: Tổng cục Hải Quan, 2009
+ Thứ hai, việc cắt giảm hàng rào thuế quan và xóa bỏ hàng rào phi thuế quan
của các quốc gia thành viên chưa tạo được hiệu quả. Mức độ cắt giảm thuế và mức
thuế không thống nhất giữa các quốc gia. Và việc cắt giảm hay xóa bỏ này có tác

23


×