Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Đảng lãnh đạo hoạt động đối ngoại trong kháng chiến chống mỹ, cứu nước (1954 1975)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (646.27 KB, 76 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA LỊCH SỬ

======

PHẠM THỊ THẢO

ĐẢNG LÃNH ĐẠO HOẠT ĐỘNG
ĐỐI NGOẠI TRONG KHÁNG CHIẾN
CHỐNG MỸ, CỨU NƢỚC (1954 – 1975)

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng

HÀ NỘI - 2016


LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc tới TS. Trần Thị Vui, ngƣời đã tận
tình hƣớng dẫn, chỉ bảo và truyền đạt kinh nghiệm cho em trong suốt quá
trình nghiên cứu đề tài khóa luận.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Lịch sử, các
thày cô trong bộ môn Lịch sử Đảng trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội II, đã tạo
điều kiện giúp em hoàn thành khóa luận của mình.
Do lần đầu tiên làm quen với công tác nghiên cứu khoa học nên đề tài
nghiên cứu khóa luận của em không thể tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy,
em rất mong nhận đƣợc sự chỉ bảo, đóng góp ý kiến của các thày cô và các
bạn sinh viên để đề tài đƣợc hoàn thiện hơn.
Hà Nội, tháng 5 năm 2016
Sinh viên


Phạm Thị Thảo


LỜI CAM ĐOAN
Khóa luận tốt nghiệp này đƣợc hoàn thành dƣới sự hƣớng dẫn của TS.
Trần Thị Vui. Em xin cam đoan rằng:
Đây là kết quả nghiên cứu của riêng em.
Nếu sai em xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.
Hà Nội, tháng 5 năm 2016
Sinh viên

Phạm Thị Thảo


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: CHỦ TRƢƠNG CỦA ĐẢNG VỀ CÔNG TÁC ĐỐI NGOẠI
TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƢỚC (1954-1975) ............. 7
1.1. Tình hình quốc tế và trong nƣớc tác động tới hoạt động đối ngoại của
Đảng trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nƣớc(1954-1975) ........................ 7
1.2 Chủ trƣơng của Đảng về công tác đối ngoại trong kháng chiến chống
Mỹ, cứu nƣớc (1954-1975) ......................................................................... 10
CHƢƠNG 2: QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CHỦ TRƢƠNG CỦA ĐẢNG VỀ
HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI TRONG THỜI KỲ KHÁNG CHIẾN CHỐNG
MỸ, CỨU NƢỚC (1954-1975). ................................................................... 19
2.1. Hoạt động đối ngoại của Đảng đáp ứng yêu cầu xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở miền Bắc (1954-1975) ................................................................... 19
2.2. Hoạt động đối ngoại của Đảng phục vụ sự nghiệp đấu tranh giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nƣớc (1954-1975) ................................ 29
CHƢƠNG 3: NHẬN XÉT VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM .......................... 56

3.1. Nhận xét ............................................................................................... 56
3.2. Một số kinh nghiệm ............................................................................. 64
KẾT LUẬN .................................................................................................. 68
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 70


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cách mạng tháng Tám thành công, nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
đƣợc thành lập, Nhà nƣớc dân chủ nhân dân ra đời. Trong điều kiện trực tiếp
lãnh đạo chính quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam đã hoạch định đƣờng lối
ngoại giao với các nội dung:
Mục tiêu ngoại giao là góp phần đƣa nƣớc nhà đi tới độc lập hoàn toàn
vĩnh viễn.
Nguyên tắc đối ngoại: lấy nguyên tắc Hiến chƣơng Đại Tây Dƣơng làm
nền tảng.
Kể từ đó tới nay, nhất quán những nội dung trên, nền ngoại giao Việt
Nam dƣới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam giành đƣợc những thắng
lợi to lớn trong sự nghiệp đấu tranh dựng nƣớc và giữ nƣớc, nâng cao hơn vị
thế của dân tộc trên trƣờng quốc tế. Đƣờng lối đối ngoại của Đảng đã đƣợc
thực hiện qua các giai đoạn khác nhau và hình thái khác nhau rất sinh động và
sáng tạo mà giai đoạn kháng chiến chống đế quốc Mỹ là một tiêu biểu.
Cuộc chiến tranh xâm lƣợc Việt Nam của đế quốc Mỹ là cuộc chiến
tranh cục bộ lớn nhất thế kỷ này. Xét về quy mô lực lƣợng tham gia, phƣơng
tiện chiến tranh hiện Đại đƣợc huy động và tính chất ác liệt theo chiều hƣớng
ngày càng tăng suốt 21 năm, đây là cuộc đụng đầu lịch sử giữa đế quốc Mỹ
với nhân dân Việt Nam - một cuộc đụng đầu, xét về mặt vật chất, là không
cân sức. Bởi vì nƣớc Mỹ, một trong những nƣớc lớn nhất và mạnh nhất hành
tinh đi xâm lƣợc nƣớc Việt Nam nhỏ và nghèo, lại bị tàn phá trong cuộc chiến
tranh chống thực dân Pháp, chƣa kịp hồi phục. Quân đội Mỹ trong vòng 200

năm kể từ khi Hợp chủng quốc Hoa Kỳ thành lập đã tiến hành và tham gia 8
cuộc chiến tranh lớn, nhƣng chƣa lần nào bại trận. Trong cuộc chiến tranh

1


xâm lƣợc Việt Nam, Mỹ đã ứng dụng những thành tựu khoa học-kỹ thuật
quân sự tiên tiến nhất, mới nhất (trừ vũ khí nguyên tử), sử dụng tối đa sức
mạnh và tiềm lực của nƣớc Mỹ chống Việt Nam. Ngoài ra còn có các nƣớc
đồng minh của Mỹ tham gia đóng góp lƣơng thực, thuốc men, trang bị kỹ
thuật và huấn luyện..., giúp Mỹ tiến hành chiến tranh. Với sức mạnh “không
thể tƣởng nổi” của nƣớc Mỹ, giới cầm quyền Nhà Trắng, Lầu Năm Góc tin
chắc sẽ chiến thắng một cách dễ dàng. Họ muốn chứng minh cho thế giới thấy
rằng Mỹ đã tham chiến thì không có một lực lƣợng chống đối nào mà không
bị đè bẹp và tiêu diệt. Lúc đầu, nhiều ngƣời cho rằng trong cuộc chiến đấu
không cân sức này, nhân dân Việt Nam khó có thể đứng vững.
Cuộc chiến tranh mà đế quốc Mỹ gây ra cho nhân dân Việt Nam là
cuộc chiến tranh toàn diện trên tất cả các mặt kinh tế, quân sự, chính trị, ngoại
giao, văn hóa. Đồng thời với việc lãnh đạo kháng chiến về quân sự, hoạt động
đối ngoại của Đảng trở thành một bộ phận của kháng chiến - kiến quốc. Với
đƣờng lối đối ngoại đúng đắn, Đảng đã xây dựng đƣợc một mặt trận đoàn kết
rộng rãi thu hút đông đảo lực lƣợng nhân dân tham gia và nhận đƣợc sự ủng
hộ giúp đỡ về vật chất và tinh thần to lớn của các nƣớc xã hội chủ nghĩa anh
em và nhân dân tiến bộ trên thế giới ủng hộ cuộc đấu tranh chống đế quốc Mỹ
của nhân dân Việt Nam.
Chính vì vậy, cách mạng Việt Nam phát huy đƣợc sức mạnh tổng hợp
của dân tộc và thời đại, đánh thắng “đế quốc to” trên thế giới. Giải phóng
hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nƣớc.
Với tinh thần muốn hiểu biết thấu đáo đƣờng lối đối ngoại của Đảng
trong giai đoạn lịch sử đầy khó khăn và biến động (1954-1975), tôi chọn đề

tài "Đảng lãnh đạo hoạt động đối ngoại trong kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước (1954-1975)” làm khóa luận tốt nghiệp chuyên ngành lịch sử Đảng.

2


2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Vấn đề ngoại giao Việt Nam nói chung, chính sách của Đảng trong đấu
tranh ngoại giao nói riêng đã thu hút đƣợc sự quan tâm của nhiều nhà nghiên
cứu.
Cho tới nay có nhiều công trình nghiên cứu nền ngoại giao Việt Nam
hiện đại từ nhiều góc độ khác nhau, khẳng định nội dung cơ bản của chính
sách đối ngoại của Việt Nam.
Năm 1985, Học viện Quan hệ quốc tế xuất bản cuốn sách: “thắng lợi có
tính thời đại và cuộc đấu tranh trên mặt trận đối ngoại của nhân dân ta”. Cuốn
sách đề cập đến quá trình đấu tranh ngoại giao của nhân dân ta trong kháng
chiến chống Pháp và chống Mỹ.
Năm 1996, Học viện Quan hệ quốc tế xuất bản cuốn sách “Bác Hồ nói
về ngoại giao”. Cuốn sách nêu rõ quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh nói về
công tác ngoại giao trong đấu tranh cách mạng.
Năm 2001, nhà xuất bản Chính trị Quốc gia đã cho in cuốn sách “Ngoại
giao Việt Nam hiện đại vì sự nghiệp giành độc lập, tự do (1945-1975)” do
Nguyễn Phúc Luân (chủ biên), cuốn sách trình bày vai trò mặt trận ngoại giao
hiện đại trong sự nghiệp đấu tranh chống Pháp và chống Mỹ giành độc lập
dân tộc.
Năm 2005, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia đã cho xuất bản cuốn sách
“Ngoại giao Việt Nam 1945-2000”. Cuốn sách này trình bày quá trình phát
triển của ngành ngoại giao Việt Nam, từ khi sau nƣớc Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa ra đời, trải qua hai cuộc kháng chiến chống pháp và chống Mỹ xâm
lƣợc và thời kỳ đổi mới cho đến năm 2000

Năm 2007, Nhà xuất bản Đại học Sƣ phạm đã cho in cuốn sách “Lịch
sử ngoại giao Việt Nam” của TS Vũ Quang Vinh. Cuốn sách nêu rõ quá trình

3


phát triển ngành ngoại giao Việt Nam từ những ngày đầu dựng nƣớc và giữ
nƣớc cho đến thời kỳ đổi mới.
Năm 2013, nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội đã cho in cuốn sách
“đối ngoại Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử (1945-2012) của PGS.TS. Đinh
Xuân Lý. Cuốn sách nêu lên chủ trƣơng chính sách đối ngoại của Đảng thực
hiện trong cuộc đấu tranh với Pháp, Mỹ và thời kỳ đổi mới.
Năm 2015, nhà xuất bản Chính trị Quốc gia-Sự thật, Hà Nội xuất bản
cuốn “Quan hệ đối ngoại Việt Nam (1940-2010)” của GS.Vũ Dƣơng Ninh với
nội dung trình bày chủ trƣơng của Đảng về quan hệ đối ngoại qua các thời kỳ
trong giai đoạn 1940-2010 làm rõ tiến trình thực hiện đƣờng lối đối ngoại và
kết quả đạt đƣợc
Ngoài ra còn khá nhiều những bài viết khác đƣợc đăng trên tạp chí lịch
sử Đảng: Chu Văn Chúc (2011) số 7, “Ngoại giao Việt Nam trong kháng
chiến chống Mỹ cứu nƣớc (Giai đoạn 1965-1975)”; Phạm Hồng Chƣơng
(2000), số 2, “Hơn nửa thế kỉ chính sách ngoại giao nhất quán”; Nguyễn Thị
Hoa Mai (2011), số 9, “Chính sách đối ngoại của Đảng những năm sau cách
mạng Tháng tám”; Nguyễn Duy Niên (2006), số 2, (Ngoại giao Việt Nam vì
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”; Vũ Dƣơng Ninh (2005), số 8, “Quan
hệ đối ngoại Việt Nam trên chặng đƣờng 60 năm” .
Tuy nhiên, cho đến nay chƣa có công trình nào trình bày một cách hệ
thống quá trình đấu tranh ngoại giao của Việt Nam từ khi kí hiệp định
Giơnevơ về Đông Dƣơng đến khi Việt Nam hoàn toàn đánh thắng đế quốc
Mỹ, thống nhất đất nƣớc. Vì vậy đề tài: “ Đảng lãnh đạo hoạt động đối ngoại
trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nƣớc (1954-1975)” sẽ tổng kết lại quá trình

lãnh đạo của Đảng trên mặt trận ngoại giao kết hợp với quân sự, chính trị làm
nên chiến thắng Điện Biên Phủ trên không, oanh liệt và hào hùng buộc Mỹ
phải ngồi vào bàn đàm phán và tạo điều kiện để đi tới hiệp định Pari, buộc

4


Mỹ rút hết quân về nƣớc, Việt Nam hoàn toàn độc lập tiến tới thống nhất
nƣớc nhà.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích
Nghiên cứu đƣờng lối và quá trình chỉ đạo thực hiện công tác đối ngoại
của Đảng trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nƣớc (1954-1975)
3.2. Nhiệm vụ
Tìm hiểu chủ trƣơng của Đảng về công tác đối ngoại trong kháng chiến
chống Mỹ, cứu nƣớc (1954-1975)
Tìm hiểu quá trình thực hiện chủ trƣơng của Đảng về hoạt động đối
ngoại trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nƣớc (1954-1975)
Nhận xét sự lãnh đạo của Đảng, bƣớc đầu rút ra một số kinh nghiệm
trong lãnh đạo công tác đối ngoại của Đảng.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài đƣợc nghiên cứu trong thời gian từ năm 1954 đến năm 1975.
4. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tư liệu
Nguồn tƣ liệu là các bài báo, các bài nghiên cứu trên tạp chí Lịch sử
Đảng.
Những cuốn sách về mặt trận ngoại giao trong thời kỳ 1945-2000.
Mặt trận ngoại giao, đối ngoại trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ
1954-1975.
4.2. Phương pháp nghiên cứu

Trên cơ sở phƣơng pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lênin về duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử, sử dụng các phƣơng pháp của ngành khoa học
lịch sử: Lịch sử, logic và sự kết hợp giữa hai phƣơng pháp đó, so sánh phân
tích, tổng hợp, thống kê....

5


5. Đóng góp của khóa luận
Khóa luận khẳng định vai trò quan trọng của chủ trƣơng đối ngoại
trong kháng chiến chống Mỹ cũng nhƣ những đƣờng lối, chính sách đúng đắn
của Đảng trong giai đoạn này nhằm từng bƣớc đƣa nền ngoại giao nƣớc nhà
thoát khỏi sự cô lập trên trƣờng quốc tế.
Qua việc tìm hiểu về đƣờng lối đối ngoại của Đảng trong giai đoạn này
giúp ta hiểu hơn về sự sáng suốt của Đảng trong việc họach định đƣờng lối
đối ngoại qua những thăng trầm, biến cố lịch sử. Qua đó, rút ra những đặc
điểm và vai trò của hoạt động đối ngoại trong thời đại ngày nay khi mà đa
phƣơng hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế đang là xu thế trên toàn thế giới.
Ngày nay khi mà tình hình thế giới có nhiều thay đổi nhƣng những bài
học rút ra từ sự lãnh đạo của Đảng trong việc đề ra đƣờng lối đối ngoại trong
kháng chiến chống Mỹ vẫn giữ một vai trò quan trọng, làm nền tảng cho
đƣờng lối đối ngoại trong thời kỳ xây dựng đất nƣớc.
6. Kết cấu khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, khóa luận có 3
chƣơng.
Chƣơng I: Chủ trƣơng của Đảng về công tác đối ngoại trong kháng
chiến chống Mỹ, cứu nƣớc (1954-1975)
Chƣơng II: Quá trình thực hiện chủ trƣơng của Đảng về hoạt động đối
ngoại trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nƣớc (1954-1975)
Chƣơng III: Nhận xét và một số kinh nghiệm của Đảng trong lãnh đạo

đƣờng lối đối ngoại

6


CHƢƠNG 1
CHỦ TRƢƠNG CỦA ĐẢNG VỀ CÔNG TÁC ĐỐI NGOẠI
TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƢỚC (1954-1975)
1.1. Tình hình quốc tế và trong nƣớc tác động tới hoạt động đối ngoại của
Đảng trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nƣớc(1954-1975)
1.1.1. Tình hình thế giới
Các nước xã hội chủ nghĩa:
Trong thời gian này Liên Xô đạt đƣợc nhiều thành tựu trong công cuộc
xây dựng kinh tế, các kế hoạch năm năm đều hoàn thành. Liên Xô chế tạo
thành công bom nguyên tử (1949), và bom khinh khí (1953), phá vỡ thế độc
quyền hạt nhân của Mỹ, làm tƣơng quan lực lƣợng giữa hai bên thay đổi.
Trong lĩnh vực chinh phục vũ trụ, năm 1957 Liên Xô phóng vệ tinh nhân tạo
lên quỹ đạo trái đất, năm 1960, phóng tàu vũ trụ đầu tiên với nhà du hành
I.Gagarin.
Liên Xô và các nƣớc xã hội chủ nghĩa Đông Âu đã thành lập Hội đồng
tƣơng trợ kinh tế xã hội chủ nghĩa (SEV-1949) và khối hiệp ƣớc quân sự
Warsaw (1955).
Nƣớc Cộng hòa nhân dân Trung Hoa sau khi thành lập (10/1949) đã bắt
tay vào công cuộc khôi phục và xây dựng đất nƣớc. Trong mƣời năm đầu
(1949-1959), Trung Quốc đã đạt đƣợc nhiều thành tựu trong lĩnh vực kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội. Từ năm 1959, Chủ tịch Mao Trạch Đông đƣa ra
đƣờng lối “Ba ngọn cờ hồng” là đại nhảy vọt, công xã nhân dân và học thuyết
xã hội chủ nghĩa nhằm đƣa Trung Quốc nhanh chóng vƣợt qua thời kỳ quá
độ, tiến lên xã hội chủ nghĩa. Nhƣng tƣ tƣởng nóng vội, chủ quan muốn đốt
cháy giai đoạn đã gây ra nhiều hậu quả, nạn đói tràn lan, kinh tế trì trệ, nội bộ

Đảng bị phân hóa.

7


Từ năm 1956, sau Đại hội lần thứ XX của Đảng Cộng sản Liên Xô,
mâu thuẫn Xô-Trung dần dần bộc lộ và ngày càng nghiêm trọng. Nguyên
nhân trực tiếp dẫn đến tình trạng bất đồng là sự đánh giá khác nhau về công
lao của nhà lãnh đạo J.Stalin.
Trƣớc tình hình ngày càng căng thẳng giữa hai đảng lớn và hai nhà
nƣớc xã hội chủ nghĩa, tháng 11-1957 đã diễn ra hội nghị đại biểu các Đảng
Cộng sản và công nhân quốc tế bàn về nội dung thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa
tƣ bản lên chủ nghĩa xã hội, về vấn đề chiến tranh và hòa bình, phân tích
những quy luật chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa, kêu gọi gìn giữ quan
hệ đoàn kết trong phong trào cộng sản và công nhân. Tháng 12-1960, Hội
nghị 81 Đảng Cộng sản và công nhân họp tại Ma Cao đã tranh luận gay gắt
những vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội, tuy kí kết đƣợc
bản tuyên bố chung nhƣng không giải quyết căn bản vấn đề. Đây không còn
là sự bất đồng giữa hai đảng mà dẫn tới sự phân hóa nghiêm trọng trong
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Tình hình điều này hết sức bất lợi
cho Việt Nam khi phải đƣơng đầu với đế quốc Mỹ.
Các nước tư bản chủ nghĩa:
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, vị thế của Mỹ đối với thế giới ngày
càng tăng, chiếm vị trí lãnh đạo các nƣớc tƣ bản chủ nghĩa. Mỹ đóng vai trò
quan trọng rất quan trọng đối với các Tây Âu thông qua hai công cụ chính là
kế hoạch Marshall phục hƣng kinh tế và khối quân sự Bắc Đại Tây Dƣơng
(NATO). Kinh tế các nƣớc châu Âu sau thời gian phục hồi đã phát triển
nhanh chóng, bắt đầu thành lập các tổ chức liên kết hợp tác, năm 1957 thành
lập Cộng đồng kinh tế Châu Âu (EEC). Đồng thời, Mỹ thiết lập các liên minh
quân sự và đóng quân ở nhiều nơi trên thế giới tạo thành vành đai bao vây các

nƣớc xã hội chủ nghĩa nhƣ: Hiệp ƣớc Mỹ-Nhật, Mỹ-Hàn, Khối quân sự Đông
Nam Á, Khối Trung Đông, và khối ANZUS.

8


Trong khối NATO, mâu thuẫn Mỹ - Pháp ngày càng bộc lộ, nhất là từ
khi De Gaulle lên là thủ lĩnh phong trào kháng chiến giải phóng nƣớc Pháp,
khỏi sự chiếm đóng của phát xít Đức, có uy tín trong nhân dân, không muốn
lệ thuộc theo Mỹ nên đã rút khỏi NATO, điều đó làm cho mối quan hệ giữa
hai nƣớc ngày càng rạn nứt, trong vấn đề chiến tranh ở Việt Nam.
Phong trào giải phóng dân tộc:
Ngay sau chiến tranh thế giới thứ hai, Inđônêxia; Việt Nam và Lào là
những nƣớc đầu tiên trong hệ thống thuộc địa đứng lên tuyên bố độc lập. Tiếp
đó, diễn ra quá trình “phi thực dân hóa”, nhiều quốc gia độc lập ở Châu Á ra
đời dƣới hình thức và mức độ khác nhau. Mỹ tuyên bố trao trả độc lập cho
Philipin (1946), Ấn Độ (1947), Miến Điện (1948), Mã Lai (1957)…sự thành
lập của hai nhà nƣớc lớn ở Châu Á là Cộng hòa Ấn Độ và Cộng hòa Nhân
dân Trung Hoa (1949) có ảnh hƣởng tới phong trào giải phóng dân tộc.
Năm 1960, đƣợc coi là “năm Châu Phi” với 17 nƣớc châu Phi giành
đƣơc độc lập, về cơ bản hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân cũ cơ bản
bị sụp đổ. Đây là thắng lợi vĩ đại của dân tộc bị áp bức, chấm dứt chế độ thực
dân 500 năm, tác động tích cực và to lớn đến cục diện chính trị thế giới.
1.1.2. Tình hình trong nước
Sau khi hiệp định Giơnevơ đƣợc kí kết, chiến tranh chấm dứt, hòa bình
lập lại. Tình hình Việt Nam có nhiều thay đổi:
Nƣớc Việt Nam bị chia cắt làm hai miền. Miền Bắc Việt Nam đƣợc
hoàn toàn giải phóng, sau giai đoạn phục hồi kinh tế, tiến hành cải tạo xã hội
chủ nghĩa đối với công thƣơng nghiệp tƣ bản tƣ nhân; xác định miền Bắc
bƣớc vào thời kỳ quá độ tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, trở thành bộ phận của

phe xã hội chủ nghĩa.
Mỹ gạt Pháp khỏi Đông Dƣơng, áp dụng chủ nghĩa thực dân mới ở
miền Nam Việt Nam, xây dựng căn cứ miền Nam thành căn cứ quân sự, âm

9


mƣu chia cắt Việt Nam lâu dài và nhƣ, chính quyền Mỹ tuyên bố, ngăn chặn
chủ nghĩa xã hội lan xuống Đông Nam Á. Ngày 8-9-1954, tại Manila, Mỹ
thành lập Tổ chức Hiệp ƣớc Đông Nam Á (SEATO), gồm tám thành viên:
Hoa Kỳ; Anh; Pháp; Pakixtan; Thái Lan; Philipin, Ôtrâylia; Niu Dilân. Trong
hiệp ƣớc có điều khoản đặt miền Nam Việt Nam, Lào và Campuchia dƣới “ô
bảo hộ” của tổ chức này. Mỹ tuyên bố không ràng buộc bởi hiệp định
Giơnevơ, phá hoại môt cách trắng trợn vào hệ thống Hiệp định Giơnevơ, mở
rộng ảnh hƣởng ở Lào và Campuchia, Ở miền Nam Việt Nam, chính quyền
Ngô Đình Diệm, do Mỹ dựng lên, ra sức phá hoại hiệp định Giơnevơ. Để
tranh thủ Mỹ và củng cố địa vị của mình, trong chuyến thăm Mỹ năm 1957,
Ngô Đình Diệm trắng trợn tuyên bố “Biên giới nƣớc Mỹ kéo dài đến vĩ tuyến
17”.
Đặc điểm tình hình thế giới và trong nƣớc tác động đến chủ trƣơng và
hoạt động đối ngoại của Đảng trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ.
1.2 Chủ trƣơng của Đảng về công tác đối ngoại trong kháng chiến chống
Mỹ, cứu nƣớc (1954-1975)
Giai đoạn 1954-1964: “tiếp tục củng cố quan hệ với các nƣớc xã hội
chủ nghĩa, các nƣớc đang phát triển và tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân các
nƣớc đối với việc tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân các nƣớc đối với việc đấu
tranh thi hành Hiệp định Giơnevơ và cuộc kháng chiến chống “chiến tranh
đặc biệt” của Mỹ” [33; tr.90].
Ngày 5-9-1954, Bộ Chính trị ra Nghị quyết về tình hình mới về nhiệm
vụ mới và chính sách mới của Đảng. Bộ Chính trị nhận định tình hình sau khi

đình chiến điều kiện trong nƣớc cũng nhƣ điều kiện ngoài nƣớc để có lợi để
củng cố hòa bình, kiến thiết miền Bắc, tiến tới thực hiện thống nhất, độc lập,
dân chủ trong toàn quốc. Nhƣng mặt khác, Bộ Chính trị cũng cho rằng, Mỹ
thất bại trong âm mƣu kéo dài và mở rộng chiến tranh Đông Dƣơng càng ra

10


sức đẩy mạnh việc lập “khối phòng thủ chung Đông Nam Á” xúc tiến việc lập
“khối liên minh phòng thủ sông Cửu Long” hòng phá hoại đình chiến, phá
hoại hòa bình ở Đông Dƣơng. Vì vậy, nhiệm vụ đấu tranh giải phóng dân tộc
chƣa phải đã hoàn thành. Cuộc đấu tranh đó còn tiếp tục, nhƣng phƣơng thức
đấu tranh cần thay đổi.
Căn cứ vào tình hình cụ thể, Bộ Chính trị đề ra nhiệm vụ chung của
Đảng là: đoàn kết và lãnh đạo nhân dân đấu tranh thực hiện Hiệp định đình
chiến, đề phòng và khắc phục mọi âm mƣu phá hoại hiệp định đình chiến
củng cố hòa bình, ra sức hoàn thành cải cách ruộng đất, phục hồi và nâng cao
sản xuất, tăng cƣờng xây dựng quân đội nhân dân để củng cố Miền Bắc, giữ
vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh chính trị của nhân dân miền Nam, củng cố
hòa bình, thực hiện hòa bình, thực hiện thống nhất hoàn thành độc lập, dân
chủ trong toàn quốc.
Bộ Chính trị nhận định thắng lợi của Hội nghị Giơnevơ làm cho nƣớc
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có thêm những khả năng mới để mở rộng quan
hệ với nƣớc ngoài.
Bộ Chính trị xác định mục tiêu chính sách đối ngoại của Việt Nam là:
“chống chính sách chiến tranh của đế quốc Mỹ, chống Mỹ và khối tổ chức
xâm lƣợc Đông Nam Á, củng cố hòa bình ở Đông Dƣơng, bảo vệ hòa bình ở
Đông Nam Á và toàn thế giới” [4; tr.304], đồng thời đề ra chính sách ngoại
giao với mục tiêu xây dựng và phát triển quan hệ ngoại giao với bất cứ nƣớc
nào dựa theo nguyên tắc bình đẳng, hai bên cùng có lợi và tôn trọng lãnh thổ,

chủ quyền của nhau.
Mối quan hệ giữa nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với nƣớc Pháp
cần tiếp tục dùng hình thức thƣơng lƣợng và đàm phán để điều chính, tránh
quá găng để đến nỗi tan vỡ; chủ trƣơng rộng quan hệ kinh tế, mậu dịch với
Pháp trên cơ sở bình đẳng và cùng có lợi; quan hệ với nhân dân nƣớc Pháp

11


cần đƣợc tăng cƣờng; xây dựng hội Việt - Pháp hữu hảo ở Việt Nam và PhápViệt hữu hảo ở Pháp để tăng cƣờng thêm sự hiểu biết và tình hữu nghị giữa
nhân dân hai nƣớc Việt-Pháp. Làm cho nhân dân hai nƣớc liên hợp chặt chẽ
với nhau hơn nữa để củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất đất nƣớc, phản
đối và ngăn ngừa sự gây hấn của phe Mỹ và thân Mỹ.
Đối với các nƣớc Đông Nam Á, Bộ Chính trị nhấn mạnh việc mở rộng
mối quan hệ với các nƣớc nhƣ Ấn Độ, Nam Dƣơng, Miến Điện… Làm cho
chính phủ các nƣớc đó đồng tình ủng hộ với nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa, hoặc có thiện cảm với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Còn sự liên hệ giữa
nhân dân Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Với nhân dân các nƣớc đó nên hết sức
mở rộng với điều kiện đƣợc chính phủ các nƣớc đó đồng ý.
Đối với các nƣớc Đông Dƣơng, mối quan hệ nƣớc Việt Nam dân chủ
Cộng hòa với Lào và Cao Miên đặt trên năm nguyên tắc lớn là “tôn trọng
cùng có lợi, sống chung trong hòa bình”; tìm mọi cách tăng cƣờng tình hữu
nghị giữa nƣớc ta và hai nƣớc Lào và Cao Miên, tăng cƣờng đoàn kết giữa
nhân Việt Nam, Khơme, Lào. Coi việc xây dựng mối quan hệ hữu nghị với
Cao Miên, Lào là một điều kiện quan trọng để củng cố hòa bình ở Đông
Dƣơng và tranh thủ độc lập thống nhất của Việt Nam.
“Tiếp tục phát triển và củng cố tình hữu nghị với Liên Xô, Trung Quốc
và tất cả các nƣớc Dân chủ nhân dân khác” [4; tr.304].
Xuất phát từ tình hình thực tiễn mối quan hệ giữa Đảng Lao động Việt
Nam với các đảng cộng sản khác ngày càng phát triển, cần phải có một tổ

chức chuyên trách giúp Trung ƣơng quản lý công tác đối ngoại với các Đảng
ở các nƣớc xã hội chủ nghĩa cũng nhƣ ở các nƣớc tƣ bản chủ nghĩa; ngày 166-1958, Ban Bí thƣ ra nghị quyết số 44-NQ/TW, về việc thành lập Ban Đối
Ngoại của Trung ƣơng. Theo Nghị quyết Ban đối ngoại có nhiệm vụ:

12


- Giúp Trung ƣơng nghiên cứu và theo dõi tình hình các Đảng anh em
để học tập các kinh nghiệm lớn về cách mạng vô sản và về xây dựng xã
hội chủ nghĩa của các đảng anh em.
- Giúp Trung ƣơng thực hiện sự liên lạc với các Đảng anh em về mặt
trao đổi các văn kiện nội bộ
- “Giúp Trung ƣơng liên lạc với các đảng anh em các nƣớc chƣa giành
đƣợc chính quyền để tùy khả năng mà giúp đỡ cần thiết” [8; tr.220].
Vào năm 1960, hệ thống xã hội chủ nghĩa do Liên Xô đứng đầu phát
triển vƣợt bậc, trở thành nhân tố quan trọng trong sự vận động của quan hệ
quốc tế. Ở Miền Bắc, trong gần mƣời lăm năm nhân dân ta giành đƣợc những
thắng lợi lịch sử. Tuy nhiên, ở miền Nam, Mỹ hất cẳng Pháp, biến miền Nam
trở thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ, phá hoại sự nghiệp
hoà bình thống nhất nƣớc nhà của nhân dân ta; do đó cách mạng Việt Nam
hiện tại có hai nhiệm vụ thuộc hai chiến lƣợc khác nhau.
Trong hoàn cảnh đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III họp
(9/1960). Đại hội xác định nhiệm vụ của nhân dân cả nƣớc là: tăng cƣờng
đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững hòa bình, đẩy mạnh cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nƣớc nhà trên cơ sở độc
lập và tự chủ, xây dựng một nƣớc Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập,
dân chủ và giàu mạnh, thiết thực góp phần tăng cƣờng phe xã hội chủ nghĩa
và bảo vệ hòa bình ở Đông Nam Á và thế giới.
“Đảng khẳng định chính sách ngoại giao của Việt Nam mang bản chất

hòa bình. Mục tiêu ngoại giao của Việt Nam là đảm bảo thắng lợi cho sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và sự nghiệp thống nhất nƣớc
nhà của nhân dân ta” [10;tr. 627].

13


Cuối năm 1963, tình hình cách mạng thế giới có những thay đổi nhanh
chóng theo hƣớng có lợi cho nhân dân các nƣớc, hệ thống xã hội chủ nghĩa
thế giới đƣợc thành lập sau Chiến tranh thế giới thứ hai không ngừng lớn
mạnh và thu đƣợc nhiều thắng lợi quan trọng. Ở trong nƣớc, quân và dân
miền Nam đã vƣợt qua khó khăn, làm thất bại từng bƣớc chiến lƣợc “chiến
tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ. Trƣớc tình hình đó, tháng 12-1963, tại Hà
Nội, Trung ƣơng Đảng đã triệu tập Hội nghị lần thứ chín, ban hành Nghị
quyết Về tình hình thế giới và nhiệm vụ quốc tế của Đảng. Ban Chấp hành
Trung ƣơng đề ra những chủ trƣơng và nhiệm vụ đối ngoại cụ thể:
- Khôi phục và tăng cƣờng đoàn kết nhất trí trong phe xã hội chủ nghĩa và
phong trào cộng sản quốc tế.
- Tích cực ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc của nhân dân châu Á, châu
Phi và Mỹ Latinh.
- Tích cực ủng hộ phong trào đấu tranh vì dân chủ và chủ nghĩa xã hội của
giai cấp công nhân và nhân dân các nƣớc tƣ bản chủ nghĩa.
- “Góp phần bảo vệ hòa bình ở Đông Nam Á và thế giới” [13; tr.744].
Đƣờng lối đối ngoại của Đảng trong giai đoạn 1954-1964 đã hạn chế
tối đa sự chia rẽ bất đồng trong phe xã hội chủ nghĩa, tranh thủ sự đồng tình
ủng hộ về vật chất và tinh thần của các nƣớc xã hội chủ nghĩa, của nhân dân
thế giới, và đạt nhiều thành tựu, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh
chống kẻ thù chung của dân tộc là đế quốc Mỹ.
Đối ngoại giai đoạn 1965-1975: Nêu cao lập trƣờng chính nghĩa của
cách mạng miền Nam; đẩy mạnh đấu tranh trên mặt trận ngoại giao buộc Mỹ

ngồi vào bàn đàm phán.
Sự phá sản của chiến lƣợc “chiến tranh đặc biệt”, đã buộc Mỹ phải bị
động chuyển sang chiến lƣợc “chiến tranh cục bộ” đƣa quân Mỹ tham chiến

14


trực tiếp ở miền Nam với quy mô ngày càng lớn, và thực hiện đánh phá miền
Bắc, mở rộng chiến tranh ra cả nƣớc Việt Nam.
Ngày 27-12-1965, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ƣơng lần thứ 12,
Ban hành nghị quyết Về tình hình và nhiệm vụ mới, Trung ƣơng yêu cầu quán
triệt quan điểm: nắm vững phƣơng châm dựa vào sức mình là chính, nhƣng
đồng thời hết sức tranh thủ đồng tình, ủng hộ và viện trợ quốc tế. Tranh thủ
đến cao độ đồng tình, ủng hộ của các nƣớc xã hội chủ nghĩa, của các nƣớc
dân tộc Á, Phi, Mỹ Latinh và của nhân dân thế giới, kể cả nhân dân Mỹ.
“Đảng nhấn mạnh tầm quan trọng của vấn đề mở rộng và tăng cƣờng
mặt trận nhân dân thế giới chống đế quốc Mỹ xâm lƣợc, ủng hộ cuộc đấu
tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam; đồng thời chỉ rõ, mặt trận đó phải
tập hợp đƣợc tất cả các lực lƣợng tiến bộ trên thế giới và lấy các nƣớc trong
phe xã hội chủ nghĩa làm chỗ dựa vững chắc; đi đôi với đấu tranh quân sự cần
đẩy mạnh đấu tranh chính trị và ngoại giao, góp phần củng cố vào sự đoàn kết
của phe xã hội chủ nghĩa, luôn luôn giữ thế chủ động, nắm vững và nêu cao
ngọn cờ độc lập và hòa bình” [15; tr.638-641].
Ban Bí thƣ đề ra phƣơng hƣớng hoạt động tuyên truyền đối ngoại nhƣ:
- Dựa vào tất cả các nƣớc xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là dựa vào Trung
Quốc và Liên Xô;
- Tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của nhân dân tiến bộ toàn thế giới đối
với cuộc đấu tranh chính nghĩa của ta;
- Cô lập triệt để đế quốc Mỹ, phân hóa bọn đế quốc.
Ngày 27-1-1967, Hội nghị Trung ƣơng lần thứ 13 của Đảng ra nghị

quyết Về đẩy mạnh đấu tranh ngoại giao, chủ động tiến công địch, phục vụ sự
nghiệp chống Mỹ, cứu nƣớc của nhân dân ta. Nội dung cơ bản của Nghị quyết
thể hiện đƣờng lối độc lập, tự chủ và chủ động tiến công địch trên mặt trận
đối ngoại; khẳng định đấu tranh ngoại giao giữ một vai trò quan trọng, tích

15


cực. Đảng chủ trƣơng: “Đi đôi với đấu tranh quân sự và chính trị ở miền
Nam, ta cần tiến công địch về ngoại giao, sự phối hợp với hai mặt trận đấu
tranh đó để giành thắng lợi to lớn hơn nữa” [17; tr.174]. Nghị quyết chỉ rõ:
đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị ở miền Nam là nhân tố chủ yếu quyết
định thắng lợi trên chiến trƣờng, làm cơ sở cho thắng lợi trên mặt trận ngoại
giao…tuy nhiên đấu tranh ngoại giao không chỉ đơn thuần phản ánh cuộc đấu
tranh trên chiến trƣờng, mà trong tình hình quốc tế hiện nay với tính chất cuộc
chiến tranh giữa ta và địch, đấu tranh ngoại giao giữ một vai trò quan trọng,
tích cực chủ động. Trong đấu tranh ngoại giao, Đảng yêu cầu nắm giữ các
phƣơng châm:
- Phát huy thế mạnh, thế thắng của ta;
- Chủ động tiến công địch;
- “Giữ vững tính độc lập, đồng thời phối hợp chặt chẽ với các nƣớc xã
hội chủ nghĩa anh em” [17; tr.174].
Mục đích cuộc tiến công ngoại giao đƣợc Đảng xác định là nhằm tố cáo
mạnh mẽ hơn nữa những tội ác dã man của bọn xâm lƣợc Mỹ, vạch trần thủ
đoạn “hòa bình” bịp bợm của chúng.
Về phƣơng châm và phƣơng pháp đấu tranh ngoại giao Nghị quyết Hội
nghị Trung ƣơng lần thứ 13 chỉ rõ: “cần vận dụng sách lƣợc ngoại giao một
cách khôn khéo, linh hoạt, nhằm khoét sâu thêm mâu thuẫn giữa Mỹ và các
nƣớc đế quốc khác; phân hóa nội bộ bọn cầm quyền Mỹ, quân chƣ hầu, tạo
thêm điều kiện thuận lợi cho đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị ở miền

Nam giành thắng lợi” [17;tr175].
“Nghị quyết Hội nghị trung ƣơng lần thứ 13 có ý nghĩa nhƣ là một
cƣơng lĩnh về đấu tranh ngoại giao của Đảng, nhằm góp phần đƣa cuộc kháng
chiến chống Mỹ đến thắng lợi. Thực tế cho thấy là lần đầu tiên Đảng khẳng
định đấu tranh ngoại giao là một mặt trận” [33; tr.109-110].

16


Thắng lợi của Tổng tiến công và nổi dậy Tết mậu thân năm 1968 mở ra
cục diện mới, cục diện “vừa đánh vừa đàm”. Ngày 13-5-1968, Việt Nam và
Mỹ chính thức mở cuộc đàm phán tại Pari. Sau cuộc tập kích chiến lƣợc bằng
B.52 vào Hà Nội, Hải Phòng bị đánh bại hoàn toàn, Mỹ buộc phải kí kết Hiệp
định Pari về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam (27-1-1973).
Sau khi Hiệp định Pari có hiệu lực, vào tháng 5-1973, Bộ Chính trị ra
Nghị quyết về đấu tranh thi hành Hiệp định. Xác định mục tiêu của cách
mạng Việt Nam lúc này hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ, thống nhất
Tổ quốc. Vì vậy, đấu tranh ngoại giao kết hợp với đấu tranh quân sự và chính
trị để buộc đối phƣơng thi hành hiệp định trở thành một bộ phận quan trọng
của cách mạng Việt Nam. Nhiệm vụ của đối ngoại lúc này xác định là:
Phối hợp đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị, đấu tranh thi hành
hiệp định Pari, góp phần làm thay đổi so sánh lực lƣợng.
Chống sự dính líu và can thiệp của Mỹ, cô lập chính quyền Sài Gòn.
Tiếp tục tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân thế giới.
“Đẩy lùi khả năng Mỹ ngăn cản ta giải phóng hoàn toàn miền Nam” [2;
tr.114].
Trên lĩnh vực hoạt động đối ngoại nhân dân
Những năm đầu cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nƣớc, hoạt động đối
ngoại nhân dân góp phần đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Giơnevơ (19541956). Nghị quyết số 07/NQ-TW của Trung ƣơng Đảng, ngày 10-4-1956
khẳng định: “Muốn thực hiện đầy đủ chính sách đối ngoại của Đảng, cần phải

chú ý hoạt động trên hai mặt: Một mặt, Chính phủ ta với chính phủ các nƣớc,
một mặt nhân dân ta với nhân dân các nƣớc”. Vì vậy, Đảng chủ trƣơng thành
lập Ban Hoạt động quốc tế - một cơ quan chuyên trách giúp Trung ƣơng theo
dõi và quản lý hoạt động đối ngoại nhân dân của các đoàn thể nhân dân,
nhằm “tăng cƣờng chỉ đạo và phối hợp các hoạt động quốc tế của các đoàn

17


thể nhân dân nhằm củng cố và phát triển tình đoàn kết hữu nghị giữa nhân
dân ta và nhân dân các nƣớc, tranh thủ sự đồng tình của nhân dân các nƣớc
đối với cuộc đấu tranh chính trị của nhân dân ta, góp phần bảo vệ hòa bình thế
giới”.
Quán triệt chủ trƣơng của Đảng, thời kỳ này, nội dung, phƣơng pháp và
hình thức vận động quốc tế cũng nhƣ đấu tranh ngoại giao rất đa dạng.
Về hình thức, ngoài việc ra bản tin, sách báo, phát thanh, phim ảnh, chú
trọng vận động cá nhân, gặp mặt, hội nghị hội thảo trong và ngoài nƣớc, tố
cáo tội ác của Mỹ - Nguỵ bằng ngƣời thật việc thật, còn vận động thông qua
các diễn đàn nhân dân quốc tế và ở một số nƣớc cũng nhƣ quan hệ giữa các tổ
chức quần chúng, hội hữu nghị, tổ chức nhân đạo và quan hệ kết nghĩa địa
phƣơng giữa nƣớc ta và một số nƣớc.
Tiểu kết chƣơng 1
Trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, Đảng và Nhà nƣớc ra sức mở rộng
hoạt động ngoại giao, với phƣơng châm là: Đoàn kết với bất cứ ngƣời nào có
thể đoàn kết đƣợc, tranh thủ bất cứ ngƣời nào có thể tranh thủ, tập hợp bất cứ
ngƣời nào có thể tập hợp, nhằm phân hóa kẻ thù và cô lập chúng, đồng thời,
có thêm nhiều bạn bè ủng hộ cuộc kháng chiến của Việt Nam.
Với sự sáng suốt, nhạy bén, Đảng luôn đề ra những chủ chƣơng, chính
sách đối ngoại phù hợp với tình hình thực tiễn cách mạng, góp phần tạo điều
kiện thuận lợi công cuộc đấu tranh ngoại giao đi tới thắng lợi.


18


CHƢƠNG 2
QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CHỦ TRƢƠNG CỦA ĐẢNG VỀ
HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI TRONG THỜI KỲ KHÁNG CHIẾN
CHỐNG MỸ, CỨU NƢỚC (1954-1975)
2.1. Hoạt động đối ngoại của Đảng đáp ứng yêu cầu xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở miền Bắc (1954-1975)
Trong giai đoạn cách mạng mới, Việt Nam coi trọng việc củng cố và
phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác anh em với các nƣớc xã hội chủ nghĩa,
trƣớc hết là Liên Xô, Trung Quốc, đồng minh và là chỗ dựa chủ yếu của
mình. Trung Quốc là láng giềng gần gũi của Việt Nam. Liên Xô còn là đồng
chủ tịch của Hội nghị Giơnevơ, Ba Lan là thành viên của kiểm soát và giám
sát quốc tế…
Ngay sau khi thủ đô Hà Nội đƣợc giải phóng, chính phủ Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa tạo mọi điều kiện thuận lợi để các nƣớc xã hội chủ nghĩa đặt
đại sứ quán ở Hà Nội. Đồng thời Việt Nam cũng đặt đại sứ quán ở các nƣớc
này.
Năm 1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh chính thức thăm Liên Xô, Trung
Quốc và Mông Cổ. Năm 1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh dẫn đầu đoàn đại biểu
Việt Nam thăm chín nƣớc, gồm tất cả các nƣớc xã hội chủ nghĩa Đông Âu,
Bắc Á và một số nƣớc dân tộc chủ nghĩa ở Châu Á. Trong các cuộc đi thăm
này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bày tỏ mong muốn tăng cƣờng quan hệ hữu
nghị hợp tác giữa Việt Nam với các nƣớc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cao quan
hệ đoàn hết giữa các nƣớc trong phe xã hội chủ nghĩa do Liên Xô và Trung
Quốc đứng đầu.
Qua các cuộc tiếp xúc và trao đổi ý kiến trong dịp đoàn đại biểu Việt
Nam đến thăm các nƣớc, các nhà lãnh đạo các nƣớc đều ủng hộ đƣờng lối xây

dựng củng cố miền Bắc và đấu tranh hòa bình thống nhất nƣớc nhà của Việt

19


Nam. Phía Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã tranh thủ đƣợc viện trợ
kinh tế to lớn từ các nƣớc xã hội chủ nghĩa, góp phần đảm bảo hoàn thành kế
hoạch 3 năm khôi phục kinh tế (1955-1957) và kế hoạch ba năm phát triển
kinh tế, văn hóa (1958-1960). Những cơ sở công nghiệp mới đầu tiện trên
miền Bắc nhƣ các máy cơ khí Trung quy mô, phân đạm, cao su, xà phòng,
thuốc lá,… đều xây dựng từ các luồng viện trợ này. Các nhà lãnh đạo của các
nƣớc anh em thăm Việt Nam, góp phần tăng cƣờng quan hệ hữu nghị và nâng
cao vị thế của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trên trƣờng quốc tế.
Về phía Liên Xô, từ năm 1955 đến 1964, Liên Xô viện trợ cho Việt
Nam số tiền vào khoảng 320 triệu rúp, trong đó, 94,5 triệu rúp cho vay không
hoàn lại, số còn lại cho vay với điều kiện ƣu đãi (lãi suất thấp). Năm 1965,
Chính phủ Liên Xô đồng ý hoãn thời hạn thanh toán lãi gốc số tiền trên cho
Việt Nam. Từ năm 1955 đến năm 1957, Liên Xô giúp đỡ Việt Nam khôi phục
và mở rộng 28 nhà máy, xí nghiệp, xây dựng lại 18 cơ sở công nghiệp. Đến
cuối năm 1962, Liên Xô đã giúp Việt Nam tất cả là 1.400 triệu rúp, xây dựng
34 nhà máy lớn nhỏ, 19 nông trƣờng và cải tạo 27 nông trƣờng, một số trƣờng
đại học, một bệnh viện lớn, giúp xây dựng 21 đài khí tƣợng thủy văn và 156
trạm thủy văn các cấp. Trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965), Liên
Xô giúp đỡ xây dựng 25 xí nghiệp thiết bị điện, nhà máy sửa chữa và sản xuất
phụ tùng ô tô. Đến cuối năm 1964, với sự giúp đỡ của Liên Xô, trên miền Bắc
đã hoàn thành cải tạo và xây dựng 90 xí nghiệp và công trình các loại, trong
đó có 43 công trình công nghiệp, đáng kể là các nhà máy điện, các công trình
khai khoáng nhƣ mỏ thiếc Tĩnh Túc, mỏ apatit Lào Cai, nhà máy cơ khí Hà
Nội, nhà máy supe phốt phát Lâm Thao, nhà máy chè Phú Thọ và một số
trƣờng đại học nhƣ Đại học Bách khoa, Đại học Nông nghiệp I Hà Nội…

[22;tr136-137].

20


Về phía Trung Quốc, có nhiều nguồn tƣ liệu thống kê về sự giúp đỡ của
Trung Quốc dành cho Việt Nam khác nhau, trong đó nguồn tƣ liệu thống kê
từ Lƣu trữ Quốc gia Việt Nam cho biết: từ năm 1954 đến 1964, Chính phủ
Trung Quốc giúp Việt Nam vốn khôi phục hệ thống đƣờng sắt, bến tàu, tu sửa
cầu đƣờng, xây dựng nhà máy dệt, nhà máy thuộc da, nhà máy giấy, một số
nông trƣờng… trị giá 900 triệu nhân dân tệ. Theo Báo cáo của Quân ủy Trung
ƣơng năm 1966, trong 5 năm (1955-1961), Trung Quốc giúp Việt Nam khôi
phục hệ thống đƣờng sắt, bến tàu, tu sửa cầu đƣờng, xây dựng nhà máy dệt,
nhà máy thuộc da, nhà máy giấy… trị giá 1.224 tỉ đồng Việt Nam. Còn tính
tròn 10 năm (1954-1964), viện trợ kinh tế của Trung Quốc cho Việt Nam là
1,1 triệu nhân dân tệ để xây dựng gần 100 công trình lớn nhỏ [22; tr.149].
Cùng với sự giúp đỡ kinh tế, đào tạo cán bộ khoa học, giúp đỡ xây
dựng, phát triển văn hoá - giáo dục, quân sự - quốc phòng cũng nhận đƣợc sự
giúp đỡ to lớn từ phía Liên Xô và Trung Quốc.
Việt Nam chủ trƣơng đƣa nhiều lƣu học sinh sang học tập ở Liên Xô và
Trung Quốc và các nƣớc anh em khác nhằm đào tạo cán bộ giảng dạy đại học,
cán bộ nghiên cứu khoa học kỹ thuật, cán bộ lý luận cơ bản có trình độ cao.
Đáp ứng yêu cầu đó, Liên Xô giúp Việt Nam đào tạo, nâng cao tay nghề cho
số lƣợng lớn cán bộ, sinh viên Việt Nam, lo chu cấp học phí và ăn ở. Từ năm
1951 đến 1958, Trung Quốc nhận đào tạo cho Việt Nam 1.200 lƣu học sinh.
Trong 4 năm, từ 1955 đến 1958, Trung Quốc nhận 3.300 cán bộ Việt Nam
sang thực tập. Tính chung 5 năm (1954-1964), Trung Quốc tiếp nhận của Việt
Nam 4.755 cán bộ, công nhân sang Trung Quốc thực tập, khảo sát kinh
nghiệm và kĩ thuật của hầu hết các ngành kinh tế và văn hoá Trung Quốc,
trong đó chủ yếu là các ngành công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ Bên

cạnh đó, cả Liên Xô và Trung Quốc còn gửi chuyên gia sang giúp Việt Nam
khôi phục, cải tạo, xây dựng hàng loạt xí nghiệp và các cơ sở kinh tế. Tính

21


×