Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

Đảng lãnh đạo thực hiện phương châm biết thắng từng bước trong cuộc kháng chiến chống thực dân pháp (1945 1954)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (599.39 KB, 73 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC sư PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA LICH SỬ
«

ĐOÀN DÁNG PHƯƠNG THẢO

ĐẢNG LÃNH ĐẠO THựC HIỆN
PHƯƠNG CHÂM BIẾT THẮNG TỪNG
BƯỚC TRONG cuôc KHÁNG CHIẾN
CHỐNG THỰC DÂN PHÁP
(1945 -1954)
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam

Ngưòi hướng dẫn khoa học
PGS. TS. VŨ QUANG VINH

HÀ NỘI, 2016


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu được
nêu trong bài khóa luận là thành thực và chưa từng được ai công bổ trong bất kỳ
công trình nào.
Tác giả

Đoàn Dáng Phương Thảo
Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này, trước tiên em xin bày tỏ lòng cảm ơn
sâu sắc đến giáo viên hướng hướng dẫn em đó là PGS.TS Vũ Quang Vinh, người thầy
đã tận tình chỉ bảo, đóng góp ý kiến và bổ sung cho em trong việc triển khai thực hiện


đề tài. Vốn kiến thức tiếp thu trong việc nghiên cứu đề tài không chỉ phục vụ cho việc
học tập mà còn là nền tảng cho việc nghiên cứu sau này của bản thân em.
Em xin cảm ơn thày cô trong khoa lịch sử đã có những góp ý, nhận xét cho em
trong việc lựa chọn đề tài nghiên cứu.
Nhờ những sự đóng góp đó, cuối cùng khóa luận của em đã hoàn thành, không
biết nói gì hơn, một làn nữa em xin chúc thày cô dồi dào sức khỏe, công tác tốt trong
con đường sự nghiệp của mình.
Em xin chân thành cảm ơn!


LỜI CẢM ƠN

Sinh viên thực hiện

Đoàn Dáng Phương Thảo


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU.......................................................................................................................1
NỘI DUNG ...................................................................................................................6
Chương 1. ĐẢNG LÃNH ĐẠO THựC HIỆN PHUƠNG CHÂM BIếT THẮNG TỪNG
BUỚC (1945 - 1950) .....................................................................................................6
1.1. BỐI CẢNH LỊCH sử........................................................................................6
1.2. QUÁ TRÌNH ĐẢNG LÃNH ĐẠO THựC HIỆN PHUONG CHÂM
BIẾT THẮNG TỪNG BUỚC GIAI ĐOạN (1945-1950)........................................... 10
Chương 2. ĐẢNG LÃNH ĐẠO THựC HIỆN PHUONG CHÂM BIẾT THẮNG
TỪNG BUỚC SAU CHIẾN DỊCH BIÊN GIỚI THU ĐÔNG NĂM 1950 ĐẾN
NĂM 1954..........................................................................................................31
2.1. TÌNH HÌNH QUỐC TÉ VÀ TRONG NUỚC TÁC ĐỘNG ĐẾN VIỆC

THỰC HIỆN PHUONG CHÂM BIẾT THĂNG TỪNG BUỚC ...........................31
2.2. ĐẢNG LÃNH ĐẠO THựC HIỆN PHUONG CHÂM BIẾT THẮNG
TỪNG BUỚC TRONG GIAI ĐOạN CUốI CUộC KHÁNG CHIếN
CHỔNG PHÁP (1950-1954) ..................................................................................34
Chương 3. MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM CHỦ YẾU ........................ 52
3.1. NHẬN XÉT....................................................................................................52
3.2. MỘT SỐ KINH NGHIỆM CHỦ YẾU ..........................................................54
KẾT LUẬN .................................................................................................................63
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................65


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẤT

CNXH
TDP
XHCN

: Chủ nghĩa xã hội
: Thực dân Pháp :
Xã hội chủ nghĩa



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, để chiến thắng kẻ thù lớn
mạnh, trên cơ sở đường lối và phương pháp cách mạng đúng, Đảng phải có nghệ thuật
chỉ đạo tài giỏi. Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt Nam, đúc kết từ
thực tiễn đấu tranh, ông cha ta đã biết vận dụng rất nhiều phương châm để có thể đánh
thắng được kẻ thù xâm lược, trong đó có phương châm biết thắng từng bước. Nghệ

thuật giành thắng lợi từng bước đi đến giành thắng lợi hoàn hoàn, là nét độc đáo, là
bài học kinh nghiệm quý báu của cách mạng nước ta.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Đảng ta đã biết
vận dụng kinh nghiệm biết thắng từng bước để đánh bại âm mưu, thủ đoạn của địch
để tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn đó là một quy luật của đấu tranh cách mạng.Vì
vậy việc tiếp tục nghiên cứu phương châm biết thắng từng bước trong kháng chiến
chống Pháp là một vấn đề rất cần thiết và cấp bách.
Nghiên cứu vấn đề này giúp ta hiểu rõ hơn nguồn gốc thắng lợi, thấy sự lãnh
đạo của Đảng về phương châm biết thắng từng bước là một vấn đề xuyên suốt trong
chiến tranh. Đồng thời góp phần làm sáng tỏ nguyên nhân của những sai làm, thất bại
tạm thời của chúng ta trong quá trình kháng chiến.
Trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ đất nước như hiện nay, việc
nghiên cứu phương châm biết thắng từng bước còn cho chúng ta những bài học kinh
nghiệm quý báu để có thể hoạch định đường lối mà trọng tâm là đi sâu vào phát triển
kinh té, then chốt là xây dựng Đảng, xây dựng một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản
sắc dân tộc. Từ đó có những biện pháp, hình thức, bước đi thích hợp, tránh được
những nóng vội, chủ quan, duy ý chí toong thực tiễn lãnh đạo và chỉ đạo.
Nghiên cứu phương châm biết thắng từng bước còn giúp chúng ta củng cố và
tăng thêm lòng tin có căn cứ khoa học về năng lực tư duy độc lập, tự chủ của Đảng
toong việc giải quyết thành công những vấn đề cơ bản, cấp bách đặt ra trong công
cuộc đổi mới, hội nhập hiện nay. Chính vì những lí do trên đây, người nghiên cứu

1


muốn chọn đề tài: “Đảng lãnh đạo thực hiện phương châm biết thắng từng bước trong
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954)” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Cho đến hiện nay việc nghiên cứu phương châm biết thắng từng bước trong
kháng chiến chống thực dân Pháp đã có rất nhiều tác giả nói đến:

Đồng chí Lê Duẩn (1970), “Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập tự do vì
chủ nghĩa xã hội tiến lên giành thắng lợi mới”, Nxb Sự thật, 1970. Tác giả đã khẳng
định “Đẩy lùi địch từng bước, giành thắng lợi từng bước cho cách mạng tiến lên đánh
bại hẳn kẻ địch, giành thắng lợi hoàn toàn đó là một quy luật đấu tranh cách mạng”
[31, tr38]. Đây là một phương châm để giành thắng lợi từng bước trong kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta.
GS. Trần Nhâm (1995), “Nghệ thuật biết thắng từng bước”, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội. Tác giả xuất phát từ góc độ triết học, tác giả đã luận giải và làm
sáng tỏ cơ sở phương pháp luận của đường lối và phương pháp cách mạng của Đảng
ta. Thực té chỉ rõ, trên cơ sở nắm vững mục đích cách mạng, nghệ thuật lãnh đạo cách
mạng cũng như nghệ thuật sử dụng phương pháp cách mạng còn bao gồm vấn đề biết
thắng từng bước cho đúng. Sử dụng sức mạnh tổng hợp, đẩy lùi kẻ địch từng bước,
giành thắng lợi hoàn toàn, đó là một quy luật của đấu tranh cách mạng. Nghệ thuật
biết thắng từng bước là một đóng góp có giá trị về mặt lý luận và thực tiễn.
Đinh Xuân Tú (2002), “Đảng chỉ đạo biết thắng từng bước trong kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước (1965- 1975)”. Tác giả đi sâu nghiên cứu về giai đoạn này để trả
lời câu hỏi tại sao chúng ta đánh Mỹ và thắng Mỹ. Đồng thời Đảng vận dụng biết
thắng từng bước để đánh bại các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ như đánh bại
chiến lược chiến tranh cục bộ, đánh bại chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh tiến tới
giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước.
Dựa trên cơ sở những tác giả đã nghiên cứu trước đây, người nghiên cứu đã
tổng kết lại quá trình Đảng lãnh đạo tổ chức thực hiện phương châm biết thắng từng
bước trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945- 1954). Được thực hiện qua các
giai đoạn của cuộc kháng chiến như Đảng lãnh đạo tổ chức thực hiên phương châm

2


biết thắng từng bước trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến (1945-1950); Đảng
lãnh đạo tổ chức thực hiện phương châm biết thắng từng bước từ sau chiến thắng Biên

Giới (1950- 1954)
Từ thực tiễn lãnh đạo và chỉ đạo tổ chức thực hiện của Đảng, người nghiên
cứu rút ra những kinh nghiệm trong chỉ đạo phương châm biết thắng từng bước của
Đảng trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945- 1954).
GS. Lê Xuân Lựu (1997), “Nghệ thuật đánh thắng địch từng bước tạo thời cơ
thắng lợi hoàn toàn”, Tạp chí Cộng sản, 518(8), Tr37- 42.
PGS.TS. Vũ quang Vinh, “Biết thắng từng bước trong đấu tranh ngoại giao
Việt Nam”, Tạp chí thông tin đối ngoại số 3- 2007.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ chủ trương biết thắng từng bước của Đảng trong kháng chiến chống
thực dân Pháp (1945- 1954).
Góp phần làm rõ quá trình tổ chức thực hiện phương châm biết thắng từng
bước của Đảng trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945- 1954).
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Từ thực tiễn rút ra những nhận xét về quá trình lãnh đạo, chỉ đạo và những
kinh nghiệm trong việc đề ra và thực hiện phương châm biết thắng từng bước của
Đảng trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945- 1954).
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đổi tượng nghiên cứu
Làm rõ quá trình Đảng lãnh đạo thực hiện phương châm biết thắng từng bước
trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945- 1954).
Chủ thể lãnh đạo: Đảng cộng sản Việt Nam.
Đối tượng lãnh đạo: Trên lĩnh vực quân sự, chính trị và ngoại giao.
Phương thức lãnh đạo: Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra phương châm biết
thắng từng bước và tổ chức thực hiện phương châm biết thắng từng bước trong cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp từ năm 1945 đến 1954.

3



4.2. Phạm vi nghiên cứu
về mặt thời gian:

Phạm vi thời gian nghiên cứu của đề tài là từ tháng 11 năm 1945 đến tháng 7
năm 1954 (Tháng 11 năm 1945 là Ban Chấp Hành Trung ương Đảng ra Chỉ thị
“kháng chiến kiến quốc”, vạch ra con đường kháng chiến trong cách mạng Việt Nam.
Tháng 7 năm 1954 Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa
bình ở Đông Dương được ký kết, kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm
lược nhân dân ta.
về mặt không gian:

Không gian nghiên cứu của đề tài là nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ
tháng 11 năm 1945 đến tháng 7 năm 1954.
Những chủ trương, đường lối, chỉ thị, Nghị quyết của Đảng tác động đến mặt
trận quân sự làm thay đổi cục diện chiến trường.
5. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu
5.1. Cơ sở lý luận
Để giải quyết vấn đề đặt ra, người nghiên cứu dựa trên những quan điểm của
chủ nghĩa Mác- Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về chiến tranh
cách mạng, về bạo lực cách mạng, về chiến tranh.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic.
Ngoài ra còn sử dụng các phương pháp khác như so sánh, thống kê để làm rõ
nội dung đề tài.
5.3. Nguồn tài liệu
Các văn kiện của Đảng về kháng chiến chống thực dân Pháp từ năm 1945 đến
1954.
Tài liệu sách báo: Những tài liệu, sách báo, tạp chí, bài viết, luận văn, luận án
và các tài liệu khác có liên quan đến vấn đề nghiên cứu được đăng tải công khai về

vấn đề này.
6. Kết cấu của đề tài

4


Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo. Kết cấu của đề
tài bao gồm 3 chương, 6 tiết.

5


NỘI DUNG
Chương 1
ĐẢNG LÃNH ĐẠO THựC HIỆN PHƯƠNG CHÂM BIẾT
THẮNG TỪNG BƯỚC (1945 - 1950)
1.1. BỐI CẢNH LỊCH sử
1.1.1. Bối cảnh quốc tế
Đại chiến thế giới làn thứ hai két thúc với thắng lợi của phe Đồng minh đã cứu
loài người ra khỏi thảm họa của chủ nghĩa phát xít Đức -Ý - Nhật. Các nước Ba Lan,
Bungary, Hunggari, Tiệp Khắc, Nam Tư, Abani, Rumani, Đông Đức, miền Bắc Triều
Tiên, Mông cổ được giải phóng, lập nên chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên chủ nghĩa
xã hội. Tuy nhiên, cuộc chiến tranh thế giới đã tàn phá rất nặng nề các nước trong phe
XHCN và một số nước công nghiệp phát triển, trong đó Liên Xô bị tàn phá nặng nề
nhất. Sau đại chiến Liên Xô phải lo dồn sức vào hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi
phục kinh tế. Phát huy vai trò trụ cột của mình đối với phong trào cách mạng thế giới.
Với uy tín và ảnh hưởng chính trị rất lớn hồi bấy giờ, Liên Xô đã khích lệ, động viên,
ủng hộ tinh thần đối với nhân dân lao động bị áp bức ở các châu lục vùng lên. Nhưng
Liên Xô cũng chưa có điều kiện để giúp đỡ một cách mạnh mẽ về vật chất cho phong
trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa.

Những năm 1945- 1946, Đức, Ý, Nhật bị đánh bại, các nước tư bản Anh, Pháp
đều bị tàn phá nặng nề trong chiến tranh, nền kinh tế- tài chính giảm sút, phong trào
đấu tranh giải phóng dân tộc ở nhiều nước Châu Á, châu Phi, phong trào đấu tranh của
giai cấp công nhân trong các nước tư bản châu Âu cũng bột khởi. Quy mô và chiều
sâu của phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc làm lung lay hệ thống thuộc địa và
làm suy yếu lực lượng của chủ nghĩa đế quốc, tạo điều kiện cho sự nghiệp giải phóng
dân tộc ở nhiều nước giành được thắng lợi vào những năm tiếp sau.
Lúc này, cách mạng Trung Quốc đã giải phóng phần lục địa phía Bắc với gàn
100 triệu trên 450 triệu dân, nhưng cuộc nội chiến giữa lực lượng cách mạng do Đảng

6


Cộng sản lãnh đạo với lực lượng Quốc dân Đảng của Tưởng Giới Thạch đang diễn ra
quyết liệt.
Ở các nước tư bản châu Âu, nền kinh tế bị chiến tranh thé giới tàn phá nặng
nề. Các chính phủ cầm quyền lo vơ vét của cải, bóc lột nhân lực các nước thuộc địa để
phục vụ cho việc khôi phục nền kinh tế ở chính quốc và chống lại các phong trào đấu
tranh đòi quyền độc lập càng làm cho đời sống các tầng lớp lao động thêm điêu đứng.
Riêng ở Mỹ, mặc dù Chiến tranh thế giới thứ hai đã làm hơn 350.000 người
thiệt mạng và tiêu tốn 240 tỷ đô la nhưng nước Mỹ chẳng những không bị tàn phá mà
các tập đoàn tư bản còn giàu lên nhanh chóng nhờ vào buôn bán vũ khí. Năm 19451946, nền kinh tế Mỹ phát triển mạnh hơn tất cả các nước tư bản thế giới cộng lại. Mỹ
giữ độc quyền về vũ khí hạt nhân. Với sức mạnh về kinh té, khoa học, kỹ thuật quân
sự, Mỹ ráo riết thực hiện âm mưu làm bá chủ thế giới. Mỹ đã lợi dụng sự suy yếu của
các nước công nghiệp phát triển ở phương Tây, dùng viện trợ về kinh tế để khống chế
các nước này. Mỹ lo sợ sau chiến tranh, các nước đế quốc Tây Âu khôi phục xong nề
kinh té đã bị tàn phá, sẽ tiếp tục duy trì trật tự thế gới cũ được phân chia từ thế kỷ XIX
giữa các nước đế quốc thực dân Tây Âu. Và như vậy, Mỹ sẽ không có thị trường rộng
lớn để xuất khẩu, đưa nền kinh té phát triển lên quy mô toàn cầu. Để thực hiện ý đồ
đó, Mỹ đưa ra kế hoạch Marshall, triển khai chiến lược toàn cầu “ngăn chặn” chủ

nghĩa cộng sản và phong trào độc lập dân tộc với kế hoạch bao vây và ngăn chặn chủ
nghĩa cộng sản Liên Xô cùng các nước gắn bó với Liên Xô, khống chế phong trào giải
phóng dân tộc trên các lục địa Á, Phi và Mỹ Latinh. Cuộc chiến tranh lạnh do Mỹ gây
ra để chống lại Liên Xô và phe xã hội chủ nghĩa diễn ra ngày càng quyết liệt.
Như vậy, đặc điểm nổi bật của tình hình quốc té sau Đại chiến thế gới lần thứ
hai là ba trào lưu cách mạng thế giới có bước phát triển mới, cùng tiến công vào chủ
nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân, từ nhiều phía với nhiều mức độ khác nhau. Lực
lượng cách mạng ở các nước XHCN do liên Xô làm trụ cột đã phát triển thành hệ
thống XHCN thế giới. Đức, Ý, Nhật đã bị đánh bại, Anh, Pháp trong phe đồng minh
thắng trận, nhưng kiệt quệ về kinh tế, quân sự, vị trí quốc tế giảm sút nghiêm trọng.
Mỹ đã vươn lên cầm đầu phe tư bản chủ nghĩa chống lại các nước XHCN, chống lại

7


phong trào giải phóng dân tộc, đàn áp các cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động ở các nước tư bản. Vì vậy mâu thuẫn chủ yếu sau Đại chiến thế
giới lần thứ hai là một bên là mâu thuẫn giữa một bên là hệ thống XHCN cùng các lực
lượng cách mạng đấu tranh cho độc lập, dân chủ, hòa bình và tiến bộ xã hội với một
bên là phe đế quốc chủ nghĩa do Mỹ cầm đầu, cùng các lực lượng phản động tay sai
[1, tr.34-38].
1.1.2. Bối cảnh trong nước
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã lật đổ ách thống trị của ché độ thực dân
và phong kiến, mở ra kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập, tự do cho dân tộc ta, thiết
lập nên Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Nhưng ngay sau khi
giành được độc lập, nước ta phải đối mặt với muôn vàn khó khăn, thử thách hét sức to
lớn đó là các nguy cơ của “giặc đói”, “giặc dốt” và đặc biệt là “giặc ngoại xâm”.
Chính quyền cách mạng lâm thời mới được thiết lập chưa có đủ thời gian để
củng cố; đội ngũ cán bộ trưởng thành trong thời kì hoạt động bí mật chưa quen với
quản lý kinh tế- xã hội; lực lượng vũ trang chỉ có 5.000 người, vũ khí thô sơ.

Các đảng phái phản động như Việt Nam Quốc dân đảng (Việt Quốc), Việt
Nam cách mạng đồng minh hội (Việt Cách) bám gót quân đội nước ngoài về nước
chống phá cách mạng quyết liệt, lập chính quyền phân liệt ở nhiều nơi (Vĩnh Yên,
Yên Bái, Móng Cái...). Một loạt các tổ chức khác, như Đại Việt quốc xã, Đại Việt duy
tân, Đại Việt quốc gia liên minh, Việt Nam phục quốc đồng minh hội cũng ngóc đầu
dậy ráo riết hoạt động mưu toan xóa bỏ quyền lãnh đạo cách mạng Việt Nam của
Đảng ta, chống phá chính quyền cách mạng.
Ở Miền Nam, các lực lượng thân Pháp, thân Nhật, nhất là bọn phản động đội
lốt tôn giáo trong Cao Đài, Hòa Hảo hoạt động chống phá cách mạng rất quyết liệt.
Thực dân Pháp giúp bọn phản động đưa ra cái gọi là “Nam Kỳ tự trị” để chia cắt đất
nước và chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Pháp cho ra mắt “ nước Cộng hòa Nam
kỳ tự trị” do Nguyễn Văn Thinh đứng đầu.
Bọn Tơrốtkit cũng ráo riết hoạt động chống phá chính quyền nhân dân, chúng
đưa ra luận điệu “cách mạng triệt để”, hô hào nông dân đứng lên đấu tranh chống tư

8


sản và địa chủ, phá hoại Mặt trận dân tộc thống nhất.
Chính sách áp bức, bóc lột của Pháp, Nhật đã để lại những hậu quả hết sức
nặng nề: 50% ruộng đất ở Bắc Kỳ bị bỏ hoang, 6 tỉnh Bắc Bộ hét lũ lụt lại hạn hán;
nhiều nhả máy đóng cửa; thương nghiệp đình trệ; hàng hóa khan hiếm; ngân quỹ
chống rỗng;...Nhà nước cách mạng không nắm được ngân hàng, tiếp nhận kho bạc chỉ
còn 1,2 triệu đồng, quá nửa là tiền rách nát. Trong khi đó quân Tưởng lại bắt ta tiêu
tiền Quan Kim càng làm cho nền tài chính của đất nước khó khăn hơn. Nạn đói chưa
được khắc phục, vẫn đe dọa đến đời sống nhân dân.
Chính sách ngu dân hơn 80 năm của thực dân Pháp để lại hậu quả là 95% dân
số mù chữ, hạn chế việc phát huy quyền làm chủ trong chế độ mới. Nhiều tệ nạn xã
hội, tập tục lạc hậu vẫn tồn tại trong đời sống nhân dân, gây cản trở sự phát triển đời
sống văn hóa mới.

Sau khi cách mạng tháng Tám thắng lợi, bối cảnh quốc té tuy biến đổi theo
hướng có lợi cho phong trào giải phóng dân tộc, song Việt Nam chưa nhận được sự
giúp đỡ trực tiếp của cách mạng thế giới. Nước ta bị chủ nghĩa đế quốc phong tỏa bốn
bề. Vị trí pháp lý của Việt Nam chưa được công nhận ở Liên hợp quốc, mặc dù nhiều
làn Chính phủ ta đã đề đạt nguyện vọng được tổ chức này công nhận nền độc lập của
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Khó khăn lớn nhất trong những năm đầu sau Cách mạng Tháng Tám là sự hiện
diện của quân đội nước ngoài trên đất nước ta.
Theo thỏa thuận tại Hội nghị Pốtxđam, sau khi chiến tranh thế giới lần thứ hai
két thúc, quân đội Tưởng Giới Thạch có nhiệm vụ vào Việt Nam giải giáp quân Nhật,
ở phía Bắc vĩ tuyến 16. Đầu tháng 9-1945, hơn 20 vạn quân Tưởng do hai viên tướng
là Lư Hán và Tiêu Văn chỉ huy kéo vào đóng chốt khắp các địa phương ở miền Bắc.
Các toán quân Tưởng vào Việt Nam lộng hành, hoạt động chống phá ta dữ dội, với
mục tiêu “diệt cộng, cầm Hồ”.
Ở phía Nam vĩ tuyến 16, trên 1 vạn quân Anh do Thiếu tuớng Graxây làm tu
lệnh, thực hiện thỏa ước Pốtxđam, ngày 6-9-1945 đã có mặt tại Sài Gòn. Khi quân
Anh đến Sài Gòn thì một đại đội lính Pháp bám gót cùng vào. Quân Anh vào Sài Gòn

9


thả hết số tù binh Pháp bị Nhật giam giữ sau cuộc đảo chính ngày 9-3-1945 và vũ
trang cho lực lượng này đánh ta.
về phía Mỹ, mặc dù bề ngoài tỏ ra trung lập trong các mối quan hệ giữa các
quốc gia khác với Việt Nam, song trên thực tế không có mối quan hệ nào lại thiếu
vắng vai trò của Mỹ. Mỹ tuy có tham vọng chiếm Đông Dương, nhưng chưa có điều
kiện để thực hiện mưu đồ đó, nên trước mắt muốn thông qua vai trò của Tưởng để đè
bẹp phong trào giải phóng dân tộc ở Việt Nam và nắm lấy Đông Dương ữong tương
lai.
Các thế lực đế quốc và phản động nước ngoài tuy có mâu thuẫn với nhau về

lợi ích , song lại có chung một dã tâm tiêu diệt nhà nước cách mạng non trẻ, tiến tới
thủ tiêu nền độc lập của nhân dân ta.
1.2. QUÁ TRÌNH ĐẢNG LÃNH ĐẠO THựC HIỆN PHƯƠNG CHÂM BIẾT
THẮNG TỪNG BƯỚC GIAI ĐOẠN (1945-1950)
1.2.1. Đảng lãnh đạo triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù (19451946)
Để giải quyết những nhiệm vụ vừa cơ bản, vừa cấp bách, Đảng và Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã thực hiện một chính sách đối ngoại mềm dẻo, khôn khéo, lợi dụng mâu
thuẫn, phân hóa hàng ngũ kẻ thù, chọn cái có lợi hơn, hoặc ít hại nhất trong những cái
bất lợi để đấu tranh buộc các thế lực thù địch công nhận và tôn trọng chính quyền dân
chủ nhân dân.
Một là, Thực hiện sách lược hòa hoãn, nhân nhượng có nguyên tắc với quân
Tưởng
Cuối tháng Tám năm 1945, theo thỏa thuận của Đồng minh tại hội nghị
Pốtxđam (Posdam), gần 20 vạn quân của chính phủ Tưởng Giới Thạch ồ ạt kéo vào
nước ta từ vĩ tuyến 16 trở ra làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật. Ngày 11-9- 1945,
Lư Hán đến hà Nội. Tiêu Văn được Tưởng Giới Thạch giao nhiệm vụ sắp xếp chế độ
chính trị ở miền Bắc Việt Nam cũng có mặt ở Hà Nội [3, tr.47].
Theo gót quân Tưởng, bọn tay sai Việt Nam cách mạng đồng minh hội (Việt
Cách) vào theo đường Cao Bằng, Lạng Sơn, Móng Cái. Bọn Việt Nam Quốc dân đảng

10


(Việt Quốc) vào theo đường Lào Cai, Hà Giang. Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh,
Nguyễn Tường Tam cũng bám gót quân Tưởng về nước. Chúng dựa vào thế lực quân
Tưởng chiếm đóng một số thị xã, thị trấn, lập ra chính quyền phản động ở Vĩnh Yên,
Yên Bái, Móng Cái...
Đen Hà Nội, quân Tưởng có những yêu sách hết sức ngang ngược. Lư Hán đòi
ta báo cáo quân số và tổ chức quân đội, Tiêu Văn đòi cải tổ chinh phủ, giành nhiều
chức vụ quan trọng như thủ tướng, bộ trưởng quốc phòng, bộ trưởng ngoại giao cho

bọn tay sai. Đồng thời chúng còn hăm dọa dùng vũ lực lật đổ chính quyền, gây các vụ
khiêu khích, bắt cóc cán bộ, khủng bố, cướp bóc, phá rối trật tự an ninh, kiểm soát các
cửa ô dẫn vào thành phố. Chúng buộc ta cung cấp lương thực, tung tiền Quan kim đã
mất giá nhằm vơ vét hàng hóa, giúp bọn tay sai xây dựng lực lượng vũ trang, đóng
quân và đặt trụ sở ở Hà Nội và nhiều tỉnh lỵ từ Thanh Hóa trở ra. Chúng xuất bản báo
chí phản động, công khai tuyên truyền vu cáo chính quyền cách mạng [3, tr.102-103].
Trong Hội nghị toàn quốc của Đảng giữa tháng Tám năm 1945, Đảng ta đã dự
đoán quân Đồng minh sắp vào nước ta và đế quốc Pháp lăm le khôi phục lại địa vị của
chúng ở Đông Dương. Hội nghị cũng định ra chính sách đối ngoại căn bản của ta là
thêm bạn, bớt thù, phản đối các hành động xâm lược, tránh xung đột với Anh- MỹTưởng, lợi dụng mâu thuẫn giữa hai tập đoàn Anh- Pháp và Mỹ- Tưởng trong việc
tranh giành quyền lợi ở Đông Dương, tránh trường hợp phải đối phó với với việc AnhMỹ- Tưởng nhân nhượng Pháp, cho Pháp trở lại Đông Dương. Hội nghị nhấn mạnh
công tác đối ngoại: chỉ có thực lực mới quyết định được sự tháng lợi của ta trước các
thế lực đế quốc.
Trên cơ sở phân tích chỗ mạnh, chỗ yếu của từng kẻ thù và sức mạnh của nhân
dân Việt Nam. Đảng đã vạch rõ phương pháp đấu tranh với từng kẻ thù cụ thể.
Ta nhấn mạnh trách nhiệm quân Tưởng vào Việt Nam là để giải giáp quân đội Nhật;
nếu chúng ta sử dụng các biện pháp bạo lực thì sẽ tạo cơ cho chúng công khai tấn
công chính quyền cách mạng. Nhưng nếu chúng xâm phạm chủ quyền thì ta sẵn sàng
đối phó bằng cách “tích cực đề kháng, huy động toàn lực quần chúng biểu tình” phản
đối [3, tr.103]. Như vậy ta có thể tạm thời nhân nhượng, hòa hoàn với Tưởng để tập

11


trung ngọn lửa đấu tranh chống thực dân Pháp.
Đối với bọn tay sai, ta tìm cách cô lập và giải thích cho nhân dân thấy rõ bộ
mặt phản động của chúng, dùng lực lượng quần chúng làm hậu thuẫn cho chính quyền
trấn áp.
Trên cơ sở xác định thực dân Pháp là “kẻ thù chính của ta lúc này” Đảng và
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thực hiện một chính sách đối ngoại mềm dẻo, khôn khéo, lợi

dụng mâu thuẫn, phân hóa hàng ngũ kẻ thù. Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc nêu rõ:
Đối với Tàu, vẫn chủ trương Hoa- Việt thân thiện. Để giữ vững hòa hoãn với chính
quyền Trung Hoa dân quốc, Đảng chủ trương nhân nhượng nhiều mặt, két hợp nhiều
biện pháp để hạn chế, đẩy lùi ý đồ phá hoại và lật đổ cuả chính quyền Tưởng Giới
Thạch. Nhân nhượng nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc bất di, bất dịch là giữ vững
chính quyền dân chủ nhân dân.
Do đó Đảng chủ trương hòa hoãn với chính quyền Tưởng Giới Thạch, lợi dụng
mâu thuẫn giữa chính quyền Tưởng Giới Thạch với thực dân Pháp về quyền lợi ở
Đông Dương để tập trung ngọn lửa đấu tranh chống thực dân Pháp đang tái xâm lược
Việt Nam ở Nam Bộ.
“Hòa với Tưởng” là điều cần thiết nhưng không phải dễ dàng. Đảng ta đã vận
dụng sách lược hết sức linh hoạt, kết hợp chặt chẽ nhiều biện pháp để hạn chế, đẩy lùi
ý đồ phá hoại và lật đổ của chính quyền Tưởng Giới Thạch.
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn nhanh chóng phát hiện ra những chỗ yếu, những
mâu thuẫn giữa các phe phái trong hàng ngũ quân đội Trung Hoa dân quốc, tiến hành
phân hóa nội bộ kẻ thù. Đảng và Chính phủ nêu khẩu hiệu “Hoa- Việt thân thiện”
cùng với những khẩu hiệu “Kiên quyết ủng hộ Chính phủ Hồ Chí Minh”, “Việt Nam
độc lập muôn năm”, “Kiên quyết chổng thực dân Pháp xâm lược”...âể đón tiếp quân
đội Trung Hoa dân quốc.
Ngày 2-10-1945, trong buổi lễ đón Hà ứng Khâm, Tổng tư lệnh Lục quân quân
đội nhân dân Trung Hoa dân quốc cùng tướng Mỹ Mắc Lurơ (MC. Lure) đến Hà Nội,
Chính quyền cách mạng huy động 300.000 người diễu hành qua Phủ toàn quyền cũ,
hô vang những khẩu hiệu: “Nước Việt Nam của người Việt Nam”, “ủng hộ Việt Nam

12


độc lập đồng minh”, “ủng hộ Chính phủ lâm thời nước Việt Nam”, “ủng hộ Chủ tịch
Hồ Chí Minh”. Cuộc diễu hành được tổ chức hết sức rầm rộ, mang danh nghĩa đón
phái bộ Đồng minh, song thực chất là một cuộc biểu dương ý chí và lực lượng của

nhân dân Việt Nam. Cuộc diễu hành một mặt khẳng định thế làm chủ đất nước của
nhân dân Việt Nam; mặt khác thể hiện thiện chí của Chính phủ và nhân dân Việt Nam
đối với phái bộ Đồng minh.
Cuộc đấu tranh ngoại giao giữa ta với Tưởng diễn ra hét sức gay go. Ta luôn
kiên trì nguyên tắc bảo vệ chủ quyền dân tộc, nhưng sách lược lại rất khôn khéo và
mềm dẻo.
về kinh tế, ta chấp nhận tiêu tiền Quan Kim. Mặc dù đời sống kinh tế- tài chính

cực kỳ khó khăn, nhân dân đang phải thiếu đói nghiêm trọng, ta vẫn chấp nhận cung
cấp lương thực, thực phẩm cho quân Tưởng.
về quân sự, Tránh xung đột với quân Tưởng, không để chúng lấy cơ hội khiêu

khích lật đổ chính quyền cách mạng.
về chính trị, Đảng chủ trương mở rộng thành phần Chính phủ lâm thời, thành

phần Chính phủ liên hiệp lâm thời, để cho một số nhân vật của một số đảng phái tay
sai của Tưởng (Việt Nam Quốc dân đảng và Việt Nam cách mạng đảng) tham gia.
Nguyễn Hải Thần (Việt Cách) giữ chức Phó Chủ tịch Chính phủ; Nguyễn Tường Tam
(Đại Việt dân chính) Bộ trưởng Bộ ngoại giao; Vũ Hồng Khanh (Việt Quốc) Phó Chủ
tịch kháng chiến ủy viên hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh còn đề nghị mở rộng thêm 70 ghế
trong Quốc hội và gần một nửa số Bộ trong Chính phủ liên hiệp chính thức cho bọn
Việt Quốc, Việt Cách.
Trước mũi nhọn tiến công của kẻ thù vào Đảng cộng sản và tình hình chính trị
phức tạp. Ngày 11-11-1945, Đảng Cộng sản Đông Dương ra Thông cáo “Tự ý giải
tán”. Tuyên bố “Tự ý giải tán”, song, thực chất là Đảng rút vào hoạt động bí mật.về
mặt công khai, Đảng tổ chức “Hội nghiên cứu Chủ nghĩa Mác ở Đông Dương” để
tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản, tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng, giữ
vững và mở rộng mối liên hệ mật thiết giữa Đảng và quần chúng.
Tuy rút vào hoạt động bí mật nhưng vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà


13


nước và toàn xã hội vẫn được giữ vững, tổ chức cơ sở Đảng tiếp tục được củng cố, số
lượng đảng viên tiếp tục tăng. Sự lãnh đạo của Đảng lúc này là “kín đáo và có hiệu
quả” [30, tr. 161].
Với sách lược khôn khéo của ta với Tưởng . Chúng ta có điều kiện và thời gian
củng cố thực lực, tập trung lực lượng để tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp ở miền Nam.
Hai là, Thực hiện sách lược hòa hoãn với thực dân Pháp
Đến cuối tháng 2- 1946, dân tộc Việt Nam đứng trước tình thế mới. Lúc này,
quân Anh đang rút khỏi miền Nam Đông Dương, quân Nhật bị tước vũ khí đang lần
lượt về nước. Quân đội Trung Hoa dân quốc vẫn đóng quân từ vĩ tuyến 16 trở ra.
Thực dân Pháp đưa một số lượng lớn quân viễn chinh sang Đông Dương và đang
chiếm đóng hầu hét Nam Bộ, Nam Trung Bộ, chiếm đại bộ phận Campuchia, khống
chế vùng rộng lớn ở Lào. Sau khi cho rằng đã “bình định” Nam Bộ và Nam Trung Bộ,
thực dân Pháp xúc tiến việc đưa quân ra miền Bắc nước ta bằng cách xúc tiến việc dàn
xếp , thỏa thuận với chính quyền Trung Hoa dân quốc.
Sau hơn nửa năm không thực hiện được mưu đồ tiêu diệt Đảng ta, lật đổ chính
quyền cách mạng non trẻ của Việt Nam, lại bị thất bại nặng nề trong cuộc tấn công
vào vùng giải phóng của Đảng Cộng sản Trung Quốc, chính quyền Trung Hoa dân
quốc buộc phải ký với Pháp Hiệp ước Hoa- Pháp ngày 28-2-1946 để đổi lấy một số
quyền lợi kinh tế ở Đông Dương “Hoa kiều ở Việt Nam được hưởng những quyền lợi
có tính chất truyền thong và những lợi ích như người Pháp; Pháp trả lại các tô giới và
nhượng địa trên đất Trung Hoa sớm hơn thời hạn đã kỷ, bán lại đoạn đường sắt Côn
Minh- Ho Kiều để Trung Hoa dân quốc chở hàng về nước, Pháp miễn thuế qua cảng
Hải Phòng...”. Bù lại, chính quyền Trung Hoa dân quốc đồng ý cho quân đội Pháp
được thay thế quân đội Trung Hoa giải giáp quân đội Nhật ở miền Bắc Đông Dương.
Trước tình hình đó, ngày 3-3-1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ
thị Tình hình và Chủ trương. Chỉ thị cho rằng “ Hiệp ước Hoa- Pháp không phải là

chuyện riêng của Tàu và Pháp. Nó là chuyện chung của phe đé quốc và bọn tay sai của
chúng ở thuộc địa. Dù nhân dân Đông Dương muốn hay không muốn, nhất định chúng

14


cũng thi hành Hiệp ước ấy” [14, t.8, tr.41]. Ban Thường vụ Trung ương nhận định
rằng: “ vấn đề lúc này, không phải là muốn hay không muốn đánh, vấn đề là biết mình
biết người, nhận một cách khách quan những điều kiện lời lãi trong nước và ngoài
nước mà chủ trương cho đúng” [14, tr.43-44].
Thường vụ Trung ương nhận thấy, chủ trương hòa với Pháp có hai điều kiện
lớn:
“a) Phá được mưu mô bọn Tàu Trắng, của bọn phát xít, và của bọn Việt gian,
bảo toàn được thực lực.
b) Dành được phút giây nghỉ ngơi để sửa soạn cuộc chiến đấu mới phối hợp
với các cuộc chiến đấu của nhân dân Pháp, tiến tới giành độc lập hoàn toàn. Song như
bản chỉ thị đã chỉ rõ, khi hòa với Pháp, cũng có những điều bất lợi là Pháp sẽ lợi dụng
sự hòa hoãn để phát triển lực lượng; chúng sẽ bội ước, đánh úp ta; bọn tay sai phản
động sẽ lợi dụng việc ta “chủ hòa” để tuyên truyền, xuyên tạc vu cho ta là “phản
quốc”, là “bán nước cho Tây”. “Bọn thực dân Pháp có thể tăng gia lực lượng trên đất
ta để một ngày kia bội ước diệt ta”[ 14, tr.45].
Chỉ thị xác định nguyên tắc căn bản trong đàm phán là độc lập và liên minh
với Pháp trên cơ sở bình đẳng, Pháp phải thừa nhận quyền dân tộc tự quyết của nhân
dân ta, công nhận quyền Pháp được đóng quân tạm thời và có hạn định trên đất nước
ta.
Thực hiện chủ trương hòa với Pháp, vào lúc 16h30 ngày 6-3-1946, Tại số nhà
38 phố Lý Thái Tổ, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt phía Việt Nam và
■I.Xanhtơni- ủy viên cộng hòa Pháp ở Bắc Việt Nam, thay mặt Chính phủ Pháp ký
Hiệp định Sơ bộ và một Hiệp định quân sự (phụ khoản) trước sự chứng kiến của đại
diện Bộ tư lệnh quân đội Trung Hoa dân quốc ở Bắc Đông Dương, Phái bộ Mỹ và

lãnh sự quán Anh.
Hiệp định sơ bộ có những nội dung chính sau:
Nước Pháp công nhận nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là một quốc gia tự do,
có Chính phủ tự chủ, có nghị viện, có quân đội, có tài chính riêng; ở trong Liên bang
Đông Dương và khối Liên hiệp Pháp;

15


Chính phủ cam kết sẽ thừa nhận những quyết định của cuộc trưng cầu dân ý về
vấn đề thống nhất ba kỳ (Bắc- Trung - Nam);
Phía việt Nam thuận để 15.000 quân Pháp vào miền Bắc Việt Nam làm nhiệm
vụ thay thé quân đội Trung Hoa dân quốc, số quân Pháp này sẽ phải rút hét sau một
thời gian quy định (trong vòng 5 năm, mỗi năm rút 1/5);
Hai bên đình chiến để mở đàm phán chính thức và trong khi đàm phán, quân
hai bên đóng đâu vẫn cứ đóng đấy [14, tr.48].
Hiệp định Sơ bộ 6-3 là văn bản pháp lý đàu tiên mà nhà nước Việt Nam dân
chủ Cộng hòa ký kết với nước ngoài. Việc ký kết Hiệp định sơ bộ 6-3-1946 buộc
Pháp, làn đàu tiên , phải công nhận quyền tự do của Việt Nam, một dân tộc trước đó
từng là thuộc địa của Pháp.
Việc ký kết hiệp định sơ bộ là chủ trương sáng suốt, đúng đắn của Đảng Cộng
sản Đông Dương, của Chủ tịch Hồ Chí Minh xét trong tình hình lúc bấy giờ. Với việc
ký Hiệp định Sơ bộ 6-3-1946, ta đã phân hóa được kẻ thù, thoát ra khỏi tình thế cô
độc, giành lại được thế chủ động, tập trung ngọn lửa đấu tranh vào kẻ thù chính là
thực dân Pháp xâm lược. Đồng thời tạo điều kiện hòa hoãn để nhân dân ta củng cố
thành quả cách mạng đã giành được, chuẩn bị đưa sự nghiệp toàn quốc lên bước phát
triển mới.
Ngày 9-3-1946, Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị “Hòa để tiến”, bản
chỉ thị phân tích rõ hơn chủ trương tạm thời hòa hoãn với thực dân Pháp là nhằm :
“1. Tránh tình thế bất lợi, phải cô lập chiến đấu cùng một lúc với nhiều lực

lượng phản động (thực dân Pháp, Tàu, Tưởng, bọn phản cách mạng trong nước),
chúng sẽ đúc lại thành một khối và được đé quốc Anh, Mỹ giúp sức để đánh ta trong
khi các lực lượng hòa bình, tự do và tiến bộ trên thế giới (như Liên xô, phong trào
cộng sản ở Pháp, cách mạng thuộc địa) chưa thể giúp ta được.
2. Bảo toàn lực lượng giành lấy giây phút nghỉ ngơi và củng cố vị trí mới đã
chiếm được, chấn chỉnh đội ngũ cách mạng, bổ sung cán bộ, bồi dưỡng và củng cố
phong trào. Tóm lại để chuẩn bị đầy đủ, nhằm cơ hội tốt tiến lên giai đoạn cách mạng
mới” [14, tr.49].

16


Sau Hiệp định sơ bộ 6-3-1946 các hoạt động ngoại giao tiếp tục diễn ra. Ngày
24-3-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hội đàm với Cao ủy Pháp Đácgiăngliơ trên chiến
hạm Pháp tại Vịnh Bắc Bộ. Hai bên đã đi đến thỏa thuận tiến hành sớm cuộc đàm
phán chính thức tại Pari ngay sau hội nghị trù bị ở Việt Nam. Pháp đồng ý tiếp nhận
một phái đoàn Quốc hội Việt Nam thăm Pháp; Việt Nam đồng ý hội nghị trù bị tại Đà
Lạt.
Hội nghị trù bị Đà Lạt diễn ra từ ngày 19-4 đến ngày 11-5-1946. Hội nghị thảo
luận năm loại vấn đề: đình chỉ chiến sự và tạo không khí chính trị thuận lợi, vấn đề
ngoại giao của Việt Nam; vấn đề liên hiệp Pháp; vấn đề liên bang Đông Dương; vấn
đề trưng cầu ý dân và thống nhất ba kỳ. Giữa phái đoàn Việt Nam Dân chủ cộng hòa
và phái đoàn Pháp diễn ra cuộc đấu tranh quyết liệt. Phía Pháp vẫn ngoan cố giữ lập
trường chia cắt nước Việt Nam. Chúng cố tình né tránh thảo luận vấn đề Nam Bộ. Các
đại biểu của Việt Nam cực lực phản đối, đòi phía Pháp phải ưu tiên thảo luận về vấn
đề Nam Bộ, đòi chấm dứt các cuộc xung đột.
Do thực dân Pháp không thực tâm đàm phán và cố tình phá hoại nên Hội nghị
trù bị Ðà Lạt không ði tới một thỏa thuận nào. Dẩu vậy , Hội nghị trù bị Ðà Lạt giúp
Ðảng và Chính phủ thãm dò, hiểu lập trường, ý đồ của Pháp để có thể chuẩn bị tốt cho
cuộc họp chính thức ở Paris.

Ngày 22-6, Chủ tịch hồ Chí Minh và phái đoàn Việt Nam Dân chủ cộng hòa
tới Paris. Trong những ngày ở thăm Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên gặp
gỡ, nói chuyện với đại diện các chính Đảng và các đoàn thể chính trị lớn của nước
Pháp, với đông đảo đồng bào Việt Nam tại Pháp, với những nhân vật có vị trí quan
trọng trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa của Pháp. Người cũng đã gặp gỡ với
các tổ chức quần chúng quốc tế, nhiều nhà hoạt động chính trị, xã hội châu Âu, châu
Á, châu Phi, tiếp xúc với các đại diện quân sự, ngoại giao của các nước lớn như Mỹ,
Anh, Pháp, Liên Xô, Trung Quốc để làm rõ tình hình Việt Nam và Đông Dương, lập
trường của Chính phủ Việt Nam...
Ngày 6-7-1946, tại lâu đài Phôngtenơblô , cuộc đàm phán chính thức giữa hai
phái đoàn Việt Nam và Pháp khai mạc.

17


Phát biểu trong buổi lễ khai mạc, Trưởng Phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa, đồng chí Phạm Văn Đồng kiên quyết chỉ rõ âm mưu tái chiếm Việt Nam của phía
Pháp, đồng thời nêu rõ lập trường trước sau như một của dân tộc Việt Nam là quyết
tâm như một của dân tộc Việt Nam là quyết tâm bảo vệ độc lập dân tộc và thống nhất
toàn vẹn lãnh thổ, quan hệ Việt- Pháp phải dựa trên cơ sở hòa bình, tôn trọng lẫn
nhau, hai bên cùng có lợi.
Phía Pháp vẫn giữ nguyên lập trường mà họ đưa ra từ Hội nghị trù bị Đà Lạt:
Lập chế độ Toàn quyền ở Đông Dương, tách Nam Bộ ra khỏi Việt Nam, không thừa
nhận Việt Nam có quyền ngoại giao riêng.
Trước thái độ kiên quyết của phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, phái
đoàn Pháp vẫn ngoan cố giữ lập trường hiếu chiến và chính thái độ đó của phía Pháp
đã khiến cho cuộc đàm phán không tiến triển được.
Ngày 14-9-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ trưởng hải ngoại Pháp
M.Moutet (Mutê) ký bản Tạm ước 14-9-1946 Việt - Pháp gồm 11 điều khoản. Nội
dung của Tạm ước là sự thỏa thuận tạm thời về một số vấn đề cấp bách có tính chất bộ

phận.
Với bản Tạm ước, Chính phủ Pháp nhận thi hành mấy điều chính sau ở Nam
Bộ
1. Thả chính trị phạm và những người bị tù trong lúc giao chiến
2. Nhân dân Nam Bộ được quyền tự do tổ chức hội họp, tự do báo chí, tự do
đi lại.
3. Hai bên đình chỉ mọi xung đột
4. Chính phủ Việt Nam đảm bảo cho Pháp một số quyền lợi về kinh té, văn
hóa ở Việt Nam” [28, tr.4].
Có thể nói Tạm ước 14-9 là cơ sở pháp lý, tạo được sự ràng buộc cuối cùng để
Đảng, Chính phủ và nhân dân Việt Nam có cơ hội khai thác triệt để khả năng kéo dài
thêm thời gian hòa hoãn, tạo điều kiện cho công cuộc khẩn trương chuẩn bị kháng
chiến. Đảng Cộng sản Đông Dương nhận định: “Tạm ước 14-9 là bước nhân nhượng
cuối cùng, nhân nhượng nữa là phạm đến chủ quyền của nước, là hại quyền lợi cao

18


trọng của dân tộc” [14, tr.148].
Ba là, Lợi dụng mâu thuẫn toong nội bộ binh lính Pháp với bọn chỉ huy thực
dân phản động.
Lợi dụng mâu thuẫn giữa số binh lính Pháp bị ép buộc cầm súng trong đạo
quân viễn chinh xâm lược với bọn chỉ huy, thực dân phản động, Hồ Chí Minh đã chỉ
cho những người lính vô tội đang phải cầm súng đánh thuê, làm bia đỡ đạn cho bọn
thực dân thấy rằng: “Giữa các bạn và chúng tôi không sự thù hằn gì cả, chỉ vì quyền
lợi ích kỷ mà bọn thực dân phản động khơi ra xung đột. Lợi lộc thì họ hưởng hết, chết
chóc các bạn phải chịu, huy chương thắng trận thì về bọn quân phiệt, nhưng với các
bạn và gia đình các bạn chỉ là sự đau khổ khốm cùng” [ 38, tr.110]. Người kêu gọi
binh lính Pháp, hãy “trở lại với chúng tôi, các bạn sẽ được tiếp đãi như bầu bạn của
chúng tôi”.

Bằng sự kiên trì, nồ lực và sáng tạo trên mặt trận địch vận, ta đã khoét sâu mâu
thuẫn toong nội bộ kẻ thù, thổi bùng phong trào phản chiến toong binh lính Pháp, làm
nội bộ địch hoang mang, nhiều đơn vị địch chưa đánh đã tan vỡ từng mảng.
Bốn là, Lợi dụng mâu thuẫn giữa các tầng lớp nhân dân lao động Pháp với nhà
cầm quyền thực dân phản động, bọn đầu sỏ chiến tranh.
Những bức thư của Hồ Chí Minh gửi Quốc hội, Chính phủ, nhân dân và binh
lính Pháp thể hiện lập trường chinh nghĩa, yêu chuộng hòa bình và lòng nhân ái của
Người đã có tác động sâu sắc với các tầng lớp nhân dân Pháp, thổi bùng lên ngọn lửa
phản đối chiến tranh, đòi hòa bình ở Đông Dương của mọi tầng lớp nhân dân Pháp.
Tiêu biểu là các cuộc đình công của công nhân trong các công binh xưởng đình công
không chịu sản xuất vũ khí trở sang Đông Dương; công nhân bốc vác vứt vũ khí,
phương tiện xuống biển, phản đối việc bắt lính, v.v... Những cuộc đấu tranh trên làm
cho Pháp không có đầu não và hậu phương ổn định, việc cung cấp sức người và sức
của cho Đông Dương bị hạn chế. Điều đó góp phần quan trọng vào thắng lợi của ta và
thất bại của địch. Trước sức mạnh trong đánh ra, ngoài đánh vào, buộc kẻ thù phân tán
đối phó lực lượng lớn hóa nhỏ, mạnh hóa yếu.

19


×