ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI NHÂN VĂN
---------------------------
TỐNG THỊ NGA
ĐẢNG BỘ TỈNH PHÚ THỌ
LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ HẬU PHƯƠNG
TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP
(1945 – 1954)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Hà Nội - 2011
1
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
4
Chƣơng 1:
ỈNH PHÚ THỌ
ỰC HIỆN
NHIỆM VỤ
11
1950
11
ạ
.
1.1.1 Đường lối kháng chiến của Đảng
11
1.1.2 Chủ trương của Đảng về xây dựng hậu phương trong
15
kháng chiến
1.2 Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ xây
ời kỳ từ
dựng, bảo vệ
1950
1.2.1 Điều kiện tự nhiên, con người, truyền thống lịch sử Phú
Thọ
22
22
,
trên đị
.
30
ệm vụ hậu phương cách mạng
Chƣơng 2:
ỈNH PHÚ THỌ
ỰC HIỆN
NHIỆM VỤ
50
1954
ững vấn đề đặ
2.1 Bối cảnh của cuộc kháng chiế
50
ạng
thực hiện nhiệm vụ
53
2.2.1 Tình hình chung của tỉnh trong thời kỳ đẩy mạnh cuộc
53
ịa bàn tỉnh.
kháng chiến toàn diện tới thắng lợi.
54
nhiệm vụ hậu phương cách mạng
1
Chƣơng 3:
ỆM
73
73
ết quả
73
thực hiện nhiệm vụ
.
ạn chế
79
thực hiện nhiệm vụ
.
80
3.2 K
3.2.1 Hậu phương là nhân tố thường xuyên, quyết định thắng
81
lợi của chiến tranh, vì vậy dù ở thời chiến hay thời bình đều phải
nhận thức đúng đắn quan điểm đó.
3.2.2 Để xây dựng hậu phương vững mạnh, phải đảm bảo và
83
phát huy mạnh mẽ, đầy đủ sự lãnh đạo của Đảng bộ về mọi mặt.
3.2.3 Căn cứ vào đặc điểm dân tộc, xã hội và chính trị của
85
tỉnh, muốn xây dựng hậu phương kháng chiến, Phú Thọ phải giữ
vững ổn định chính trị, coi trọng bồi dưỡng sức dân, mở rộng khối
đoàn kết toàn dân.
KẾT LUẬN
92
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
94
2
BẢNG QUY CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
HCM
: Hồ Chí Minh
HĐND
: Hội đồng nhân dân
HN
: Hà Nội
Nxb
: Nhà xuất bản
QĐND
: Quân đội nhân dân
UBHCKC
: Ủy ban hành chính kháng chiến
UBHC
: Ủy ban hành chính
UBKC
: Ủy ban kháng chiến
3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Khi bàn về chiến tranh cách mạng, Lênin có một luận điểm nổi tiếng:
“Muốn tiến hành chiến tranh một cách thực sự phải có một hậu phương được
tổ chức vững chắc, một đội quân giỏi nhất, những người trung thành nhất với
sự nghiệp cách mạng cũng đều sẽ lập tức bị kẻ thù tiêu diệt nếu họ không
được vũ trang, tiếp tế lương thực và huấn luyện đầy đủ” [73, tr. 497]. Trong
các cuộc cách mạng, để giành được thắng lợi nhất thiết phải có hậu phương,
bởi vì hậu phương là nơi có thể triển khai xây dựng và dự trữ tiềm lực của
chiến tranh cả về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật; hậu
phương là địa bàn đứng chân, là cơ sở lãnh đạo, tổ chức của tiền tuyến; là nơi
chi viện sức người, sức của và động viên chính trị - tinh thần cho tiền tuyến
đánh giặc; hậu phương cũng là nơi rút lui củng cố và bàn đạp tiến công của
các lực lượng vũ trang,
.
– Lê
[35, tr. 73]
.
, trong lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc, vấn đề
xây dựng
đã được ông cha ta hết sức coi trọng, xem
đó như là những nhân tố có ý nghĩa quyết định đến thành bại của sự nghiệp
cứu nước và giữ nước
4
.
Quán triệt tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin và những quan điểm của
Hồ Chí Minh về chiến tranh cách mạng, về xây dựng hậu phương cách mạng
cùng những kinh nghiệm quý báu của dân tộc, trong cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức coi trọng nhiệm vụ
xây dựng hậu phương. Đảng đã sớm nhận thức được tầm quan trọng của việc
xây dựng hậu phương, căn cứ địa kháng chiến, coi đó là một bộ phận chiến
lược của đường lối chiến tranh nhân dân, mà nội dung là giải quyết vấn đề đất
đứng chân và xây dựng tiềm lực để kháng chiến lâu dài. Xuất phát từ đặc
điểm của đất nước đất không rộng, lạc hậu về kinh tế, lực lượng vũ trang còn
non trẻ, lại phải đối chọi với kẻ thù có quân đội thiện chiến, được trang bị vũ
khí hiện đại, Đảng ta đã chủ động xây dựng đường lối kháng chiến, xây dựng
căn cứ địa hậu phương kháng chiến phù hợp với hoàn cảnh đất nước. Xây
dựng hậu phương ở cả vùng rừng núi lẫn đồng bằng, thậm chí ở ngay trong
vùng tạm bị địch chiếm.
, vi
,
.
,
vũ trang
,
.D
phương,
đấu
cách mạng
5
trong hoạt động
.
, đã
1945 – 1954
, chưa
cách mạng
. Do đó, việc nghiên cứu quá trình Đảng bộ tỉnh Phú Thọ
lãnh đạo xây dựng hậu phương trong cuộc kháng chiến chống Pháp nhằm góp
phần làm rõ thêm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh trong quá trình thực
hiện nhiệm vụ hậu phương và góp phần khẳng định vai trị hậu phương kháng
chiến trong thành quả kháng chiến của tỉnh Phú Thọ. Chính v những lý do
: “Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ
trên
hậ
thực dân
(1945 -1954)”
làm luận văn thạc sĩ, chuyên ngành lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
D
, trong thời gian qua có một số cơng trình của cá nhân và tập thể các nhà
khoa học liên quan đến vấn đề này, cụ thể như sau:
Hậu phương chiến tranh nhân dân Việt Nam (1945 – 1975), Viện Lịch
sử quân sự Việt Nam, Nxb QĐND, Hà Nội 1997, đã tổng kết hoạt động xây
dựng, bảo vệ và phát huy sức mạnh hậu phương trong hai cuộc chiến tranh
thần thánh của dân tộc ta chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược; Các
cơng trình: Tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp - thắng lợi và bài
học của Ban chỉ đạo tổng kết chiến tranh- trực thuộc Bộ Chính trị, Nxb
CTQG, HN 1996; Chiến tranh cách mạng Việt Nam (1945 – 1975) - thắng lợi
6
và bài học của Ban chỉ đạo tổng kết chiến tranh - Trực thuộc Bộ Chính trị,
Nxb CTQG, HN 2000, đã tổng kết vấn đề xây dựng căn cứ địa, hậu phương
dưới góc độ những bài học kinh nghiệm.
Các cơng trình nghiên cứu trên khẳng định Đảng sớm nhận thức được
tầm quan trọng của hậu phương, do đó đã hết sức coi trọng xây dựng hậu
phương trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, qn sự, văn hóa xã hội. Đảng đã
giải quyết thành công vấn đề hậu phương và phát huy sức mạnh của hậu
phương, xây dựng hậu phương thành địa bàn chiến lược cung cấp tối đa sức
người, sức của cho kháng chiến, đánh bại hai tên đế quốc có tiềm lực kinh tế,
quân sự và khoa học kỹ thuật mạnh hơn ta nhiều lần. Do đó, đây là nguồn tài
liệu quan trọng để tác giả luận văn tham khảo.
Liên quan đến đề tài cịn có các cơng trình, các bài báo, bài đăng trên
tạp chí như: Hậu phương Thanh – Nghệ - Tĩnh trong kháng chiến chống
Pháp (1946 – 1954) của Ngô Đăng Tri, Nxb CTQG, Hà Nội, 2001; Đảng
lãnh đạo xây dựng căn cứ du kích ở đồng bằng Bắc Bộ (1946 – 1954) của Vũ
Quang Hiển, Nxb CTQG, Hà Nội, 2001; Căn cứ địa U Minh (1945 – 1975)
của Trần Ngọc Long, Nxb QĐND, Hà Nội, 2007;
ta
, 1970;
, 1974; Về xây dựng căn cứ địa – Hậu phương
K
trong kháng chiến chống Pháp của Ngô Vi Thiện, đăng trên T
18 (6/1987);
, đăng trên T
4/1995;
đăng trên T
4/1995;
am của Trần Bạch Đằng đăng trên T
3/1993…
7
Các tác phẩm, bài viết được xuất bản đã nêu lên sự cần thiết, yêu cầu
xây dựng căn cứ địa, hậu phương cho các cuộc kháng chiến; đề cập các quan
điểm, đường lối xây dựng căn cứ địa làm hậu phương cho cuộc chiến tranh
cách mạng; đề cập đến nguồn gốc của việc xây dựng, tính chất và đặc điểm
của căn cứ địa cách mạng… Nhìn chung, các cơng trình nêu trên đã đề cập
đến một số mặt lý luận và thực tiễn của việc xây dựng căn cứ địa, hậu phương
ở các thời kỳ và các chiến trường khác nhau trên cả nước hoặc một số vùng,
địa phương cụ thể.
Ngồi các cơng trình nghiên cứu có tính khái qt trên, cịn có một số
cơng trình nghiên cứu cụ thể về lịch sử địa phương trong thời kỳ này như:
Lịch sử Đảng bộ tỉnh Phú Thọ, tập I (1939- 1968) của Ban Chấp hành Đảng
bộ tỉnh Phú Thọ, Nxb CTQG, H. 2000; Lịch sử kháng chiến chống thực dân
Pháp của quân và dân Phú Thọ (1945- 1954) của Ban Chấp hành Đảng bộ
tỉnh Phú Thọ, Nxb Quân đội nhân dân, 1999; Lịch sử Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam tỉnh Phú Thọ (1930 – 2005) của Ủy ban MTTQVN tỉnh Phú Thọ, năm
2006; Lịch sử lực lượng vũ trang nhân dân tỉnh Phú Thọ1945 -2005 của Ban
Chấp hành Đảng bộ tỉnh Phú Thọ, Nxb Quân đội nhân dân, HN, 2007; Lịch
sử lực lượng vũ trang Quân khu II, Nxb Quân đội nhân dân, HN, 2006; …
Các cơng trình nghiên cứu cụ thể này cung cấp một số tư liệu cần thiết về quá
trình thực hiện nhiệm vụ hậu phương trên địa bàn tỉnh.
Những cơng trình nói trên, tuy mức độ và đứng ở nhiều góc độ khác
nhau, song nói chung đều ghi nhận vai trò quyết định của tỉnh, của hậu
phương trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Thực tế cho thấy, đến nay chưa
có cơng trình khoa học nào được cơng bố đi sâu nghiên cứu một cách hệ
thống
thực hiện nhiệm vụ
tr
(1945 – 1954). Mặc
dù vậy, kết quả nghiên cứu các ấn phẩm của các tác giả nêu trên là nguồn
8
tham khảo quý, nguồn tư liệu phong phú, tin cậy để tác giả kế thừa trong quá
trình thực hiện đề tài
.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích
việc
.
Nêu lên được kết quả cơ bản của việc xây dựng và bảo vệ hậu phương
Phú Thọ thời kỳ 1945 – 1954, qua đó làm nổi bật vai trị lãnh đạo của Đảng
bộ Phú Thọ. Từ đó rút ra những nhậ
ời kỳ cách mạng tiế
.
3.2 Nhiệm vụ
Tập hợp các nguồn tài liệu tại Thư viện Quốc gia Hà Nội, Ủy ban nhân
dân tỉnh Phú Thọ, Tỉnh ủy Phú Thọ, Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh Phú Thọ…
Mô tả một cách khái quát, toàn diện về chủ trương của Đảng, Chủ tịch
Hồ Chí Minh, Tỉnh ủy Phú Thọ về q trình xây dựng hậu phương Phú Thọ
trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu n
của Đảng về
rương chính sách
và các biện pháp chỉ đạo, tổ chức thực
hiện nhiệm vụ hậu phương của Đảng bộ tỉnh Phú Thọ.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung:
thực hiện nhiệm vụ
phương
.
Về không gian: Trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
.
9
Về thời gian:
1945 - 1954
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở sử dụng các phương pháp nghiên
cứu chủ yếu như: Phương pháp lịch sử và logíc. Ngồi ra cịn kết hợp với các
phương pháp khác như: phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh… các phương
pháp trên được sử dụng phù hợp với từng nội dung của luận văn.
6. Đóng góp khoa học của đề tài
của tỉnh Phú Thọ, qua đó làm rõ vai trị
lãnh đạo của Đảng trong xây dựng hậu phương và vai trò lãnh đạo của Đảng
bộ tỉnh trong thực hiện nhiệm vụ hậu phương trên địa bàn tỉnh.
lịch sử
và bảo vệ
, góp phần bổ sung nguồn tư liệu về kháng chiến chống thực dân
Pháp ở Phú Thọ.
7. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được chia thành 3 chương:
Chương 1:
phương
1945
thực hiện nhiệm vụ
1950.
Chương 2:
phương
1951
Chương 3:
thực hiện nhiệm vụ
1954.
kinh nghiệm.
10
Chƣơng 1
TỈNH PHÚ THỌ
THỰC HIỆN NHIỆM VỤ
1945
1.1
1950
kháng
phƣơng cách mạng
.
1.1.1 Đường lối kháng chiến của Đảng
Chiến tranh là thử thách lớn đối với mỗi quốc gia, dân tộc trên tất cả
các mặt của đời sống xã hội. Thử thách đó càng lớn hơn nhiều với nước ta
vào cuối nǎm 1946. Nền độc lập mới giành được 16 tháng, chính quyền chưa
được củng cố vững mạnh, vừa kháng chiến vừa kiến quốc, nên các mặt đời
sống xã hội chưa thật sự ổn định, dân tộc ta đã phải đương đầu với cuộc chiến
tranh trên quy mơ tồn quốc.
mở rộng chiến tranh
,
- -
. Ngày 17 và 18-12, tàn sát đồng bào ta
1946, tại Hà Nội, quân Pháp
các phố Yên Ninh, Hàng Bún
an ninh
. Ngày 18-12-1946,
đại diện Chính phủ Pháp cắt đứt những liên hệ với đại diện Chính phủ ta.
Hành động của thực dân Pháp đã đặt Đảng và Chính phủ và nhân dân ta trước
một tình thế khơng thể nhân nhượng, vì tiếp tục nhân nhượng sẽ dẫn đến họa
mất nước, nhân dân sẽ trở lại cuộc đời nô lệ.
, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã họp hội nghị mở rộng tại làng
Vạn Phúc (Hà Đơng), do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì.
11
Chủ tịch
kịp thời hạ quyết tâm
toàn quốc
.
Đây là lần đầu tiên Đảng lãnh đạo quân dân ta tiến hành một cuộc chiến
tranh vừa mang tính chất bảo vệ Tổ quốc, vừa mang tính chất giải phóng dân
tộc trên quy mơ cả nước, đương đầu với một đế quốc lớn mạnh vốn đã từng
thống trị Việt Nam trong nhiều năm. Đảng xác định c
, song yếu
,
kháng chiến chống thực dân Pháp, đó là đường lối
nhân dân, tồn dân, tồn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính.
,
:
th
, nhằm
địch
hình thức
12
,ở
lực
lượng
Đêm 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi tồn quốc
kháng chiến, Người nói:
“Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất
định không chịu làm nô lệ… Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người
trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc, hễ là người Việt Nam thì phải
đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có
gươm dùng gươm, khơng có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng
phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”. [49, tr. 480]
Đường lối kháng chiến của Đảng được xác định trong Chỉ thị “Toàn
dân kháng chiến” của Trung ương Đảng (12/12/1946), “Lời kêu gọi toàn quốc
kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/12/1946) và được giải thích cụ
thể trong tác phẩm “Kháng chiến nhất định thắng lợi” của đồng chí Tổng bí
thư Trường Chinh. Đường lối kháng chiến của Đảng là thực hiện cuộc chiến
tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính. Cụ
thể là:
Mục đích kháng chiến: “đánh phản động thực dân Pháp xâm lược;
giành thống nhất và độc lập”. Nhiệm vụ và tính chất của cuộc kháng chiến là
“kế tục sự nghiệp Cách mạng Tháng Tám, nhằm hồn thành nhiệm vụ giải
phóng dân tộc, mở rộng và củng cố chế độ cộng hòa dân chủ Việt Nam phát
triển trên nền tảng dân chủ mới, nên có tính chất dân tộc giải phóng và dân
13
chủ mới. Kháng chiến của ta là tự vệ, chính nghĩa và có “thiên thời, địa lợi,
nhân hịa”.
Phương châm tiến hành kháng chiến là toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa
vào sức mình là chính.
Kháng chiến tồn dân là “tất cả già trẻ, trai gái, không phân biệt đảng
phái, tôn giáo, hễ là người Việt Nam phải đứng lên chiến đấu”, là thực hiện
mỗi người dân là một chiến sỹ, mỗi làng xóm là một pháo đài.
Để tiến hành chiến tranh phải vũ trang cho nhân dân, phát động phong
trào dân qn. Đó “là cách hiệu nghiệm động viên tồn dân tham gia tác
chiến; là cách tổ chức và rèn luyện đội quân hậu bị hết sức dồi dào để bổ sung
và tiếp ứng cho quân chính quy, để đánh lâu dài”. [22, tr. 314]
.
(trường kỳ) là để có thời gian chuyển hóa tương
quan lực lượng từ chỗ ta yếu hơn địch đến chỗ ta mạnh hơn địch.
D
(tự lực cánh sinh) là vì ta bị bao vây bốn
phía, khi nào có điều kiện sẽ tranh thủ sự giúp đỡ của các nước, song lúc đó
cũng khơng được ỷ lại.
Đảng phát động cuộc kháng chiến chống Pháp là một quyết định lịch sử
với trách nhiệm chính trị to lớn. Với tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo,
thấm nhuần quan điểm về quần chúng nhân dân của chủ nghĩa Mác – Lênin,
phát huy cao độ truyền thống cả nước chung sức đánh giặc, vừa sản xuất, vừa
chiến đấu, gắn liền kháng chiến với kiến quốc, Đảng đã sớm đề ra đường lối
kháng chiến đúng đắn, sáng tạo, khoa học nhằm huy động nguồn lực lượng vơ
tận của tồn dân, tạo ra sức mạnh vật chất và tinh thần cho cuộc chiến tranh
nhân dân Việt Nam. “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, chỉ thị “Tồn dân kháng chiến” của Trung ương Đảng và tác phẩm
14
“Kháng chiến nhất định thắng lợi” của Trường Chinh được coi là nội dung cơ
bản của Đường lối kháng chiến của Đảng ta,
nhân dân ta tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược đi tới
thắng lợi.
Để tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Đảng ta và Chủ
tịch Hồ Chí Minh hết sức coi trọng nhiệm vụ xây dựng hậu phương, coi đó là
một trong những nhân tố thường xuyên quyết định thắng lợi của chiến tranh
giải phóng dân tộc.
1.1.2 Chủ trương của Đảng về xây dựng hậu phương trong kháng
chiến
Hậu phương hiểu theo nghĩa hẹp: “Là nơi đối xứng với tiền tuyến, có
sự phân biệt rạch rịi bằng yếu tố khơng gian, là lãnh thổ ngồi vùng chiến sự,
phía sau chiến tuyến, có dân cư và tiềm lực mọi mặt, nhất là về nhân lực, vật
lực. Là nơi xây dựng và huy động sức người, sức của, đáp ứng nhu cầu của
lực lượng vũ trang ngoài tiền tuyến”. [65, tr. 231]
Theo nghĩa rộng, đây là chỗ dựa để tiến hành chiến tranh, nơi cung cấp
sức người, sức của cho chiến tranh, không phân biệt rạch rịi với tiền tuyến về
mặt khơng gian.
Như vậy, có thể thấy ngay rằng, trong các cuộc chiến tranh, hậu
phương là một trong những điều kiện cơ bản quyết định thắng bại, được thua
của hai bên tham chiến. Bởi vì, chiến tranh là cuộc đọ sức toàn diện giữa hai
bên tham chiến. Muốn thắng lợi phải có tiềm lực chiến tranh, bao gồm tiềm
lực kinh tế (trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, chế độ kinh tế), tiềm
lực chính trị - tinh thần (chế độ chính trị - xã hội, hệ tư tưởng và tinh thần của
nhân dân), tiềm lực quân sự (sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang).
Những tiềm lực đó phải được tạo ra và dự trữ tại hậu phương. Chiến tranh
15
phải dựa vào hậu phương hùng mạnh. Quân đội nào tách khỏi hậu phương thì
khơng thể giành thắng lợi trong chiến tranh, không thể tồn tại được.
Trong lịch sử quân sự, các nhà quân sự lỗi lạc và những người thầy vĩ
đại của cách mạng vô sản như Mác, Ăng ghen, Lênin đều nhấn mạnh đến vai
trò của hậu phương vững chắc, có tổ chức. Ăng ghen đã viết: “Tồn bộ việc tổ
chức và phương thức chiến đấu của quân đội và do đó thắng lợi, thất bại đều
tỏ ra là phụ thuộc vào những điều kiện vật chất, nghĩa là điều kiện kinh tế,
vào chất liệu của con người và của vũ khí, nghĩa là vào chất lượng và số
lượng của cư dân và của cả kĩ thuật”. [17, tr. 242]
Lênin thì cho rằng: “Trong chiến tranh, ai có nhiều lực lượng hậu bị
hơn, ai có nhiều nguồn lực, ai kiên trì đi sâu vào quần chúng nhân dân hơn,
thì người đó thu được thắng lợi” [72, tr.84]
Chiến tranh càng phát triển thì vai trị lực lượng vũ trang càng quan
trọng. Để bảo đảm hoạt động xây dựng và tác chiến của lực lượng vũ trang,
phải xây dựng một hậu phương vững mạnh. Lênin nói: “Muốn tiến hành chiến
tranh một cách thực sự, phải có một hậu phương được tổ chức vững chắc, một
đội quân giỏi nhất, những người trung thành nhất với sự nghiệp cách mạng
cũng đều sẽ lập tức bị kẻ thù tiêu diệt nếu họ không được vũ trang, tiếp tế
lương thực và huấn luyện đầy đủ” [73, tr. 247].
Ngoài ra, đề cập đến những yếu tố cụ thể quyết định sức mạnh của hậu
phương, Mác, Ăngghen và Lênin đều đánh giá cao nhân tố chính trị- tinh
thần, đồng thời cũng nhấn mạnh đến yếu tố trang bị vũ khí. Xtalin, khi bàn
đến sự thử thách khắc nghiệt của chiến tranh, đã nói: “Lịch sử chiến tranh dạy
rằng, chỉ có những nước nào mạnh hơn đối phương của mình về mặt phát
triển và tổ chức kinh tế, về kinh nghiệm, tài nghệ và tinh thần chiến đấu của
quân đội, về tinh thần kiên cường và đoàn kết của nhân dân trong suốt cả quá
trình chiến tranh thì mới chịu đựng được sự thử thách đó” [70, tr. 113].
16
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng cho rằng: “khi có chiến tranh, phải huy
động và tổ chức tất cả các lực lượng trong nước để chống giặc” [48, tr. 474].
Kháng chiến càng lâu dài và ác liệt, càng phải huy động cao nhất sức người,
sức của của căn cứ địa, hậu phương. Vì vậy, nhất thiết phải xây dựng căn cứ,
hậu phương vững mạnh tồn diện về mọi mặt chính trị, kinh tế, quân sự, văn
hóa…
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, chính quyền nhân dân vừa mới
thành lập đã phải đương đầu với những khó khăn, thử thách nghiêm trọng. Ở
miền Nam, quân Pháp được quân Anh trợ giúp, ngày 23 tháng 9 năm 1945 đã
khởi hấn ở Sài Gịn, kế đó đánh chiếm Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Ngoài
Bắc, gần 20 vạn quân Trung Hoa dân quốc của Tưởng Giới Thạch (sau đây
viết tắt là quân Tưởng), được Mỹ tiếp tay, kéo vào với danh nghĩa giải giáp
qn Nhật nhưng cịn mục tiêu bóp chết cách mạng, dựng nên chính quyền
tay sai của chúng. Trong khi đó, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa chưa được
nước nào trên thế giới cơng nhận. Chính quyền nhân dân mới được thành lập,
chưa được kiện toàn, kinh nghiệm quản lý nhà nước còn rất hạn chế. Lực
lượng vũ trang non trẻ, vũ khí thơ sơ, kinh nghiệm chỉ huy và chiến đấu ít ỏi.
Ách áp bức phong kiến cùng chính sách vơ vét tàn bạo của thực dân Pháp và
phát xít Nhật khiến nền kinh tế quốc dân lâm vào tình trạng suy sụp thảm hại.
Nhân dân vừa trải qua nạn đói khủng khiếp, chỉ trong vịng ba tháng giữa năm
1945, gần hai triệu đồng bào chết vì đói và dịch bệnh. Cơng thương nghiệp
hàng hóa đình đốn, ngoại thương đình trệ, thủ cơng nghiệp tiêu điều. Về tài
chính, kho bạc của chính quyền cách mạng chỉ cịn hơn 1 triệu đồng nhưng
quá nửa là rách nát. Ngân hàng Đông Dương còn nằm trong tay Pháp, đồng
tiền Quan kim do quân Tưởng tung ra buộc ta phải lưu hành khiến cho thị
trường càng thêm rối loạn. Do hậu quả của chính sách ngu dân của thực dân
17
Pháp, 95% dân số nước ta không biết chữ và còn nhiều tệ nạn xã hội khác do
hậu quả của chế độ thực dân để lại hết sức nặng nề.
Những khó khăn về giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm đặt nước ta trong
tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, chính quyền nhân dân có nguy cơ bị lật đổ,
nền độc lập mới giành được có thể bị mất. Nhiệm vụ cơ bản nhất đặt ra cho
Đảng và chính quyền nhân dân lúc này là giữ vững chính quyền, bảo vệ và
xây dựng chế độ mới.
Để chống thù trong, giặc ngồi, cùng với việc giáo dục chính trị cho
quần chúng, xây dựng khối đoàn kết toàn dân, tổ chức và phát triển các đoàn
thể cách mạng, xây dựng lực lượng vũ trang, Đảng và Chính phủ đã đề ra
nhiều chủ trương lớn về xây dựng hậu phương trước khi xảy ra chiến tranh
trên phạm vi cả nước.
Trong bài nói chuyện với cán bộ, đại biểu nhân dân và thân sỹ, phú
hào, trí thức ở Thanh Hóa ngày 20 tháng 2 năm 1947, với chủ đích nói về hậu
phương, Hồ Chí Minh đã phân tích và nêu lên những khó khăn của quân xâm
lược Pháp ở Đông Dương do những rối ren về chính trị, sa sút về kinh tế tại
chính quốc. Đối với cuộc kháng chiến của ta, Người phân tích và khẳng định
ta sẽ thắng vì ta có hậu phương ưu thế hơn địch, ta có thiên thời, địa lợi, nhân
hịa đủ để thắng địch.
Ta có thiên thời là “Ít tháng nữa trời nóng nực, Pháp khơng chịu nổi khí
hậu, sẽ ngại dần, từ Nam chí Bắc đi tới đâu cũng chỉ có tro tàn, gạch vụn.
Pháp đánh ban ngày nhưng ta lại đánh ban đêm”. Địa lợi là: “Ta ở đất ta,
Pháp khơng quen đường đi”. Nhân hịa là “Trừ một số Việt gian, còn 25 triệu
nhân dân ta đều muốn tự do. Còn dư luận ở Trung Quốc, Ấn Độ, Nam
Dương, Miến Điện, Tân Gia Ba, đều là chính nghĩa, mà đến Pháp cũng đa số
ngả về ta”. “Cả ba: Thiên thời, địa lợi, nhân hòa đều lợi cho ta. Những cái có
lợi cho ta là hại cho địch, mà lợi cho địch mà hại cho ta”. [48, tr. 236]
18
Dựa vào những ý kiến chỉ dẫn trực tiếp của Hồ Chí Minh và căn cứ vào
chủ trương xây dựng căn cứ địa, hậu phương của Hội nghị Trung ương tháng
4 năm 1947. Năm 1948, Trung ương Đảng có nghị quyết về xây dựng hậu
phương để kháng chiến lâu dài. Năm 1950, với ý định phối hợp với cách
mạng Trung Quốc, Đảng chủ trương đẩy mạnh xây dựng hậu phương, thực
hiện tổng động viên nhân tài vật lực để chuyển mạnh sang tổng phản công.
Tháng 2-1951, Đại hội lần thứ II của Đảng được triệu tập, đã nhấn mạnh xây
dựng hậu phương toàn diện, đẩy mạnh sản xuất, tiết kiệm, xây dựng lực lượng
vũ trang, tranh thủ sự ủng hộ của các nước anh em để đẩy mạnh phản công,
đưa kháng chiến phát triển đến thắng lợi.
Trong khi chủ trương động viên toàn dân, vũ trang toàn dân, xây dựng
lực lượng vũ trang nhân dân, Đảng chủ trương dựa vào quần chúng nhân dân
được giác ngộ cách mạng để xây dựng căn cứ địa cách mạng. Đó là một trong
những điều kiện căn bản để tiến hành kháng chiến và đưa kháng chiến đến
thắng lợi. Đồng chí Trường Chinh vạch rõ: Để huy động sức người, sức của
cho kháng chiến, phải xây dựng hậu phương, xây dựng căn cứ địa khắp nơi.
“Căn cứ địa là một vùng tương đối an tồn ở đó ta đóng các cơ quan đầu não,
huấn luyện bộ đội chủ lực, đào tạo cán bộ, chế tạo vũ khí, đạn dược, chữa
chạy thương binh…”. [22, tr. 310]
Do nhận thức được vai trò, tầm quan trọng của hậu phương, ngay từ
những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, Đảng ta đã chủ động xây
dựng căn cứ địa, hậu phương kháng chiến mang những đặc điểm phù hợp với
hoàn cảnh đất nước. Nước ta hẹp lại dài, hai mặt Đơng và Tây Nam giáp biển,
nếu có chiến tranh, địch có thể chia cắt nước ta thành nhiều chiến trường.
Trước khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ, cả nước được chia làm 12 khu để
thuận tiện cho việc chỉ đạo chiến tranh, Mỗi chiến khu, thậm chí ở từng tỉnh,
từng huyện hoặc liên tỉnh, liên huyện phải chọn những vùng “có thế chiến
19
lược lợi hại, tiến có thể đánh, lui có thể giữ” để xây dựng thành căn cứ địa,
làm chỗ đứng chân cho các cơ quan lãnh đạo kháng chiến, có tiềm năng xây
dựng lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang, giải quyết vấn đề hậu cần, nuôi
dưỡng và tiếp tế cho lực lượng kháng chiến. Bước vào cuộc kháng chiến,
Đảng xác định ở Việt Nam có cǎn cứ địa vững chắc nhất là lịng dân, khơng
có lịng u nước sâu sắc của nhân dân, khơng có tinh thần giác ngộ cách
mạng cao của đơng đảo quần chúng thì căn cứ địa nào, dù có núi cao rừng
thẳm vẫn có thể bị địch đánh thọc sâu, hoặc bao vây chia cắt. Từ đó có thể mở
mặt trận ở bất cứ nơi nào có bóng địch, đánh ngay cả ở sau lưng địch, trong
lòng địch và tổ chức cǎn cứ địa không những ở rừng núi mà cả ở đồng
bằng". Để bảo đảm chiến đấu thắng lợi, Đảng chủ trương xây dựng cǎn cứ địa
và hậu phương tại chỗ vững mạnh, lấy nông thôn đồng bằng và rừng núi làm
địa bàn chiến lược trọng yếu.
Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trương xây dựng hậu phương,
căn cứ địa ở cả rừng núi và đồng bằng, ở cả trước mặt và sau lưng địch. Ở đâu
có quần chúng yêu nước được giác ngộ thì ở đó có hậu phương. Bởi vì, rừng
núi là địa bàn chiến lược quan trọng, địa thế hiểm trở, có nhân dân các dân tộc
trung thành với cách mạng, địch có nhiều sơ hở, khó phát huy ưu thế vũ khí
và phương tiện chiến tranh hiện đại. Ta có thể xây dựng, phát triển lực lượng,
duy trì một cuộc chiến tranh lâu dài, kể cả những lúc gặp khó khăn nhất. Đây
là nơi có thể xây dựng hậu phương vững chắc nhất của cách mạng nước ta.
Đồng bằng là nơi khơng có địa thế hiểm trở như rừng núi, nhưng là nơi đông
dân, nhiều của. Xây dựng chỗ đứng chân ở đồng bằng mới có điều kiện khai
thác nhiều nhân tài, vật lực cho kháng chiến.
Với tinh thần đó, trong cuộc kháng chiến chống Pháp, Đảng ta tích cực
củng cố những cǎn cứ đã có như Việt Bắc, Khu IV và Khu V, vùng Đồng
Tháp Mười, đồng thời tích cực xây dựng các làng chiến đấu, các cǎn cứ và
20
khu du kích trong vùng tạm chiếm. Ở nước ta khơng hình thành "vùng đỏ",
"vùng trắng", khơng lấy nơng thơn bao vây thành thị, mà hình thành một hệ
thống cǎn cứ kháng chiến đa dạng ở cả vùng rừng núi, đồng bằng và thành
phố.
Nông thôn đồng bằng là địa bàn tranh chấp quyết liệt giữa ta và địch.
Địch ra sức "bình định" vùng đồng bằng để "lấy chiến tranh ni chiến tranh,
dùng người Việt đánh người Việt". Chúng xây dựng hệ thống đồn bốt, cǎn cứ
nhỏ ở ven đô thị, trục đường giao thông nhằm ngǎn chặn ta từ xa, tạo ra thế
bao vây, chia cắt vùng nông thôn để dễ kiểm soát. Bọn Việt gian phản động,
tề điệp dựa vào hệ thống đồn bốt này để hoạt động lùng bắt cán bộ và đàn áp
nhân dân. Ta quyết tâm giữ vùng nông thôn để xây dựng hậu phương tại chỗ
vững mạnh. Các làng chiến đấu và cǎn cứ du kích nằm xen kẽ với hệ thống
đồn bốt địch, tạo thế đan xen nhau. Ta tích cực chiến đấu bảo vệ hậu phương,
đồng thời cũng ra sức đánh phá hậu phương địch, biến hậu phương địch thành
tiền phương ta, không ngừng mở rộng hậu phương ta.
Có thể thấy, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh khơng quan niệm hậu
phương theo nghĩa thông thường của chiến tranh quy ước, hiện đại, có chiến
tuyến rõ rệt, mà có sự phát triển mới về lý luận và được chứng minh bằng
thực tiễn, với những điểm sáng tạo, độc đáo, tạo ra ngay trong vùng địch
chiếm đóng những nơi có thể xây dựng và dự trữ tiềm lực của chiến tranh, cả
về chính trị, quân sự, kinh tế và văn hóa, thành những nơi huy động nhân lực,
vật lực cho kháng chiến và tạo chỗ dựa về tinh thần cho cuộc kháng chiến ở
địch hậu. Đảng chủ trương xây dựng hậu phương, căn cứ địa ở cả rừng núi và
đồng bằng, ở cả trước mặt và sau lưng địch. Ở đâu có quần chúng u nước
được giác ngộ thì ở đó có hậu phương. Đảng lãnh đạo xây dựng hậu phương
của chiến tranh nhân dân rộng khắp với những quy mơ và hình thức khác
nhau. Nhiều loại hình hậu phương sẽ tạo ra thế xen kẽ một cách triệt để giữa
21
ta và địch, làm cho hậu phương và tiền tuyến đan xen nhau, ln ln biến
động, khơng có ranh giới ổn định mà thường xuyên chuyển hóa, xoay vần
cùng với kẻ địch trong một quá trình kháng chiến trường kỳ, tạo ra nguồn sức
mạnh vô tận của chiến tranh nhân dân, trong đó mỗi người dân là một người
lính, mỗi làng xã là một pháo đài, đánh giặc một cách tồn diện và bằng mọi
vũ khí có trong tay. Vì thế “hậu phương khơng cịn là đối xứng của tiền tuyến
theo nghĩa cổ điển, cũng không thể xác định chỉ bằng yếu tố khơng gian”. Đó
là “hiện tượng kỳ lạ của chiến tranh nhân dân Việt Nam”.
Đường lối kháng chiến của Đảng là đường lối chiến tranh nhân dân. Vì
thế chủ trương xây dựng hậu phương ở cả rừng núi và đồng bằng có ý nghĩa
hết sức quan trọng. Nó cho phép động viên toàn dân tham gia chiến tranh, giải
quyết nguồn sức người, sức của dồi dào, phục vụ yêu cầu ngày càng lớn của
cuộc kháng chiến, tạo khả năng mở mặt trận ở bất cứ nơi nào có bóng địch.
Nhìn chung, trong q trình kháng chiến, Đảng đã lãnh đạo xây dựng,
bảo vệ các vùng tự do trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa,
biến các vùng tự do lớn thành hậu phương chiến lược của cuộc kháng chiến.
Chủ trương xây dựng hậu phương cách mạng của Đảng được vạch ra ngay từ
những ngày đầu cuộc kháng chiến và được Đảng tiếp tục phát triển về sau.
1.2 Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ
ời kỳ từ 1945
1950
1.2.1 Điều kiện tự nhiên, con người, truyền thống lịch sử Phú Thọ và
n
trên địa bàn
,
.
Phó Thä lµ mét tỉnh thuộc vùng Đông Bắc Bộ, đ-ợc thành lập từ năm
1891 d-ới thời Pháp thuộc. Sau gần tám thập kỷ ra đời, đầu năm 1968, Phú
Thọ chính thức hợp nhất với Vĩnh Phúc thành tỉnh Vĩnh Phú. Sau 29 năm hỵp
22
nhất, tỉnh Phú Thọ đ-ợc tái lập trở lại từ ngày 1/1/1997 theo Nghị quyết kỳ
họp thứ 10, Quốc hội khoá IX.
Tỉnh Phú Thọ có diện tích tự nhiên là 3.519,65 km2 (chiÕm 1,2% diƯn
tÝch c¶ n-íc, xÕp thø 10/11 tỉnh thuộc vùng Đông Bắc Bộ và xếp thứ 38/64
tỉnh, thành phố cả n-ớc). Phú Thọ cách thủ đô Hà nội 80 km, là điểm tiếp giáp
aB
giữa vùng Đông Bắc đồng bằng sông Hồng và vùng Tây Bắc.
ụng
. Với vị trí nh- vậy, Phú Thọ là cửa ngõ phía Tây - Bắc của thủ
đô Hà Nội và là địa bàn kinh tế trọng điểm phía Bắc, là cầu nối giữa các tỉnh
đồng bằng Bắc Bộ, thủ đô Hà nội với các tỉnh miền núi Tây Bắc l Tuyên
Quang, Hà Giang, Yên Bái, Lào Cai, Sơn La.
,
.
cú th
nờn
.T
,
.
23
xây
.
Phó Thä lµ tØnh trung du miỊn nói duy nhÊt không có đ-ờng biên giới
quốc gia (kể cả đ-ờng bộ và đ-ờng biển). Nh-ng Phú Thọ có vị trí địa lý quan
bắt nguồ
träng vỊ qc phßng.
aN
thơng quan
thiên nhiên
.
liên huyện,
, liên
-
. Ngo
24
-