Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

Đảng lãnh đạo thực hiện phương châm biết thắng từng bước trong cuộc kháng chiến chống thực dân pháp (1945 1954)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (902.78 KB, 73 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA LỊCH SỬ

ĐOÀN DÁNG PHƢƠNG THẢO

ĐẢNG LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN
PHƢƠNG CHÂM BIẾT THẮNG TỪNG
BƢỚC TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN
CHỐNG THỰC DÂN PHÁP
(1945 - 1954)
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
PGS. TS. VŨ QUANG VINH

HÀ NỘI, 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
được nêu trong bài khóa luận là thành thực và chưa từng được ai công bố trong bất
kỳ công trình nào.

Tác giả

Đoàn Dáng Phương Thảo


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này, trƣớc tiên em xin bày tỏ lòng cảm ơn


sâu sắc đến giáo viên hƣớng hƣớng dẫn em đó là PGS.TS Vũ Quang Vinh, ngƣời
thầy đã tận tình chỉ bảo, đóng góp ý kiến và bổ sung cho em trong việc triển khai thực
hiện đề tài. Vốn kiến thức tiếp thu trong việc nghiên cứu đề tài không chỉ phục vụ cho
việc học tập mà còn là nền tảng cho việc nghiên cứu sau này của bản thân em.
Em xin cảm ơn thầy cô trong khoa lịch sử đã có những góp ý, nhận xét cho
em trong việc lựa chọn đề tài nghiên cứu.
Nhờ những sự đóng góp đó, cuối cùng khóa luận của em đã hoàn thành,
không biết nói gì hơn, một lần nữa em xin chúc thầy cô dồi dào sức khỏe, công tác
tốt trong con đƣờng sự nghiệp của mình.
Em xin chân thành cảm ơn!

Sinh viên thực hiện

Đoàn Dáng Phƣơng Thảo


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
NỘI DUNG ............................................................................................................. 6
Chƣơng 1. ĐẢNG LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN PHƢƠNG CHÂM BIẾT
THẮNG TỪNG BƢỚC (1945 - 1950) .................................................................... 6
1.1. BỐI CẢNH LỊCH SỬ ................................................................................... 6
1.2. QUÁ TRÌNH ĐẢNG LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN PHƢƠNG CHÂM
BIẾT THẮNG TỪNG BƢỚC GIAI ĐOẠN (1945-1950) .................................. 10
Chƣơng 2. ĐẢNG LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN PHƢƠNG CHÂM BIẾT
THẮNG TỪNG BƢỚC SAU CHIẾN DỊCH BIÊN GIỚI THU ĐÔNG NĂM
1950 ĐẾN NĂM 1954 ........................................................................................... 31
2.1. TÌNH HÌNH QUỐC TẾ VÀ TRONG NƢỚC TÁC ĐỘNG ĐẾN VIỆC
THỰC HIỆN PHƢƠNG CHÂM BIẾT THĂNG TỪNG BƢỚC. ....................... 31

2.2. ĐẢNG LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN PHƢƠNG CHÂM BIẾT THẮNG
TỪNG BƢỚC TRONG GIAI ĐOẠN CUỐI CUỘC KHÁNG CHIẾN
CHỐNG PHÁP (1950-1954) .............................................................................. 34
Chƣơng 3. MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM CHỦ YẾU ...................... 52
3.1. NHẬN XÉT ................................................................................................ 52
3.2. MỘT SỐ KINH NGHIỆM CHỦ YẾU ........................................................ 54
KẾT LUẬN ........................................................................................................... 63
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 65


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CNXH

: Chủ nghĩa xã hội

TDP

: Thực dân Pháp

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong lịch sử dựng nƣớc và giữ nƣớc của dân tộc, để chiến thắng kẻ thù lớn
mạnh, trên cơ sở đƣờng lối và phƣơng pháp cách mạng đúng, Đảng phải có nghệ
thuật chỉ đạo tài giỏi. Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt Nam, đúc

kết từ thực tiễn đấu tranh, ông cha ta đã biết vận dụng rất nhiều phƣơng châm để có
thể đánh thắng đƣợc kẻ thù xâm lƣợc, trong đó có phƣơng châm biết thắng từng
bƣớc. Nghệ thuật giành thắng lợi từng bƣớc đi đến giành thắng lợi hoàn hoàn, là nét
độc đáo, là bài học kinh nghiệm quý báu của cách mạng nƣớc ta.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Đảng ta đã biết
vận dụng kinh nghiệm biết thắng từng bƣớc để đánh bại âm mƣu, thủ đoạn của địch
để tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn đó là một quy luật của đấu tranh cách mạng.Vì
vậy việc tiếp tục nghiên cứu phƣơng châm biết thắng từng bƣớc trong kháng chiến
chống Pháp là một vấn đề rất cần thiết và cấp bách.
Nghiên cứu vấn đề này giúp ta hiểu rõ hơn nguồn gốc thắng lợi, thấy sự lãnh
đạo của Đảng về phƣơng châm biết thắng từng bƣớc là một vấn đề xuyên suốt trong
chiến tranh. Đồng thời góp phần làm sáng tỏ nguyên nhân của những sai lầm, thất
bại tạm thời của chúng ta trong quá trình kháng chiến.
Trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ đất nƣớc nhƣ hiện nay, việc
nghiên cứu phƣơng châm biết thắng từng bƣớc còn cho chúng ta những bài học kinh
nghiệm quý báu để có thể hoạch định đƣờng lối mà trọng tâm là đi sâu vào phát
triển kinh tế, then chốt là xây dựng Đảng, xây dựng một nền văn hóa tiên tiến đậm
đà bản sắc dân tộc. Từ đó có những biện pháp, hình thức, bƣớc đi thích hợp, tránh
đƣợc những nóng vội, chủ quan, duy ý chí trong thực tiễn lãnh đạo và chỉ đạo.
Nghiên cứu phƣơng châm biết thắng từng bƣớc còn giúp chúng ta củng cố và
tăng thêm lòng tin có căn cứ khoa học về năng lực tƣ duy độc lập, tự chủ của Đảng
trong việc giải quyết thành công những vấn đề cơ bản, cấp bách đặt ra trong công
cuộc đổi mới, hội nhập hiện nay. Chính vì những lí do trên đây, ngƣời nghiên cứu

1


muốn chọn đề tài: “Đảng lãnh đạo thực hiện phƣơng châm biết thắng từng bƣớc
trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954)” làm đề tài nghiên cứu
của mình.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Cho đến hiện nay việc nghiên cứu phƣơng châm biết thắng từng bƣớc trong
kháng chiến chống thực dân Pháp đã có rất nhiều tác giả nói đến:
Đồng chí Lê Duẩn (1970), “Dƣới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập tự do vì
chủ nghĩa xã hội tiến lên giành thắng lợi mới”, Nxb Sự thật, 1970. Tác giả đã khẳng
định “Đẩy lùi địch từng bƣớc, giành thắng lợi từng bƣớc cho cách mạng tiến lên
đánh bại hẳn kẻ địch, giành thắng lợi hoàn toàn đó là một quy luật đấu tranh cách
mạng” [31, tr38]. Đây là một phƣơng châm để giành thắng lợi từng bƣớc trong
kháng chiến chống Mỹ, cứu nƣớc của nhân dân ta.
GS. Trần Nhâm (1995), “Nghệ thuật biết thắng từng bƣớc”, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội. Tác giả xuất phát từ góc độ triết học, tác giả đã luận giải và làm
sáng tỏ cơ sở phƣơng pháp luận của đƣờng lối và phƣơng pháp cách mạng của
Đảng ta. Thực tế chỉ rõ, trên cơ sở nắm vững mục đích cách mạng, nghệ thuật lãnh
đạo cách mạng cũng nhƣ nghệ thuật sử dụng phƣơng pháp cách mạng còn bao gồm
vấn đề biết thắng từng bƣớc cho đúng. Sử dụng sức mạnh tổng hợp, đẩy lùi kẻ địch
từng bƣớc, giành thắng lợi hoàn toàn, đó là một quy luật của đấu tranh cách mạng.
Nghệ thuật biết thắng từng bƣớc là một đóng góp có giá trị về mặt lý luận và thực tiễn.
Đinh Xuân Tú (2002), “Đảng chỉ đạo biết thắng từng bƣớc trong kháng chiến
chống Mỹ, cứu nƣớc (1965- 1975)”. Tác giả đi sâu nghiên cứu về giai đoạn này để
trả lời câu hỏi tại sao chúng ta đánh Mỹ và thắng Mỹ. Đồng thời Đảng vận dụng
biết thắng từng bƣớc để đánh bại các chiến lƣợc chiến tranh của đế quốc Mỹ nhƣ
đánh bại chiến lƣợc chiến tranh cục bộ, đánh bại chiến lƣợc Việt Nam hóa chiến
tranh tiến tới giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nƣớc.
Dựa trên cơ sở những tác giả đã nghiên cứu trƣớc đây, ngƣời nghiên cứu đã
tổng kết lại quá trình Đảng lãnh đạo tổ chức thực hiện phƣơng châm biết thắng từng
bƣớc trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945- 1954). Đƣợc thực hiện qua các

2



giai đoạn của cuộc kháng chiến nhƣ Đảng lãnh đạo tổ chức thực hiên phƣơng châm
biết thắng từng bƣớc trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến (1945-1950); Đảng
lãnh đạo tổ chức thực hiện phƣơng châm biết thắng từng bƣớc từ sau chiến thắng
Biên Giới (1950- 1954)
Từ thực tiễn lãnh đạo và chỉ đạo tổ chức thực hiện của Đảng, ngƣời nghiên
cứu rút ra những kinh nghiệm trong chỉ đạo phƣơng châm biết thắng từng bƣớc của
Đảng trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945- 1954).
GS. Lê Xuân Lựu (1997), “Nghệ thuật đánh thắng địch từng bƣớc tạo thời cơ
thắng lợi hoàn toàn”, Tạp chí Cộng sản, 518(8), Tr37- 42.
PGS.TS. Vũ quang Vinh, “Biết thắng từng bƣớc trong đấu tranh ngoại giao
Việt Nam”, Tạp chí thông tin đối ngoại số 3- 2007.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ chủ trƣơng biết thắng từng bƣớc của Đảng trong kháng chiến chống
thực dân Pháp (1945- 1954).
Góp phần làm rõ quá trình tổ chức thực hiện phƣơng châm biết thắng từng
bƣớc của Đảng trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945- 1954).
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Từ thực tiễn rút ra những nhận xét về quá trình lãnh đạo, chỉ đạo và những
kinh nghiệm trong việc đề ra và thực hiện phƣơng châm biết thắng từng bƣớc của
Đảng trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945- 1954).
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Làm rõ quá trình Đảng lãnh đạo thực hiện phƣơng châm biết thắng từng
bƣớc trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945- 1954).
Chủ thể lãnh đạo: Đảng cộng sản Việt Nam.
Đối tƣợng lãnh đạo: Trên lĩnh vực quân sự, chính trị và ngoại giao.
Phƣơng thức lãnh đạo: Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra phƣơng châm biết
thắng từng bƣớc và tổ chức thực hiện phƣơng châm biết thắng từng bƣớc trong cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp từ năm 1945 đến 1954.


3


4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về mặt thời gian:
Phạm vi thời gian nghiên cứu của đề tài là từ tháng 11 năm 1945 đến tháng 7
năm 1954 (Tháng 11 năm 1945 là Ban Chấp Hành Trung ƣơng Đảng ra Chỉ thị “kháng
chiến kiến quốc”, vạch ra con đƣờng kháng chiến trong cách mạng Việt Nam.
Tháng 7 năm 1954 Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa
bình ở Đông Dƣơng đƣợc ký kết, kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lƣợc nhân dân ta.
Về mặt không gian:
Không gian nghiên cứu của đề tài là nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ
tháng 11 năm 1945 đến tháng 7 năm 1954.
Những chủ trƣơng, đƣờng lối, chỉ thị, Nghị quyết của Đảng tác động đến mặt
trận quân sự làm thay đổi cục diện chiến trƣờng.
5. Cơ sở lý luận, phƣơng pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu
5.1. Cơ sở lý luận
Để giải quyết vấn đề đặt ra, ngƣời nghiên cứu dựa trên những quan điểm của
chủ nghĩa Mác- Lênin, Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về chiến
tranh cách mạng, về bạo lực cách mạng, về chiến tranh.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả chủ yếu sử dụng phƣơng pháp lịch sử và phƣơng pháp lôgic.
Ngoài ra còn sử dụng các phƣơng pháp khác nhƣ so sánh, thống kê để làm rõ
nội dung đề tài.
5.3. Nguồn tài liệu
Các văn kiện của Đảng về kháng chiến chống thực dân Pháp từ năm 1945
đến 1954.
Tài liệu sách báo: Những tài liệu, sách báo, tạp chí, bài viết, luận văn, luận

án và các tài liệu khác có liên quan đến vấn đề nghiên cứu đƣợc đăng tải công khai
về vấn đề này.

4


6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo. Kết cấu của đề
tài bao gồm 3 chƣơng, 6 tiết.

5


NỘI DUNG
Chƣơng 1
ĐẢNG LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN PHƢƠNG CHÂM BIẾT
THẮNG TỪNG BƢỚC (1945 - 1950)

1.1. BỐI CẢNH LỊCH SỬ
1.1.1. Bối cảnh quốc tế
Đại chiến thế giới lần thứ hai kết thúc với thắng lợi của phe Đồng minh đã
cứu loài ngƣời ra khỏi thảm họa của chủ nghĩa phát xít Đức -Ý - Nhật. Các nƣớc Ba
Lan, Bungary, Hunggari, Tiệp Khắc, Nam Tƣ, Abani, Rumani, Đông Đức, miền
Bắc Triều Tiên, Mông Cổ đƣợc giải phóng, lập nên chế độ dân chủ nhân dân, tiến
lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, cuộc chiến tranh thế giới đã tàn phá rất nặng nề các
nƣớc trong phe XHCN và một số nƣớc công nghiệp phát triển, trong đó Liên Xô bị
tàn phá nặng nề nhất. Sau đại chiến Liên Xô phải lo dồn sức vào hàn gắn vết thƣơng
chiến tranh, khôi phục kinh tế. Phát huy vai trò trụ cột của mình đối với phong trào
cách mạng thế giới. Với uy tín và ảnh hƣởng chính trị rất lớn hồi bấy giờ, Liên Xô
đã khích lệ, động viên, ủng hộ tinh thần đối với nhân dân lao động bị áp bức ở các

châu lục vùng lên. Nhƣng Liên Xô cũng chƣa có điều kiện để giúp đỡ một cách
mạnh mẽ về vật chất cho phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nƣớc thuộc
địa và nửa thuộc địa.
Những năm 1945- 1946, Đức, Ý, Nhật bị đánh bại, các nƣớc tƣ bản Anh,
Pháp đều bị tàn phá nặng nề trong chiến tranh, nền kinh tế- tài chính giảm sút,
phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở nhiều nƣớc Châu Á, châu Phi, phong trào
đấu tranh của giai cấp công nhân trong các nƣớc tƣ bản châu Âu cũng bột khởi. Quy
mô và chiều sâu của phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc làm lung lay hệ
thống thuộc địa và làm suy yếu lực lƣợng của chủ nghĩa đế quốc, tạo điều kiện cho
sự nghiệp giải phóng dân tộc ở nhiều nƣớc giành đƣợc thắng lợi vào những năm
tiếp sau.

6


Lúc này, cách mạng Trung Quốc đã giải phóng phần lục địa phía Bắc với gần
100 triệu trên 450 triệu dân, nhƣng cuộc nội chiến giữa lực lƣợng cách mạng do
Đảng Cộng sản lãnh đạo với lực lƣợng Quốc dân Đảng của Tƣởng Giới Thạch đang
diễn ra quyết liệt.
Ở các nƣớc tƣ bản châu Âu, nền kinh tế bị chiến tranh thế giới tàn phá nặng nề.
Các chính phủ cầm quyền lo vơ vét của cải, bóc lột nhân lực các nƣớc thuộc địa để
phục vụ cho việc khôi phục nền kinh tế ở chính quốc và chống lại các phong trào đấu
tranh đòi quyền độc lập càng làm cho đời sống các tầng lớp lao động thêm điêu đứng.
Riêng ở Mỹ, mặc dù Chiến tranh thế giới thứ hai đã làm hơn 350.000 ngƣời
thiệt mạng và tiêu tốn 240 tỷ đô la nhƣng nƣớc Mỹ chẳng những không bị tàn phá
mà các tập đoàn tƣ bản còn giàu lên nhanh chóng nhờ vào buôn bán vũ khí. Năm
1945- 1946, nền kinh tế Mỹ phát triển mạnh hơn tất cả các nƣớc tƣ bản thế giới
cộng lại. Mỹ giữ độc quyền về vũ khí hạt nhân. Với sức mạnh về kinh tế, khoa học,
kỹ thuật quân sự, Mỹ ráo riết thực hiện âm mƣu làm bá chủ thế giới. Mỹ đã lợi dụng
sự suy yếu của các nƣớc công nghiệp phát triển ở phƣơng Tây, dùng viện trợ về

kinh tế để khống chế các nƣớc này. Mỹ lo sợ sau chiến tranh, các nƣớc đế quốc Tây
Âu khôi phục xong nề kinh tế đã bị tàn phá, sẽ tiếp tục duy trì trật tự thế gới cũ
đƣợc phân chia từ thế kỷ XIX giữa các nƣớc đế quốc thực dân Tây Âu. Và nhƣ vậy,
Mỹ sẽ không có thị trƣờng rộng lớn để xuất khẩu, đƣa nền kinh tế phát triển lên quy
mô toàn cầu. Để thực hiện ý đồ đó, Mỹ đƣa ra kế hoạch Marshall, triển khai chiến
lƣợc toàn cầu “ngăn chặn” chủ nghĩa cộng sản và phong trào độc lập dân tộc với kế
hoạch bao vây và ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản Liên Xô cùng các nƣớc gắn bó với
Liên Xô, khống chế phong trào giải phóng dân tộc trên các lục địa Á, Phi và Mỹ
Latinh. Cuộc chiến tranh lạnh do Mỹ gây ra để chống lại Liên Xô và phe xã hội chủ
nghĩa diễn ra ngày càng quyết liệt.
Nhƣ vậy, đặc điểm nổi bật của tình hình quốc tế sau Đại chiến thế gới lần thứ
hai là ba trào lƣu cách mạng thế giới có bƣớc phát triển mới, cùng tiến công vào chủ
nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân, từ nhiều phía với nhiều mức độ khác nhau. Lực
lƣợng cách mạng ở các nƣớc XHCN do liên Xô làm trụ cột đã phát triển thành hệ

7


thống XHCN thế giới. Đức, Ý, Nhật đã bị đánh bại, Anh, Pháp trong phe đồng minh
thắng trận, nhƣng kiệt quệ về kinh tế, quân sự, vị trí quốc tế giảm sút nghiêm trọng.
Mỹ đã vƣơn lên cầm đầu phe tƣ bản chủ nghĩa chống lại các nƣớc XHCN, chống lại
phong trào giải phóng dân tộc, đàn áp các cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động ở các nƣớc tƣ bản. Vì vậy mâu thuẫn chủ yếu sau Đại chiến thế
giới lần thứ hai là một bên là mâu thuẫn giữa một bên là hệ thống XHCN cùng các
lực lƣợng cách mạng đấu tranh cho độc lập, dân chủ, hòa bình và tiến bộ xã hội với
một bên là phe đế quốc chủ nghĩa do Mỹ cầm đầu, cùng các lực lƣợng phản động
tay sai [1, tr.34-38].
1.1.2. Bối cảnh trong nước
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã lật đổ ách thống trị của chế độ thực dân
và phong kiến, mở ra kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập, tự do cho dân tộc ta, thiết

lập nên Nhà nƣớc dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Nhƣng ngay sau khi
giành đƣợc độc lập, nƣớc ta phải đối mặt với muôn vàn khó khăn, thử thách hết sức
to lớn đó là các nguy cơ của “giặc đói”, “giặc dốt” và đặc biệt là “giặc ngoại xâm”.
Chính quyền cách mạng lâm thời mới đƣợc thiết lập chƣa có đủ thời gian để
củng cố; đội ngũ cán bộ trƣởng thành trong thời kì hoạt động bí mật chƣa quen với
quản lý kinh tế- xã hội; lực lƣợng vũ trang chỉ có 5.000 ngƣời, vũ khí thô sơ.
Các đảng phái phản động nhƣ Việt Nam Quốc dân đảng (Việt Quốc), Việt
Nam cách mạng đồng minh hội (Việt Cách) bám gót quân đội nƣớc ngoài về nƣớc
chống phá cách mạng quyết liệt, lập chính quyền phân liệt ở nhiều nơi (Vĩnh Yên,
Yên Bái, Móng Cái…). Một loạt các tổ chức khác, nhƣ Đại Việt quốc xã, Đại Việt
duy tân, Đại Việt quốc gia liên minh, Việt Nam phục quốc đồng minh hội cũng
ngóc đầu dậy ráo riết hoạt động mƣu toan xóa bỏ quyền lãnh đạo cách mạng Việt
Nam của Đảng ta, chống phá chính quyền cách mạng.
Ở Miền Nam, các lực lƣợng thân Pháp, thân Nhật, nhất là bọn phản động đội
lốt tôn giáo trong Cao Đài, Hòa Hảo hoạt động chống phá cách mạng rất quyết liệt.
Thực dân Pháp giúp bọn phản động đƣa ra cái gọi là “Nam Kỳ tự trị” để chia cắt đất
nƣớc và chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Pháp cho ra mắt “ nƣớc Cộng hòa
Nam kỳ tự trị” do Nguyễn Văn Thinh đứng đầu.

8


Bọn Tơrốtkit cũng ráo riết hoạt động chống phá chính quyền nhân dân,
chúng đƣa ra luận điệu “cách mạng triệt để”, hô hào nông dân đứng lên đấu tranh
chống tƣ sản và địa chủ, phá hoại Mặt trận dân tộc thống nhất.
Chính sách áp bức, bóc lột của Pháp, Nhật đã để lại những hậu quả hết sức
nặng nề: 50% ruộng đất ở Bắc Kỳ bị bỏ hoang, 6 tỉnh Bắc Bộ hết lũ lụt lại hạn hán;
nhiều nhà máy đóng cửa; thƣơng nghiệp đình trệ; hàng hóa khan hiếm; ngân quỹ
chống rỗng;…Nhà nƣớc cách mạng không nắm đƣợc ngân hàng, tiếp nhận kho bạc
chỉ còn 1,2 triệu đồng, quá nửa là tiền rách nát. Trong khi đó quân Tƣởng lại bắt ta

tiêu tiền Quan Kim càng làm cho nền tài chính của đất nƣớc khó khăn hơn. Nạn đói
chƣa đƣợc khắc phục, vẫn đe dọa đến đời sống nhân dân.
Chính sách ngu dân hơn 80 năm của thực dân Pháp để lại hậu quả là 95%
dân số mù chữ, hạn chế việc phát huy quyền làm chủ trong chế độ mới. Nhiều tệ
nạn xã hội, tập tục lạc hậu vẫn tồn tại trong đời sống nhân dân, gây cản trở sự phát
triển đời sống văn hóa mới.
Sau khi cách mạng tháng Tám thắng lợi, bối cảnh quốc tế tuy biến đổi theo
hƣớng có lợi cho phong trào giải phóng dân tộc, song Việt Nam chƣa nhận đƣợc sự
giúp đỡ trực tiếp của cách mạng thế giới. Nƣớc ta bị chủ nghĩa đế quốc phong tỏa
bốn bề. Vị trí pháp lý của Việt Nam chƣa đƣợc công nhận ở Liên hợp quốc, mặc dù
nhiều lần Chính phủ ta đã đề đạt nguyện vọng đƣợc tổ chức này công nhận nền độc
lập của nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Khó khăn lớn nhất trong những năm đầu sau Cách mạng Tháng Tám là sự
hiện diện của quân đội nƣớc ngoài trên đất nƣớc ta.
Theo thỏa thuận tại Hội nghị Pốtxđam, sau khi chiến tranh thế giới lần thứ
hai kết thúc, quân đội Tƣởng Giới Thạch có nhiệm vụ vào Việt Nam giải giáp quân
Nhật, ở phía Bắc vĩ tuyến 16. Đầu tháng 9-1945, hơn 20 vạn quân Tƣởng do hai
viên tƣớng là Lƣ Hán và Tiêu Văn chỉ huy kéo vào đóng chốt khắp các địa phƣơng
ở miền Bắc. Các toán quân Tƣởng vào Việt Nam lộng hành, hoạt động chống phá ta
dữ dội, với mục tiêu “diệt cộng, cầm Hồ”.

9


Ở phía Nam vĩ tuyến 16, trên 1 vạn quân Anh do Thiếu tƣớng Graxây làm tƣ
lệnh, thực hiện thỏa ƣớc Pốtxđam, ngày 6-9-1945 đã có mặt tại Sài Gòn. Khi quân
Anh đến Sài Gòn thì một đại đội lính Pháp bám gót cùng vào. Quân Anh vào Sài
Gòn thả hết số tù binh Pháp bị Nhật giam giữ sau cuộc đảo chính ngày 9-3-1945 và
vũ trang cho lực lƣợng này đánh ta.
Về phía Mỹ, mặc dù bề ngoài tỏ ra trung lập trong các mối quan hệ giữa các

quốc gia khác với Việt Nam, song trên thực tế không có mối quan hệ nào lại thiếu
vắng vai trò của Mỹ. Mỹ tuy có tham vọng chiếm Đông Dƣơng, nhƣng chƣa có điều
kiện để thực hiện mƣu đồ đó, nên trƣớc mắt muốn thông qua vai trò của Tƣởng để
đè bẹp phong trào giải phóng dân tộc ở Việt Nam và nắm lấy Đông Dƣơng trong
tƣơng lai.
Các thế lực đế quốc và phản động nƣớc ngoài tuy có mâu thuẫn với nhau về
lợi ích , song lại có chung một dã tâm tiêu diệt nhà nƣớc cách mạng non trẻ, tiến tới
thủ tiêu nền độc lập của nhân dân ta.
1.2. QUÁ TRÌNH ĐẢNG LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN PHƢƠNG CHÂM BIẾT
THẮNG TỪNG BƢỚC GIAI ĐOẠN (1945-1950)
1.2.1. Đảng lãnh đạo triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù
(1945- 1946)
Để giải quyết những nhiệm vụ vừa cơ bản, vừa cấp bách, Đảng và Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã thực hiện một chính sách đối ngoại mềm dẻo, khôn khéo, lợi dụng
mâu thuẫn, phân hóa hàng ngũ kẻ thù, chọn cái có lợi hơn, hoặc ít hại nhất trong
những cái bất lợi để đấu tranh buộc các thế lực thù địch công nhận và tôn trọng
chính quyền dân chủ nhân dân.
Một là,Thực hiện sách lƣợc hòa hoãn, nhân nhƣợng có nguyên tắc với quân
Tƣởng
Cuối tháng Tám năm 1945, theo thỏa thuận của Đồng minh tại hội nghị
Pốtxđam (Posdam), gần 20 vạn quân của chính phủ Tƣởng Giới Thạch ồ ạt kéo vào
nƣớc ta từ vĩ tuyến 16 trở ra làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật. Ngày 11-9-

10


1945, Lƣ Hán đến hà Nội. Tiêu Văn đƣợc Tƣởng Giới Thạch giao nhiệm vụ sắp xếp
chế độ chính trị ở miền Bắc Việt Nam cũng có mặt ở Hà Nội [3, tr.47].
Theo gót quân Tƣởng, bọn tay sai Việt Nam cách mạng đồng minh hội (Việt
Cách) vào theo đƣờng Cao Bằng, Lạng Sơn, Móng Cái. Bọn Việt Nam Quốc dân

đảng (Việt Quốc) vào theo đƣờng Lào Cai, Hà Giang. Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng
Khanh, Nguyễn Tƣờng Tam cũng bám gót quân Tƣởng về nƣớc. Chúng dựa vào thế
lực quân Tƣởng chiếm đóng một số thị xã, thị trấn, lập ra chính quyền phản động ở
Vĩnh Yên, Yên Bái, Móng Cái…
Đến Hà Nội, quân Tƣởng có những yêu sách hết sức ngang ngƣợc. Lƣ Hán
đòi ta báo cáo quân số và tổ chức quân đội, Tiêu Văn đòi cải tổ chinh phủ, giành
nhiều chức vụ quan trọng nhƣ thủ tƣớng, bộ trƣởng quốc phòng, bộ trƣởng ngoại
giao cho bọn tay sai. Đồng thời chúng còn hăm dọa dùng vũ lực lật đổ chính quyền,
gây các vụ khiêu khích, bắt cóc cán bộ, khủng bố, cƣớp bóc, phá rối trật tự an ninh,
kiểm soát các cửa ô dẫn vào thành phố. Chúng buộc ta cung cấp lƣơng thực, tung
tiền Quan kim đã mất giá nhằm vơ vét hàng hóa, giúp bọn tay sai xây dựng lực
lƣợng vũ trang, đóng quân và đặt trụ sở ở Hà Nội và nhiều tỉnh lỵ từ Thanh Hóa trở
ra. Chúng xuất bản báo chí phản động, công khai tuyên truyền vu cáo chính quyền
cách mạng [3, tr.102-103].
Trong Hội nghị toàn quốc của Đảng giữa tháng Tám năm 1945, Đảng ta đã
dự đoán quân Đồng minh sắp vào nƣớc ta và đế quốc Pháp lăm le khôi phục lại địa
vị của chúng ở Đông Dƣơng. Hội nghị cũng định ra chính sách đối ngoại căn bản
của ta là thêm bạn, bớt thù, phản đối các hành động xâm lƣợc, tránh xung đột với
Anh- Mỹ- Tƣởng, lợi dụng mâu thuẫn giữa hai tập đoàn Anh- Pháp và Mỹ- Tƣởng
trong việc tranh giành quyền lợi ở Đông Dƣơng, tránh trƣờng hợp phải đối phó với
với việc Anh- Mỹ- Tƣởng nhân nhƣợng Pháp, cho Pháp trở lại Đông Dƣơng. Hội
nghị nhấn mạnh công tác đối ngoại: chỉ có thực lực mới quyết định đƣợc sự tháng
lợi của ta trƣớc các thế lực đế quốc.
Trên cơ sở phân tích chỗ mạnh, chỗ yếu của từng kẻ thù và sức mạnh của
nhân dân Việt Nam. Đảng đã vạch rõ phƣơng pháp đấu tranh với từng kẻ thù cụ thể.

11


Ta nhấn mạnh trách nhiệm quân Tƣởng vào Việt Nam là để giải giáp quân đội Nhật;

nếu chúng ta sử dụng các biện pháp bạo lực thì sẽ tạo cơ cho chúng công khai tấn
công chính quyền cách mạng. Nhƣng nếu chúng xâm phạm chủ quyền thì ta sẵn
sàng đối phó bằng cách “tích cực đề kháng, huy động toàn lực quần chúng biểu
tình” phản đối [3, tr.103]. Nhƣ vậy ta có thể tạm thời nhân nhƣợng, hòa hoàn với
Tƣởng để tập trung ngọn lửa đấu tranh chống thực dân Pháp.
Đối với bọn tay sai, ta tìm cách cô lập và giải thích cho nhân dân thấy rõ bộ
mặt phản động của chúng, dùng lực lƣợng quần chúng làm hậu thuẫn cho chính
quyền trấn áp.
Trên cơ sở xác định thực dân Pháp là “kẻ thù chính của ta lúc này” Đảng và
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thực hiện một chính sách đối ngoại mềm dẻo, khôn khéo,
lợi dụng mâu thuẫn, phân hóa hàng ngũ kẻ thù. Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc nêu
rõ: Đối với Tàu, vẫn chủ trƣơng Hoa- Việt thân thiện. Để giữ vững hòa hoãn với
chính quyền Trung Hoa dân quốc, Đảng chủ trƣơng nhân nhƣợng nhiều mặt, kết
hợp nhiều biện pháp để hạn chế, đẩy lùi ý đồ phá hoại và lật đổ cuả chính quyền
Tƣởng Giới Thạch. Nhân nhƣợng nhƣng vẫn đảm bảo nguyên tắc bất di, bất dịch là
giữ vững chính quyền dân chủ nhân dân.
Do đó Đảng chủ trƣơng hòa hoãn với chính quyền Tƣởng Giới Thạch, lợi
dụng mâu thuẫn giữa chính quyền Tƣởng Giới Thạch với thực dân Pháp về quyền
lợi ở Đông Dƣơng để tập trung ngọn lửa đấu tranh chống thực dân Pháp đang tái
xâm lƣợc Việt Nam ở Nam Bộ.
“Hòa với Tƣởng” là điều cần thiết nhƣng không phải dễ dàng. Đảng ta đã
vận dụng sách lƣợc hết sức linh hoạt, kết hợp chặt chẽ nhiều biện pháp để hạn chế,
đẩy lùi ý đồ phá hoại và lật đổ của chính quyền Tƣởng Giới Thạch.
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn nhanh chóng phát hiện ra những chỗ yếu, những
mâu thuẫn giữa các phe phái trong hàng ngũ quân đội Trung Hoa dân quốc, tiến
hành phân hóa nội bộ kẻ thù. Đảng và Chính phủ nêu khẩu hiệu “Hoa- Việt thân
thiện” cùng với những khẩu hiệu “Kiên quyết ủng hộ Chính phủ Hồ Chí Minh”,
“Việt Nam độc lập muôn năm”, “Kiên quyết chống thực dân Pháp xâm lược”…để
đón tiếp quân đội Trung Hoa dân quốc.


12


Ngày 2-10-1945, trong buổi lễ đón Hà Ứng Khâm, Tổng tƣ lệnh Lục quân
quân đội nhân dân Trung Hoa dân quốc cùng tƣớng Mỹ Mắc Lurơ (MC. Lure) đến
Hà Nội, Chính quyền cách mạng huy động 300.000 ngƣời diễu hành qua Phủ toàn
quyền cũ, hô vang những khẩu hiệu: “Nƣớc Việt Nam của ngƣời Việt Nam”, “Ủng
hộ Việt Nam độc lập đồng minh”, “Ủng hộ Chính phủ lâm thời nƣớc Việt Nam”,
“Ủng hộ Chủ tịch Hồ Chí Minh”. Cuộc diễu hành đƣợc tổ chức hết sức rầm rộ,
mang danh nghĩa đón phái bộ Đồng minh, song thực chất là một cuộc biểu dƣơng ý
chí và lực lƣợng của nhân dân Việt Nam. Cuộc diễu hành một mặt khẳng định thế
làm chủ đất nƣớc của nhân dân Việt Nam; mặt khác thể hiện thiện chí của Chính
phủ và nhân dân Việt Nam đối với phái bộ Đồng minh.
Cuộc đấu tranh ngoại giao giữa ta với Tƣởng diễn ra hết sức gay go. Ta luôn
kiên trì nguyên tắc bảo vệ chủ quyền dân tộc, nhƣng sách lƣợc lại rất khôn khéo và
mềm dẻo.
Về kinh tế, ta chấp nhận tiêu tiền Quan Kim. Mặc dù đời sống kinh tế- tài
chính cực kỳ khó khăn, nhân dân đang phải thiếu đói nghiêm trọng, ta vẫn chấp
nhận cung cấp lƣơng thực, thực phẩm cho quân Tƣởng.
Về quân sự, Tránh xung đột với quân Tƣởng, không để chúng lấy cơ hội
khiêu khích lật đổ chính quyền cách mạng.
Về chính trị, Đảng chủ trƣơng mở rộng thành phần Chính phủ lâm thời,
thành phần Chính phủ liên hiệp lâm thời, để cho một số nhân vật của một số đảng
phái tay sai của Tƣởng (Việt Nam Quốc dân đảng và Việt Nam cách mạng đảng)
tham gia. Nguyễn Hải Thần (Việt Cách) giữ chức Phó Chủ tịch Chính phủ; Nguyễn
Tƣờng Tam (Đại Việt dân chính) Bộ trƣởng Bộ ngoại giao; Vũ Hồng Khanh (Việt
Quốc) Phó Chủ tịch kháng chiến ủy viên hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh còn đề nghị
mở rộng thêm 70 ghế trong Quốc hội và gần một nửa số Bộ trong Chính phủ liên
hiệp chính thức cho bọn Việt Quốc, Việt Cách.
Trƣớc mũi nhọn tiến công của kẻ thù vào Đảng cộng sản và tình hình chính

trị phức tạp. Ngày 11-11-1945, Đảng Cộng sản Đông Dƣơng ra Thông cáo “Tự ý
giải tán”. Tuyên bố “Tự ý giải tán”, song, thực chất là Đảng rút vào hoạt động bí

13


mật.Về mặt công khai, Đảng tổ chức “Hội nghiên cứu Chủ nghĩa Mác ở Đông
Dƣơng” để tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản, tuyên truyền đƣờng lối, chính sách của
Đảng, giữ vững và mở rộng mối liên hệ mật thiết giữa Đảng và quần chúng.
Tuy rút vào hoạt động bí mật nhƣng vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nƣớc và toàn xã hội vẫn đƣợc giữ vững, tổ chức cơ sở Đảng tiếp tục đƣợc củng cố,
số lƣợng đảng viên tiếp tục tăng. Sự lãnh đạo của Đảng lúc này là “kín đáo và có
hiệu quả” [30, tr. 161].
Với sách lƣợc khôn khéo của ta với Tƣởng . Chúng ta có điều kiện và thời
gian củng cố thực lực, tập trung lực lƣợng để tiến hành cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp ở miền Nam.
Hai là, Thực hiện sách lƣợc hòa hoãn với thực dân Pháp
Đến cuối tháng 2- 1946, dân tộc Việt Nam đứng trƣớc tình thế mới. Lúc này,
quân Anh đang rút khỏi miền Nam Đông Dƣơng, quân Nhật bị tƣớc vũ khí đang lần
lƣợt về nƣớc. Quân đội Trung Hoa dân quốc vẫn đóng quân từ vĩ tuyến 16 trở ra.
Thực dân Pháp đƣa một số lƣợng lớn quân viễn chinh sang Đông Dƣơng và đang
chiếm đóng hầu hết Nam Bộ, Nam Trung Bộ, chiếm đại bộ phận Campuchia, khống
chế vùng rộng lớn ở Lào. Sau khi cho rằng đã “bình định” Nam Bộ và Nam Trung
Bộ, thực dân Pháp xúc tiến việc đƣa quân ra miền Bắc nƣớc ta bằng cách xúc tiến
việc dàn xếp , thỏa thuận với chính quyền Trung Hoa dân quốc.
Sau hơn nửa năm không thực hiện đƣợc mƣu đồ tiêu diệt Đảng ta, lật đổ
chính quyền cách mạng non trẻ của Việt Nam, lại bị thất bại nặng nề trong cuộc tấn
công vào vùng giải phóng của Đảng Cộng sản Trung Quốc, chính quyền Trung Hoa
dân quốc buộc phải ký với Pháp Hiệp ƣớc Hoa- Pháp ngày 28-2-1946 để đổi lấy
một số quyền lợi kinh tế ở Đông Dƣơng “Hoa kiều ở Việt Nam được hưởng những

quyền lợi có tính chất truyền thống và những lợi ích như người Pháp; Pháp trả lại
các tô giới và nhượng địa trên đất Trung Hoa sớm hơn thời hạn đã ký, bán lại đoạn
đường sắt Côn Minh- Hồ Kiều để Trung Hoa dân quốc chở hàng về nước, Pháp
miễn thuế qua cảng Hải Phòng…”. Bù lại, chính quyền Trung Hoa dân quốc đồng ý
cho quân đội Pháp đƣợc thay thế quân đội Trung Hoa giải giáp quân đội Nhật ở
miền Bắc Đông Dƣơng.

14


Trƣớc tình hình đó, ngày 3-3-1946, Ban Thƣờng vụ Trung ƣơng Đảng ra Chỉ
thị Tình hình và Chủ trương. Chỉ thị cho rằng “ Hiệp ƣớc Hoa- Pháp không phải là
chuyện riêng của Tàu và Pháp. Nó là chuyện chung của phe đế quốc và bọn tay sai
của chúng ở thuộc địa. Dù nhân dân Đông Dƣơng muốn hay không muốn, nhất định
chúng cũng thi hành Hiệp ƣớc ấy” [14, t.8, tr.41]. Ban Thƣờng vụ Trung ƣơng nhận
định rằng: “ Vấn đề lúc này, không phải là muốn hay không muốn đánh. Vấn đề là
biết mình biết ngƣời, nhận một cách khách quan những điều kiện lời lãi trong nƣớc
và ngoài nƣớc mà chủ trƣơng cho đúng” [14, tr.43-44].
Thƣờng vụ Trung ƣơng nhận thấy, chủ trƣơng hòa với Pháp có hai điều kiện lớn:
“a) Phá đƣợc mƣu mô bọn Tàu Trắng, của bọn phát xít, và của bọn Việt gian,
bảo toàn đƣợc thực lực.
b) Dành đƣợc phút giây nghỉ ngơi để sửa soạn cuộc chiến đấu mới phối hợp
với các cuộc chiến đấu của nhân dân Pháp, tiến tới giành độc lập hoàn toàn. Song
nhƣ bản chỉ thị đã chỉ rõ, khi hòa với Pháp, cũng có những điều bất lợi là Pháp sẽ
lợi dụng sự hòa hoãn để phát triển lực lƣợng; chúng sẽ bội ƣớc, đánh úp ta; bọn tay
sai phản động sẽ lợi dụng việc ta “chủ hòa” để tuyên truyền, xuyên tạc vu cho ta là
“phản quốc”, là “bán nƣớc cho Tây”. “Bọn thực dân Pháp có thể tăng gia lực lƣợng
trên đất ta để một ngày kia bội ƣớc diệt ta”[ 14, tr.45].
Chỉ thị xác định nguyên tắc căn bản trong đàm phán là độc lập và liên minh
với Pháp trên cơ sở bình đẳng, Pháp phải thừa nhận quyền dân tộc tự quyết của

nhân dân ta, công nhận quyền Pháp đƣợc đóng quân tạm thời và có hạn định trên
đất nƣớc ta.
Thực hiện chủ trƣơng hòa với Pháp, vào lúc 16h30 ngày 6-3-1946, Tại số
nhà 38 phố Lý Thái Tổ, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt phía Việt Nam và
J.Xanhtơni- Ủy viên cộng hòa Pháp ở Bắc Việt Nam, thay mặt Chính phủ Pháp ký
Hiệp định Sơ bộ và một Hiệp định quân sự (phụ khoản) trƣớc sự chứng kiến của đại
diện Bộ tƣ lệnh quân đội Trung Hoa dân quốc ở Bắc Đông Dƣơng, Phái bộ Mỹ và
lãnh sự quán Anh.
Hiệp định sơ bộ có những nội dung chính sau:

15


Nƣớc Pháp công nhận nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa là một quốc gia tự
do, có Chính phủ tự chủ, có nghị viện, có quân đội, có tài chính riêng; ở trong Liên
bang Đông Dƣơng và khối Liên hiệp Pháp;
Chính phủ cam kết sẽ thừa nhận những quyết định của cuộc trƣng cầu dân ý
về vấn đề thống nhất ba kỳ (Bắc- Trung - Nam);
Phía việt Nam thuận để 15.000 quân Pháp vào miền Bắc Việt Nam làm
nhiệm vụ thay thế quân đội Trung Hoa dân quốc. Số quân Pháp này sẽ phải rút hết
sau một thời gian quy định (trong vòng 5 năm, mỗi năm rút 1/5);
Hai bên đình chiến để mở đàm phán chính thức và trong khi đàm phán, quân
hai bên đóng đâu vẫn cứ đóng đấy [14, tr.48].
Hiệp định Sơ bộ 6-3 là văn bản pháp lý đầu tiên mà nhà nƣớc Việt Nam dân
chủ Cộng hòa ký kết với nƣớc ngoài. Việc ký kết Hiệp định sơ bộ 6-3-1946 buộc
Pháp, lần đầu tiên , phải công nhận quyền tự do của Việt Nam, một dân tộc trƣớc đó
từng là thuộc địa của Pháp.
Việc ký kết hiệp định sơ bộ là chủ trƣơng sáng suốt, đúng đắn của Đảng
Cộng sản Đông Dƣơng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh xét trong tình hình lúc bấy giờ.
Với việc ký Hiệp định Sơ bộ 6-3-1946, ta đã phân hóa đƣợc kẻ thù, thoát ra khỏi

tình thế cô độc, giành lại đƣợc thế chủ động, tập trung ngọn lửa đấu tranh vào kẻ
thù chính là thực dân Pháp xâm lƣợc. Đồng thời tạo điều kiện hòa hoãn để nhân dân
ta củng cố thành quả cách mạng đã giành đƣợc, chuẩn bị đƣa sự nghiệp toàn quốc
lên bƣớc phát triển mới.
Ngày 9-3-1946, Thƣờng vụ Trung ƣơng Đảng ra Chỉ thị “Hòa để tiến”. bản
chỉ thị phân tích rõ hơn chủ trƣơng tạm thời hòa hoãn với thực dân Pháp là nhằm :
“1. Tránh tình thế bất lợi, phải cô lập chiến đấu cùng một lúc với nhiều lực
lƣợng phản động (thực dân Pháp, Tàu, Tƣởng, bọn phản cách mạng trong nƣớc),
chúng sẽ đúc lại thành một khối và đƣợc đế quốc Anh, Mỹ giúp sức để đánh ta
trong khi các lực lƣợng hòa bình, tự do và tiến bộ trên thế giới (nhƣ Liên xô, phong
trào cộng sản ở Pháp, cách mạng thuộc địa) chƣa thể giúp ta đƣợc.

16


2. Bảo toàn lực lƣợng giành lấy giây phút nghỉ ngơi và củng cố vị trí mới đã
chiếm đƣợc, chấn chỉnh đội ngũ cách mạng, bổ sung cán bộ, bồi dƣỡng và củng cố
phong trào. Tóm lại để chuẩn bị đầy đủ, nhằm cơ hội tốt tiến lên giai đoạn cách
mạng mới” [14, tr.49].
Sau Hiệp định sơ bộ 6-3-1946 các hoạt động ngoại giao tiếp tục diễn ra.
Ngày 24-3-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hội đàm với Cao ủy Pháp Đácgiăngliơ
trên chiến hạm Pháp tại Vịnh Bắc Bộ. Hai bên đã đi đến thỏa thuận tiến hành sớm
cuộc đàm phán chính thức tại Pari ngay sau hội nghị trù bị ở Việt Nam. Pháp đồng
ý tiếp nhận một phái đoàn Quốc hội Việt Nam thăm Pháp; Việt Nam đồng ý hội
nghị trù bị tại Đà Lạt.
Hội nghị trù bị Đà Lạt diễn ra từ ngày 19-4 đến ngày 11-5-1946. Hội nghị
thảo luận năm loại vấn đề: đình chỉ chiến sự và tạo không khí chính trị thuận lợi,
vấn đề ngoại giao của Việt Nam; vấn đề liên hiệp Pháp; vấn đề liên bang Đông
Dƣơng; vấn đề trƣng cầu ý dân và thống nhất ba kỳ. Giữa phái đoàn Việt Nam Dân
chủ cộng hòa và phái đoàn Pháp diễn ra cuộc đấu tranh quyết liệt. Phía Pháp vẫn

ngoan cố giữ lập trƣờng chia cắt nƣớc Việt Nam. Chúng cố tình né tránh thảo luận
vấn đề Nam Bộ. Các đại biểu của Việt Nam cực lực phản đối, đòi phía Pháp phải ƣu
tiên thảo luận về vấn đề Nam Bộ, đòi chấm dứt các cuộc xung đột.
Do thực dân Pháp không thực tâm đàm phán và cố tình phá hoại nên Hội
nghị trù bị Đà Lạt không đi tới một thỏa thuận nào. Dẫu vậy , Hội nghị trù bị Đà Lạt
giúp Đảng và Chính phủ thăm dò, hiểu lập trƣờng, ý đồ của Pháp để có thể chuẩn bị
tốt cho cuộc họp chính thức ở Paris.
Ngày 22-6, Chủ tịch hồ Chí Minh và phái đoàn Việt Nam Dân chủ cộng hòa
tới Paris. Trong những ngày ở thăm Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh thƣờng xuyên gặp
gỡ, nói chuyện với đại diện các chính Đảng và các đoàn thể chính trị lớn của nƣớc
Pháp, với đông đảo đồng bào Việt Nam tại Pháp, với những nhân vật có vị trí quan
trọng trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa của Pháp. Ngƣời cũng đã gặp gỡ với
các tổ chức quần chúng quốc tế, nhiều nhà hoạt động chính trị, xã hội châu Âu,
châu Á, châu Phi, tiếp xúc với các đại diện quân sự, ngoại giao của các nƣớc lớn

17


nhƣ Mỹ, Anh, Pháp, Liên Xô, Trung Quốc để làm rõ tình hình Việt Nam và Đông
Dƣơng, lập trƣờng của Chính phủ Việt Nam…
Ngày 6-7-1946, tại lâu đài Phôngtenơblô , cuộc đàm phán chính thức giữa
hai phái đoàn Việt Nam và Pháp khai mạc.
Phát biểu trong buổi lễ khai mạc, Trƣởng Phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa, đồng chí Phạm Văn Đồng kiên quyết chỉ rõ âm mƣu tái chiếm Việt Nam của
phía Pháp, đồng thời nêu rõ lập trƣờng trƣớc sau nhƣ một của dân tộc Việt Nam là
quyết tâm nhƣ một của dân tộc Việt Nam là quyết tâm bảo vệ độc lập dân tộc và
thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, quan hệ Việt- Pháp phải dựa trên cơ sở hòa bình, tôn
trọng lẫn nhau, hai bên cùng có lợi.
Phía Pháp vẫn giữ nguyên lập trƣờng mà họ đƣa ra từ Hội nghị trù bị Đà Lạt:
Lập chế độ Toàn quyền ở Đông Dƣơng, tách Nam Bộ ra khỏi Việt Nam, không thừa

nhận Việt Nam có quyền ngoại giao riêng.
Trƣớc thái độ kiên quyết của phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, phái
đoàn Pháp vẫn ngoan cố giữ lập trƣờng hiếu chiến và chính thái độ đó của phía
Pháp đã khiến cho cuộc đàm phán không tiến triển đƣợc.
Ngày 14-9-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ trƣởng hải ngoại Pháp
M.Moutet (Mutê) ký bản Tạm ƣớc 14-9-1946 Việt – Pháp gồm 11 điều khoản. Nội
dung của Tạm ƣớc là sự thỏa thuận tạm thời về một số vấn đề cấp bách có tính chất
bộ phận.
Với bản Tạm ƣớc, Chính phủ Pháp nhận thi hành mấy điều chính sau ở Nam Bộ
1.Thả chính trị phạm và những ngƣời bị tù trong lúc giao chiến
2. Nhân dân Nam Bộ đƣợc quyền tự do tổ chức hội họp, tự do báo chí, tự do
đi lại.
3. Hai bên đình chỉ mọi xung đột
4. Chính phủ Việt Nam đảm bảo cho Pháp một số quyền lợi về kinh tế, văn
hóa ở Việt Nam” [28, tr.4].
Có thể nói Tạm ƣớc 14-9 là cơ sở pháp lý, tạo đƣợc sự ràng buộc cuối cùng
để Đảng, Chính phủ và nhân dân Việt Nam có cơ hội khai thác triệt để khả năng kéo

18


dài thêm thời gian hòa hoãn, tạo điều kiện cho công cuộc khẩn trƣơng chuẩn bị
kháng chiến. Đảng Cộng sản Đông Dƣơng nhận định: “Tạm ƣớc 14-9 là bƣớc nhân
nhƣợng cuối cùng, nhân nhƣợng nữa là phạm đến chủ quyền của nƣớc, là hại quyền
lợi cao trọng của dân tộc” [14, tr.148].
Ba là, Lợi dụng mâu thuẫn trong nội bộ binh lính Pháp với bọn chỉ huy thực
dân phản động.
Lợi dụng mâu thuẫn giữa số binh lính Pháp bị ép buộc cầm súng trong đạo
quân viễn chinh xâm lƣợc với bọn chỉ huy, thực dân phản động, Hồ Chí Minh đã
chỉ cho những ngƣời lính vô tội đang phải cầm súng đánh thuê, làm bia đỡ đạn cho

bọn thực dân thấy rằng: “Giữa các bạn và chúng tôi không sự thù hằn gì cả, chỉ vì
quyền lợi ích kỷ mà bọn thực dân phản động khơi ra xung đột. Lợi lộc thì họ hƣởng
hết, chết chóc các bạn phải chịu, huy chƣơng thắng trận thì về bọn quân phiệt,
nhƣng với các bạn và gia đình các bạn chỉ là sự đau khổ khốm cùng” [ 38, tr.110].
Ngƣời kêu gọi binh lính Pháp, hãy “trở lại với chúng tôi, các bạn sẽ đƣợc tiếp đãi
nhƣ bầu bạn của chúng tôi”.
Bằng sự kiên trì, nỗ lực và sáng tạo trên mặt trận địch vận, ta đã khoét sâu
mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù, thổi bùng phong trào phản chiến trong binh lính Pháp,
làm nội bộ địch hoang mang, nhiều đơn vị địch chƣa đánh đã tan vỡ từng mảng.
Bốn là, Lợi dụng mâu thuẫn giữa các tầng lớp nhân dân lao động Pháp với
nhà cầm quyền thực dân phản động, bọn đầu sỏ chiến tranh.
Những bức thƣ của Hồ Chí Minh gửi Quốc hội, Chính phủ, nhân dân và binh
lính Pháp thể hiện lập trƣờng chinh nghĩa, yêu chuộng hòa bình và lòng nhân ái của
Ngƣời đã có tác động sâu sắc với các tầng lớp nhân dân Pháp, thổi bùng lên ngọn
lửa phản đối chiến tranh, đòi hòa bình ở Đông Dƣơng của mọi tầng lớp nhân dân
Pháp. Tiêu biểu là các cuộc đình công của công nhân trong các công binh xƣởng
đình công không chịu sản xuất vũ khí trở sang Đông Dƣơng; công nhân bốc vác vứt
vũ khí, phƣơng tiện xuống biển, phản đối việc bắt lính, v.v… Những cuộc đấu tranh
trên làm cho Pháp không có đầu não và hậu phƣơng ổn định, việc cung cấp sức
ngƣời và sức của cho Đông Dƣơng bị hạn chế. Điều đó góp phần quan trọng vào

19


thắng lợi của ta và thất bại của địch. Trƣớc sức mạnh trong đánh ra, ngoài đánh vào,
buộc kẻ thù phân tán đối phó lực lƣợng lớn hóa nhỏ, mạnh hóa yếu.
1.2.2. Đảng lãnh đạo làm thất bại âm mưu “đánh nhanh thắng nhanh” của thực
dân Pháp
Bƣớc vào Thu Đông năm 1947, tình hình cuộc kháng chiến có bƣớc chuyển
biến quan trọng.

Sau khi mở cuộc chiếm đóng ra các tỉnh đồng bằng, trung du Bắc Bộ, Bộ chỉ
huy Pháp ráo riết xúc tiến cuộc tiến công quy mô lớn lên Việt Bắc hòng nhanh
chóng kết thúc cuộc tái xâm lƣợc.
Mục tiêu chủ yếu của cuộc tấn công lên Việt Bắc nhằm: phá tan cơ quan đầu
não kháng chiến, bắt chính phủ Hồ Chí Minh, đánh quỵ chủ lực Việt Minh; dùng
thắng lợi quân sự để thúc đẩy việc thành lập chính phủ thân Pháp…
Trƣớc đó, ngày 10-9-1947, Cao ủy Pháp Bôla đọc diễn văn tại thị xã Hà
Đông không công nhận nền độc lập của Việt Nam, không công nhận chính phủ Hồ
Chí Minh và đƣa ra những điều kiện ngang ngƣợc mà ta không thể chấp nhận đƣợc.
Điều này cho thấy rõ ý đồ của Pháp là sẽ sử dụng đòn tiến công quân sự để kết thúc
chiến tranh.
Trƣớc những hoạt động ráo riết của phía Pháp, ngày 15-9-1947, Ban Thƣờng
vụ Trung ƣơng Đảng ra Chỉ thị Bôla nói gì? Ta phải làm gì? Chỉ thị vạch trần âm
mƣu của Pháp đối với nền độc lập của ta đồng thời khẳng định lại lập trƣờng kiên
quyết kháng chiến, giành độc lập thật sự của nhân dân ta.
Hội nghị nhận định “Bắc Bộ sẽ là chiến trƣờng chính, nếu địch không mạo
hiểm thì đánh đồng bằng, nếu mạo hiểm thì chúng sẽ đánh Việt Bắc…Tấn công lên
Việt Bắc, chúng sẽ chiếm các tỉnh Phúc Yên, Thái Nguyên, Phú Thọ, Tuyên Quang,
nối liền đƣờng Hà Nội- Lạng Sơn, đồng thời có thể địch sẽ câu kết với bọn Việt
gian, thổ phỉ mở rộng phạm vi hoạt động của chúng ở biên giới Việt- Hoa từ Lạng
Sơn qua Cao Bằng, Hà Giang đến Lào Cai” [2, tr.314].
Chấp hành chỉ thị của Ban Thƣờng vụ Trung ƣơng Đảng và thực hiện Nghị
quyết Hội nghị quân sự lần thứ tƣ, các địa phƣơng, đơn vị tích cực đẩy mạnh công

20


×