Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy theo pháp luật Hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Hà Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (746.92 KB, 90 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THANH HẢI

TỘI TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN, MUA BÁN TRÁI PHÉP HOẶC
CHIẾM ĐOẠT CHẤT MA TÚY THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH HÀ NAM

Chuyên ngành
Mã s

: Luật h n s v t t n

n s

: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. TRẦN ĐÌNH NHÃ

HÀ NỘI, 2016


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi, có sự hỗ trợ từ người hướng dẫn khoa học là
PGS.TS Trần Đình Nhã.


Các nội dung nghiên cứu, số liệu và kết quả nêu trong
luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất
kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Thanh Hải


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI TÀNG TRỮ, VẬN
CHUYỂN, MUA BÁN TRÁI PHÉP HOẶC CHIẾM ĐOẠT CHẤT
MA TÚY ........................................................................................................... 76
1.1. Nhận thức chung về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép
hoặc chiếm đoạt chất ma túy ............................................................................. 76
1.2. Khái quát lịch sử lập pháp về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái
phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy trong pháp luật hình sự Việt Nam ............. 11
10
Chương 2: TỘI TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN, MUA BÁN TRÁI
PHÉP HOẶC CHIẾM ĐOẠT CHẤT MA TÚY THEO QUY ĐỊNH
CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999........................................................ 16
15
2.1. Dấu hiệu pháp lý hình sự của tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái
phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy .................................................................. 16
15
2.2. Đường lối xử lý đối với tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép
hoặc chiếm đoạt chất ma túy ........................................................................... 26

25
Chương 3: THỰC TIỄN XÉT XỬ TỘI TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN,
MUA BÁN TRÁI PHÉP HOẶC CHIẾM ĐOẠT CHẤT MA TÚY
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ NAM TỪ NĂM 2010 ĐẾN NĂM 2015............ 45
44
3.1. Khái quát tình hình xét xử tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép
hoặc chiếm đoạt chất ma túy trên địa bàn tỉnh Hà Nam từ năm 2010 đến năm
2015 ................................................................................................................. 45
44
3.2. Thực tiễn định tội danh tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép
hoặc chiếm đoạt chất ma túy trên địa bàn tỉnh Hà Nam từ năm 2010 đến
năm 2015………………………….............................................................

48


3.3. Thực tiễn quyết định hình phạt tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán
trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy trên địa bàn tỉnh Hà
Nam……………………………………………………………………….

63

3.4. Một số đánh giá, nhận xét về hiệu quả xét xử tội tàng trữ, vận
chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy trên địa bàn tỉnh
Hà Nam............................................................................................................ 70
70
3.5. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả xét xử tội tàng trữ, vận chuyển,
mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy trên địa bàn tỉnh Hà
Nam……………………………………………………………………….


72

77
KẾT LUẬN .................................................................................................... 77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

80


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1: Trọng lượng (thể tích) các chất ma túy quy định trong các khoản
2, khoản 3 và khoản 4 Điều 194 BLHS năm 1999………………………….. 35
Bảng 3.1: Thống kê số vụ án và số bị cáo bị xét xử sơ thẩm về tội tàng trữ,
vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy trên địa bàn
tỉnh Hà Nam từ năm 2010 đến năm 2015…………...……………………… 45
Bảng 3.2: Tỷ lệ xét xử sơ thẩm các vụ án và bị cáo bị về tội tàng trữ, vận
chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy so với các tội
phạm về ma túy và các tội phạm khác trên địa bàn Hà Nam từ năm 2010
đến năm 2015 ………………………………………………………………

46

Bảng 3.3: Cơ cấu xét theo mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội tội tàng
trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy trên địa
bàn Hà Nam từ năm 2010 đến năm 2015………………………………

47

Bảng 3.4: Cơ cấu xét theo mức hình phạt áp dụng đối với tội tàng trữ, vận
chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy trên địa bàn tỉnh

Hà Nam từ năm 2010 đến năm 2015……………………………….………

48


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

BLHS

Bộ luật hình sự

TNHS

Trách nhiệm hình sự

CTTP

Cấu thành tội phạm

CƯ 1961

Công ước thống nhất về các chất ma túy năm 1961

CƯ 1971

Công ước về các chất hướng thần năm 1971

CHXHCNVN

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam


UNODC

Cơ quan phòng chống Ma túy và Tội phạm của
Liên hợp quốc

TAND

Tòa án nhân dân

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

CQĐT

Cơ quan điều tra

QĐHP

Quyết định hình phạt


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý
nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa, tạo tiền đề quan trong để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển
mạnh mẽ trong thời gian tới. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đó, còn nhiều
vấn đề xã hội bức xúc nảy sinh, tiềm ẩn những nhân tố và nguy cơ gây mất ổn

định xã hội. Tình hình tệ nạn và tội phạm gia tăng và diễn biến phức tạp, trong
đó có các tội phạm về ma túy.
Mức độ gia tăng các loại ma túy và lạm dụng ma túy hiện nay dẫn đến
hàng loạt các vấn đề: sự xuống cấp đạo đức xã hội, các tệ nạn xã hội và tội phạm
phát sinh, ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Nhận thức rõ sự nguy hiểm của tệ nạn ma túy, trong những năm qua, bằng
nội lực của mình kết hợp với sự giúp đỡ, phối hợp của cộng đồng quốc tế, Đảng
và Nhà nước Việt Nam đã và đang tiếp tục chủ động triển khai đồng bộ và toàn
diện nhiều chủ trương, biện pháp tích cực nhằm đấu tranh phòng, chống các tội
phạm về ma túy và đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Một trong những biện
pháp có vai trò và ý nghĩa quan trọng trong đấu tranh phòng, chống tội phạm về
ma túy là hoạt động xét xử của Tòa án. Bằng việc ra bản án nghiêm minh, đúng
pháp luật, nó vừa có tác dụng giáo dục, trừng trị người phạm tội vừa có tác dụng
răn đe, phòng ngừa tội phạm nói chung một cách có hiệu quả.
Hà Nam là một tỉnh nhỏ, dân số không nhiều (diện tích khoảng 823,1
km2, dân số khoảng 785.057 người) nhưng với đặc điểm là một tỉnh đồng bằng
sông Hồng, là cửa ngõ phía nam thủ đô Hà Nội, có hệ thống giao thông thuận
lợi, có đường sắt, đường thủy và đường bộ nối liền các tỉnh, thành phố khác,
giáp danh các tỉnh Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình, Hưng Yên, Hòa Bình và
thành phố Hà Nội; số thanh niên đi làm ăn, buôn bán ở các thành phố lớn chiếm

1


tỷ lệ không nhỏ. Những năm gần đây Hà Nam thu hút được nhiều dự án đầu tư
trong và ngoài nước có quy mô lớn, sử dụng nhiều lao động trong và ngoài tỉnh.
Tất cả các điều đó tạo điều kiện cho các tệ nạn xã hội du nhập và phát triển,
trong đó có tệ nạn và tội phạm về ma túy.
Theo nhận định của cơ quan chức năng và theo số liệu khảo sát thì tội
tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy trên địa

bàn tỉnh Hà Nam còn diễn biến phức tạp, thủ đoạn hoạt động ngày càng tinh vi,
xảo quyệt, manh động, tính chất và mức độ nguy hiểm ngày càng nghiêm trọng,
gây ra tâm lý hoang mang, lo sợ trong quần chúng nhân dân. Trước thực trạng
đó, các cơ quan chức năng, trong đó có Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Hà Nam,
theo chức năng, nhiệm vụ của mình đã tích cực, nỗ lực xét xử kịp thời, nghiêm
minh các vụ án về ma túy, đặc biệt quan tâm tăng cường xét xử lưu động nhằm
tuyên truyền, giáo dục cho nhân dân về tác hại của ma túy và răn đe các đối
tượng có ý định phạm tội.
Thực tiễn xét xử tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm
đoạt chất ma túy trên địa bàn tỉnh Hà Nam đã đạt được những kết quả tích cực,
đáp ứng yêu cầu đấu tranh và phòng chống tội phạm về ma túy. Tuy nhiên, chất
lượng và hiệu quả chưa cao, còn có những sai sót nhất định, phần nào ảnh hưởng
đến hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm về ma túy trên địa bàn.
Những sai sót đó, chủ yếu là do đội ngũ Thẩm phán, công chức Tòa án năng lực
còn hạn chế, tinh thần trách nhiệm chưa cao, cùng với đó thì còn do những quy
định của pháp luật hình sự về tội này có những bất cập cần phải được bổ sung,
sửa đổi.
Xuất phát từ những lý do trên, học viên xin lựa chọn đề tài: “Tội tàng trữ,
vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy theo pháp luật
Hình s Việt Nam từ th c tiễn tỉnh Hà Nam” làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Khi chọn nghiên cứu đề tài này, tác giả đã tham khảo:
2


Về sách, giáo trình gồm có: Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần
chung), GS-TS Võ Khánh Vinh, Nxb Khoa học Xã hội năm 2014; Giáo trình
luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), GS-TS Võ Khánh Vinh, Nxb Công
an nhân dân năm 2001; Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm),
GS-TS Nguyễn Ngọc Hòa (chủ biên), Nxb Công an nhân dân năm 2013; Bình

luận khoa học chuyên sâu Bộ luật hình sự (Phần các tội phạm), Th.s Đinh Văn
Quế, Nxb Lao động năm 2012;
Về các luận văn, công trình nghiên cứu gồm có: Luận án tiến sĩ Luật học
của Trần Văn Luyện với đề tài: “Phát hiện và điều tra tội phạm tàng trữ, vận
chuyển mua bán trái phép chất ma túy của lực lượng Cảnh sát nhân dân” năm
1999; Luận văn thạc sĩ Luật học của Ngô Thị Thanh: “Xét xử sơ thẩm vụ án
tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy trong
Luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh ” năm
2014; Luận án tiến sĩ luật học của Nguyễn Tuyết Mai: “Đấu tranh phòng chống
các tội phạm về ma túy ở Việt Nam” năm 2007; Đề tài cấp bộ “Những giải pháp
nâng cao chất lượng xét xử các vụ án về ma túy - Cơ sở lý luận và thực tiễn”,
Ths. Nguyễn Quang Lộc (chủ biên), Tòa án nhân dân Tối cao năm 2002;… và
nhiều bài viết trên các tạp chí chuyên ngành.
Các công trình nghiên cứu trên rất có giá trị liên quan đã có những đóng
góp quan trọng vào việc làm rõ các vấn đề lý luận và tình hình thực tiễn rất đáng
được tham khảo và kế thừa khi thực hiện đề tài “Tội tàng trữ, vận chuyển, mua
bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy theo pháp luật Hình sự Việt Nam từ
thực tiễn tỉnh Hà Nam”
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích: Trên cơ sở phân tích những khái niệm và dấu hiệu pháp lý
của tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy
theo pháp luật hình sự Việt Nam; nghiên cứu, phân tích thực tiễn xét xử các tội
này trên địa bàn tỉnh Hà Nam từ năm 2010 đến năm 2015, qua đó chỉ ra những
3


thành tựu, hạn chế đồng thời tìm ra nguyên nhân của những hạn chế đó; từ đó đề
xuất giải pháp để nâng cao hiệu quả xét xử tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái
phép chất ma túy.
3.2. Nhiệm vụ: Để đạt được những mục đích trê, luận văn cần giải quyết

các nhiệm vụ sau đây:
+ Nghiên cứu làm rõ các khái niệm: chất ma túy, các tội phạm về ma túy
và khái niệm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất
ma túy.
+ Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật hình sự Việt
Nam vê tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma
túy; phân tích các dấu hiệu pháp lý của tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái
phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy theo Điều 194 BLHS năm 1999.
+ Phân tích, đánh giá thực tiễn xét xử tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán
trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy trên địa bàn tỉnh Hà Nam giai đoạn từ
năm 2010 đến năm 2015, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
xét xử đối với tội phạm này.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Là những vấn đề lý luận và thực tiễn xét xử tội
tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy trên địa
bàn tỉnh Hà Nam.
- Phạm vi nghiên cứu:

+ Về lý luận: Nghiên cứu quy định tại Điều 194 BLHS năm 1999 về tội
tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy và những
văn bản pháp luật có liên quan dưới góc độ pháp luật hình sự.
+ Về thực tiễn: Nghiên cứu thực tiễn xét xử tội tàng trữ, vận chuyển, mua
bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy từ năm 2010 đến năm 2015 trên địa
bàn tỉnh Hà Nam.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4


Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác –
Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời dựa trên các quan điểm của Đảng, chính

sách của Nhà nước ta về đấu tranh phòng, chống tội phạm, có sử dụng các văn bản
pháp luật, các báo cáo tổng kết xét xử, các tài liệu trong nước có liên quan.
Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn cũng sử dụng các phương
pháp nghiên cứu cụ thể sau: thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh,…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về mặt lý luận, luận văn là công trình khoa học pháp lý về tội tàng trữ,
vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy theo quy định của
BLHS Việt Nam năm 1999, có thể được dùng làm tài liệu tham khảo trong quá
trình học tập và nghiên cứu của học viên.
Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần nâng cao chất
lượng, hiệu quả điều tra, truy tố và xét xử các vụ án về tội tàng trữ, vận chuyển,
mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy nói chung và trên địa bàn tỉnh
Hà Nam nói riêng.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm ba chương:
- Chương 1: Những vấn đề chung về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán
trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy.
- Chương 2: Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt
chất ma túy theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999.
- Chương 3: Thực tiễn xét xử tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép
hoặc chiếm đoạt chất ma túy trên địa bàn tỉnh Hà Nam từ năm 2010 đến năm
2015.

5


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN, MUA
BÁN TRÁI PHÉP HOẶC CHIẾM ĐOẠT CHẤT MA TÚY


1.1. Nhận thức chung về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép
hoặc chiếm đoạt chất ma túy
1.1.1. Khái niệm chất ma túy
Đến nay, trên thế giới chưa có một khái niệm thống nhất về ma túy hay
chất ma túy.
- Theo định nghĩa của Liên hợp quốc:“Ma tuý là chất hoá học có nguồn
gốc tự nhiên hoặc nhân tạo, khi xâm nhập vào cơ thể con người sẽ có tác dụng
làm thay đổi tâm trạng, ý thức trí tuệ của con người, làm cho con người bị lệ
thuộc vào các chất đó, gây nên những tổn thương cho từng cá nhân và cộng
đồng. Do vậy, việc sản xuất, vận chuyển, buôn bán, sử dụng các chất đó phải
được quy định chặt chẽ trong các văn bản pháp luật và chịu sự kiểm soát của cơ
quan bảo vệ pháp luật” [50].
- Theo định nghĩa của Tổ chức Y tế thế giới thì: Ma túy là các chất độc,
khi xâm nhập vào cơ thể sẽ phá hủy các cơ quan nội tạng. Năm 1982 WHO đã
phát triển định nghĩa Ma túy như sau: “Ma tuý theo nghĩa rộng nhất là mọi thực
thể hoá học hoặc là những thực thể hỗn hợp, khác với tất cả những cái được đòi
hỏi để duy trì một sức khoẻ bình thường, việc sử dụng những cái đó sẽ làm biến
đổi chức năng sinh học và có thể cả cấu trúc của vật” [52].
- Theo UNODC, “chất ma túy” là một thuật ngữ được sử dụng đa nghĩa:
trong y học, nó đề cập đến bất kỳ chất nào có khả năng ngăn ngừa hoặc chữa
bệnh hoặc tăng cường và phục hồi thể chất hoặc tinh thần; trong dược học, nó có
nghĩa là bất kỳ tác nhân hóa học nào làm thay đổi quá trình sinh hóa hoặc sinh lý
của tế bào sinh vật. Các loại chất ma túy được mô tả bằng nhiều cách khác nhau,
6


tùy thuộc vào nguồn gốc và tác dụng. Chất ma túy có thể có nguồn gốc tự nhiên,
bán tổng hợp hoặc tổng hợp. Trong bối cảnh kiểm soát ma túy quốc tế , “chất
ma túy” có nghĩa là bất kỳ các chất được liệt kê trong Phụ lục I và II của Công

ước thống nhất về các chất ma túy năm 1961, dù là tự nhiên hoặc tổng hợp [51].
- Theo quy định của pháp luật Việt Nam:
Theo từ điển tiếng Việt thì ma túy là những chất thuốc làm đê mê tinh
thần, cảm giác bạc nhược hay buồn ngủ, phần nhiều rút trong á phiện [44].
Luật phòng chống ma túy năm 2000 quy định:
Chất ma tuý là chất gây nghiện, chất hướng thần được quy định trong
danh các danh mục do Chính phủ ban hành.
Chất gây nghiện là chất kích thích hoặc ức chế thần kinh, dễ gây tình
trạng nghiện đối với người sử dụng.
Chất hướng thần là chất kích thích, ức chế thần kinh hoặc gây ảo giác,
nếu sử dụng nhiều lần có thể dẫn tới tình trạng nghiện với người sử dụng.
Tiền chất là các chất không thể thiếu được trong quá trình điều chế, sản
xuất ma tuý được quy định do chính phủ ban hành.
Thuốc gây nghiện, hướng thần là các loại thuốc chữa bệnh được quy định
trong danh mục do Bộ Y tế do chính phủ ban hành [30].
Các chất ma túy được quy định trong danh mục do Chính phủ Việt Nam ban
hành tại Nghị định số 82/2013/NĐ-CP, gồm có 235 chất ma túy chia thành 3 danh
mục và 41 tiền chất không thể thiếu trong quá trình sản xuất chất ma túy [3].
Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC ngày
24 tháng 12 năm 2007 hướng dẫn thì: “Chất ma túy là các chất gây nghiện, chất
hướng thần, được quy định các danh mục do Chính phủ ban hành”[1].
1.1.2. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội tàng trữ, vận chuyển,
mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy
Khoản 1 Điều 8 BLHS năm 1999 quy định: “Tội phạm là hành vi nguy
hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực
7


trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc; xâm phạm chế độ chính trị, chế

độ kinh tế, nền quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp
pháp của tổ chức; xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do,
tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân; xâm phạm những lĩnh
vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa”[24].
Từ khái niệm trên, có thể đưa ra khái niệm tội phạm về ma túy như sau:
Tội phạm về ma túy là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong
BLHS do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý, xâm
phạm chế độ quản lý các chất ma túy của Nhà nước và bị xử lý bằng hình phạt.
Theo Thạc sĩ Đinh Văn Quế: “Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép
hoặc chiếm đoạt chất ma túy là hành vi cất giữ, chuyển dịch, bán hay mua để
bán lại, cướp, bắt cóc nhằm chiếm đoạt, cưỡng đoạt, cướp giật, công nhiên
chiếm đoạt, trộm cắp, tham ô, lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt chất ma
túy” [20, tr. 78].
Từ khái niệm “Tội phạm” quy định tại khoản 1 Điều 8 BLHS năm 1999,
khái niệm “Các tội phạm về ma túy”, có thể đưa ra khái niệm tội tàng trữ, vận
chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy như sau: Tội tàng trữ,
vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy là những hành vi
nguy hiểm cho xã hội, bao gồm các hành vi: cất giữ, chuyển dịch, bán hay mua
để bán lại, chiếm đoạt (bằng mọi hình thức) chất ma túy, được quy định trong
BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý, xâm
phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy.
Dấu hiệu pháp lý của tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc
chiếm đoạt chất ma túy được thể hiện qua bốn yếu tố của cấu thành tội phạm, đó
là: khách thể của tội phạm, mặt khách quan của tội phạm, chủ thể của tội phạm
và mặt chủ quan của tội phạm.

8


* Khách thể của tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm

đoạt chất ma túy
Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ.
Như vậy, khách thể của tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm
đoạt chất ma túy là chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về việc cất giữ, vận
chuyển, trao đổi chất ma túy.
Đối tượng tác động của tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc
chiếm đoạt chất ma túy là các chất ma túy. Theo Thông tư liên tịch số
17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC ngày 24 tháng 12 năm 2007 hướng
dẫn thì: “Chất ma túy là các chất gây nghiện, chất hướng thần, được quy định
các danh mục do Chính phủ ban hành”.
* Mặt khách quan của tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc
chiếm đoạt chất ma túy
Mặt khách quan là mặt bên ngoài của hành vi phạm tội do Luật hình sự
quy định, đó là: Hành vi phạm tội; hậu quả nguy hại; và mối quan hệ nhân quả
giữa hành vi phạm tội và hậu quả xảy ra; công cụ, phương tiện phạm tội,..
Đối với tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất
ma túy thì dấu hiệu hậu quả, công cụ, phương tiện phạm tội,..không phải là dấu
hiệu bắt buộc mà chỉ cần dấu hiệu hành vi là đủ.
* Chủ thể của tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt
chất ma túy
Chủ thể của tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt
chất ma túy là bất kỳ ai có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi nhất định
theo quy định của BLHS.
* Mặt chủ quan của tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc
chiếm đoạt chất ma túy

9


Mặt chủ quan của tội phạm bao gồm các yếu tố: lỗi, động cơ và mục đích

phạm tội. Mặt chủ quan phản ánh mối liên hệ giữa ý thức của người phạm tội
đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội mà người đó đã thực hiện.
Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy
được thực hiện với lỗi cố ý, trong đó tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép
chất ma túy bao giờ cũng được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp còn tội chiếm
đoạt chất ma túy có thể thực hiện với cả lỗi cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp.
Động cơ, mục đích không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội
phạm này.
1.2. Khái quát lịch sử lập pháp về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái
phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy trong pháp luật hình sự Việt Nam
1.2.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng t án 8 năm 1945 đến trước khi Bộ
luật hình s Việt Nam năm 1985 có iệu l c thi hành
Sau khi giành được chính quyền ngày 2/9/1945, Nhà nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa từng bước xây dựng hệ thống pháp luật, coi thuốc phiện là độc
dược và chủ trương hạn chế, từng bước xóa bỏ trồng cây thuốc phiện, vận động
đồng bào vùng cao bỏ hút thuốc phiện.
Ngày 5/3/1952, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 150/TTg
quy định việc xử lý đối với những hành vi vi phạm thể lệ quản lý thuốc phiện. Theo
các Điều 1,2,3 và 4 của Nghị định này thì cây thuốc phiện chỉ được trồng ở thượng
du Bắc bộ, Liên khu 4; gười trồng cây thuốc phiện phải nộp thuế bằng hiện vật là
1/3 số nhựa thuốc phiện thu được, phần còn lại phải bán toàn bộ cho mậu dịch quốc
doanh. Điều 5 Nghị định quy định: “Ngoài cơ quan chuyên trách, không ai được
tàng trữ và vận chuyển nhựa thuốc phiện hay thuốc phiện đã nấu rồi”.
Tiếp theo đó, Nghị định số 225/TTg ngày 22/12/1952 của Thủ tướng
Chính phủ quy định những người có hành vi vi phạm thể lệ quản lý thuốc phiện
bị xử lý như: tịch thu thuốc phiện tàng trữ hoặc vận chuyển trái phép; phạt tiền

10



từ một đến năm lần trị giá số thuốc phiện lậu, gười vi phạm có thể bị truy tố
trước Tòa án.
Hai Nghị định nói trên chỉ đề cập xử lý hành vi “Tàng trữ và vận chuyển
trái phép”, không đề cập xử lý hành vi “sản xuất hoặc buôn bán trái phép”.
Chính vì vậy, ngày 15/9/1955, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định
580/TTg quy định các trường hợp này có thể bị đưa ra tòa án để xét xử với mức
phạt tù từ 3 tháng đến 5 năm, bị tịch thu tang vật, bị phạt tiền từ một đến năm
lần giá trị thuốc phiện buôn lậu.
Thông tư 33/VHH-HS ngày 05/07/1958 được ban hành để hướng dẫn
đường lối truy tố xét xử buôn lậu thuốc phiện.
Sau khi Miền nam được giải phóng, căn cứ vào Nghị định số 76-CP ngày
25/3/1977 của Hội đồng Chính phủ, TANDTC, VKSNDTC, Bộ nội vụ đã ra
Thông tư liên ngành hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong cả nước. Tại
điểm 2 mục H Thông tư đã xác định Nghị định 580-TTg về trừng trị tội buôn lậu
thuốc phiện tiếp tục có hiệu lực thi hành và cho áp dụng thống nhất trong cả nước.
Trước tình hình tội phạm ma túy ngày càng diễn biến phức tạp, BLHS
năm 1985 ra đời đã có thái độ kiên quyết hơn đối với loại tội phạm này theo
hướng cụ thể hóa và tăng cường hình phạt đối với loại tội phạm này.
1.2.2. Giai đoạn Bộ luật hình s Việt Nam năm 1985 có hiệu l c thi
hành
Tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa VII (từ ngày 21-6 đến ngày 27-6-1985),
Bộ luật hình sự đầu tiên của Nhà nước ta được thông qua. Theo BLHS năm
1985 thì chỉ có một điều (Điều 203) quy định riêng về “tội tổ chức dùng chất ma
tuý”, còn hành vi mua bán, vận chuyển ma túy qua biên giới thì bị truy cứu
TNHS theo Điều 97 BLHS “Tội buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa,
tiền tệ qua biên giới” và nếu mua bán, vận chuyển trái phép ma túy trong nội địa
thì bị truy cứu TNHS theo Điều 166 BLHS “Tội buôn bán hoặc tàng trữ hàng
cấm”. Do không đánh giá đúng tính chất đặc biệt nguy hiểm của hành vi buôn
11



bán, tàng trữ thuốc phiện và các chất ma túy khác cho nên đã coi ma túy là đối
tượng được pháp luật hình sự điều chỉnh ngang hàng với ngoại tệ, kim khí đá
quý và chỉ quy định mức hình phạt cao nhất đối với tội này là 20 năm tù. Bên
cạnh đó, Điều 166 BLHS cũng chỉ đề cập về TNHS đối với các hành vi buôn
bán, tàng trữ trái phép chất ma túy nên hành vi sản xuất, vận chuyển trái phép
chất ma túy trong nội địa không bị truy cứu TNHS. Trước tình hình đó, ngày 2812-1989 Quốc hôi đã thông qua luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS,
trong đó quy định Điều 96a - Tội sản xuất, tàng trữ, mua bán, vận chuyển trái
phép các chất ma túy, đặt trong Chương các tội xâm phạm an ninh quốc gia, với
ba khung hình phạt rất nghiêm khắc, loại hình phạt cao nhất có thể bị áp dụng là
tử hình; Điều 203 “Tội tổ chức dùng chất ma túy” có mức hình phạt cao nhất
đến mười năm tù [22].
Đến khi ban hành Hiến pháp năm 1992, Quốc hội nước CHXHCN Việt
Nam đã đánh giá được đúng mức tính chất, mức độ nguy hiểm và những ảnh
hưởng lớn của các hành vi sử dụng, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán trái phép
chất ma túy đến đời sống của toàn nhân dân, việc đấu tranh ngăn chặn ma túy
cũng được quy định trong Hiến Pháp 1992 tại điều 61: “…Nghiêm cấm sản
xuất, vận chuyển, buôn bán, tàng trữ, sử dụng trái phép thuốc phiện và các chất
ma túy khác. Nhà nước quy định chế độ cai nghiện và chữa các bệnh xã hội
nguy hiểm khác” [27].
Cụ thể hóa những tư tưởng trong Hiến pháp 1992, Đảng và Nhà nước tiếp
tục đổi mới chính sách hình sự đối với các tội phạm về ma túy. Trong lần sửa
đổi, bổ sung năm 1997, BLHS có thêm một chương mới – Chương VIIA các tội
phạm về ma tuý với 14 điều luật, quy định 13 tội danh khác nhau liên quan đến
ma tuý thay thế Điều 96a và Điều 203, trong đó các hành vi sản xuất, tàng trữ,
mua bán, vận chuyển trái phép chất ma túy được quy định thành 4 tội riêng biệt;
9/13 tội có khung hình phạt cao nhất là tử hình. Cụ thể các tội danh gồm: Tội
trồng cây thuốc phiện hoặc các loại cây khác có chứa chất ma tuý (Điều 185a);
12



Tội sản xuất trái phép chất ma tuý (Điều 185b); Tội tàng trữ trái phép chất ma
túy (Điều 185c); Tội vận chuyển trái phép chất ma túy (Điều 185d); Tội mua
bán trái phép chất ma túy (Điều 185đ); Tội chiếm đoạt chất ma túy (Điều 185e);
Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản
xuất trái phép chất ma túy (Điều 185g); Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua
bán các phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sản xuất hoặc sử dụng trái phép
chất ma túy (Điều 185h); Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 185i);
Tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 185k); tội sử dụng trái
phép chất ma túy (Điều 185l); Tội cưỡng, bức lôi kéo người khác sử dụng trái
phép chất ma túy (Điều 185m); Tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc
gây nghiện hoặc các chất ma túy khác (Điều 185n) [23].
BLHS năm 1985 là BLHS đầu tiên của nước CHXHCN Việt Nam, là
công cụ pháp lý sắc bén, hữu hiệu của Nhà nước để đấu tranh phòng ngừa và
chống tội phạm, góp phần đắc lực vào việc bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, góp phần duy trì trật tự
an toàn xã hội, trật tự quản lý kinh tế, bảo đảm cho mọi người được sống trong
một môi trường xã hội và sinh thái an toàn, lành mạnh, mang tính nhân văn cao.
Tuy nhiên, qua 15 năm thi hành, mặc dù đã được sửa đổi bổ sung nhưng BLHS
năm 1985 đã bộc lộ nhiều tồn tại, hạn chế và không còn phù hợp với điều kiện,
đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội hiện tại, yêu cầu cần phải được sửa đổi một
cách toàn diện. Ngày 21/12/1999, Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 6 đã thông qua
BLHS 1999, có hiệu lực từ 0h ngày 01/07/2000. Theo đó, các tội phạm về ma
túy được quy định thành một chương riêng là Chương XVIII, gồm 10 tội, từ
Điều 192 BLHS đến Điều 201 BLHS [24].

13



Kết luận chương 1
Trên cơ sở nghiên cứu các Công ước Quốc tế liên quan đến ma túy, Luật
phòng chống ma túy, khái niệm chung về tội phạm trong BLHS năm 1999 và
điều 194 BLHS năm 1999, kết hợp với việc tham khảo một số khái niệm, định
nghĩa của một số nhà khoa học, tác giả đã đưa ra được các khái niệm: “chất ma
túy”, “Tội phạm ma túy” và “Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc
chiếm đoạt chất ma túy”. Đồng thời với việc đưa các khái niệm, tác giả đã phân
tích các dấu hiệu pháp lý của tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc
chiếm đoạt chất ma túy. Ngoài ra, tác giả đã khái quát lịch sử lập pháp đối với
tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy, để từ
đó có cách nhìn toàn diện về chính sách hình sự của Nhà nước ta đối với tội này.
Việc nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản, chung nhất của tội tàng
trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy là cơ sở, là tiền
đề để chúng ta tiếp tục nghiên cứu một cách khoa học và cụ thể tội tàng trữ, vận
chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy theo quy định của
BLHS năm 1999.

14


Chương 2
TỘI TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN, MUA BÁN TRÁI PHÉP HOẶC
CHIẾM ĐOẠT CHẤT MA TÚY THEO QUY ĐỊNH CỦA
BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999
2.1. Dấu hiệu pháp lý hình sự của tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán
trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy
Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy
có các dấu hiệu thuộc cấu thành tội phạm cơ bản được mô tả trong Khoản 1
Điều 194 BLHS năm 1999, gồm:
2.1.1. Khách thể của tội phạm

Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy
quy định tại Điều 194 BLHS năm 1999 có khách thể trực tiếp là chế độ độc
quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy.
Đối tượng tác động của tội phạm: Đối tượng của tội tàng trữ, vận chuyển,
mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy là các chất ma túy. Theo Thông
tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC ngày 24 tháng 12
năm 2007 hướng dẫn thì: “Chất ma túy là các chất gây nghiện, chất hướng thần,
được quy định các danh mục do Chính phủ ban hành”. Như vậy chỉ những chất
gây nghiên, chất hướng thần, được quy định trong danh mục do chính phủ ban
hành thì mới bị coi là ma túy. Theo Nghị định 82/2012/NĐ-CP Chính phủ ban
hành các danh mục các chất ma túy và tiền chất thì hiện nay các chất ma túy bao
gồm 235 chất chia thành 3 danh mục và 41 tiền chất không thể thiếu trong quá
trình sản xuất, điều chế ma túy.
2.1.2. Mặt khách quan của tội phạm
Mặt khách quan được hiểu là mặt bên ngoài của tội phạm, bao gồm những
biểu hiện của tội phạm diễn ra và tồn tại bên ngoài thế giới khách quan. Việc
nghiên cứu mặt khách quan của tội phạm có vai trò rất quan trọng trong việc

15


định tội và định khung hình phạt, và thông qua mặt khách quan chúng ta cũng có
thể xác định được mặt chủ quan, chủ thể và khách thể của tội phạm
Mặt khách quan của tội phạm biểu hiện rõ nét nhất các yếu tố của tội
phạm mà con người có thể nhận biết trực tiếp được bao gồm các yếu tố:
- Hành vi khách quan nguy hiểm cho xã hội;
- Hậu quả nguy hiểm cho xã hội;
- Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả;
- Các điều kiện bên ngoài của việc thực hiện hành vi phạm tội (công cụ,
phương tiện, thủ đoạn, thời gian, địa điểm phạm tội…).

Đối với tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất
ma túy thì các hành vi khách quan của các tội phạm này gồm có 4 hành vi: Hành
vi tàng trữ trái phép chất ma túy; hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy; hành
vi mua bán trái phép chất ma túy; hành vi chiếm đoạt chất ma túy.
a. Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy
Tiểu mục 3.1 mục 3 phần II Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCAVKSNDTC-TANDTC-BTP quy định: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là cất
giữ, cất giấu bất hợp pháp chất ma túy ở bất cứ nơi nào (như trong nhà, ngoài
vườn, chôn dưới đất, để trong vali, cho vào thùng xăng xe, cất dấu trong quần
áo, tư trang mặc trên người hoặc theo người…) mà không nhằm mục đích mua
bán, vận chuyển hay sản xuất trái phép chất ma túy. Thời gian tàng trữ dài hay
ngắn không ảnh hưởng đến việc xác định tội này [1].
Hành vi tàng trữ chất ma túy bị coi là tội phạm khi hành vi đó được thực
hiện hoàn toàn không có giấy phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý
chất ma túy, chất gây nghiện. Hành vi tàng trữ chất ma túy không kể đến việc
người phạm tội có phải là chủ sở hữu của chất ma túy đó hay không .
Trường hợp người phạm tội cất giấu ma túy trên phương tiện giao thông
nhưng lại không có mục đích vận chuyển từ nơi này đến nơi khác, mặc dù trên
thực tế phương tiện giao thông đó di chuyển từ nơi này đến nơi khác thì người
16


phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
mà không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vận chuyển trái phép chất ma
túy.
Trường hợp cất giữ ma túy cho người khác mà biết rõ người này mua bán
trái phép chất ma túy thì đó là hành vi giúp sức cho người mua bán trái phép
chất ma túy và phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán trái phép
chất ma túy với vai trò đồng phạm.
b. Hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy
Tiểu mục 3.2, Mục 3 Phần II Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCAVKSNDTC-TANDTC-BTP quy định: “Vận chuyển trái phép chất ma túy” là hành

vi chuyển dịch bất hợp pháp chất ma túy từ nơi này đến nơi khác dưới bất kỳ hình
thức nào (có thể bằng các phương tiện khác nhau như ô tô, tàu bay, tàu thủy…; trên
các tuyến đường khác nhau như đường bộ, đường sắt, đường hàng không, đường
thủy, đường bưu điện…; có thể để trong người như cho vào túi áo, túi quần, nuốt
vào trong bụng, để trong hành lý như vali, túi xách v.v…) mà không nhằm mục
đích mua bán, tàng trữ hay sản xuất trái phép chất ma túy khác [1].
Người nào giữ hộ, hoặc vận chuyển trái phép chất ma túy cho người khác
mà biết rõ mục đích mua bán trái phép chất ma túy của người đó, thì bị truy cứu
trách nhiệm hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy với vai trò đồng phạm.
Nghị quyết 02/2003/NQ-HĐTP có hướng dẫn một số trường hợp cần lưu
ý đối với hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy như sau:
- Theo tiểu mục b mục 2 phần II: người nào biết người khác mua chất ma
tuý để sử dụng trái phép mà dùng phương tiện để chở họ cùng chất ma tuý và bị
bắt giữ nếu xét thấy trọng lượng chất ma tuý đến mức phải chịu trách nhiệm
hình sự về tội tàng trữ hoặc vận chuyển trái phép chất ma tuý, thì người đó là
đồng phạm với người mua về tội tàng trữ hoặc vận chuyển trái phép chất ma tuý.
- Theo tiểu mục c mục 2 phần II: trong trường hợp nhiều người nghiện ma
tuý cùng góp tiền mua chất ma tuý để sử dụng trái phép và bị bắt giữ nếu tổng
17


trọng lượng chất ma tuý mua được đến mức phải chịu trách nhiệm hình sự về tội
tàng trữ hoặc vận chuyển trái phép chất ma tuý, thì họ cùng phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội tàng trữ hoặc vận chuyển trái phép chất ma tuý.
- Theo tiểu mục d mục 2 phần II: người nào nghiện ma tuý có chất ma tuý
hoặc bỏ tiền mua chất ma tuý cho những người nghiện ma tuý khác cùng sử
dụng và bị bắt giữ nếu trọng lượng chất ma tuý đến mức phải chịu trách nhiệm
hình sự về tội tàng trữ hoặc vận chuyển trái phép chất ma tuý, thì người đó phải
chịu trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ hoặc vận chuyển trái phép chất ma tuý.
Như vậy, hành vi vận chuyển có thể nhằm lấy tiền công vận chuyển, lấy ma túy

(như một hình thức tiền công), hoặc có thể vận chuyển ma túy cho mình và cho
người nghiện khác cùng sử dụng, cũng có thể không nhằm mục đích vật chất mà
chỉ là vận chuyển giúp một người khác mà rõ ràng không vì mục đích mua bán,
sản xuất trái phép chất ma túy thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm về tội vận chuyển
trái phép chất ma túy.
c. Hành vi mua bán trái phép chất ma túy
Tiểu mục 3.3, Mục 3 Phần II Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCAVKSNDTC-TANDTC-BTP quy định: “Mua bán trái phép chất ma túy” là một
trong các hành vi sau đây:
- Bán trái phép chất ma túy cho người khác (không phụ thuộc vào nguồn
gốc chất ma túy do đâu mà có) bao gồm cả việc bán hộ chất ma túy cho người
khác để hưởng tiền công hoặc các lợi ích khác: Bán trái phép chất ma túy cho
người khác là dùng ma túy mình có được dưới bất kỳ hình thức nào như: mua
được, xin được, nhặt được, người khác gửi bán hộ hoặc chiếm đoạt được ma
túy… để bán cho người khác lấy tiền, tài sản hoặc lợi ích khác. Trường hợp bán
hộ chất ma túy cho người khác để hưởng tiền công hoặc các lợi ích khác cũng
đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 194 của BLHS năm 1999 là để
tránh một số trường hợp trên thực tế người phạm tội khi bị phát hiện, bắt giữ

18


khai bán hộ chất ma túy cho người khác nhằm phủ nhận hành vi phạm tội mua
bán trái phép chất ma túy.
- Mua chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác: là dùng tiền, tài sản
hoặc lợi ích khác để đổi lấy chất ma túy và dùng chất ma túy đó để bán lại cho
người khác nhằm thu tiền hoặc tài sản. Chỉ khi nào xác định được rõ hành vi
mua chất ma túy nhằm mục đích bán lại cho người khác thì mới được truy cứu
trách nhiệm hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy. Việc xác định hành vi
mua chất ma túy có nhằm mục đích bán trái phép hay không cần được xác định
rõ bởi đó là căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán trái phép chất

ma túy. Việc xác định mục đích người mua chất ma túy có nhằm bán trái phép
hay không cũng chỉ phức tạp trong trường hợp ma túy có trọng lượng (thể tích)
ít và người phạm tội khai nhận mua là để sử dụng. Còn đối với trường hợp
người mua lượng ma túy lớn thì việc xác định mục đích đơn giản hơn và căn cứ
vào những tình tiết xung quanh vụ án, có thể xác định được tội mua bán trái
phép của người phạm tội. Việc xác minh người phạm tội có mục đích bán chất
ma túy cho người khác hay không là trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng
và người tiến hành tố tụng. Đây là nhiệm vụ quan trọng bởi nếu không chứng
minh được mục đích mua bán của người phạm tội thì tùy trường hợp chỉ có thể
truy tố người phạm tội về tội tàng trữ hoặc vận chuyển trái phép chất ma túy, mà
trên thực tế thì đó là những tội có mức độ nguy hiểm thấp hơn tội mua bán trái
phép chất ma túy.
- Xin chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác: Hành vi xin chất ma
túy nhằm bán trái phép cho người khác là bằng lời nói hoặc hành động để người
khác cho mình chất ma túy, rồi sau đó đem chất ma túy đó bán cho một người
thứ ba để lấy tiền hoặc tài sản. Nếu xin được chất ma túy và bán ngay thì hành vi
của người phạm tội là hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Nếu xin được chất
ma túy, đem cất giữ qua một thời gian rồi mới đem bán, thì đó là hành vi tàng
trữ, mua bán trái phép chất ma túy.
19


×