Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

tiểu luận cao học Quan điểm của đảng cộng sản việt nam về đổi mới phương thức lãnh đạo của đảng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.66 KB, 27 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Suốt mấy nghìn năm trước đây, những trí tuệ ưu tú nhất của loài người
đều cố gắng tìm kiếm con đường để các dân tộc được sống trong hòa bình,
hữu nghị, thoát khỏi cảnh thống khổ lầm than, mâu thuẫn, chống đối lẫn
nhau. Nhưng hầu như tất cả không tìm thấy hướng đi đúng và lực lượng thật
sự để thực hiện ước mơ của mình. Chỉ đến thế kỷ XIX, các nhà sáng lập ra
chủ nghĩa cộng sản khoa học mới là người mở đầu một con đường thật sự
giải phóng những người lao động khỏi bất công, ngang trái. Bằng việc đưa
ra quan điểm duy vật về lịch sử và phát hiện ra quy luật giá trị thặng dư,
C.Mác đã tìm được lực lượng và vũ khí để giải phóng người lao động, và
cũng từ đó, chủ nghĩa cộng sản mới trở thành một trong những khoa học giải
phóng loài người.
Vận dụng và phát triển lý luận của C.Mác về giải phóng giai cấp vô sản
vào nước Nga, trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản chuyển sang chủ nghĩa đế quốc,
V.I.Lê-nin thấy rõ hơn mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc, giữa cuộc đấu
tranh giải phóng giai cấp vô sản và cuộc đấu tranh giải phóng các dân tộc bị
áp bức. V.I.Lê-nin đề ra khẩu hiệu: “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị
áp bức đoàn kết lại!”. Và, với cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga, mở đầu cho
việc thủ tiêu chế độ người bóc lột người, thủ tiêu nạn áp bức dân tộc, và bằng
chính sách dân tộc đúng đắn, V.I.Lê-nin đã đưa nước Nga từ “nhà tù đối với
các dân tộc” thành “Tổ quốc của nhiều dân tộc”.
Ở Việt Nam, từ thiên tài trí tuệ của mình, vượt lên những tầm nhìn hạn
chế của các nhà yêu nước đương thời, Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh đến với
chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tìm thấy ở học thuyết này con đường cứu dân, cứu
nước. Bác khẳng định: “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại
cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng,

1



bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người,
niềm vui, hòa bình, hạnh phúc”(2).
Đảng Cộng sản Việt Nam gắn liền với tên tuổi của lãnh tụ Hồ Chí
Minh, từ khi ra đời đến nay đã lãnh đạo nhân dân ta đoàn kết, thống nhất đấu
tranh, giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. Ngày nay, Đảng đang tiếp
tục tự đổi mới, tự chỉnh đốn để đủ sức đoàn kết, lãnh đạo toàn dân vượt qua
khó khăn, thách thức, đưa con thuyền Việt Nam cập bến vinh quang. Đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng với hệ thống chính trị là một trong những
vấn đề đặt ra và được Đảng ta quan tâm lãnh đạo bấy lâu nay. Đây chính là
đòi hỏi bức thiết nhất để Đảng cộng sản Việt Nam luôn nghiên cứu và đưa ra
những quan điểm của mình về vấn đề đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với hệ thống chính trị.
Hơn nữa, vấn đề đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng và việc vận
dụng sự đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng vào thực tiễn còn nhiều
khoảng cách, hạn chế và thiếu sót, đòi hỏi chúng ta phải nghiên cứu sâu sắc lý
luận, tổng kết thực tiễn để rút ra kinh nghiệm, bài học cho những giai đoạn
sau, đảm bảo sự lãnh đạo vững chắc của Đảng cộng sản Việt Nam đối với
toàn bộ hệ thống chính trị.
Chính vì những vấn đề lớn đặt ra đó, bản thân em xin mạnh dạn chọn
đề tài: “Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng”. Chắc chắn, tiểu luận của em còn có nhiều hạn chế và
thiếu sót.
Kính mong thầy cô chỉ bảo và giúp đỡ!
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Đưa ra được những quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng, từ đó đề xuất những giải pháp tiếp tục đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn hiện nay là mục đích cao
nhất mà đề tài nghiên cứu.
2



2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để làm rõ mục đích của đề tài, cần triển khai thực hiện các nhiệm vụ sau;
- Làm rõ quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng và sự cần thiết phải đổi mới.
- Làm rõ phương thức lãnh đạo của Đảng ta trong các thời kỳ và
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị hiện nay.
- Đưa ra các phương hướng và giải pháp cụ thể tiếp tục đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị giai đoạn
hiện nay.
3. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được xây dựng trên cơ sở lý luận và phương pháp duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
hệ thống các quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng. Trong quá trình nghiên cứu, sử dụng một số phương
pháp như phương pháp phân tích tài liệu, phương pháp thống kê, tổng hợp.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung vào nghiên cứu các quan điểm về đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng mà Đảng cộng sản Việt Nam nêu ra.
Phạm vi nghiên cứu: quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam.
5. Kết cấu đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu
đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về phương thức
lãnh đạo của Đảng – khái niệm và sự cần thiết đổi mới
Chương 2: Phương thức lãnh đạo của Đảng trong các thời kỳ và
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị hiện nay
Chương 3: Phương hướng và giải pháp tiếp tục đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị giai đoạn hiện nay


3


NỘI DUNG
Chương 1
QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ
PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG – KHÁI NIỆM VÀ
SỰ CẦN THIẾT ĐỔI MỚI
1.1. Khái niệm phương thức lãnh đạo của Đảng
Đối với các Đảng cộng sản cầm quyền, phương thức lãnh đạo được coi
là một vấn đề hệ trọng.
Trong thời kỳ Đảng lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền, nhiệm vụ
trọng tâm của Đảng cộng sản là lãnh đạo giai cấp công nhân, nhân dân lao
động tiến hành lật đổ chế độ áp bức, bóc lột, giành chính quyền. Trong thời
kỳ này, Đảng lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ cách mạng chủ yếu là sự gắn bó
giữa Đảng viên với nhân dân, tập hợp, giáo dục, giác ngộ nhân dân, đưa họ
vào phong trào cách mạng, đấu tranh giành chính quyền, thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ cách mạng. Khi giành được chính quyền, trở thành Đảng cầm
quyền, Đảng có hệ thống chính trị từ trung ương đến cơ sở, Đảng chịu trách
nhiệm về cuộc sống vật chất, tinh thần của nhân dân và trước vận mệnh của
đất nước, dân tộc. Sự lãnh đạo của Đảng được mở rộng đối với toàn xã hội.
Đảng lãnh đạo tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, các tổ chức trong hệ
thống chính trị, các tổ chức kinh tế xã hội, xã hội – nghề nghiệp.
Để lãnh đạo cách mạng giành thắng lợi, hai vấn đề quan trọng Đảng
phải quan tâm là xác định đúng nội dung lãnh đạo và tạo lập phương thức
lãnh đạo đúng đắn phù hợp.
Thời gian khá dài trước đây Việt Nam ít sử dụng khái niệm phương
thức lãnh đạo của Đảng. Khi Đảng lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn diện đất
nước (1986) và từ Đại hội VII, nhất là từ sau khi Đảng ra Nghị quyết Trung

ương 3 khóa VII “về một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng” khái niệm
phương thức lãnh đạo của Đảng được sử dụng nhiều trong các văn kiện Đảng
4


và trong hoạt động lãnh đạo của Đảng. Phương thức lãnh đạo của Đảng trở
thành vấn đề rất quan trọng của Đảng cộng sản Việt Nam cầm quyền, thu hút
sự chú ý của cán bộ, Đảng viên và nhân dân.
Trong tác phẩm “Sửa đổi lề lối làm việc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ
rõ: lãnh đạo đúng nghĩa là phải quyết định vấn đề một cách cho đúng, phải tổ
chức sự thi hành cho đúng, phải tổ chức sự kiểm soát. Như vậy, Người đã chỉ
ra các yếu tố tạo nên sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, đó cũng chính là quy
trình, cách thức, phương pháp lãnh đạo đứng đắn của Đảng.
Theo cuốn sách “Đối mới phương thức lãnh đạo của Đảng” do Trần Đình
Nghiêm chủ biên, thì: “Phương thức lãnh đạo là tổng thể phương pháp, hình
thức, biện pháp, quy trình, lề lối làm việc, tác phong công tác mà Đảng sử dụng
để thực hiện sụ lãnh đạo toàn xã hội thông qua tổ chức đảng, đảng viên...”.
Tại Đại hội VII Đảng ta thông qua cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội , đã nói khá rõ phương thức lãnh đạo của
Đảng trong giai đoạn hiện nay: “Đảng lãnh đạo xã hội bằng cương lĩnh, chiến
lược, các định hướng về chính sách và chủ trương công tác, bằng công tác
tuyên truyền thuyết phục, vận động, tổ chức kiểm tra và bằng hành động
gương mẫu của Đảng viên. Đảng giới thiệu những đảng viên ưu tú đủ năng
lực phẩm chất vao hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo chính quyền và các
đoàn thể. Đảng không làm thay thế công việc của các tổ chức khác trong hệ
thống chính trị”.
Tại Đại hội X Đảng ta đã có bước phát triển lớn về phương thức lãnh
đạo. Đảng nhấn mạnh “tiếp tục đổi mới, phong cách, lề lối làm việc của Đảng
theo hướng thức sự dân chủ, kỷ cương, thiết thực, sâu sát cơ sở, quần chúng,
làm việc có chương trình, kề hoạch, có trọng tâm, trọng điểm, nói đi đôi với

làm. Đổi mới cách ra nghị quyết, văn kiện và báo cáo phải ngắn gọn, thiết
thực, cụ thể, đổi mới nâng cao chất lượng, hiệu quả của hội nghị. Cấp ủy dành
nhiều thời gian tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra, tổ chức, thực hiện nghị quyết, chỉ
đạo hoạt động của Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân...Xây dựng
5


và thực hiện chế độ báo cáo xin ý kiến...Bố Chính trị, Ban Bí thư phải báo cáo
xin ý kiến Ban chấp hành Trung ương về hoạt động của mình giữa hai kỳ họp
Ban chấp hành Trung ương”.
Và ở Đại hội XI Đảng ta đã bổ sung thêm nhiều nội dung cụ thể thiết
thực: “Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và
xã hội. Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính
sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ
chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng
thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu
những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các
cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức
đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị, tăng
cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu. Đảng thường
xuyên nâng cao năng lực cầm quyền và hiệu quả lãnh đạo, đồng thời phát huy
mạnh mẽ vai trò, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức khác
trong hệ thống chính trị. Để đảm đương được vai trò lãnh đạo, Đảng phải
vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; thường xuyên tự đổi mới, tự
chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo
đức và năng lực lãnh đạo. Giữ vững truyền thống đoàn kết thống nhất trong
Đảng, tăng cường dân chủ và kỷ luật trong hoạt động của Đảng. Thường
xuyên tự phê bình và phê bình, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa
cơ hội, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí và mọi hành động chia rẽ, bè phái.
Đảng chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, có phẩm chất,

năng lực, có sức chiến đấu cao theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; quan
tâm bồi dưỡng, đào tạo lớp người kế tục sự nghiệp cách mạng của Đảng và
dân tộc”.
Từ những điều trình bày ở trên có thể quan niệm: phương thức lãnh đạo
của Đảng là hệ thống các hình thức, phương pháp, quy chế, quy định, quy
trình, chế độ, lề lối làm việc, tác phong công tác... mà Đảng sử dụng để tác
6


động vào các tổ chức trong hệ thống chính trị, các lĩnh vực đời sống xã hội và
nhân dân nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng.
Như vậy, chủ thể lãnh đạo của Đảng. Đối tượng lãnh đạo là các tổ chức
trong hệ thống chính trị, các lĩnh vực đời sống xã hội. Nội dung lãnh đạo là
những công việc Đảng phải làm, phải xác định trong một khoảng thời gian
nhất định, thường là một nhiệm kỳ Đại hội Đảng nhằm thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ cách mạng.
1.2. Những yếu tố tác động đến phương thức lãnh đạo của Đảng
Thực tiễn lãnh đạo cách mạng của Đảng cho thấy, phương thức lãnh
đạo của Đảng có vai trò rất quan trọng đối với sự lãnh đạo của Đảng. Trong
quá trình lãnh đạo cách mạng, cùng với việc xác định nội dung lãnh đạo đúng
đắn, việc xác lập phương thức lãnh đạo đúng, phù hợp có ý nghĩa quyết định
chất lượng, hiệu quả lãnh đạo của Đảng. Để có thể xác định phương thức lãnh
đạo đúng đắn, Đảng đã xác định những yếu tố chủ yếu tác động đến phương
thức lãnh đạo của Đảng:
1.2.1. Đường lối, nhiệm vụ chính trị của Đảng trong mỗi thời kỳ cách
mạng
Đường lối, nhiệm vụ chính trị của Đảng trong mỗi thời kỳ cách mạng
chi phối và quy định nội dung lãnh đạo của Đảng. Nói cách khác, phải trên cơ
sở đường lối, nhiệm vụ chính trị của Đảng trong mỗi thời kỳ cách mạng để
xác định nội dung lãnh đạo của Đảng, đó là những công việc mà Đảng phải

lãnh đạo thực hiện trong từng khoảng thời gian nhất định nhằm từng bước
thực hiện đường lối, nhiệm vụ chính trị được xác định.
Thực tiễn cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng khẳng định khi đã xác
định được đường lối, nhiệm vụ chính trị đúng đắn, từ đó Đảng xác định được
nội dung lãnh đạo đúng đắn, chính xác, có tổ chức hợp lý, đội ngũ cán bộ có
chất lượng, nhưng không xác định được phương thức lãnh đạo đúng đắn, phù
hợp thì chất lượng, hiệu quả lãnh đạo của Đảng sẽ thấp, thậm chí nội dung
lãnh đạo và đường lối, nhiệm vụ chính trị đúng đắn đó không thành hiện thực.
7


1.2.2. Sự phát triển và hoàn thiện của hệ thống chính trị, trình độ dân chủ
và trình độ dân trí.
Các tổ chức trong hệ thống chính trị, các tổ chức xã hội, xã hội – nghề
nghiệp và nhân dân là những đối tượng lãnh đạo của Đảng. Chọn và sử dụng
phương thức lãnh đạo nào để lãnh đạo các đối tượng đạt hiệu quả cao không
thể tùy tiện mà phải trên cơ sở thực trạng về sự phát triển và hoàn thiện của hệ
thống chính trị, trình độ dân trí đồng thời phải chú ý đến trình độ dân chủ của
các thành viên, các tổ chức trong hệ thống chính trị và nhân dân. Có như thế,
đối tượng lãnh đạo của Đảng mới tiếp thu được nội dung lãnh đạo của Đảng
và thực hiện đạt kết quả cao.
Tuy nhiên, không phải Đảng cứ thụ động ngồi chờ để đối tượng lãnh
đạo của mình tự thân phát triển, mà Đảng phải luôn tích cực, chủ động đề ra
các chủ trương, giải pháp khả thi để các đối tượng lãnh đạo của mình từng
bước phát triển. Từ đó, Đảng sử dụng phương thức lãnh đạo thích hợp, đem
lại hiệu quả cao. Vì vậy, cùng với việc đổi mới phương thức lãnh đạo của
mình, Đảng phai coi trọng, củng cố, kiện toàn nâng cao chất lượng đối tượng
lãnh đạo.
1.2.3. Trình độ, năng lực lãnh đạo của Đảng, chất lượng đội ngũ cán bộ,
nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các ngành, các cấp vào

điều kiện hoạt động của Đảng
Đây chính là những đòi hỏi với chủ thể lãnh đạo, tức đòi hỏi với Đảng.
Phương thức lãnh đạo của Đảng được xác định và thực hiện chủ yếu thông
qua đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các
ngành, các cấp. Đội ngũ này có chất lượng tốt sẽ xác định phương thức lãnh
đạo đúng đắn và thực hiện đem lại kết quả cao.
Môi trường hoạt động cũng tác động và chi phối không nhỏ phương
thức lãnh đạo của Đảng. Đất nước ổn định về chính trị, an ninh, trật tự được
giữ vững, thế giới ít có những diễn biến phực tạp, Đảng sẽ có điều kiện thuận
lợi để tiến hành đổi mới phương thức lãnh đạo.
8


1.2.4. Sự phát triển của khoa học lãnh đạo, quản lý, vào các phương tiện
kỹ thuật phục vụ hoạt động lãnh đạo của Đảng
Thành tựu của khoa học xã hội, khoa học nhân văn và khoa học công
nghệ có vai trò rất lớn đối với phương thức lãnh đạo của Đảng, nó cung cấp
cho Đảng cơ sở lý luận và các phương tiện kỹ thuật hiện đại để Đảng thực
hiện phương thức lãnh đạo của mình.
1.3. Sự cần thiết đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng giai đoạn hiện nay
1.3.1. Nhiệm vụ cách mạng đã thay đổi căn bản
Sau thắng lợi Cách mạng tháng Tám 1945, Đảng ta lãnh đạo nhân dân
thực hiện cuộc khắng chiến trường kỳ, gian khổ chống thực dân Pháp xâm
lược. Trong khi phải tập trung lãnh đạo kháng chiến, với nhiều công việc
nặng nề, chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra nhiều điều bổ ích về phương thức
lãnh đạo của Đảng, đặt cơ sở cho việc đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng trong điều kiện trong điều kiện Đảng lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ Tổ quốc sau khi chiến thắng thực dân Pháp xâm lược. Những
chỉ dẫn quý báu đó được Người viết trong tác phẩm “Sửa đổi lề lối làm việc”.
Từ năm 1986, Đảng bước vào công cuộc lãnh đạo đổi mới toàn diện đất

nước. Đảng đề ra mục tiêu, quan điểm, nguyên tắc đổi mới đúng đắn, sáng
tạo. Nhiệm vụ của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước rất to lớn, nặng nề,
khác với nhiệm vụ của thời kỳ trước là lãnh đạo kháng chiến chống thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, lãnh đạo bảo vệ tổ quốc và xây dựng chủ ngĩa
xã hội theo cơ chế hành chính, tập trung, quan liêu, bao cấp.
Tại Đại hội Đảng VIII Đảng đã xem xét đánh giá thành tựu to lớn của
công cuộc đổi mới bắt đầu từ Đại hội VI (1986) và khẳng định: đất nước ta có
đủ các điều kiện cần thiết để bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa –
hiện đại hóa. Đảng đã xác định mục tiêu đến năm 2020 là: “Xây dựng nước ta
thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất – kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh
tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững
9


chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Từ nay đến năm 2020
ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp”. Đây là
nhiệm vụ to lớn, nặng nề, trong quá trình thực hiện sẽ xuất hiện nhiều vấn đề
phức tạp mới, đòi hỏi Đảng phải giải quyết một cách sáng tạo, khẩn trương.
Để thực hiện mục tiêu đó, Đảng phải đổi mới mạnh mẽ cách thức, lề lối làm
việc và đời mới phương thức lãnh đạo.
Để tiếp tục phấn đấu thực hiện thắng lợi mục tiêu của thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa – hiện đại hóa, Đại hội X của Đảng xác định mục tiêu và
phương hướng tổng quát phát triển đất nước 5 năm 2006 – 2010 là: “Nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn
dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, huy động sử dụng tốt mọi
nguồn lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển văn hóa,
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, tăng cường quốc phòng an ninh, mở
rộng quan hệ đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, giữ
vững ổn định chính trị - xã hội, sớm đưa nước ta thoát khỏi tình trạng kém

phát triển, tạo nền tảng đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước
công nghiệp theo hướng hiện đại”.
Đại hội XI chỉ ra rõ hơn mục tiêu tổng quát của chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội 2011 – 2020: “Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; chính trị - xã hội ổn định, dân
chủ, kỷ cương, đồng thuận; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được
nâng lên rõ rệt; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ
vững; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng lên; tạo tiền
đề vững chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn sau”.
1.3.2.Sự phát triển của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa và các tổ chức
xã hội ở Việt Nam
Trở thành Đảng cầm quyền Đảng có hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa
được thành lập từ trung ương đến cơ sở. Đó là một chỉnh thể gồm Đảng cộng

10


sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội.
Các tổ chức trong hệ thống chính trị có mối quan hệ mật thiết với nhau và
đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhằm đảm bảo mọi quyền lực thuộc về nhân dân,
thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, tiến tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
So với thời kỳ trước đổi mới, các tổ chức trong hệ thống chính trị nước
ta đã có sự phát triển khá lớn về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, nội dung,
phương thức hoạt động và số lượng các tổ chức thành viên.
Cùng với quá trình lãnh đạo và những thành tựu của công cuộc đổi
mới, các tổ chức trong hệ thống chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, xã hội –
nghề nghiệp và các lĩnh vực đời sống xã hội nước ta phát triển mạnh mẽ. Hệ
thống chính trị được củng cố kiện toàn về tổ chức bộ máy và cán bộ, chức

năng nhiệm vụ được xác định, được bổ sung bởi những điểm mới, nội dung,
phương thức hoạt động được đổi mới, chất lượng hoạt động từng bước được
nâng lên. Các lĩnh vực đời sống xã hội trong điều kiện thực hiện kinh tế thị
trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, mở rộng, chủ động và hội nhập kinh tế
quốc tế đã phát triển rất đa dạng phong phú, thích ứng dần với môi trường và
điều kiện hoạt động mới.
Để lãnh đạo các tổ chức trong hệ thống thống chính trị đạt kết quả cao,
vừa phát huy cao độ vai trò của từng tổ chức và cả hệ thống chính trị trong
thực hiện đường lối đổi mới, vừa giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của
Đảng thì Đảng phải đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo kịp thời với tình
hình mới.
1.3.3. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ như vũ
bão, điều kiện môi trường hoạt động của Đảng có sự biến đổi rất lớn tác
động mạnh mẽ vào phương thức lãnh đạo của Đảng
Phương thức lãnh đạo của Đảng phụ thuộc và chịu sự chi phối rất lớn
của khoa học công nghệ. Nhờ khoa học tiên tiến và công nghệ hiện đại chất
11


lượng, hiệu quả lãnh đạo của Đảng được nâng lên. Sử dụng có hiệu quả thành
tựu khoa học công nghệ hiện đại Đảng sẽ xử lý kịp thời và hiệu quả những
vấn đề nảy sinh trong thực tiễn, nâng cao chất lượng, hiệu quả lãnh đạo, uy tín
và vai trò của Đảng được củng cố, phát triển và nâng cao.
Hiện nay Đảng ta đang lãnh đạo công cuộc đổi mới xây dựng nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong điều kiện mở cửa, mở rộng
quan hệ với các nước, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế trong
điều kiện khoa học – công nghệ phát triển mạnh mẽ, nhanh chóng. Đặc biệt
trong những năm gần đây, khoa học xã hội – nhân văn, khoa học quản lý đã
thu được những thành quả đáng khích lệ. Bên cạnh đó nhiều thành tựu khoa
học tiên tiến nhanh chóng được áp dụng vào sản xuất và đời sống đem lại hiệu

quả cao... điều này đòi hỏi Đảng phải đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo
của mình nhằm sử dụng khai thác triệt để các thành tựu khoa học – công nghệ
hiện đại phục vụ sự lãnh đạo của Đảng.
So với thời kỳ Đảng lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội theo cơ chế
hành chính, tập trung, quan liêu, bao cấp thì điều kiện, môi trường hoạt động
của Đảng hiện nay có những biến đổi lớn. Trong thời gian rất dài trước đổi
mới, Việt Nam chủ yếu quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa. Hiện nay,
chúng ta đã và đnag mở rộng quan hệ với nhiều nước trên thế giới, không
phân biệt chế độ chính trị khác nhau trên nguyên tắc tôn trọng lẫn nhau,
không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, đôi bên cùng phát triển, vì sự
tiến bộ mỗi nước và tiến bộ nhân loại... Những biến đổi căn bản to lớn đó đòi
hỏi Đảng không thể sử dụng phương thức lãnh đạo của các thời kỳ trước đây,
mà phải đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo.

12


Chương 2
PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG TRONG CÁC THỜI KỲ
VÀ PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI HỆ THỐNG
CHÍNH TRỊ HIỆN NAY
2.1. Phương thức lãnh đạo của Đảng trong các thời kỳ
2.1.1. Thời kỳ 1945 – 1975 – thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc
Đây là thời kỳ Đảng cộng sản Việt Nam trở thành Đảng cầm quyền.
Song, Đảng ta chưa bắt tay ngay vào lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội mà
chủ yếu là bảo vệ tổ quốc, lãnh đạo cuộc đấu tranh chống thù trong giặc
ngoài, bảo vệ chính quyền non trẻ và lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Pháp
xâm lược trong suốt 9 năm trường kỳ. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ lẫy
lừng thế giới, đất nước tạm chia thành hai miền, Đảng tiếp tục thực hiện đồng
thời hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc (xây

dựng miền bắc trở thành hậu phương lớn của chiến trường miền Nam, sẵn
sàng đánh tan âm mưu mở rộng chiến tranh của đế quốc Mỹ) và lãnh đạo
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ở miền Nam, hoàn thành cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.
Trong thời kỳ này, Đảng đề ra đường lối cách mạng đúng đắn: cùng với
phát triển kinh tế - xã hội miền Bắc, xây dựng miền Bắc thành hậu phương
lớn của chiến trường miền Nam, Đảng đã giành sự ưu tiên đặc biệt cho lĩnh
vực quân sự. Đảng đã thực hiện sự lãnh đạo toàn diện tất cả các khâu, các lĩnh
vực xã hội, các tổ chức của hệ thống chuyên chính vô sản. Phương pháp cách
mạng cũng được Đảng xác định: phương pháp công tác tư tưởng, công tác
dân vận được Đảng áp dụng trong thời gian này đạt tới trình độ nghệ thuật, đã
tạo được sự đồng thuận, nhất trí cao của toàn dân đối với chủ trương, đường
lối của Đảng, tạo sự ủng hộ và nhiệt tình tham gia của toàn dân vào các phong
trào hành động cách mạng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, giành
thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam,
13


thống nhất đất nước. Đồng thời tạo được sự ủng hộ nhiệt tình của nhân dân
yêu chuộng hòa bình trên thế giới.
Tuy nhiên, vai trò của các cơ quan Nhà nước ở nhiều nơi, nhiều lúc
chưa thể hiện rõ, thậm chí trở thành mờ nhạt, bị động. Vai trò lãnh đạo của
Đảng, chức năng quản lý của Nhà nước chưa định phân định rõ ràng ở từng
cấp, phương thức lãnh đạo của nhiều tổ chức Đảng còn rập khuôn, máy móc.
2.1.2. Thời kỳ 1976 – 1986 – thời kỳ lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội
trong cả nước
Đây là thời kỳ đất nước thống nhất. Đảng cầm quyền trong cả nước,
lãnh đạo toàn thể nhân dân thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội và sẵn sàng chiến đấu bảo vệ vững chắc tổ quốc
xã hội chủ nghĩa. Sau chiến tranh, nền kinh tế nước là nền sản xuất nhỏ, chịu

hậu quả nặng nề của cuộc chiến tranh tàn khốc kéo dài, các vấn đề xã hội rất
phức tạp chưa thể giải quyết có hiệu quả trong thời gian ngắn. Đội ngũ cán
bộ, đảng viên hoạt động lâu năm trong chiến tranh có nhiều ưu điểm song vẫn
có những hạn chế nhất định. Cơ chế hành chính tập trung quan liêu bao cấp
được duy trì trong thời gian dài, thích hợp với thời chiến, đã ăn sâu bắm chắc
vào cán bộ, đảng viên. Phương thức lãnh đạo ấy cũng dần bộc lộ những
nhược điểm. Trong xã hội cũng bộc lộ những nhân tố mới, yếu tố mới của
phương thức lãnh đạo mới của Đảng.
Qua các Đại hội IV, V Đảng đã dần dần hình thành hệ quan điểm về
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chuyên chính vô sản, nhất là
đối với Nhà nước, các lĩnh vực của đời sống xã hội và toàn xã hội trong điều
kiện hòa bình, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đảng chú ý việc cụ thể hóa một
bước về mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các đoàn thể trong Điều lệ
Đảng thông qua Đại hội IV. Đảng coi trọng lãnh đạo thông qua công tác tổ
chức cán bộ, mở rộng dân chủ, thông qua các tổ chức đảng và cán bộ, coi
trọng giáo dục thuyết phục và quy chế làm việc...

14


Tuy nhiên, có lúc có nơi vẫn còn tình trạng lãnh đạo theo kiểu tập
trung, quan liêu, bao cáo, duy ý chí, thiếu dân chủ, máy móc, giáo điều khi
vận dụng kinh nghiệm của nước ngoài vào nước ta. Phong cách lãnh đạo của
nhiều cấp ủy còn mang nặng dấu ấn của thời chiến và phong cách làm việc
kiểu hành chính, mệnh lệnh, hạn chế dân chủ.
2.1.3. Thời kỳ từ năm 1986 đến nay – thời kỳ đổi mới
Trong công cuộc đổi mới, việc chuyển sang nền kinh tế nhiều thành
phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước và mở cửa
hội nhập với nền kinh tế thế giới, hệ thống chính trị đã có bước phát triển
mới. Nhà nước tiến hành quản lý đất nước bằng pháp luật. Các tổ chức chính

trị - xã hội phát triển mạnh mẽ, đa dạng hóa cả về tổ chức và phương thức
hoạt động. Tình hình đó đòi hỏi Đảng phải đứng đúng vị trí của mình để xây
dựng Nhà nước thật sự vững mạnh, quản lý Nhà nước có hiệu quả: vừa phải
lãnh đạo các tổ chức xã hội, các tầng lớp nhân dân thực hiện tốt các chính
sách, pháp luật của Nhà nước.
Những tiến bộ của Đảng trong sự phát triển nhận thức về phương thức
lãnh đạo của Đảng trong suốt hơn hai mưới năm qua đã được cụ thể thành
những thành tựu trên thực tế.
Tại Đại hội VI Đảng nhấn mạnh: “đổi mới phong cách lãnh đạo và
công tác”. Đến Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ sáu khóa VI
(1989), sự phát triển nhận thức của Đảng về phương thức lãnh đạo có bước
phát triển khá lớn. Đảng đã nhấn mạnh: đổi mới tổ chức và phương thức hoạt
động của hệ thống chính trị, phân định rõ chức năng nhiệm vụ trên cơ sở đó
đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của Đảng, Nhà nước và các đoàn
thể quần chúng.
Đến Đại hội VII, Đảng có bước phát triển lớn trong nhận thức về
phương thức lãnh đạo của Đảng. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã chỉ rõ: “Đảng lãnh đạo xã hội bằng Cương
lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương công tác, bằng
15


công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức kiểm tra và bằng hành
động gương mẫu của đảng viên. Đảng giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ
năng lực và phẩm chất vào vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo chính
quyền và các đoàn thể. Đảng không làm thay công việc của các tổ chức trong
hệ thống chính trị”.
Đến Đại hội VIII và Đại hội IX, nhận thức của Đảng về phương thức
lãnh đạo có bước phát triển mới, cụ thể hơn, rõ nét hơn.
Tại Đại hội X, Đảng ta xác định: đổi mới và hoàn thiện phương thức

lãnh đạo của Đảng là một trong những nhiệm vụ quan trọng của đổi mới,
chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng, đồng thời “
đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng phải đồng bộ với đổi mới tổ chức và
hoạt động của hệ thống chính trị, đổi mới kinh tế”. Trong đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng, “khâu mấu chốt là đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước ở các cấp từ Trung ương đến cơ sở, xây dựng hệ
thống các quy chế về sự lãnh đạo của Đảng ở các cấp, các ngành theo tinh
thần: Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng cương lĩnh, đường lối, quan điểm, chủ
trương, các nghị quyết, nguyên tắc giải quyết các vấn đề lớn, có ý nghĩa chính
trị quan trọng. Phát huy mạnh mẽ vai trò chủ động, sáng tạo và tinh thần trách
nhiệm của Nhà nước trong quản lý đất nước và xã hội theo pháp luật”.
Và tại Đại hội XI, Đảng ta nhấn mạnh cần phải đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng: “Tập trung rà soát, bổ sung, điều chỉnh, ban hành mới,
xây dựng đồng bộ hệ thống các quy chế, quy định, quy trình công tác để tiếp
tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống
chính trị. Khắc phục tình trạng Đảng bao biện, làm thay hoặc buông lỏng lãnh
đạo các cơ quan quản lý nhà nước. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, tôn trọng nguyên tắc hiệp
thương dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam .
Đổi mới phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ
trung ương đến địa phương, cơ sở. Thực hiện tốt chế độ lãnh đạo tập thể đi
16


đôi với phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo và trách nhiệm cá nhân, nhất là
trách nhiệm của người đứng đầu. Đổi mới cách ra nghị quyết, tập trung lãnh
đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện, kiểm tra, sơ kết, tổng kết việc thực hiện nghị
quyết của Đảng. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong Đảng, khắc
phục tình trạng rườm rà, bất hợp lý về thủ tục, giảm bớt giấy tờ, hội họp; sâu
sát thực tế, cơ sở; nói đi đôi với làm”

Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trên thực tế đã đạt được
những tiến bộ lớn: Đảng đã đổi mới quy trình ra nghị quyết, các cấp ủy đảng
xây dựng chương trình, kế hoách làm việc toàn khóa sau Đại hội, đặc biệt coi
trọng việc lãnh đạo thể chế hóa, cụ thể hóa quan điểm, chủ trương, đường lối
của Đảng thành pháp luật, cơ chế, chính sách của Nhà nước; việc triển khai
thực hiện các nghị quyết của Đảng đã có tiến bộ, việc chỉ đạo kiểm điểm, sơ
kết, tổng kết, rút kinh nghiệm, nhân ra diện rộng được coi trọng và đạt kết quả
tốt, có tiến bộ về phương thức tiến hành công tác cán bộ, về tuyên truyền, vận
động giáo dục, thuyết phục, công khai, dân chủ, phát huy vai trò của Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, về công tác kiểm tra giám sát, về
phong cách lề lối làm việc.
Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế: Việc đổi mới phương thức
lãnh đạo còn những bất cập. Một số cấp ủy chưa quan tâm dúng mức đến đổi
mới phương thức lãnh đạo, còn coi nhẹ khâu tổ chức thực hiện các nghị
quyết, chủ trương của Đảng, còn một số cán bộ chỉ đạo cấp dưới theo ý muốn
chủ quan, chất lượng học tập quán triệt nghị quyết nhìn chung còn chưa cao, ở
nhiều nơi chế độ báo cáo chưa được thực hiện nghiêm chỉnh... Nhìn chung,
vẫn chưa khắc phục được một cách căn bản hai khuynh hướng: hoặc Đảng
bao biện làm thay, hoặc Đảng buông lỏng sự lãnh đạo đối với các tổ chức
trong hệ thống chính trị.
Nhưng thành tựu và hạn chế trên đều bắt nguồn từ những nguyên nhân
cụ thể:

17


Có được những tiến bộ trên do Đảng đề ra đường lối đổi mới đúng đắn
và đổi mới đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể, đã rất quan tâm đến việc
nhận thức và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Hơn nữa, trong quá
trình đổi mới phương thức lãnh đạo, Đảng luôn giữ vững nguyên tắc cơ bản

của công tác xây dựng Đảng, giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng và bám sát
thực tiễn đất nước, tổng kết thực tiễn, phát huy dân chủ để tiến hành đổi mới
một cách sáng tạo.
Tuy nhiên, sự chậm chễ và những khuyết điểm trong phương thức lãnh
đạo của Đảng do những nguyên nhân chủ yếu sau:
Thứ nhất, do điều kiện lịch sử. Đảng ta là đảng duy nhất lãnh đạo cách
mạng Việt Nam. Từ khi ra đời đến khi cầm quyền, hoạt động của Đảng gắn
bó chặt chẽ với hoạt động của cả hệ thống chính trị. Cán bộ lãnh đạo nhà
nước và đoàn thể chính trị hầu hết là đảng viên, do đó, chưa coi trọng đúng
mức việc tổ chức và xây dựng phương thức lãnh đạo phù hợp trong điều kiện
có chính quyền.
Thứ hai, bản thân Đảng (chủ thể lãnh đạo) và hệ thống nhà nước, các
đoàn thể và cả xã hội (đối tượng lãnh đạo) trong quá trình đổi mới, nhiều vấn
đề mới hình thành, các đoàn thể chính trị... phát triển mạnh mẽ. Con đường
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa còn đang trong quá trình tìm
tòi cả về quy mô tổ chức, khuôn khổ pháp lý và xây dựng đội ngũ viên chức
nhà nước. Do đó, phương thức lãnh đạo của Đảng không đổi mới kịp và trong
quá trình đổi mới khó tránh khỏi những khuyết điểm.
Thứ ba, từ trước tới nay, Đảng mới đặt vấn đề đổi mới cách thức lề lối
làm việc, cải tiến phương pháp lãnh đạo, phong cách công tác của cán bộ,
chưa đặt vấn đề về hình thành, đổi mới ở tầm phương thức lãnh đạo cùng với
công tác tổ chức cán bộ là nội dung cốt yếu cho công tác xây dựng Đảng.
Từ thực tiễn lãnh đạo cách mạng rất phong phú và đa dạng của
Đảng trong 82 năm qua, có thể rút ra kết luận về cơ sở của sự hình thành
phương thức lãnh đạo của Đảng như sau:
18


Thứ nhất, phương thức lãnh đạo của Đảng phải phù hợp với nhiệm vụ
chính trị của Đảng trong mỗi thời kỳ và với từng lĩnh vực khác nhau. Mỗi giai

đoạn cách mạng có những nhiệm vụ chính trị khác nhau, do đó phải có
phương thức lãnh đạo thích hợp, và trên đó mỗi lĩnh vực khác nhau đòi hỏi
Đảng phải có phuwong thức lãnh đạo phù hợp với đặc điểm của từng lĩnh
vực. Đồng thời, ở mỗi cấp, Đảng cần có cách lãnh đạo phù hợp với trách
nhiệm và thẩm quyền của mỗi cấp mới đạt được kết quả.
Thứ hai, phương thức lãnh đạo của Đảng phải đáp ứng và phù hợp sự
phát triển của hệ thống chính trị và trình độ dân chủ của xã hội (đối tượng
lãnh đạo). Đối tượng lãnh đạo của Đảng là hệ thống chính trị và cả xã hội. Sự
vận động của các đối tượng đó là không ngừng phát triển phong phú, đa dạng
cả về tổ chức và phương thức hoạt động và theo đó, nền dân chủ cũng phát
triển theo. Vì vậy, phương thức lãnh đọa của Đảng cũng phải phát triển, đáp
ứng yêu cầu về sự phát triển của hệ thống chính trị và nền dân chủ xã hội. Có
như vậy, lãnh đạo mới có kết quả. Nếu không, sự chậm trễ về phương thức
lãnh đạo của Đảng sẽ trở thành sức cản cho quá trình phát triển.
Thứ ba, phương thức lãnh đạo vừa tùy thuộc, vừa phản ánh sự trưởng
thành của tổ chức và đội ngũ cán bộ (chủ thể lãnh đạo). Mối liên hệ thường
xuyên của Đảng đối với xã hội là đội ngũ cán bộ và tổ chức của Đảng.
Phương thức lãnh đạo của Đảng, phải thông qua tổ chức và cán bộ của Đảng
để đưa ra đường lối đến với nhân dân, xã hội. Vì vậy, trình độ tổ chức của
Đảng và năng lực của đội ngũ cán bộ có tác động đến sự hình thành phương
thức lãnh đạo của Đảng.
Thứ tư, phương thức lãnh đạo phụ thuộc vào sự phát triển của khoa học
quản lý và phương tiện kỹ thuật phục vụ lãnh đạo. Đó là sự vận dụng những
tri thức khoa học và các phương tiện kỹ thuật giáo dục và truyền thông... vào
công tác và nghệ thuật lãnh đạo của Đảng. Từ trước tới nay, chưa bao giờ
chúng ta có điều kiện sử dụng phương tiện khoa học – kỹ thuật, tin học để
nâng cao hiệu quả lãnh đạo như ngày nay.
19



Thứ năm, bản lĩnh và trình độ, phong cách của người đứng đầu tổ chức
Đảng có ảnh hưởng lớn đến phương pháp lãnh đạo của cấp ủy. Người lãnh
đạo có bản lĩnh chính trị vững vàng, có năng lực trí tuệ, có phong cách lãnh
đạo khoa học thì những quy định của Đảng không những được thực hiện tốt
mà còn phát huy tính năng động sáng tạo của tập thể. Ngược lại, nếu người
lãnh đạo kém, năng lực thấp,độc đoán chuyên quyền thì sự lãnh đọa của cấp
ủy khó đạt hiệu quả và có khi chỉ là hình thức mà thôi. Như vậy, ở đây, vai trò
của công tác tổ chức và cán bộ có ý nghĩa rất quan trọng.
2.2. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống
chính trị giai đoạn hiện nay
2.2.1. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
Đảng cộng sản là đáng cầm quyền, do đó có hệ thống lãnh đạo từ
Trung ương đến cơ sở, trong đó, Nhà nước là công cụ mạnh mẽ, sắc bén của
giai cấp công nhân, nhân dân lao động, có vai trò đặc biệt quan trọng trong
thực hiện mục tiêu chính trị của Đảng, Đảng cầm quyền, Đảng lãnh đạo hệ
thống chính trị, trong đó quan trọng nhất là lãnh đạo Nhà nước.
Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng phương thức sau:
Thứ nhất, Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua cương lĩnh chính trị,
đường lối, quan điểm, chủ trương, các nghị quyết, nguyên tắc giải quyết
những vấn đề lớn, có ý nghĩa chính trị quan trọng. Phát huy mạnh mẽ vai trò
chủ động, sáng tạo và tinh thần trách nhiệm của Nhà nước trong quản lý đất
nước và xã hội theo pháp luật.
Thứ hai, Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua việc thể chế hóa, cụ thể
hóa đường lối, quan điểm, chủ trương, chính sách lớn của Đảng thành Hiến
pháp và pháp luật, kế hoạch, các chương trình, mục tiêu lớn của Nhà nước,
Đảng lãnh đạo nhưng không làm thay Nhà nước. Đề phòng và khắc phục
khuynh hướng tổ chức đảng buông lỏng lãnh đạo hoặc bao biện làm thay
cũng như khuynh hướng các cơ quan nhà nước thụ động, né tránh nhiệm, việc
gì cũng xin ý kiến cấp ủy Đảng.
Thứ ba, về công tác tổ chức cán bộ, Đảng lãnh đạo xây dựng đất nước

thực sự trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Đảng thống
20


nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ của Nhà nước, có phân
công, phân cấp hợp lý, tôn trọng, phát huy vai trò trách nhiệm của các cơ quan
và người đứng đầu các tổ chức cơ quan nhà nước trong công tác cán bộ.
Thứ tư, Đảng kết hợp chặt chẽ việc lãnh đạo và kiểm tra bộ máy nhà
nước thông qua tổ chức đảng và cá nhân đảng viên hoạt động trong cơ quan
nhà nước.
2.2.2. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận tổ quốc và các
đoàn thể nhân dân
Thứ nhất, định hướng về chính trị.
Đảng định hướng về mục tiêu, phương hướng phát triển của Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể về lâu dài và trước mắt, về phương hướng hoạt động
trong một giai đoạn hoạt động nhất định, thường là trong các nhiệm kỳ đại hội
của Mặt trận và đoàn thể.
Đảng định hướng về chính trị cho Mặt trận và các đoàn thể thường
được thông qua: việc tuyên truyền, vận động và thuyết phục để các tổ chức
này nhận thức sâu sắc và tích cực vận động, tổ chức đoàn viên, đảng viên thực
hiện chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước,
việc xây dựng chỉ thị, nghị quyết của Đảng về Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể, hoạt động của cấp ủy, đội ngũ đảng viên sinh hoạt trong các đoàn thể.
Thứ hai, định hướng về tổ chức và cán bộ.
Đảng định hướng về xây dựng củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy của
Mặt trận và các đoàn thể về cơ cấu tổ chức, quy mô, phạm vi hoạt động.
Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ
mặt trận và các đoàn thể theo nguyên tắc tập trung dân chủ, đồng thời phát
huy trách nhiệm của Mặt trận, đoàn thể và người đứng đầu từng tổ chức đó
trong công tác cán bộ. Sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác cán bộ của Mặt

trận và các đoàn thể được thực hiện trên tất cả các khâu của công tác cán bộ,
nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ Mặt trận, các đoàn thể đủ số lượng, có cơ cấu
hợp lý, có chất lượng, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

21


Chương 3
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TIẾP TỤC ĐỔI MỚI PHƯƠNG
THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ
THỐNG CHÍNH TRỊ GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
3.1. Phương hướng
Tại Đại hội XI, Đảng ta đã chỉ ra những phương hướng chung của
công tác xây dựng Đảng trong những năm tới, trong đó có phương hướng đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng: “ Đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng, bảo đảm vừa nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, vừa phát huy tính
chủ động, sáng tạo, tinh thần trách nhiệm của Nhà nước, Mặt trận, các đoàn
thể nhân dân và người đứng đầu, khắc phục khuynh hướng buông lỏng lãnh
đạo hoặc bao biện làm thay, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống
chính trị”.
3.2. Giải pháp
3.2.1. Nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ của Đảng
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng là vấn đề chính trị trọng đại
và là vấn đề khoa học, phải được nghiên cứu và thể hiện trong thực tiễn hoạt
động lãnh đọa của Đảng. Bởi vậy, Đảng phải có bản lĩnh chính trị vững vàng,
bình tĩnh, sáng suốt trước mọi khó khăn, thách thức và phải có trình độ trí tuệ
cao, có năng lực lãnh đạo để tìm tòi, thực hiện phương thức lãnh đạo có hiệu
quả, đồng thời phát hiện những điểm chưa hợp lý trong phương thức lãnh đạo
và đề ra giải pháp đúng đắn, kịp thời đem lại kết quả.
Để nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ của Đảng, cán bộ, đảng

viên cần ra sức học tập chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giữ
vững tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng, nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ, đi sâu, đi sát thực tiễn, rèn luyện, trưởng thành trong
thực tiễn.

22


3.2.2. Sắp xếp, kiện toàn tổ chức, bộ máy, cơ chế hoạt động của Đảng và hệ
thống chính trị
Cần xây dựng, cụ thể hóa chức năng, nhiệm vụ từng cơ quan, từng bộ
phận, từng tổ chức, đặc biệt, chú ý xây dựng chính quyền các cấp. Xây dựng
và thực hiện quy chế hoạt động của các cấp ủy. Xây dựng và thực hiện quy
chế hoạt động của các cấp ủy, tổ chức đảng. Khắc phục tình trạng xảy ra ở
nhiều nơi là cấp ủy phó thác công việc cho cơ quan tham mưu. Đảng giới
thiệu cán bộ giữ các vị trí chủ chốt trong các cơ quan Nhà nước, các đoàn thể
từ Trung ương đến cơ sở. Kiên quyết giải thể những tổ chức, những bộ phận
của bộ máy không hợp lý, chức năng nhiệm vụ không rõ ràng, kiện toàn nâng
cao chất lượng những tổ chức, những bộ phận hợp lý, đảm bảo hoạt động đạt
hiệu quả cao. Đồng thời, tăng cường sự lãnh đạo của các tổ chức Đảng trong
các cơ quan Nhà nước, và vai trò, trách nhiệm của Đảng viên trên từng lĩnh
vực công tác.
3.2.3. Xây dựng đội ngũ cán bộ có phẩm chất tốt, có năng lực và phong
cách lãnh đạo khoa học
Phương thức lãnh đạo của Đảng được thể hiện trên thực tế ở hoạt động
của đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo quản lý. Đội ngũ cán bộ phải có
phẩm chất tốt, có năng lực lãnh đạo, quản lý và có phong cách làm việc khoa
học. Để có đội ngũ đáp ứng yêu cầu phương thức lãnh đạo của Đảng cần xác
định đúng tiêu chuẩn, chức danh cán bộ, đánh giá đúng thực chất cán bộ, trên
cơ sở đó, xây dựng quy hoạch cán bộ, tăng cường lãnh đạo, bồi dưỡng và luân

chuyển cán bộ một cách khoa học, và tổ chức thực hiện đạt kết quả. Lựa chọn,
bố trí đề bạt cán bộ đúng người, đúng việc, đúng lúc, đúng sở trường. Tăng
cường quản lý giám sát cán bộ, đồng thời cấn xử lý nghiêm minh, kịp thời
những cán bộ độc đoán, chuyên quyền, quan liêu, thiếu tinh thần trách nhiệm.
Xây dựng phong các lề lối làm việc khoa học, “làm việc thực sự dân
chủ, thiết thực, nói đi đôi với làm”.

23


3.2.4. Tập trung đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng đường lối, quan điểm, các nghị quyết;
lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa, cụ thể hóa đúng đắn và kịp thời đường lối của
Đảng thành Hiến pháp, pháp luật, kế hoạch, các chương trình công tác lớn của
Nhà nước, bố trí đúng cán bộ và thường xuyên kiểm tra việc thực hiện.
Đảng lãnh đạo nhưng không bao biện, làm thay Nhà nước, trái lại, phát
huy mạnh mẽ vai trò chủ động, sáng tạo của Nhà nước trong quản lý đất nước
và xã hội. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản quy định cụ thể về
nguyên tắc, nội dung và cơ chế Đảng lãnh đạo đối với Nhà nước trong từng
lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp và ở từng cấp, từng loại hình tổ chức
nhà nước.
3.2.5. Đẩy mạnh cải cách hành chính gắn liền với thực hiện dân chủ trong
Đảng và trong xã hội, tạo điều kiện để nhân dân tham gia vào đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng
Cải cách hành chính là vấn đề rất quan trọng liên quan trực tiếp đến đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Cần tập trung lãnh đạo tạo ra bước
chuyển biến quan trọng trên lĩnh vực này đồng thời cần đẩy mạnh thực hiện
dân chủ trong Đảng và trong xã hội, tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân tham
gia vào quá trình đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng nói riêng và xây
dựng Đảng nói chung.


24


KẾT LUẬN
Tám mươi hai năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, dân tộc ta đã làm
nên biết bao kỳ tích vẻ vang. Ngày nay, Đảng ta đang tiếp tục lãnh đạo công
cuộc đổi mới đất nước, hội nhập quốc tế, thực hiện sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh và bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng
của Tổ quốc. Đạt được những thắng lợi to lớn đó là do quá trình đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đới với hệ thống chính trị
nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của mình.
Tiểu luận đã tập trung chỉ ra quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam
về khái niệm phương thức lãnh đạo của Đảng, những yếu tố tác động đến
phương thức lãnh đạo của Đảng và sự cần thiết phải đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn hiện nay. Từ đó đưa ra phương hướng và
giải pháp chủ yếu tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
hoạt động của hệ thống chính trị. Bên cạnh đó, còn chú ý đi sâu vào phương
thức lãnh đạo của Đảng trong các thời kỳ cụ thể, thông quan quan điểm chỉ
đạo cụ thể ở các kỳ Đại hội Đảng.
Tuy nhiên, do thời gian nghiên cứu còn hạn chế, kiến thức còn hạn hẹp
nên tiểu luận mới chỉ khai thác được những quan điểm nổi trội, cụ thể và gần
đây nhất của Đảng cộng sản Việt Nam về đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng. Em sẽ cố gắng nghiên cứu và hoàn thiện trong thời gian gần đây nhất!

25



×