PHẦN A: MỞ ĐẦU
Công tác kiểm tra, giám sát là nhu cầu cần thiết đối với hoạt động của
con người và đối với mọi tổ chức. Quá trình hình thành, hoạt động và phát
triển của một tổ chức đòi hỏi phải thực hiện công tác kiểm tra, giám sát để xác
định mục đích hoạt động đúng đắn, sự tuân thủ nguyên tắc, chấp hành nội
quy, quy định của các thành viên gắn kết trong một tập thể. Thông qua kiểm
tra, giám sát để kịp thời chấn chỉnh, bổ sung thúc đẩy quá trình hoạt động
theo chiều hướng phát triển của tổ chức.
Đặc biệt đối với tổ chức Đảng, công tác kiểm tra, giám sát là một khâu
quan trọng trong quy trình lãnh đạo của Đảng, là những chức năng lãnh đạo
của Đảng, là một bộ phận quan trọng của công tác xây dựng đảng. Kiểm tra,
giám sát được tiến hành thường xuyên, đúng nguyên tắc có ý nghĩa hết sức
quan trọng. Nó đảm bảo cho Cương lĩnh chính trị, đường lối, chiến lược, các
nghị quyết của Đảng được xác định đúng đắn, ngày càng hoàn thiện và chấp
hành triệt để, thực sự gắn liền với cuộc sống. Kiểm tra, giám sát vừa góp phần
nâng cao chất lượng lãnh đạo của Đảng, làm cho sự lãnh đạo gắn với thực tiễn
hơn, vừa đảm bảo sự thống nhất tuyệt đối giữa nghị quyết và sự chấp hành,
giữa lời nói với việc làm, giúp cho các cấp ủy Đảng khắc phục được bệnh
quan liêu, chủ quan duy ý chí trong quá trình lãnh đạo. Nếu Đảng làm tốt
công tác kiểm tra, giám sát sẽ ngăn chặn được sự chia rẽ, tình trạng mất đoàn
kết, các biểu hiện vô tổ chức, vô kỷ luật và đảm bảo cho nguyên tắc tập trung
dân chủ được tuân thủ nghiêm túc, góp phần giáo dục, bảo vệ, nâng cao uy tín
đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Để phát huy vai trò, tác dụng kiểm tra, giám sát trong từng thời kỳ, tùy
theo tình hình, yêu cầu của nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng đảng mà
Đảng ta đề ra những quan điểm, nhiệm vụ, nội dung, biện pháp trong chỉ đạo
toàn Đảng tiến hành công tác kiểm tra, giám sát nhằm làm cho công tác kiểm
1
tra, giám sát trong Đảng ngày càng được đổi mới, hoàn thiện, phù hợp, nâng
cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả đáp ứng được yêu cầu do thực tiễn đặt ra.
Trong giai đoạn hiện nay, đứng trước những yêu cầu đòi hỏi của sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, công tác xây dựng đảng bên
cạnh những kết quả đạt được còn bộc lộ những mặt hạn chế yếu kém, chưa
ngang tầm với yêu cầu của thời kỳ mới. Trong đó, chất lượng công tác kiểm
tra, giám sát của ủy ban kiểm tra các cấp còn nhiều hạn chế, bất cập, do nhiều
tổ chức đảng vẫn còn nhận thức chưa đầy đủ vai trò, vị trí, ý nghĩa và tầm
quan trọng của công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, nhất là trong quá trình
thực hiện nhiệm vụ công tác kiểm tra, giám sát theo các quy định của Đảng và
trong việc thực hiện chức năng tham mưu về cấp ủy về kiểm tra, giám sát.
Từ thực tế đó, cùng với việc tự đổi mới, chỉnh đốn đảng, nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng phải đồng thời tiến hành nâng cao
chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát. Chính vì vậy, nhất là từ sau
Nghị quyết Trung ương 5 khóa X của Đảng, việc tuyên truyền, học tập,
nghiên cứu, nắm vững và tổ chức thực hiện công tác kiểm tra, giám sát của
Đảng là vấn đề được các cấp, các ngành và cán bộ, đảng viên quan tâm và
công tác kiểm tra, giám sát ngày càng giữ vị trí, vai trò quan trọng trong công
tác xây dựng đảng. Vì vậy tôi chọn đề tài: “Quan điểm của Đảng về công tác
kiểm tra, giám sát” làm tiểu luận cho môn học: hệ thống quan điểm đổi mới
của Đảng Cộng sản Việt Nam
2
PHẦN B: NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ VỊ TRÍ, VAI TRÒ CÔNG
TÁC KIỂM TRA, GIÁM SÁT
1.1.Khái niệm kiểm tra, giám sát trong Đảng:
1.1.1. Khái niệm kiểm tra
Theo Đại từ điển tiếng Việt: “Kiểm tra là xem xét thực chất, thực tế;
kiểm soát là kiểm tra, xem xét nhằm ngăn ngừa những sai phạm các quy
định” [2, tr. 937] – tài liệu kiểm tra.
Còn theo Từ điển Bách khoa Việt Nam: “Kiểm tra (luật) là một chức
năng quản lý, một khâu trong quy trình quản lý, có chức năng xem xét tình
hình và kết quả thực tế thi hành pháp luật, chính sách, chủ trương của Nhà
nước, thực hiện nhiệm vụ chính trị, kinh tế - xã hội được giao”. [3, tr. 565]
Theo Từ điển Luật học: “Kiểm tra là xem xét tình hình thực tế thi hành
pháp luật, thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn nói chung hay một công tác cụ thể
được giao để đánh giá, nhận xét; kiểm soát là xem xét để phát hiện, ngăn
ngừa việc làm sai trái với thỏa thuận, với quy định”. [4, tr. 264]
Ngoài ra, kiểm tra cũng là công tác thuộc nhiệm vụ của cơ quan nhà
nước cấp trên đối với cấp dưới, của thủ trưởng đối với nhân viên.
Việc đánh giá, xác định, nhận xét đúng, sai, tốt, xấu…phải được căn cứ
vào những tiêu chí, văn bản có giá trị hiện hành so với thực tế cụ thể của đối
tượng kiểm tra.
Từ cách hiểu về khái niệm kiểm tra nói trên, có thể nhận định khái
niệm công tác kiểm tra của Đảng như sau:
Công tác kiểm tra của Đảng là hoạt động của Đảng, được tiến hành đối
với tổ chức đảng và đảng viên, nhằm nắm vững tình hình; nhận xét, đánh giá
việc chấp hành Điều lệ, nghị quyết, chỉ thị, các quy định, quyết định của
3
Đảng; xác định sự đúng đắn hay vi phạm của các hành vi có liên quan đến kỷ
cương, kỷ luật của Đảng và đưa ra hình thức xử lý kịp thời, đúng đắn.
I.1.2. Khái niệm giám sát:
Theo Đại từ điển Tiếng Việt: “Giám sát là theo dõi, kiểm tra việc thực
thi nhiệm vụ”. [2, tr.728]
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam: “Giám sát là một hình thức hoạt
động của cơ quan Nhà nước hoặc tổ chức xã hội nhằm bảo đảm pháp chế
hoặc sự chấp hành những quy tắc chung nào đó”. [3, tr.112]
Trong Từ điển giải thích thuật ngữ hành chính [5, tr.261] và Từ điển
Luật học [4, tr.174]: “Giám sát còn được hiểu là sự theo dõi, quan sát hoạt
động mang tính chủ động thường xuyên, liên tục và sẵn sàng tác động bằng
các biện pháp tích cực để buộc và hướng hoạt động của đối tượng chịu sự
giám sát đi đúng quỹ đạo, quy chế nhằm đạt được mục đích, hiệu quả đã
được xác định từ trước, bảo đảm cho pháp luật được tuân thủ nghiêm chỉnh”.
Mặc dù mỗi cách diễn đạt có sự khác nhau, nhưng nhìn chung đều
thống nhất ở điểm giám sát là sự theo dõi, quan sát, xem xét hoạt động. Từ sự
phân tích đó, chúng ta có thể hiểu giám sát là hoạt động theo dõi, quan sát,
xem xét hoạt động của các tổ chức có thẩm quyền mang tính chủ động,
thường xuyên, liên tục và sẵn sàng tác động bằng các biện pháp tích cực để
bắt buộc và hướng các hoạt động của các tổ chức và cá nhân chịu sự giám sát
thực hiện đúng những điều đã quy định.
Giám sát là theo dõi, xem xét đối tượng có thực hiện đúng các quy định
mà đối tượng đó phải thực hiện hay không để trước hết nhằm nhắc nhở, đôn
đốc thực hiện và là cơ sở để quyết định có tiến hành kiểm tra hay không.
Muốn thực hiện tốt công tác kiểm tra thì phải thường xuyên có giám sát.
Vậy là, kiểm tra và giám sát có mối quan hệ chặt chẽ nhau và khái niệm
của chúng cũng có điểm tương đồng. Vì vậy, để hiểu rõ hơn khái niệm chúng
ta cần phân biệt rõ những điểm giống và khác nhau giữa kiểm tra và giám sát.
4
Kiểm tra và giám sát có điểm giống nhau ở chỗ đều là công việc nội bộ
Đảng do cấp ủy, tổ chức đảng và Ủy ban kiểm tra các cấp thực hiện; đều
nhằm đạt được mục đích là nắm vững và đánh giá đúng thực trạng tình hình,
từ đó để phòng ngừa, điều chỉnh, uốn nắn mọi hành vi liên quan của đối tượng
được kiểm tra, giám sát, nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng góp phần hoàn thành thắng lợi nhiệm vị chính trị và công tác xây
dựng đảng; đều có nội dung như nhau – việc chấp hành Cương lĩnh chính trị,
Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước.
Về điểm khác nhau: Giám sát được tiến hành thường xuyên, liên tục
trong suốt quá trình hoạt động và phát triển của tổ chức và cá nhân, nên có nội
dung rất rộng, bao gồm: giám sát về sinh hoạt, đạo đức, lối sống; giám sát
việc thực hiện nhiệm vụ, chức trách được giao, việc thực hiện các quy định,
quy chế…nên giám sát mang tính chủ động phòng ngừa, ngăn chặn xảy ra vi
phạm nhiều hơn so với kiểm tra.
Về sự khác nhau; trước hết là đối tượng, chủ thể kiểm tra rộng hơn chủ
thể giám sát, tổ chức đảng và đảng viên vừa là chủ thể kiểm tra vừa là đối
tượng kiểm tra. Đối với giám sát, đảng viên chỉ là đối tượng giám sát và chỉ
được tham gia giám sát khi được tổ chức đảng có thẩm quyền phân công. Đối
tượng giám sát rộng hơn đối tượng kiểm tra, vì bao gồm cả thường trực cấp
ủy, các tiểu ban, hội đồng, tổ công tác do cấp ủy các cấp đề ra.
I.2.
Vị trí, vai trò công tác kiểm tra, giám sát của Đảng:
Đại hội VI tiếp tục các quan điểm về kiểm tra, đồng thời nhấn mạnh
thêm cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng đảng
trong tình hình mới. Một số chỉ thị, nghị quyết, quy định của Đảng cũng đã đề
cập đến việc thực hiện giám sát của cấp ủy hoặc giao cho các ban của cấp ủy
theo dõi việc chấp hành nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, nên việc thực
hiện giám sát trong Đảng còn hạn chế, chủ yếu chỉ tập trung thực hiện nhiệm
vụ kiểm tra.
5
Trong các nhiệm kỳ Đại hội lần thứ VI, VII, VIII, IX của Đảng, tình
hình thế giới và trong nước có nhiều biến động. Đất nước ta đang đứng trước
nhiều thời cơ thuận lợi, nhưng cũng có nhiều thách thức, khó khăn và bốn
nguy cơ đối với Đảng, chế độ ta không được xem thường. Bên cạnh việc tập
trung đánh giá thành tựu, kết quả đạt được, cũng như khuyết điểm tồn tại và
nguyên nhân của công tác xây dựng đảng, công tác kiểm tra và kỷ luật của
mỗi nhiệm kỳ, Đảng ta đều khẳng định vị trí, vai trò của công tác kiểm tra,
giám sát và kỷ luật của Đảng. Đồng thời sửa đổi, bổ sung Điều lệ Đảng về
công tác kiểm tra, kỷ luật đảng; đề ra phương hướng, nhiệm vụ, biện pháp
tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng cho phù hợp với yêu cầu
nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng đảng trong từng nhiệm kỳ đại hội.
Điều lệ Đảng do Đại hội VII thông qua nhấn mạnh: “Tổ chức tốt việc
kiểm tra thực hiện các quyết định của Đảng. Mọi cán bộ là đảng viên trong
cơ quan nhà nước phải phục tùng sự lãnh đạo của Đảng và thực hiện sáng
tạo nghị quyết của Đảng, gương mẫu chấp hành pháp luật của nhà
nước….Tăng quyền hạn của Ủy ban kiểm tra các cấp, chú trọng kiểm tra việc
thực hiện các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, kiểm tra tư cách đảng
viên kể cả cấp ủy viên cùng cấp, xem xét xử lý kỷ luật đảng viên và các tổ
chức Đảng theo quy định của Điều lệ Đảng” [7, .
Đến Đại hội VIII của Đảng, Đảng ta đặc biệt coi trọng công tác kiểm
tra. Lần đầu tiên Điều lệ Đảng khẳng định: “Kiểm tra là một chức năng lãnh
đạo chủ yếu của Đảng”, “Công tác kiểm tra có vị trí cực kỳ quan trọng trong
toàn bộ hoạt động lãnh đạo của Đảng. Kiểm tra và giữ gìn kỷ luật của Đảng
là nhiệm vụ của toàn Đảng”. Bên cạnh đó, Đảng còn xác định nhiệm vụ: “
Các tổ chức Đảng, trước hết là cấp ủy Đảng, Bộ chính trị và các ban thường
vụ cấp ủy, cần tự mình tiến hành kiểm tra và sử dụng các ban để tổ chức
thường xuyên việc kiểm tra”, “củng cố kiện toàn bộ máy kiểm tra các cấp,
chú trọng, đào tạo đội ngũ kiểm tra về đường lối, quan điểm, pháp luật, kinh
tế, về nghiệp vụ và phong cách làm việc. Xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra
6
có phẩm chất chính trị tốt, công tâm, trong sạch, đủ năng lực, kể cả năng lực
kiểm tra việc chấp hành đường lối, chính sách của Đảng”. Bên cạnh đó,
Đảng cũng quan tâm đến công tác giám sát phải được tiến hành song song với
công tác kiểm tra: “Các tổ chức cơ sở Đảng phải động viên và tổ chức nhân
dân thường xuyên tham gia xây dựng Đảng; giám sát phê bình cán bộ, đảng
viên; giới thiệu những người xứng đáng để kết nạp vào đảng, bầu vào các
cấp ủy và chính quyền; giúp tổ chức đảng làm tốt công tác công tác kiểm tra,
phát hiện đấu tranh với những hành vi tham nhũng, buôn lậu và các tệ nạn
khác… Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị; đề ra đường lối, chính sách bảo vệ
đất nước; nắm vững tổ chức và cán bộ để bảo đảm thực hiện có kết quả
đường lối của Đảng. Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng chứ không chỉ
thông qua cá nhân đảng viên; lãnh đạo bằng các quyết định của tập thể và
bằng cách theo dõi, cho ý kiến chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện, khuyến khích
những mặt tốt, uốn nắn những lệch lạc. Đảng lãnh đạo phát huy mạnh mẽ vai
trò và hiệu lực của nhà nước chứ không điều hành thay nhà nước. Đảng và
mọi đảng viên đều hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp, pháp luật và chịu
trách nhiệm về các hoạt động của mình” (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần VIII). Đồng thời Đảng còn nhấn mạnh yêu cầu cần phải tăng cường
công tác giám sát, kể cả trong Đảng và trong toàn bộ hệ thống chính trị: “Sử
dụng đồng bộ hệ thống giám sát cán bộ, đảng viên, nhất là sự giám sát của tổ
chức đảng, trước hết là từ chi bộ, sự giám sát của nhân dân và các cơ quan
đại diện nhân dân, sự giám sát của công luận” [13, tr. 30].
Đến năm 2001, tại Đại hội IX, Đảng ta nhấn mạnh: “Tăng cường công
tác kiểm tra của các cấp ủy, của ủy ban kiểm tra các cấp, tập trung vào các
nội dung chủ yếu: thực hiện các nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước; chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ và quy chế làm việc;
củng cố đoàn kết nội bộ, giáo dục, rèn luyện, nâng cao phẩm chất, đạo đức
cách mạng của cán bộ, đảng viên” [9, . Trong đó, Đảng còn chú ý: “Phát huy
vai trò giám sát, góp ý kiến của nhân dân, thu hút trí tuệ của nhân dân trong
7
quá trình thực hiện chiến lược” (văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần IX).
Vậy là, Đảng cần “sự giám sát nội bộ Đảng” và chịu “sự giám sát của nhân
dân” để ngăn ngừa sự suy thoái của một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên
và ngăn ngừa các nguy cơ của một đảng cầm quyền.
Mặc dù, Đảng ta đã xác định vai trò quan trọng của công tác giám sát:
“Có giám sát tốt mới có thể đánh giá đúng, lựa chọn đúng và đặc biệt là kịp
thời ngăn ngừa những sai phạm ngay từ khi mới có những dấu hiệu vi phạm;
đó cũng là phương thức quan trọng để bảo vệ cán bộ, công chức đủ phẩm
chất và năng lực hoàn thành nhiệm vụ, được nhân dân tin yêu” [14, tr.
246]; tuy nhiên, theo quy định của Điều lệ Đảng, từ Đại hội IX trở về trước
các cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra các cấp chủ yếu là thực hiện
chức năng kiểm tra, còn chức năng nhiệm vụ trong giám sát chưa được quy
định cụ thể, rõ ràng, chưa được thực hiện theo chương trình, kế hoạch cũng
như quy trình, biện pháp cụ thể và đặc biệt chưa bố trí được lực lượng tiến
hành thường xuyên.
Thấy rõ được vai trò và tính cấp bách của công tác kiểm tra, giám sát
trong Đảng trong tình hình hiện nay, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của
Đảng đã chỉ rõ phải tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng. Trong
Điều lệ Đảng đã khẳng định: “Kiểm tra, giám sát là những chức năng lãnh
đạo của Đảng. Tổ chức Đảng phải tiến hành công tác kiểm tra, giám sát. Tổ
chức đảng và đảng viên chịu sự kiểm tra, giám sát của Đảng” [11, ]. Đồng
thời, Đảng ta cũng nhấn mạnh việc kiểm tra, giám sát trước hết là nhiệm vụ
của cấp ủy đảng, phải gắn công tác kiểm tra với công tác giám sát, có giám sát
mới phát hiện được vấn đề, mới khắc phục các thiếu sót, khuyết điểm ngay từ
lúc mới manh nha.
Trong Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương khóa X về công tác
xây dựng Đảng tại Đại hội X của Đảng đã chỉ rõ một trong những nguyên
nhân làm hạn chế, yếu kém trong công tác xây dựng Đảng là: “Công tác kiểm
tra trong Đảng còn yếu, chất lượng và hiệu quả kiểm tra chưa cao; nhiều
8
khuyết điểm, sai lầm của đảng viên và tổ chức đảng chậm được phát hiện và
khắc phục... Công tác giám sát trong Đảng và giám sát của nhân dân đối với
các hoạt động của Đảng, Nhà nước, cán bộ, đảng viên chưa được quan tâm,
chưa đáp ứng yêu cầu công tác xây dựng Đảng trong tình hình mới”. [10,
Vị trí, vai trò kiểm tra, giám sát càng được khẳng định khi chức năng,
nhiệm vụ của giám sát quy định trong các nghị quyết, chỉ thị, quy định của
Đảng, của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư như trước
đây đã được “luật hóa” trong Điều lệ Đảng. Điều 32 Điều lệ Đảng quy định
cụ thể chủ thể, đối tượng, nội dung giám sát. Bộ Chính trị đã ban hành Quy
định thi hành Điều lệ Đảng (số 23 – QĐ/TW, ngày 30 -10 - 2006) và Hướng
dẫn thực hiện các quy định về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng
trong Chương VII và Chương VIII, Điều lệ Đảng khóa X (Quyết định số 25 –
QĐ/TW, ngày 24 -11- 2006); Quy chế về chế độ kiểm tra, giám sát công tác
cán bộ (Quyết định số 58 – QĐ/TW, ngày 07 – 5 - 2007); Ủy ban Kiểm tra
Trung ương đã ban hành các hướng dẫn cụ thể về thực hiện công tác giám sát
của các cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy, các ban của cấp ủy, ủy ban kiểm tra
các cấp và của chi bộ...
Đặc biệt, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa X đã
ban hành Nghị quyết chuyên đề về tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của
Đảng (NQ số 14 – NQ/TW, ngày 30 – 7 - 2007) càng khẳng định Đảng ta đã
khẳng định vị trí, vai trò vô cùng quan trọng của công tác kiểm tra, giám sát.
Trong Nghị quyết số 14, Đảng đã xác định rõ mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ,
chủ trương, giải pháp tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng trong
giai đoạn cách mạng mới. Nghị quyết đã chỉ rõ ba mục tiêu của công tác kiểm
tra, giám sát của Đảng, trong đó mục tiêu bao trùm nhất là tăng cường công
tác kiểm tra, giám sát nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của
Đảng, sự đoàn kết thống nhất và đảm bảo thực hiện dân chủ trong Đảng, giữ
vững kỷ cương, kỷ luật của Đảng, phòng ngừa, ngăn chặn sự suy thoái về
chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, bảo vệ quan
9
điểm, đường lối của Đảng, tránh các nguy cơ sai lầm về đường lối, quan liêu,
xa dân của đảng cầm quyền, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội
Đảng lần thứ X. Tạo sự chuyển biến tích cực về tư tưởng, nhận thức và hành
động trong Đảng đối với công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng, trước
hết là trong cấp ủy, đặc biệt là người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, tổ chức
nhà nước, đoàn thể chính trị - xã hội các cấp. Từng bước hoàn thiện quan
điểm, nội dung, phương pháp, nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát
của Đảng.
Nhìn chung, công tác kiểm tra giám sát có vị trí, vai trò vô cùng quan
trọng. Nó đã trở thành một trong những chức năng lãnh đạo của Đảng; là một
bộ phận quan trọng trong toàn bộ công tác xây dựng đảng; là nhiệm vụ của
toàn Đảng, là nhiệm vụ trực tiếp, thường xuyên của mọi tổ chức đảng và
đảng viên. Thực tiễn hoạt động 80 năm qua của Đảng cũng đã chứng minh:
Nhờ có công tác kiểm tra, giám sát mà nội bộ Đảng luôn giữ được trong sạch,
vững mạnh, sức mạnh lãnh đạo của Đảng luôn được tăng cường, sự nghiệp
cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng luôn giành được những thắng lợi to
lớn. Đó chính là những cơ sở quan trọng để Đảng ta tiếp tục củng cố, xây
dựng, hoàn thiện mọi mặt, hoàn thành tốt vai trò, sứ mệnh lịch sử trong giai
đoạn mới.
CHƯƠNG 2: BIỆN PHÁP TIẾN HÀNH CÔNG TÁC KIỂM TRA,
GIÁM SÁT CỦA ĐẢNG
Biện pháp (giải pháp) kiểm tra, giám sát của Đảng được hiểu là cách
làm, cách tiến hành, cách giải quyết một vấn đề cụ thể, một công việc cụ thể
có liên quan đến sự lãnh đạo của Đảng, nhằm giúp cho Đảng kịp thời chấn
chỉnh, uốn nắn những sai lầm, thiếu sót, phát huy những ưu điểm để tiếp tục
hoàn thiện và nâng cao vai trò lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị
cho thời gian tiếp theo. Do đó, công tác kiểm tra, giám sát của Đảng được bao
quát trên các lĩnh vực hoạt động lãnh đạo của Đảng: Đảng lãnh đạo hệ thống
chính trị, Đảng lãnh đạo các lĩnh vực đời sống xã hội, Đảng lãnh đạo xây
10
dựng nội bộ. Trong từng lĩnh vực cụ thể nêu trên đòi hỏi trong quá trình lãnh
đạo đều phải có sự kiểm tra, giám sát.
Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng là công tác lãnh đạo của Đảng, là
công tác xây dựng đảng, là sinh hoạt nội bộ đảng; cho nên việc tiến hành công
tác kiểm tra, giám sát phải tuân theo những nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt
đảng, đúng tính chất công tác đảng. Để nâng cao chất lượng, hiệu quả công
tác kiểm tra, giám sát, việc nắm vững và thực hiện tốt những biện pháp cơ bản
về công tác kiểm tra, giám sát của Đảng là một vấn đề tất yếu. Căn cứ mục
tiêu, nhiệm vụ của từng giai đoạn cách mạng mà Đảng ta đề ra những biện
pháp tiến hành công tác kiểm tra, giám sát phù hợp, thật sự phát huy tốt hiệu
quả. Những biện pháp này qua từng kỳ đại hội đã được bổ sung, phát triển
ngày càng hoàn thiện hơn và có tác dụng rất to lớn trong chỉ đạo thực tiễn
công tác kiểm tra, giám sát của Đảng.
Đến thời kỳ đổi mới, Đại hội VI, Đại hội đánh dấu một mốc quan trọng
trong việc đổi mới tư duy lãnh đạo của Đảng ta trên mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội. Từ đây tư duy của Đảng về công tác xây dựng đảng nói chung và
công tác kiểm tra, giám sát nói riêng cũng có bước phát triển mới. Báo cáo
của Đại hội đã nhấn mạnh một số biện pháp để nâng cao chất lượng kiểm tra,
giám sát: “Mỗi cấp ủy, trong từng thời gian, đều phải có chương trình kiểm
tra, tập trung vào nhưng công tác chủ yếu, những đơn vị trọng điểm; sử dụng
và phát huy vai trò ủy ban kiểm tra và các ban của Đảng, kết hợp chặt chẽ
kiểm tra của Đảng với thanh tra Nhà nước và kiểm tra của quần chúng; kiểm
tra phải đi tới kết luận rõ ràng và xử lý đúng đắn” [6, ]
Đảng còn nhấn mạnh: “Ở những nơi thực hiện chế độ thủ trưởng, tổ
chức cơ sở đảng phải thực hiện đúng chức năng kiểm tra, kể cả kiểm tra
người đứng đầu cơ sở. Từng thời gian, Đảng ủy phải có chương trình kiểm
tra, và biết tổ chức lực lượng, huy động đảng viên, cán bộ chuyên môn và
quần chúng tham gia công tác kiểm tra” [6, tr141].
11
Biện pháp tiến hành kiểm tra, Đảng ta còn đề cập đến việc phát huy vai
trò của ủy ban kiểm tra và các ban của Đảng. Việc phát huy vai trò của các
ban kiểm tra gần như tất cả các đại hội trước đây đều xác định nhưng lần này
Đảng ta bổ sung thêm việc phát huy vai trò của các Ban chuyên môn của
Đảng. Vì thông qua các cơ quan chuyên môn sẽ giúp cho cấp ủy nắm được
tình hình một cách nhanh chóng, chính xác, kịp thời trên các lĩnh vực hoạt
động lãnh đạo, nhất là lĩnh vực xây dựng đảng.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII đã đề cập đến nhiều vấn đề trong
công tác xây dựng đảng. Đối với công tác kiểm tra, giám sát, Đại hội lần
này đặc biệt quan tâm và nhấn mạnh đến công tác giám sát, đến trách
nhiệm của các tổ chức và cá nhân trong việc chấp hành sự kiểm tra, giám
sát; xác định rõ quyền hạn của ủy ban kiểm tra các cấp, vấn đề làm trong
sạch nội bộ Đảng. Điều này chính là sự khẳng định bản lĩnh trí tuệ của
Đảng ta trước những tác động diễn biến phức tạp của tình hình thế giới,
nhất là sự sụp đổ mô hình CNXH ở Liên Xô và Đông Âu. Trước tình hình
khó khăn đó, Đảng ta càng quan tâm hơn nữa đến công tác kiểm tra, giám
sát và đề ra những giải pháp cụ thể:
Một là, phải thực hiện đúng các quy định về triệu tập đại hội thường lệ
và đại hội bất thường, kể cả ở cơ sở. Đồng thời đề nghị tăng thêm quyền của
hội nghị đại biểu.
Hai là, trong Đảng từ Trung ương đến cơ sở phải chấp hành nghiêm túc
các quy định về chế độ báo cáo, chế độ tự phê bình và phê bình. Các cơ quan
được bầu phải chịu sự giám sát của tổ chức đảng và đảng viên, phải báo cáo
hoạt động trước cơ quan đã bầu ra mình, thường xuyên thông báo tình hình và
hoạt động của mình đến các tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên.
Thực hiện chế độ Ban Chấp hành Trung ương kiểm tra, giám sát hoạt
động của Bộ Chính trị, Ban Bí thư; các cấp ủy kiểm tra, giám sát hoạt động
của ban thường vụ, các ủy viên Bộ Chính trị, ủy viên thường vụ các cấp tự
phê bình trước ban chấp hành. Quy định cụ thể chế độ cấp trên tự phê bình
12
trước cấp dưới và tổ chức việc phê bình từ dưới lên, thực hiện đều đặn chế độ
quần chúng phê bình cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng. Cán bộ lãnh đạo phải
gương mẫu tự phê bình và tiếp thu phê bình; nghiêm cấm việc trù dập người
phê bình thẳng thắn, đồng thời kiên quyết xử lý những kẻ lợi dụng phê bình
để đã kích cá nhân, vu cáo, chia rẽ.
Ba là, để nâng cao vai trò, trách nhiệm và quyền hạn của ủy ban kiểm
tra các cấp, Điều lệ Đảng quy định: ủy ban kiểm tra có chức năng kiểm tra
việc thực hiện các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, kiểm tra việc chấp
hành quy chế làm việc của tổ chức đảng cấp dưới, kiểm tra việc giữ gìn phẩm
chất đạo đức cách mạng của đảng viên, xem xét và xử lý kỷ luật các tổ chức
đảng và đảng viên theo đúng quy định Điều lệ Đảng.
Bốn là, kiên quyết làm sạch đội ngũ đảng viên. Thông qua công tác
kiểm tra của Đảng và dựa vào quần chúng để nhận xét, đánh giá đúng đảng
viên, đưa ra khỏi Đảng những người không còn đủ tư cách, trước hết là những
đảng viên thoái hóa, biến chất, tham nhũng, cơ hội, gây chia rẽ, bè phái, trù
dập, ức hiếp quần chúng, bị quần chúng oán ghét. Kịp thời xử lý bằng những
hình thức kỷ luật thích hợp đối với những đảng viên vi phạm kỷ luật Đảng, dù
đảng viên đó là cán bộ lãnh đạo cấp nào.
Đến Đại hội VIII, trong điều kiện cơ chế thị trường, kinh tế nhiều thành
phần, mở cửa với bên ngoài, cán bộ, đảng viên hàng ngày hàng giờ chịu sự
tác động của nhiều nhân tố rất phức tạp, kể cả những hoạt động chống phá
Đảng… Song, Đảng thiếu sự chuẩn bị đầy đủ cho bước chuyển này, chưa chú
ý đúng mức vấn đề giáo dục, rèn luyện phẩm chất chính trị và đạo đức đối với
cán bộ, đảng viên. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng
bản thân, phai nhạc lý tưởng, mất cảnh giác, giảm sút ý chí, kém ý thức tổ
chức kỷ luật, sa đọa về đạo đức, lối sống. Một số thoái hóa về chính trị, tuy
rất ít nhưng hoạt động của họ gây hậu quả hết sức xấu. Vì vậy, giai đoạn này,
đặc biệt trong Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương sáu (lần 2) đã
yêu cầu tăng cường công tác giám sát: “Sử dụng đồng bộ hệ thống giám sát
13
cán bộ, đảng viên, nhất là sự giám sát của tổ chức đảng, trước hết là từ chi
bộ, sự giám sát của nhân dân và các cơ quan đại diện nhân dân, sự giám sát
của công luận” [13, tr. 30].
Đại hội VIII chỉ rõ vai trò của các tổ chức cơ sở đảng trong các giải
pháp tăng cường kiểm tra, giám sát: “Các tổ chức cơ sở đảng phải động viên
và tổ chức nhân dân thường xuyên tham gia xây dựng đảng: đóng góp ý
kiến xây dựng các nghị quyết của Đảng; giám sát, phê bình cán bộ, đảng
viên, giới thiệu những người xứng đáng để kết nạp vào Đảng, bầu vào các
cấp ủy và chính quyền; giúp tổ chức Đảng làm tốt công tác kiểm tra, phát
hiện, đấu tranh với những hành vi tham nhũng, buôn lậu và các tệ nạn
khác…” [8, tr149].
Đảng nhấn mạnh: “Phải dựa vào nhân dân để phát hiện kiểm tra và
giám sát cán bộ….Định kỳ kiểm tra, tổng kết và nâng cao chất lượng công tác
quy hoạch cán bộ…Định kỳ kiểm tra kiến thức và trình độ nghiệp vụ đối với
từng loại cán bộ…Việc đánh giá cán bộ phải trên cơ sở thực hiện nghiêm túc
chế độ tự phê bình và phê bình; theo nguyên tắc tập thể, dân chủ, công khai,
kết luận theo đa số…có chế độ định kỳ cán bộ tự phê bình, lắng nghe và tiếp
thu những ý kiến của dân, sửa chữa những khuyết điểm mà dân nêu ra….Cấp
ủy và tổ chức đảng có trách nhiệm xây dựng chế độ kiểm tra cán bộ và công
tác cán bộ… kịp thời kiểm tra, kết luận các vụ việc có liên quan đến cán bộ
để đánh giá chính xác cán bộ” [12, tr79 – 80 - 82].
Đối với cán bộ, Đảng ta chỉ rõ: “Cán bộ lãnh đạo phải gương mẫu tự
phê bình và phê bình, chống thái độ nể nang, né tránh, không kiên quyết bảo
vệ cái đúng, phê phán cái sai. Có hình thức tổ chức thích hợp để quần chúng
nhân dân tại cơ quan, đơn vị, nơi ở tham gia phê bình cán bộ. Nghiêm cấm
mọi hiện tượng trấn áp, trù dập người thẳng thắn đấu tranh phê bình cũng
như lợi dụng phê bình để đả kích cá nhân, vu cáo, gây rối nội bộ…Tăng
cường kiểm kê, kiểm soát, kiểm tra việc chi tiêu ngân sách nhà nước, tài sản
14
công, tài chính đảng, đoàn thể, các loại quỹ do nhân dân đóng góp ở tất cả
các cấp, các ngành, từ Trung ương đến cơ sở”[8, tr85 - 86; 93 – 94].
Đối với cấp ủy, tổ chức đảng cần phải tăng cường việc chấp hành nghị
quyết của Đảng.Từ Tổng Bí thư, ủy viên Bộ chính trị, ủy viên trung ương đến
các đồng chí lãnh đạo các cấp, các ngành phải thật sự đi sâu kiểm tra, đôn
đốc, nắm chắc tình hình thực hiện các nghị quyết của Đảng, khơi dậy nhân tố
mới, uốn nắn lệch lạc, kịp thời giải quyết các vấn đề nảy sinh; bớt giấy tờ, hô
hào chung chung, qua nhiều tầng nấc trung gian.
Trong nhiệm kỳ Đại hội IX, Đảng ta đã chú ý quan tâm và tăng cường
công tác kiểm tra, giám sát của Đảng cả về nhận thức và hành động. Tuy
nhiên, thực tế vẫn tập trung nhiều vào công tác kiểm tra, chưa quan tâm đúng
mức đến công tác giám sát. Đại hội IX đã đề ra những biện pháp để tiến hành
kiểm tra, giám sát: “Tập trung vào các nội dung chủ yếu: thực hiện các nghị
quyết, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, chấp hành nguyên tắc
tập trung dân chủ và quy chế làm việc; củng cố đoàn kết nội bộ, giáo dục rèn
luyện, nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên” [9,
56 ]. Xác định biện pháp này, Đảng ta chú trọng đến việc nêu cao vai trò tiên
phong gương mẫu của đảng viên trong thời kỳ mới, thông qua đó mà phát huy
vai trò lãnh đạo của Đảng trên các lĩnh vực đời sống xã hội trong thời kỳ mới.
Điều này càng được khẳng định trong Văn kiện Đại hội: “Phân công, hướng
dẫn kiểm tra đảng viên chấp hành nhiệm vụ, phát huy vai trò tiên phong
gương mẫu; giữ mối liên hệ với quần chúng ở nơi công tác, với chi bộ và
nhân dân nơi cư trú” [9, 55].
Đảng ta còn chỉ rõ cách thức tiến hành: “Trong quá trình kiểm điểm
phải đề cao tinh thần trách nhiệm, ý thức tự giác, tinh thần tự phê bình và
phê bình của các cấp ủy, tổ chức đảng, của cán bộ lãnh đạo, quản lý; khuyến
khích tạo điều kiện để cán bộ, đảng viên và nhân dân tham gia góp ý kiến;
khắc phục biểu hiện nể nang, né tránh “dĩ hòa, vi quý”, xuê xoa, hình thức;
cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp phải gương mẫu trong kiểm điểm. Thông
15
qua kiểm điểm phải kiểm tra làm rõ, kết luận đúng sai những vấn đề còn ý
kiến các nhau; xử lý nghiêm minh đối với những trường hợp cố tình vi phạm
kỷ luật và Điều lệ đảng, pháp luật nhà nước, thiếu trách nhiệm gây hậu quả
nghiêm trọng, không tự giác nhận sửa chữa khuyết điểm. Nghiêm cấm việc
trù dập người tố cáo và người đấu tranh phê bình…Đối với những vụ việc
phức tạp có liên quan mà cán bộ chưa tự giác kiểm điểm thì cần tổ chức kiểm
tra, thanh tra và có kết luận làm rõ ” [1, tr381,384].
Đảng đã quan tâm xây dựng “Biện pháp thuyến khích tự phê bình, tự
giác sửa chữa khuyết điểm. Xây dựng và thực hiện quy chế khuyến khích, biểu
dương, bảo vệ người có tinh thần đấu tranh, tố cáo những vi phạm. Kiểm tra,
xác minh nhà, đất của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo quản lý các
cấp, kết luận rõ đúng, sai, xử lý kịp thời, thông báo công khai…Thực hiện
những giải pháp đồng bộ, nhất là xây dựng cơ chế để phát huy quyền làm
chủ, quyền giám sát của quần chúng đối với tổ chức Đảng, đảng viên. Xây
dựng và thực hiện quy chế dân chủ trong Đảng…. tăng cường chỉ đạo công
tác kiểm tra, công tác bảo vệ chính trị nội bộ; đề cao kỷ luật, kỷ cương” [1,
tr203,204,206].
Đại hội X của Đảng đã xác định rõ một trong những nhiệm vụ hàng đầu
của nhiệm kỳ này là tăng cường công tác kiểm tra, giám sát trong Đảng. Văn
kiện đã nêu lên một số nhiệm vụ về công tác kiểm tra, giám sát: “Giao thêm
chức năng giám sát cho cấp ủy Đảng và ủy ban kiểm tra các cấp, coi kiểm
tra, giám sát trước hết là nhiệm vụ của cấp ủy, gắn công tác kiểm tra với
công tác giám sát, có giám sát mới phát hiện được các vấn đề mới, khắc phục
được thiếu sót, khuyết điểm từ lúc mới manh nha”. Đồng thời Đảng yêu cầu
phải: “Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát với nhận thức và yêu cầu mới:
công tác kiểm tra, giám sát phải góp phần phát hiện và khắc phục những
khuyết điểm, thiếu sót khi mới manh nha; bên cạnh việc tiếp tục thực hiện
kiểm tra tổ chức và cá nhân đảng viên có dấu hiệu vi phạm, phải tăng cường
chủ động giám sát, kiểm tra về phẩm chất đạo đức và kết quả thực hiện nhiệm
16
vụ của tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên, về nhận thức và chấp hành đường
lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước và việc chấp
hành Điều lệ Đảng. Coi trọng kiểm tra, phát hiện nhân tố tích cực” [10, tr.
302]. Đại hội đã bổ sung chức năng giám sát, tăng thẩm quyền và trách nhiệm
xem xét kỷ luật của cấp ủy và ủy ban kiểm tra các cấp. Ủy ban kiểm tra các
cấp có quyền yêu cầu các cấp ủy, tổ chức Đảng và đảng viên giải trình các
vấn đề thuộc thẩm quyền và trách nhiệm kiểm tra, giám sát được giao. Kiện
toàn hệ thống ủy ban kiểm tra các cấp, hoàn thiện quy chế phối hợp giữa ủy
ban kiểm tra đảng với các tổ chức Đảng và các cơ quan bảo vệ pháp luật trong
việc xem xét khiếu nại, tố cáo và xử lý kỷ luật đối với cán bộ, đảng viên. Xây
dựng quy chế tiếp nhận xử lý ý kiến của Mặt trận, các đoàn thể và của nhân
dân nhận xét, phê bình tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên. Kiện toàn tổ chức,
tăng cường cán bộ có chất lượng, cải thiện điều kiện, phương tiện làm việc
của ủy ban kiểm tra các cấp.
Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã yêu cầu:
Hoàn thiện quy chế bảo đảm quyền kiểm tra, giám sát của tập thể đối với cá
nhân, của tổ chức đối với tổ chức, của cá nhân đối với cá nhân và tổ chức, kể
cả đối với người lãnh đạo chủ chốt và tổ chức cấp trên. Kết hợp giám sát
trong Đảng với giám sát của nhà nước và giám sát của nhân dân…
Trong Đại Hội X, Đảng đã kịp thời ban hành Nghị quyết số 14 –
NQ/TW ngày 30 - 7 – 2007 “Về tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của
Đảng”. Đây là một nghị quyết quan trọng, ban hành trong thời điểm quan
trọng đã kịp thời giải quyết những khó khăn vướng mắc trong lĩnh vực kiểm
tra, giám sát, định hướng cho hoạt động kiểm tra, giám sát của Đảng trong
thời gian tới. Nghị quyết 14 đã xác định rõ mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ,
chủ trương, giải pháp tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng trong
giai đoạn cách mạng mới. Trong đó, Đảng đã đề ra những chủ trương, biện
pháp cụ thể nhằm tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng:
17
Một là, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức của các cấp ủy, tổ
chức đảng, ủy ban kiểm tra, trước hết là người đứng đầu cấp ủy về công tác
kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng. Từ sự chuyển biến thật sự trong nhận
thức sẽ tác động chuyển biến mạnh mẽ trong hành động đối với công tác kiểm
tra, giám sát.
Hai là, xây dựng, hoàn thiện các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà
nước phục vụ công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng.
Ba là, đổi mới tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng của
cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra các cấp và chi bộ bảo đảm hiệu lực,
hiệu quả.
Bốn là, hoàn chỉnh quy trình, phương pháp kiểm tra, giám sát, kỷ luật
của Đảng.
Năm là, kiện toàn tổ chức bộ máy cơ quan ủy ban kiểm tra các cấp bảo
đảm tương xứng với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao.
Sáu là, tăng cường đầu tư, hiện đại hóa cơ sở vật chất, kỹ thuật, phương
tiện làm việc cho công tác kiểm tra, giám sát của Đảng.
Bảy là, nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực
tiễn về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật.
Bảy chủ trương, biện pháp nêu trên chỉ là sự trình bày khái quát. Trong
Nghị quyết 14, với từng chủ trương, biện pháp Đảng đã đề ra một cách rất cụ
thể cách thức tiến hành. Vì đây là một nghị quyết chuyên đề về kiểm tra, giám
sát nên nó có một ý nghĩa vô cùng to lớn đối với công tác kiểm tra, giám sát.
18
19
KẾT LUẬN
Nhận thức được vị trí, vai trò của công tác kiểm tra, giám sát, cho nên,
trong suốt 80 năm qua, Đảng ta cả trong lý luận và hoạt động thực tiễn luôn
đề cao và đặc biệt quan tâm đến công tác kiểm tra, giám sát. Đảng đã ban
hành nhiều chỉ thị, nghị quyết chỉ đạo công tác kiểm tra, giám sát; đề xuất
những chủ trương biện pháp quan trọng nhằm khắc phục những hạn chế,
khuyết điểm, nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác kiểm tra, giám sát.
Tuy nhiên, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng chưa đạt yêu cầu. Kỷ
cương, kỷ luật ở nhiều cấp, nhiều lĩnh vực không nghiêm. Sự đoàn kết nhất trí
ở không ít cấp ủy chưa tốt. Quan hệ giữa Đảng và nhân dân có lúc, có nơi
chưa chặt chẽ. Dân chủ trong Đảng và trong xã hội còn bị vi phạm. Nhiều tổ
chức cơ sở đảng không đủ năng lực giải quyết những vấn đề phức tạp nảy
sinh, thậm chí có tổ chức cơ sở đảng bị tê liệt. Công tác tư tưởng còn thiếu
sức thuyết phục. Công tác tổ chức và cán bộ còn nhiều mặt yếu kém. Tình
trạng suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội, chủ
nghĩa cá nhân, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận cán bộ,
đảng viên còn diễn ra nghiêm trọng.
Nhìn chung, quá trình thực hiện công tác kiểm tra, giám sát của Đảng
bên cạnh những mặt mạnh đã bộc lộ những hạn chế, yếu kém cần được khắc
phục. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay với những diễn biến phức tạp của xã
hội đang từng ngày từng giờ tác động vào đất nước ta nói chung, vào Đảng,
công tác kiểm tra, giám sát nói riêng đòi hỏi hơn bao giờ hết toàn Đảng, toàn
dân phải quan tâm đến công tác kiểm tra, giám sát, tăng cường nâng cao chất
lượng công tác kiểm tra, giám sát để góp phần quan trọng trong việc thực hiện
mục tiêu Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đặt ra: “Nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh
toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát
triển”.
20
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI,
Nxb CTQG, HN, 1986.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII,
Nxb CTQG, HN, 1991.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,
Nxb CTQG, HN, 1996.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb CTQG, HN, 2001.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Nxb CTQG, HN, 2006.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Điều lệ Đảng khóa X, Nxb CTQG, Hà Nội, 2006.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết TW 3 khóa VIII, Nxb CTQG, Hà Nội.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết TW 6 (lần 2) khóa VIII, Nxb CTQG,
Hà Nội.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết TW 6 khóa IX, Nxb CTQG, Hà Nội.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết TW 5 khóa X, Nxb CTQG, Hà Nội.
11. Hồ Chí Minh toàn tập: tập 5, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995.
12. TS. Lê Văn Giảng, Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giám sát của
ủy ban kiểm tra các cấp, Nxb CTQG, Hà Nội, 2008.
13.Trần Đình Nghiêm, Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, Nxb CTQG,
Hà Nội, 2002.
21
MỤC LỤC
22