Tải bản đầy đủ (.doc) (65 trang)

XUẤT BẢN ĐIỆN TỬ, TỔNG QUAN VỀ TÀI LIỆU ĐIỆN TỬ VÀ XUẤT BẢN ĐIỆN TỬ.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (560.43 KB, 65 trang )

Nguyễn Thị Kim Lân

K50 Thông tin – Thư viện

MỤC LỤC
Trang
MỤC LỤC...................................................................................................................................1
MỞ ĐẦU.....................................................................................................................................7
1.Tính cấp thiết của đề tài........................................................................................................7
2.Mục đích nghiên cứu............................................................................................................8
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.........................................................................................8
4.Phương pháp nghiên cứu......................................................................................................8
5.Tình hình nghiên cứu của đề tài............................................................................................9
CHƯƠNG 1: LỊCH SỬ VỀ XUẤT BẢN ĐIỆN TỬ, TỔNG QUAN VỀ TÀI LIỆU ĐIỆN TỬ
VÀ XUẤT BẢN ĐIỆN TỬ.......................................................................................................10
1.1.Vài nét về lịch sử của xuất bản điện tử............................................................................10
1.2.Tài liệu điện tử.................................................................................................................11
1.3.Xuất bản điện tử...............................................................................................................11
1.4.Những hình thức và phân loại xuất bản điện tử...............................................................13
1.4.1.Những hình thức của xuất bản điện tử......................................................................13
1.4.2.Phân loại xuất bản điện tử.........................................................................................16
1.4.2.1.Dựa theo tính chất của xuất bản phẩm...............................................................16
1.4.2.2.Dựa theo hình thức xuất bản..............................................................................16
1.4.3.Một số ví dụ điển hình của xuất bản điện tử.............................................................17
1.4.3.1.CD- ROM...........................................................................................................17
1.4.3.2.Đĩa quang, đĩa từ................................................................................................19
1.4.3.3.Sách điện tử........................................................................................................19
1.4.3.4.Cơ sở dữ liệu trực tuyến.....................................................................................24
1.4.3.5.Thư điện tử (email)............................................................................................26
CHƯƠNG 2: CÁC YẾU TỐ CỦA XUẤT BẢN ĐIỆN TỬ.....................................................27
2.1.Sự chuẩn bị của tác giả....................................................................................................27


2.2.Hiệu đính..........................................................................................................................27
2.3. Chuẩn bị cơ sở dữ liệu....................................................................................................27
2.4.Giới thiệu và phân phối sản phẩm và dịch vụ .................................................................28
2.5.Lưu trữ.............................................................................................................................28
2.6.Liên kết điện tử................................................................................................................29
CHƯƠNG 3 : MỘT SỐ CHUẨN HÓA ÁP DỤNG..................................................................33
TRONG XUẤT BẢN ĐIỆN TỬ...............................................................................................33
2.1.Đối với từng biểu ghi riêng biệt.......................................................................................33
2.2.Dublin Core......................................................................................................................33
2.3.METS (Metadata Encoding and Transmission Standard) : Tiêu chuẩn Mã hoá và Truyền
tải Siêu dữ liệu.......................................................................................................................36
2.4.MODS (Metadata Object Description Schema) Tiêu chuẩn Mô tả đối tượng Siêu dữ
liệu, một khổ mẫu MARC nhẹ nhàng và đơn giản hơn.........................................................37
CHƯƠNG 4: ƯU, NHƯỢC ĐIỂM VÀ XU HƯỚNG..............................................................40
CỦA XUẤT BẢN ĐIỆN TỬ TRONG TƯƠNG LAI...............................................................40
4.1.Ưu điểm...........................................................................................................................40

Khóa luận

1


Nguyễn Thị Kim Lân

K50 Thông tin – Thư viện

4.2.Nhược điểm......................................................................................................................42
4.3.Xu hướng trong xuất bản điện tử trong thời gian tới.......................................................43
4.4.Sự ảnh hưởng của xuất bản điện tử lên hoạt động của thư viện và các dịch vụ của thư
viện.........................................................................................................................................43

4.4.1.Cấu trúc và tổ chức...................................................................................................43
4.4.2.Tiêu chuẩn và kỹ năng người cán bộ thông tin và thư viện......................................44
4.4.3.Bổ sung và biên mục.................................................................................................46
4.4.3.1.Bổ sung và truy cập............................................................................................46
Sự hỗ trợ của những nhà cung cấp là luôn luôn ổn định, nhanh chóng và có sẵn.........47
Những quá trình cài đặt hệ thống xuất bản điện tử và xuất bản phẩm điện tử thì phải
ngày càng đơn giản và chuẩn hóa để các sản phẩm có thể được truy cập và không truy
cập thì vẫn được sử dụng một cách dễ dàng nhất..........................................................47
Tiêu chuẩn và giao diện thân thiện với người sử dụng..................................................48
Hệ thống tài liệu hướng dẫn tốt.....................................................................................48
Xây dựng một hệ thống chuyên gia hỗ trợ trực tuyến...................................................48
4.4.3.2.Kiểm soát thư mục.............................................................................................48
Những cán bộ thư viện yêu cầu tốt, thông tin đáng tin cậy về tính khả dụng của thông
tin trong phương tiện truyền thông điện tử, để tạo điều kiện thuận lợi xác định, lựa
chọn và bổ sung (hoặc, trong một số trường hợp, truy cập). Vì vậy, một số hình thức
khuôn khổ của thư mục là cần thiết. Một sự đồng ý thiết lập các bộ tiêu chuẩn hay là
những nguyên tắc biên mục là cần thiết.........................................................................48
Tuy nhiên có những vấn đề nổi lên mà hoạt động kiểm soát thư mục cần chú ý đó là: 48
4.4.4.Hoạt động truy cập thông tin của người dùng tin.....................................................49
4.4.4.1.Phân phối tài liệu...............................................................................................49
Khả năng của việc phân phối những tài liệu điện tử tăng lên cùng với các yêu cầu về
các tài liệu in hay sao chép ở bất cứ hình thức vật lý nào làm cho các cơ quan thông tin
thư viện phải ngồi lại và tìm ra một cách thức phân phối tài liệu nhanh nhất. Nếu
những dịch vụ cung cấp tài liệu có thể đáp ứng bất cứ yêu cầu về tài liệu ở một chi phí
và tốc độ có thể chấp nhận được, họ trở thành những người tư vấn đóng góp cho sự
phát triển mạng lưới của xuất bản điện tử ngày càng làm cho hệ thống này hoàn chình
hơn. Sự hiện diện của ngày càng tăng số lượng các nhà cung cấp mạng có thể truy cập
và lưu trữ điện tử các tài liệu tạo điều kiện nhanh chóng về kinh tế và các địa điểm, lựa
chọn và chuyển giao các bản ghi được yêu cầu từ phía người dùng tin. Như giá cả bài
báo tiếp tục tăng không có căn cứ cho rằng thư viện sẽ hủy các mục đăng ký của các

tài liệu có chi phí cao đó và dựa vào tài liệu sẵn có để cung cấp và đáp ứng nhu cầu tin
của người dung tin 'những nhu cầu cụ thể. Ngày nay sự phát triển của hai hệ thống dịch
vụ cung cấp thông tin chọn lọc và dịch vụ cung cấp thông tin theo nhu cầu có thể
khuyến khích sự sử dụng thông tin từ phía người dùng tin và thư viện cũng tìm ra
những cách thức để phân phối tài liệu một cách nhanh nhất. Bên cạnh đó nó cũng tạo
điều kiện thanh toán cả về nhuận bút cho chủ sở hữu quyền các tài liệu được cung cấp,
do đó cung cấp các cơ hội cho sự phát triển của một nguồn thu nhập mới của hoạt động
thông tin và thư viện......................................................................................................49
Một vấn đề nữa đòi hỏi sự quan tâm và tham gia của tất cả các cấp các ngành cơ quan
chuyên gia thông tin và thư viện đó là sự quan tâm về sự bảo vệ đối với tác phẩm được
viết ra của bản quyền trong việc phân phối tài liệu điện tử. Không giống như khi sao
chép tài liệu truyền thống, người phân phối thông tin có thể sao chép hay có thể giảm
bớt, làm rộng ra hay là số hóa hình ảnh ở những hệ thống phân phối những tài liệu
phức tạp ví dụ như bằng phương thức OCR ( Optical character recognition ) scan để

Khóa luận

2


Nguyễn Thị Kim Lân

K50 Thông tin – Thư viện

tạo ra những phiên bản đươc mã hóa bằng các ký tự (chữ cái) đòi hỏi ít lưu trữ hơn và
dễ dàng hơn trong việc truyền tải thông tin hơn là thông tin ở dạng bit-mapped image
tạo điều kiện sửa đổi, bổ sung thông tin ở đầu ra..........................................................49
Cách in ấn có thể được thay đổi, những phần của văn bản có thể được di chuyển và
những thay đổi trong minh họa của tài liệu cũng có thể thực hiện được cho phép bất cứ
tài liệu nào được xuất bản dưới hình thức điện tử có thể thay đổi, tái chế phù hợp với

yêu cầu không chỉ của người dùng tin mà còn với cơ quan thông tin và thư viện. Chính
vì lý do này, những nhà xuất bản thích phân phối thông tin của mình tới người dùng tin
của bit-mapped images kết quả tới người sử dụng là họ có thể sử dụng được sản phẩm
ngay mà không cần sử dung thêm bất cứ một thao tác nào. Trên thực tế, người ta vẫn
thích chuyển thông tin của mình thông qua những kênh thông tin điện tử viễn thông
hơn là việc đăng tải thông tin.........................................................................................50
Một vấn đề quan trọng cho các tài liệu điện tử là tính xác thực của tài liệu. Do đó, một
sự khác biệt lớn giữa các tài liệu in trên giấy và tài liệu được xuất bản điện tử là khi
một tác giả đưa bản thảo của mình tới nhà xuất bản thì đó là một biểu ghi cố định, cố
định không thay đổi được về mặt nội dung trái ngược với bản chất của tài liệu điện tử
là có thể thay đổi được về mặt nội dung. Sau đó, một cán bộ thư viện người cung cấp
cho mỗi người dùng với quyền truy cập vào một văn bản điện tử, và người sử dụng
nhận được văn bản, chưa có sự bảo đảm rằng những gì đang được cung cấp hoặc được
nhận là xác thực, trong khi văn bản được gửi là một phiên bản hoàn chỉnh.................50
Đứng về phía quan điểm của người sử dụng, quyền truy cập tới tài liệu là sự tăng
cường khả năng cung cấp dịch vụ của tài liệu điện tử. Có nhiều nhà cung cấp hơn và
những khả năng cung cấp thông tin của họ là không giới hạn. Nếu người dùng tin có
thể trả bằng thể thanh toán điện tử hay là những phương tiện khác, sau đó giao dịch sẽ
thông qua thư viện địa phương nơi người dùng tin sinh sống.......................................51
4.4.4.2.Trao đổi tài liệu..................................................................................................51
Nếu tài liệu tồn tại ở dạng số (các ký tự được mã hóa) hoặc là sẵn sàng được số hóa bởi
các cơ quan thông tin và thư viện thì nó có thể dễ dàng được chuyển tiếp thông qua hệ
thống mạng không chỉ tới người dùng tin mà còn thông qua nhiều thư viện với nhau
nữa. Để tránh có thể sản xuất một số ít các phiên bản biến thể, trong hậu quả của scan
lỗi, nó sẽ được thiết lập một cơ chế cho đăng ký sự tồn tại của một văn bản được số
hóa và khi số hóa phiên bản lần đầu tiên được sản xuất,người ta phải thực hiện một quá
trình kết hợp mang tính xác thực để đảm bảo độ tin cậy của văn bản. Vì vậy quá trình
trao đổi tài liệu trong xuất bản điện tử có thể nói là dễ dàng và nhanh chóng với một
phạm vi rộng khắp hơn nhiều so với xuất bản truyền thống..........................................51
4.4.5.Giao diện...................................................................................................................51

4.4.6.Hỗ trợ người dùng tin...............................................................................................52
Để nhận được các quyền lợi của các thư viện điện tử, người sử dụng không phải chỉ có
quyền truy cập vào mạng và trả tiền cho những dịch vụ của thư viện đó, mà người sử
dụng cũng cần có các kỹ năng và sự tự tin để sử dụng các tiện ích của thư viện mang
lại. Điều này làm cho không chỉ đối với người dùng tin mà đối với các cơ quan thông
tin thư viện phải đưa ra một chương trình đào tạo dài hạn, với các hướng dẫn ban đầu
như là việc hỗ trợ đầy đủ tài liệu hướng dẫn và / hoặc trên màn hình luôn hiển thị sự
giúp đỡ từ những nhà quản lý, quản trị thư viện. Ngoài ra, người sử dụng cần để có thể
ngay lập tức để có được sự trợ giúp với những vấn đề thường phát sinh trong ngày sử
dụng, lỗi kỹ thuật khác nhau, từ những khó khăn để trong quá trình tìm kiếm thông tin
và sử dụng thông tin.......................................................................................................52

Khóa luận

3


Nguyễn Thị Kim Lân

K50 Thông tin – Thư viện

Tùy theo tiêu chuẩn của dịch vụ cung cấp, một số hoặc tất cả các điều sau đây sẽ là cần
thiết:...............................................................................................................................53
+ Giới thiệu "hiển thị và cho biết" để nâng cao nhận thức và chứng minh các sự thuận
lợi khi sử dụng thông tin sẵn có trong thư viện và / hoặc qua mạng.............................53
+ Hướng dẫn trong việc thực hành kết nối mạng, định vị và tìm kiếm tài liệu thông
qua hệ thống...................................................................................................................53
+ Lời khuyên về cách lựa chọn cơ sở dữ liệu liên quan đến chủ đề đặc biệt là các khu
vực và các chủ đề quan tâm...........................................................................................53
+ Hướng dẫn và tư vấn về các vấn đề liên quan đến quyền tác giả và các vấn đề pháp

lý (bao gồm các cảnh báo chống lại vấn đề đạo văn trong môi trường học tập)...........53
+ Đào tạo trong việc sử dụng các hệ thống thông tin điện tử cụ thể, bao gồm tìm kiếm
các chiến lược và kỹ thuật như sử dụng ký tự chặt cụt và toán tử.................................53
+ Đào tạo trong "việc đăng bài" và nhiều mặt của quản lý thông tin, ví dụ như:.........53
Tải về, lưu trữ dữ liệu và các thao tác với các dữ liệu theo nhu cầu của người dùng tin.
........................................................................................................................................53
Dịch thuật các kết quả tìm kiếm vào các yêu cầu cho việc phân phối tài liệu...............53
Tích hợp của các trích dẫn vào phần mềm xử lý văn bản các tài liệu bằng cách sử dụng
phần mềm quản lý thư mục............................................................................................53
+ Phải cập nhật toàn diện và thường xuyên tài liệu hướng dẫn để hỗ trợ các hoạt động
ở trên..............................................................................................................................54
+ Những sự cố kỹ thuật để có thể giải quyết được những vấn đề về kết nối mạng, hay
đơn giản là tắt máy in thì luôn phải có sẵn một tổ trợ giúp khi người dùng tin có nhu
cầu..................................................................................................................................54
+ Những thông tin liên quan tới những yêu cầu mà người dùng tin muốn được cung
cấp thì phải luôn luốn có trong suốt giờ mở của của thư viện.......................................54
4.4.7.Bảo quản vốn tài liệu cho sự truy cập và sử dụng lâu dài.........................................54
4.4.7.1.Bảo quản vốn tài liệu.........................................................................................54
Bảo quản dữ liệu điện tử-được tổ chức cho thế hệ sau là một vấn đề phức tạp và đầy
thử thách. Cách cài đặt lưu trữ của các phương tiện truyền thông, và nhanh chóng lỗi
thời của các trang thiết bị cần thiết để đọc dữ liệu, hay là những thay đổi về mặt công
nghệ và khó khăn tài chính hiện nay là các vấn đề chính mà các cơ quan thông tin thư
viện cần phải xem xét và chú ý. Đối với mục đích lưu trữ, chúng ta có thể hy vọng rằng
các trung tâm thông tin và thư viện lưu trữ thông tin trên đĩa quang, trong đó đảm bảo
thực hiện lên đến 30 năm lưu trữ tài liệu ......................................................................54
Những tài liệu điện tử được phân phối trên những phương tiện vật lý sẽ xuất hiện
những vấn đề mới về mặt chất liệu hóa học ví dụ như thông tin được lưu trữ trên đĩa
CD-ROM thì cần được làm mới dữ liệu trước khi đĩa bị hỏng không dùng được nữa.
Với đĩa quang, dấu hiệu hóa học có xu hướng loãng ra nhanh chóng và việc phải backup lại dữ liệu hàng năm để bảo quản chúng là công việc phải được đưa vào một trong
những hoạt động quan trọng của thư viện. Và để thông tin có thể được sử dụng lâu dài

thì người cán bộ thông tin thư viện, những nhà cung cấp thông tin, những nhà xuất bản
điện tử phải cung cấp thông tin về việc làm thế nào để kéo dài tuổi thọ của những xuất
bản phẩm đó hay thay vì xuất bản thông tin lên những phương tiện vật lý có tuổi thọ
ngắn và dung lượng ít, họ nên xuất bản chúng lên những phương tiện có thể dễ dàng
trong phương thức bảo quản và sử dụng được lâu dài...................................................54
4.4.7.2.Vấn đề “download” và “copy”...........................................................................55
Việc download hoặc copy các tài liệu được lưu trữ điện tử là một khó khăn và đặc biệt
là khu vực nhạy cảm cho các nhà xuất bản và người dùng, mặc dù nó nằm trong lợi ích

Khóa luận

4


Nguyễn Thị Kim Lân

K50 Thông tin – Thư viện

của cả hai bên để tìm kiếm những sự sắp xếp không hoàn toàn hạn chế. Một thỏa thuận
xác định số tiền của các tài liệu có thể được sao chép, và sử dụng có thể được làm bằng
vật liệu sẽ được sao chép nhiều nhất có giá trị. Các định nghĩa của download và copy
cần phải được làm rõ một cách tốt nhất bằng thỏa thuận giữa các nhà xuất bản và người
sử dụng, vì trong một bối cảnh điện tử đó, người sử dụng không thể đọc hoặc sử dụng
một tài liệu mà không sao chép nó vào một màn hình hoặc một máy in, chỉ cần như là
không thể gửi một số fax của một tài liệu mà không cần tạo một bản sao điện tử. Thuật
ngữ “electrocopying” cũng cần được làm rõ , như là nó được sử dụng bởi các thư viện
các cơ quan trung tâm thông tin và những người dùng tin có nghĩa là sao chép văn bản
và đồ họa vào một điện tử định dạng không phụ thuộc vào định dạng ban đầu (do đó
bao gồm cả sao chép từ một trong những định dạng điện tử vào cùng một định dạng
hoặc khác)......................................................................................................................55

4.4.8.Bản quyền.................................................................................................................55
Không có sự khác biệt cơ bản trong loại hình về bản quyền của các xuất bản phẩm trên
giấy và các xuất bản phẩm điện tử, và những mối quan tâm của các quyền chủ sở hữu
là như nhau trong cả hai trường hợp. Sự khác biệt giữa hai hình thức xuất bản những
luật công bố bản quyền ở những mức độ khác nhau. Xuất bản điện tử không cho phép
bất cứ điều gì đó mà người ta nghĩ là có thể làm được ví dụ như việc in sao chép băng
đĩa lậu mà không cần sự cho phép của tác giả hay giấy phép của cục bản quyền. .......55
Vậy thì những quyền mà chủ sở hữu có thể là nhà xuất bản hoặc tác giả muốn tác
phẩm hoắc sản phẩm của mình được bảo vệ đó là :......................................................56
+ Để ngăn chặn việc khai thác trái phép hoặc sử dụng sản phẩm, bao gồm sao chép
trái phép hoặc chuyển từ một phương tiện truyền thông này sang một trong những
phương tiện truyền thông khác, hoặc bán sản phẩm trong toàn bộ hoặc một phần.......56
+ Để đảm bảo nội dung của các sản phẩm, trong ý nghĩa của nó, không được thay đổi
hay sai lệch hoặc nhái theo............................................................................................56
Không phải là vô cớ mà chủ sở hữu muốn tận hưởng phần thưởng cho những lao động
của mình và đi vào những sáng tạo của sản phẩm, để bảo vệ hiện có dòng thu nhập và
được hưởng lợi từ những khả năng sáng tạo những tác phẩm mới. Điều này có nghĩa là
có thể kiểm soát tất cả các sao chép của sản phẩm, quản lý xem xét bất cứ hành động
sử dụng nào vi phạm những quyền lợi này. Chủ sở hữu cũng mong muốn có thể nhận
được doanh thu, và để xác định cơ cấu giá. Trong trường hợp của những tác phẩm
thuộc các lĩnh vực mới, chẳng hạn như các chương trình máy tính, mà không phải là dễ
dàng được thích nghi trong khuôn khổ pháp lý hiện hành, chủ sở hữu mong muốn có
quyền được bảo vệ bởi luật pháp mới nếu cần thiết......................................................56
Những người dùng tin cuối cùng muốn có thể tham khảo được những tác phẩm được
xuất bản bất cứ khi nào họ muốn mà có thể được lưu trữ ở thư viện nơi họ sinh sống.
Người cán bộ thư viện, phục vụ những người dùng tin cuối đó có thể truy cập vào
những tác phẩm được xuất bản đó, thứ nhất là tìm kiếm thông tin cho người dùng tin,
thứ hai là nếu đó là một nguồn truy cập mở thì có thể tải về và lưu trữ cho bộ sưu tập
tài liệu thư viện làm cho chúng sẵn có đối với những người dùng tin khác một cách
hợp pháp theo như bản quyền của tài liệu đó, công việc này có liên quan tới việc truyền

tải thông tin trong nhiều định dạng khác nhau và có thể truyền tải nhiều lần tới người
dùng tin. Trong những trường hợp như thế thì cả người cán bộ và người dùng tin đều
sẵn sàng trả tiền cho việc sử dụng những xuất bản phẩm điện tử đó chứ không muốn
truy cập bị giới hạn một cách nghiêm ngặt bởi quá nhiều chi phí( hoặc, về nguyên tắc,
của bất cứ trở ngại khác, luật pháp hay cách khác). Các phương tiện của việc giám sát
sử dụng và của việc thu chi phí và quyền truy cập không nên là những gánh nặng đối

Khóa luận

5


Nguyễn Thị Kim Lân

K50 Thông tin – Thư viện

với người sử dụng khi họ truy cập và sử dụng những thông tin đó hay cũng không nên
là những quá trình xác nhận những quyền của chủ sở hữu đối và quyền được thu thập
tài liệu không chỉ của người dùng tin mà của cả các cơ quan thông tin và thư viện bị
giới hạn các hoạt động dó trong môi trường xuất bản điện tử này. Những yêu cầu này
đặc biệt quan trọng trong trường hợp của các sản phẩm đa phương tiện, khi một người
dùng khác hoặc chính các cán bộ thư viện mong đợi để có thể làm việc trực tiếp một
cách hợp pháp với các nhà cung cấp của sản phẩm, thay vì có thể với một số lượng lớn
các chủ sở hữu quyền ban đầu.......................................................................................57
KIẾN NGHỊ VÀ KẾT LUẬN...................................................................................................61
Kết luận..................................................................................................................................61
Kiến nghị................................................................................................................................61

Khóa luận


6


Nguyễn Thị Kim Lân

K50 Thông tin – Thư viện

MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài
Thế giới ngày càng biến động mạnh mẽ dưới sự phát triển của khoa học

công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin và mạng toàn cầu Internet. Chính vì
vậy, thông tin ngày càng trở nên đa dạng và phong phú về cả nội dung và hình
thức. Các công cụ tạo ra thông tin số chủ yếu như máy tính, máy ảnh kỹ thuật số,
máy quay, máy quét,…cũng không ngừng được nâng cao về mặt công nghệ, góp
phần tích cực vào việc đa dạng hóa kho tàng thông tin điện tử.
Ngày nay, hầu hết các ngành nghề trong xã hội, các lĩnh vực như kinh tế,
văn hóa, giáo dục và đào tạo, … đều chịu tác động của sự phát triển như vũ bão
của công nghệ thông tin (Information Technology) và công nghệ Web (Web
Technology). Các dạng công nghệ này thường xuyên được nâng cấp và phiên
bản sau thường là ưu việt hơn phiên bản trước về phạm vi ứng dụng cũng như
hiệu quả sử dụng, ….
Ngành xuất bản là một trong những ngành không nằm ngoài quy luật trên.
Thực vậy, trước đây, chúng ta chỉ thấy xuất hiện khái niệm “xuất bản”, đó là các
hoạt động liên quan tới các tác giả, các nhà xuất bản, các nhà in, các hiệu sách,…
nhưng giờ đây, chúng ta lại thấy xuất hiện thêm khái niệm “xuất bản điện tử”.
Vậy “xuất bản điện tử” là gì? Nó khác với khái niệm “xuất bản” trước đây mà
giờ đây chúng ta gọi là “xuất bản truyền thống” như thế nào?, …đó là một vấn

đề rất mới, đáng được các ngành, các cấp khác quan tâm và tìm hiểu, đặc biệt
ngành xuất bản và ngành Thông tin-Thư viện.
Thực vậy, khi thông tin càng bùng nổ thì việc xuất bản và quản lý xuất bản
thông tin đó đang trở thành một vấn đề lớn không chỉ đối với các chuyên gia
thông tin mà còn đòi hỏi các nhà quản trị dữ liệu, các cơ quan thông tin và thư
viện tìm ra những giải pháp tối ưu nhất cho vấn đề này.
Khóa luận

7


Nguyễn Thị Kim Lân

K50 Thông tin – Thư viện

Ngày nay, xuất bản điện tử có thể nhanh chóng cải thiện cách thức mà các
tổ chức, cơ quan thông tin và thư viện chuyển giao thông tin của họ và truy cập
thông tin một cách nhanh chóng từ bất cứ nguồn nào. Thiết lập một cơ sở dữ liệu
sử dụng những tiện ích của máy tính điện tử như: Datasolve , cung cấp những lợi
ích ví dụ như những giải pháp an toàn thông tin, đồng thời truy cập thông tin một
cách nhanh chóng.
Sự ảnh hưởng của xuất bản điện tử lên bộ sưu tập của tài liệu, dịch vụ và
quản trị là rất phức tạp. Không có những giải pháp đơn giản nào cho vấn đề quản
trị bộ sưu tập, lưu trữ và truy cập tới những xuất bản phẩm điện tử cũng như là
bảo quản chúng trong thư viện.
2.

Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài này giúp tôi tìm hiểu được những phương diện cơ


bản của xuất bản điện tử, những khả năng áp dụng mới mà xuất bản điện tử đem
lại cho hoạt động thông tin và thư viện và đưa ra những kiến nghị và giải pháp
nâng cao hiệu quả hoạt động của nó trong ngành Thông tin - Thư viện.
3.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của khóa luận là tìm hiểu về xuất bản

điện tử ở những phương diện như: tổng quan về xuất bản điện tử, các yếu tố cơ
bản của xuất bản điện tử và những ảnh hưởng tác động qua lại của hoạt động
xuất bản điện tử lên hoạt động thông tin thư viện cùng với những xu hướng phát
triển của hoạt động này trong tương lai.
4.

Phương pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp tài liệu, thống kê, khảo

sát thực tiễn, đồng thời sử dụng phương pháp so sánh, để lám sáng tỏ nội dung
đề tài.

Khóa luận

8


Nguyễn Thị Kim Lân

5.

K50 Thông tin – Thư viện


Tình hình nghiên cứu của đề tài
Hiện nay xuất bản điện tử còn là một lĩnh vực khá mới mẻ trong xã hội nói

chung và trong ngành Thông tin-Thư viện và ngành xuất bản nói riêng. Chính vì
lý do đó việc nghiên cứu và tìm hiểu còn gặp rất nhiều khó khăn, và hiện nay có
rất ít đề tài nghiên cứu về nó. Trước đó có tác giả Nguyễn Thị Hồng The K46,
khoa Thông tin- Thư viện đã nghiên cứu đề tài “ Tìm hiểu về xuất bản điện tử”
và tác giả Khúc Thị Cúc K47 cũng đã nghiên cứu đề tài “ TÌm hiểu về xuất bản
phẩm điện tử hiên nay”. Song cả hai đề tài chỉ dừng lại ở mức nghiên cứu khái
quát về một số khái niêm, mô hình xuất bản điện tử, các yếu tố liên quan tới hoạt
động xuất bản điện tử và những phân tích về ảnh hưởng của xuất bản phẩm điện
tử với đời sống kinh tế xã hội, tình hình khai thác và sử dụng xuất bản phẩm
điện tử, vấn đề bản quyền và những ảnh hưởng của xuất bản phẩm điện tử lên
hoạt động Thông tin – Thư viện.
Trong khuôn khổ khóa luận này tôi xin đi sâu vào một số hoạt động cụ
xuất bản điện tử như :lịch sử của xuất bản điện tử, các quá trình của xuất bản
điện tử, và đặc biệt là những tác động sâu sắc của xuất bản điện tử lên hoạt động
thông tin và thư viện, những hạn chế và ưu nhược điểm của hoạt động này và xu
hướng xuất bản điện tử trong thời gian tới.
Mặc dù tôi đã cố gắng hết sức trong quá trình tìm tòi và nghiên cứu đề tài
cùng với sự tận tình hướng của Thạc sỹ Nguyễn Thị Thúy Hạnh nhưng do thời
gian còn hạn hẹp và vấn đề nghiên cứu còn khá mới mẻ cho nên khóa luận
không tránh khỏi những thiếu sót. Chính vì vậy, tôi rất mong nhận được sự đóng
góp của thầy cô và bạn bè để khóa luận của tôi được hoàn thiện hơn.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Thạc sỹ Nguyễn Thị
Thúy Hạnh đã rất nhiệt tình và tận tâm hướng dẫn và động viên tôi những lúc
khó khăn để giúp tôi hoàn thành đề tài khóa luận này.
Khóa luận


9


Nguyễn Thị Kim Lân

K50 Thông tin – Thư viện

CHƯƠNG 1: LỊCH SỬ VỀ XUẤT BẢN ĐIỆN TỬ, TỔNG QUAN
VỀ TÀI LIỆU ĐIỆN TỬ VÀ XUẤT BẢN ĐIỆN TỬ
1.1.

Vài nét về lịch sử của xuất bản điện tử
Lịch sử của xuất bản điện tử rất ngắn nếu so sánh với xuất bản truyền

thống, nhưng mà nó đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong cuộc sống của
chúng ta. Có thể nói xuất bản phẩm điện tử đầu tiên ra đời vào năm 1980 trong
dạng văn bản của hoạt động sử dụng thư điện tử. Và người sử dụng chủ yếu vẫn
là người dùng tin của thư viện, các cán bộ thông tin thư viện….
Sau đó đĩa CD-ROMs xuất hiện là một phương tiện truyền thông hiệu quả
hơn nhiều cho việc xuất bản điện tử. Với chất lượng xuất sắc, hình ảnh, con số,
hỗ trợ chi phí thấp, và tuổi thọ sử dụng lâu dài. Kiểu xuất bản điện tử này đã
được xuất bản khá thành công cho một số năm, cho các ấn phẩm mang tính chất
khá riêng biệt như: encyclopaedias, từ điển, atlases, sổ tay, hiện nay vẫn còn
được sử dụng như một phương tiện để xuất bản và lưu trữ khá tốt . Những đĩa
CD-ROMs đó, cho phép nhà xuất bản điện tử sử dụng nhiều các định dạng khác
nhau cho các xuất bản phẩm điện tử của mình Trong mỗi thư viện người ta sử
dụng đĩa CD-ROM cho các hoạt động của họ như cài đặt các phần mềm đọc đĩa
không chỉ cho thư viện mà còn cho hệ thống khách hàng của mình nữa và trở
nên một phương tiện không thể thay thế được vì tính tiện dụng, gọn nhẹ và khả
năng lưu trữ lớn, hiện nay trên thế giới đã phát minh ra đĩa CD-ROM có dung

lượng gấp 100 lần đĩa DVD càng cho thấy sự ưu việt của phương tiện này.Ngày
nay nhiều thư viện đã phát minh ra những công cụ phong phú như mạng nội bộ
đĩa CD-ROM để có thể nhân số lần truy cập và để tránh các công việc liên quan
đến việc đầu tư và bảo trì trong cài đặt, duy trì cập nhật, và cài đặt của khách
hàng và của chính thư viện cơ quan thông tin đó.

Khóa luận

10


Nguyễn Thị Kim Lân

K50 Thông tin – Thư viện

Sau đó, cuối cùng trong những năm 1994-95 lần đầu tiên xuất hiện tạp chí
điện tử. Tạp chí điện tử đầu tiên được phân phối là Electronics Letters Online
của IEE (Institution of Electrical Engineers). IEE phân phối thông qua các bài
báo OCLC (Online Computer Library Centre). OCLC đã phát minh ra một
khách hàng, được gọi là Guidon, phải được cài đặt vào máy của người đọc nếu
như muốn đọc được các bài báo đó. Guidon là một công cụ tuyệt vời, với một
chức năng rất phong phú, tiếc là không dựa trên Web. Nó đã trở thành sớm lỗi
thời sau khi người ta lựa chọn các trang Web để phân phối các tạp chí điện tử bắt
đầu từ 1995-96 và là một thành công ngay lập tức. Nó đã có thể sử dụng các định
dạng phong phú PDF v..v, để chúng liên kết trong các văn bản và để bắt đầu sử
dụng các công cụ đa phương tiện. Bây giờ các ấn phẩm điện tử đã được chuẩn bị
sẵn sàng để tải về vào PDAs (Personal Digital Assistants).
1.2.

Tài liệu điện tử

Có nhiều quan điểm khác nhau về tài liệu điện tử

- Theo Wikipedia tiếng Anh: “Một tài liệu điện tử là bất kỳ nội dung của phương
tiện truyền thông điện tử nào nó khác với những chương trình máy tính hoác một
hệ thống các files dữ liệu, người sử dụng có thể sử dụng chúng ở trạng thái điện
tử hoặc có thể in ra”
- Theo tác giả Nguyễn Minh Hiệp thuộc Đại Học Khoa Học Tự Nhiên Thành
Phố Hồ Chí Minh thì tài liệu điện tử được định nghĩa là tài liệu được « lưu trữ,
truy cập, truy hồi, và đọc trên máy vi tính và lưu thông trên mạng vi tính. Ngoài
ra nó có thể được tải lên (Upload) hoặc số hóa từ thông tin trên giấy »
1.3.

Xuất bản điện tử
Cũng có nhiều quan điểm khác nhau về xuất bản điện tử đó là:

Khóa luận

11


Nguyễn Thị Kim Lân

K50 Thông tin – Thư viện

“Sản xuất và phổ biến các công trình mới, lần đầu tiên công bố dưới dạng
điện tử”.
“Cung cấp phiên bản điện tử của các công trình đã xuất bản trước đây
dưới dạng trực tuyến, trên CD-ROM hoặc cung cấp một phiên bản điện tử của
một cuốn sách mà được đồng thời xuất bản dưới dạng in ấn”.
Xuât bản điện tử là sự phân phối thông tin, tác phẩm nghệ thuật hoặc phần

mềm bằng điện tử thông qua Internet, CD-ROM hoặc các phương tiện điện tử
khác. Nguồn tài liệu này có thể là sách, tác phẩm âm nhạc, bộ sưu tập thông tin,
báo cáo, .. vv. Xuất bản điện tử sử dụng các công nghệ mới cho phép các nhà
xuất bản chuyển giao nội dung đến độc giả nhanh chóng và tiện lợi. Xuất bản
điện tử thay đổi cách thức chúng ta đọc sách, nhận tin tức, làm việc và nghe
nhạc. Nó cho phép chúng ta gần như ngay lập tức truy cập đến thông tin từ bất
cứ nơi đâu vào bất kỳ lúc nào - và chúng ta chỉ mới bắt đầu nhìn thấy sự tác
động của xuất bản điện tử.
Ta có thể hiểu xuất bản điện tử mà trong đó tất cả các khía cạnh từ việc
chuẩn bị, tham khảo các nguồn khác nhau, thu thập và phân phối thông tin được
tiến hành một cách tự động hoá, nó không phải là từ đồng nghĩa của điểm truy
nhập mở “ open access”, Đây có thể hiểu là nguồn truy cập trực tuyến miễn phí,
sẵn có và không giới hạn. Nói một cách cụ thể hơn, ngày nay các nhà khoa học,
học giả, giảng viên, sinh viên và những độc giả thông minh khác đang tận dụng
những nguồn tra cứu điện tử được phân phối rộng khắp trên thế giới hoàn toàn
miễn phí và truy cập không giới hạn. Qua đây, xuất bản điện tử là một quá trình
của việc xuất bản, và làm cho nó trở nên sẵn có, có thể truy cập và dùng vào mục
đích của người sử dụng chứ không phải là điều kiện mà dưới hình thức các ấn
phẩm được xuất bản có thể được sử dụng bởi người sử dụng cuối cùng.

Khóa luận

12


Nguyễn Thị Kim Lân

K50 Thông tin – Thư viện

Ngày nay, xuất bản điện tử đang ngày trở nên phổ biến không chỉ là sản

phẩm thông tin mà còn là các bài báo mang tính chất khoa học. Những nhà xuất
bản điện tử có thể cung cấp một cách nhanh chóng cho tất cả các bạn đọc những
cuốn sách mà bạn đọc có thể không tìm được ở những nguồn sách điện tử trực
tuyến hay những cuốn sách của tác giả mới mà có thể không thích hợp để xuất
bản của những nhà xuất bản kiểu truyền thống.
1.4.

Những hình thức và phân loại xuất bản điện tử

1.4.1. Những hình thức của xuất bản điện tử
Đối với mục đích trình bày, một ấn phẩm điện tử được định nghĩa là một ấn
phẩm được yêu cầu người sử dụng sử dụng một thiết bị điện tử tại một số giai
đoạn cho người tiếp nhận và / hoặc đọc sách. Xuất bản phẩm điện tử có thể được
phân loại dựa vào hai đặc điểm. Đó là nội dung của nó ở định dạng bit-mapped
(mã hoá nhị phân) hay là những tài liệu được mã hóa thành những ký tự, và được
phân phối tới người dùng trên một phương tiện truyền thông hay là những tín
hiệu truyển tải thông tin.
"Bit-mapped form" có nghĩa là những phiên bản bản điện tử của một tài liệu
chủ yếu là một mô tả của nó như là một hình ảnh, vì thế ví dụ như chữ A được
lưu trữ như là một chuỗi hướng dẫn (được diễn tả như những chữ số nhị phân)
mà cho bộ máy tiếp nhận nơi để những điểm trắng hay điểm đen để vẽ lên chữ
A. Một tờ fax là một ví dụ của tài liệu dạng bit-mapped. “Bit-mapping” là một
tên gọi hữu ích bởi vì ví dụ là một trong những bản đồ các nơi mà các bit của các
hình ảnh được đặt. Kết quả là luôn luôn có một bản sao mà có thể được thao tác
sử dụng trong chính kích thước của nó, nó có thể được mở rộng, giảm hoặc xoay
hay là biến dạng hẳn so với kích thước ban đầu nhưng mà các định dạng hoặc
các mối quan hệ của nó với toàn bộ các phần không hề thay đổi. Trong môi
trường máy tính điện tử, nó chỉ có thể được sử dụng như là một đồ họa. Điều này
có nghĩa là những văn bản được mã hóa dạng bit-mapped thì không thể được
Khóa luận


13


Nguyễn Thị Kim Lân

K50 Thông tin – Thư viện

tìm kiếm theo cách thuật toán cho sự xuất hiện của từ hay cụm từ cụ thể. Chúng
chỉ có thể tìm kiếm được như là một phần của quá trình truy cập, nếu chúng
được lập chỉ mục đàu tiên và những chỉ mục đó được lưu trữ ở những ký tự được
mã hóa. Tài liệu lưu trữ dạng bit-mapped có thể được xem tương tự như tài liệu
điện tử microfiche, với những lợi thế mà những hình ảnh được lưu trữ có thể
được truyền bằng dây, cáp hoặc phát sóng. Máy quét (khác hơn là máy quét
OCR) được sử dụng để truyền hình ảnh vào đĩa trong máy tính là những thiết bị
tạo ra dữ liệu dạng bit-mapped.
Với những tài liệu được mã hóa dạng ký tự, một tài liệu được tạo ra bởi một
loạt các mã riêng lẻ mỗi mã đại diện cho một ký tự hoặc chữ cái. Chúng ta có thể
lấy ví dụ mã ASCII (American Standard Code for Information Interchange), sử
dụng tám bits để diễn tả mỗi ký tự ( 7 để mã dữ liệu và một sự ngang hàng của
số bit). Điều này cho phép một tổng số là 128 ký tự, mà được sử dụng để đại
diện cho các cấp thấp hơn và những cấp cao hơn của sự sắp xếp, các biểu tượng
dấu chấm câu và một số ký tự phụ khác. Những tài liệu được mã hóa dạng ký tự
có thể được tìm kiếm theo thuật toán, bằng cách hướng dẫn máy tính để tìm tất
cả các xuất hiện của các chuỗi tín hiệu đó đại diện cho một thuật ngữ hoặc tìm
theo các thuật ngữ. Đối với các tài liệu được số hóa, nếu có thể được tải về bộ
nhớ máy tính và có thể thao tác một cách dễ dàng, như là mọi người sử dụng
chương trình soạn thảo văn bản mà ai cũng biết. Cơ sở dữ liệu trực tuyến là
những ví dụ tiêu biểu cho những xuất bản phẩm điện tử này. Những văn bản
được mã hóa dạng ký tự được lưu trữ cứng, như hiện nay bộ từ điển điện tử cầm

tay, dịch và nhiều phiên bản của Kinh Thánh , có thể được tìm kiếm nhưng
không phải được thao tác, bởi vì các văn bản có thể không được sao chép vào
một máy tính. Mã hóa ký tự được áp dụng chỉ với những văn bản, và hiển nhiên
không thể được sử dụng cho những tài liệu dạng đồ họa hay hình ảnh.

Khóa luận

14


Nguyễn Thị Kim Lân

K50 Thông tin – Thư viện

Một số tài liệu điện tử, như là đĩa CD-ROM mà mang theo cả hai loại văn
bản và hình ảnh, có chứa cả hai thông tin được mã hóa dạng ký tự và thông tin
được mã hóa dưới dạng bit-mapped. Tất vả những hình thức của xuất bản phẩm
điện tử, ngoại trừ những thông tin được lưu trữ cứng phục vụ cho những mục
dích đặc biệt của người đọc, có thể được sao chép và lưu trữ điện tử, thích hợp
cho các phần cứng và phần mềm. Tài liệu văn bản được mã hóa dạng bitmapped có thể được số hóa sử dung một thiết bị OCR (Optical Character
Recognition ) thiết bị nhận dạng ký tự để quét và in ra, và một tài liệu được số
hóa có thể được chuyển thành một tài liệu hình ảnh định dạng bit-mapped bằng
cách sử dụng một thiết bị nhận dạng ký tự quét và in ra. Hầu hết những tài liệu
được phân phối trực tuyến và có thể được tải về và được lưu trữ, kể cả những
văn bản được mã hóa dạng ký tự hay hình ảnh hay đồ họa, hầu hết các tài liệu
được phân phối tự động trên một vài phương tiện vật lý có thể được chuyển sang
loại khác, được truyền trực tuyến hoặc in ra.
Một điều quan trọng phân biệt các loại xuất bản phẩm điện tử là những
phương tiện phân phối hoặc cung cấp những loại xuất bản phẩm điện tử đó. Một
số ấn phẩm được ghi trên một phương tiện hữu hình, chẳng hạn như một đĩa CDROM, một băng từ, đĩa từ, hoặc thẻ nhớ, hoặc một dạng lưu trữ cứng-kết hợp

trong một thiết bị đọc, như được sử dụng trong bộ từ điển điện tử cầm tay. Các
ngành khác, như dịch vụ thông tin trực tuyến, và Teletext Videotex được gửi
thông qua một phương tiện truyền thông, trên dây, cáp quang, vệ tinh hay phát
sóng. Mạng xuất bản, bao gồm các tạp chí điện tử và bảng công bố thông tin, bản
tin điện tử..v..v thuộc vào trường hợp này, như các tài liệu điện tử sẽ được phân
phối bằng tín hiệu tương tự (analogue) hoặc tín hiệu số.
Có thể nhận thấy một điều rằng những đặc điểm đặc trưng cho xuất bản
điện phẩm điện tử, từ quan điểm của những thư viện, cơ quan thông tin cho tới
quan điển của hầu hết những người sử dụng đầu tiên là cho dù mức độ và những
Khóa luận

15


Nguyễn Thị Kim Lân

K50 Thông tin – Thư viện

gì nội dung của các ấn phẩm có thể được thao tác và tìm kiếm của người dùng,
và thứ nhì, những loại thiết bị được yêu cầu để nhận được, đọc và lưu trữ các ấn
phẩm đó.
Bảng dưới đây cho chúng ta thấy được sự phân phối thông tin của các loại
hình xuất bản điện tử.
Bitmapped

Tài liệu được mã hóa
dạng ký tự

Hỗn hợp


Text
CD-ROMs
Phần
mềm Đa phương tiên
Phân phối thông tin Videodisc Cơ sở dữ liệu trên CD-ROM
trên những phương tiện
những băng đĩa từ đĩa CD-I
(Compact
vật lý
Photo CD quang
Disc
Interactive)
Những sách điện tử
được lưu trữ cứng
Cơ sở dữ liệu trực
Teletext
tuyến
Phân phối thông tin trên Videotex
Phần
mềm
những kênh giao tiếp
Fax
Thư điện tử và tạp chí
services
điện tử
1.4.2. Phân loại xuất bản điện tử
1.4.2.1. Dựa theo tính chất của xuất bản phẩm
Alain Vuillemin (Đại học Tổng hợp Artois của Pháp) đã phân loại xuất bản
điện tử như sau:
+ Xuất bản điện tử dưới hình thức hình ảnh (image)

+Xuất bản điện tử dưới hình thức siêu văn bản (hypertexte)
+ Xuất bản điện tử dưới hình thức siêu đa phương tiện (hypermedia)
+ Xuất bản điện tử dưới hình thức văn bản (texte)
+ Xuất bản điện tử dưới hình thức sách điện tử (hyperlivre)
1.4.2.2. Dựa theo hình thức xuất bản
Khóa luận

16


Nguyễn Thị Kim Lân

K50 Thông tin – Thư viện

+ Xuất bản trưc tuyến, gián tuyến, xuất bản không dây , và rất gần đây
là mực điện tử. Phần cứng và phần mềm mới liên tục được phát triển
và giới thiệu, cung cấp nhiều hơn nữa các cách thức phân phối và nhận
nội dung.
+ Xuất bản trên Web
+ Xuất bản dưới dạng số
+ Xuất bản trên các phương tiên vật lý khác như xuất bản trên CDROOM, trên băng đĩa quang,… vv…
1.4.3. Một số ví dụ điển hình của xuất bản điện tử
1.4.3.1.
CD- ROM
CD-ROM là một dạng đặc biệt của đĩa quang được sử dụng phổ biến ở thư
viện. Một số chuẩn có thể nói tới đó là CDTV và CD-I mà cung cấp cho các sản
phẩm đa phương tiện và có nhiều mong chờ là đóng một vai trò lớn trong tương
lai.
CD-ROM có thể chứa một lượng lớn thông tin. Có thể nói trên 40 % thị
trường thông tin ngày nay sử dụng hình thức cung cấp toàn văn với tài liệu thư

mục và tài liệu tham khảo chiếm tới 25% trong năm 2007 theo thống kê của cục
thống kê và trong tương lai hình thức cung cấp toàn văn tài liệu sẽ trở thành xu
hướng chính. Đồng thời việc tăng số lượng nhà xuất bản là các học giả những tri
thức sẽ biến CD-ROM trở thành một phương tiện để lưu trữ và phân phối một
lượng thông tin lớn như thư mục và nhiều cơ sở dữ liệu như là sách hướng dẫn,
những tạp chí liên tục dài hạn. CD-ROM là một hình thức tiết kiệm đáng kể cho
các thư viện có thể lưu trữ một lượng thông tin lớn của mình.
Công nghệ để sử dụng đĩa CD-ROM hiện đang có sẵn và nói chung giá cả
phải chăng. Ở cấp độ cơ bản nhất, nó bao gồm một tiêu chuẩn của đĩa CD-ROM
với chi phí ít hơn hàng trăm đô la và việc sử dụng các máy PC. Tuy nhiên, đối
Khóa luận

17


Nguyễn Thị Kim Lân

K50 Thông tin – Thư viện

với nhiều tổ chức một đĩa CD-ROM sẽ được không đủ để đáp ứng các nhu cầu
của một số lượng lớn người dùng. Có một số giải pháp để có giải quyết vấn đề
này, nhưng lại có những gia tăng đáng kể các chi phí sử dụng có hiệu quả đĩa
CD-ROM. Có một số phương tiện ngày càng tăng số lượng người sử dụng, và số
lượng đĩa CD-ROM trong sử dụng ví dụ như
+ Mạng đĩa CD-ROM hiện nay đã trở thành một lựa chọn, nhưng
mạng đĩa CD-ROM vẫn còn rất nhiều vấn đề. Việc lưu thông dữ liệu có thể
khác nhau, một số sản phẩm được hầu như không thể tìm mạng và băng thông
của những hệ thống khác, đặc biệt là các sản phẩm đa phương tiện, có thể vượt
quá năng lực của các mạng. Chi phí của mạng đĩa CD-ROM có thể rất cao.
+ Nhiều ổ đĩa đơn và các máy tính cá nhân để tăng số lượng các ở

đĩa CD-ROM mà có thể được sử dụng.
Mặc dù đĩa CD-ROM không phải là đắt tiền của so với giấy in và nói
chung là đón nhận sự hoan nghênh của người sử dụng, chúng ta trình bày một số
vấn đề về quản lý cho các thư viện. , bao gồm:
+ Biên muc: có phải mỗi cán bộ thư viện đều biên mục trên đĩa hay
là trên những phương tiện khác, sau đó làm thế nào người sử dụng biết cái gì
được lưu trên đĩa mà không sử dụng chúng.
+ Cập nhật. Mặc dù các khả năng lưu trữ lớn của đĩa, tìm kiếm được
nhiều cơ sở dữ liệu được lưu trữ trong đĩa CD-ROM có thể là một quá trình phức
tạp và chậm. Một cơ sở dữ liệu chỉ có thể được cập nhật theo tuần hay tháng,
hoặc thường xuyên thay thế các bộ đĩa mới. Tìm kiếm một sản phẩm liên quan
đến một số đĩa có thể là một quá trình rất khó khăn, hay liên quan đến việc thay
đổi các đĩa mới với dung lượng chứa thông tin nhiều hơn và việc sử dụng một
máy tính cá nhân với tốc độ lớn để đọc được các đĩa đó đòi hỏi thư viện phải
quan tâm lớn.

Khóa luận

18


Nguyễn Thị Kim Lân

K50 Thông tin – Thư viện

+ Dung lượng đĩa : Việc mỗi đĩa CD-ROM có dung lượng tới
600MB mỗi đĩa là một vấn đề mà các thư viện cần phải quan tâm khi lưu trữ tài
liệu của mình vì nó có thể giúp giảm đáng kể diện tích thay vì dùng giấy in cho
các tài liệu.
Hiện nay các thư viện được cài đặt hệ thống đĩa CD-ROM một cách nhanh

chóng theo sự cho phép của ngân sách. Hạn chế về tốc độ của việc triển khai
thực hiện được như mô tả ở trên và chủ yếu liên quan đến các chi phí của phần
cứng, sự phức tạp của nó (mạng) và các quyết định như là làm thế nào để nhiều
phiên bản của cùng một cơ sở dữ liệu cùng có ở một thư viện. Việc in, sử dụng
đĩa CD-ROM và tất cả các phiên bản trực tuyến đều sử dụng một nguồn ngân
sách của thư viện nên đòi hỏi thư viện cần có sự chú ý đáng kể tới các hoạt động
ngân sách của mình.
1.4.3.2.
Đĩa quang, đĩa từ
Trong phạm vi mà các thư viện tổ chức được việc ghi băng đĩa quang đĩa
từ trước (khác với ghi âm thanh) hiện nay rất hạn chế cho việc này. Trong quá
khứ, một số thư viện (các thư viện là các trường đại học và các thư viện chuyên
ngành) muốn làm cho các cơ sở dữ liệu mang tính chất thương mại có thể truy
cập trực tiếp cho người sử dụng có gắn kết các băng đĩa quang, đĩa từ trên hệ
thống máy tính của riêng mình. Trong hầu hết trường hợp, phương pháp phân
phối các dữ liệu này ngay bây giờ có lẽ đang được thay thế bằng đĩa CD-ROM
như đã nói ở trên,
1.4.3.3.

Sách điện tử

Hiện nay sách điện tử (E-book) đã trở thành một vật mang tin không thể thiếu
trong xã hội hiện đại. Nhưng sách điện tử là gì? Thế nào là một cuốn sách điện
tử? Lịch sử ra đời và những vấn đề đang đặt ra trước sự phát triển của sách điện
tử như thế nào? Đó là những vấn đề cần phải tìm hiểu nghiêm túc để có thể sử
Khóa luận

19



Nguyễn Thị Kim Lân

K50 Thông tin – Thư viện

dụng và khai thác thông tin, tri thức trên một một kênh giao lưu thông tin, văn
hoá mới, và để có biện pháp thích hợp bảo tồn nền văn hoá mới, nền văn hoá số.
Ý tưởng về xuất bản điện tử lần đầu tiên được đưa ra trong một cuộc hội thảo
khoa học tại Viện Công nghệ Massachusetts (Mỹ) năm 1945, gần tròn 60 năm
trước. Vannervar Bush là cha đẻ của quan niệm xuất bản điện tử. Nhưng phải 46
năm sau cuốn sách điện tử đầu tiên mới chào đời tại Mỹ năm 1991. Đến năm
1998 sách điện tử mới được xuất bản ở dạng đĩa và tải xuống máy tính cá nhân
từ Internet.
Thuật ngữ sách điện tử được sử dụng nhiều hơn tới việc mô tả những sản
phẩm thông tin có thể đọc được trên máy tính và các máy tính đa năng,nó được
thiết kế để không chỉ được sử dụng trên các máy PC, hay trên những bộ truyền
hình hay trên những thiết bị kỹ thuật số khác nữa. Những xu hướng này cũng
vượt ra ngoài văn bản đơn giản dựa trên sản phẩm được xuất bản dưới phương
thức truyền thống để được sử dụng một cách rộng rãi trên các phương tiện truyền
thông đa phương tiện , giải trí và học tập. Nó có thể bao gồm những máy tính cá
nhân; các sản phẩm được thiết kế để hoạt động mà không có bàn phím và sử
dụng một bút chấm điện thoại viết trực tiếp trên màn hình; những hệ thống giải
trí nhỏ dựa trên công nghệ lưu trữ trên đĩa quang ; các sản phẩm sách tham khảo
có thể cầm tay cũng được xuất bản điện tử , chẳng hạn như phần mềm tự soát lỗi
chín tả và các bộ từ điển và thông minh xách tay đĩa CD-ROM cho người đọc.
Một cuốn sách điện tử là sự trình bày các tệp tin điện tử trên màn hình số.
Mặc dù thuật ngữ sách điện tử đã ngụ ý rõ thông tin ở dạng sách, nhưng nó cũng
biểu thị nội dung sách được thể hiện trên một thiết bị nào đó. Đây là hai đặc
trưng cơ bản để nhận biết một cuốn sách điện tử khác với một cuốn sách truyền
thống. Văn bản tĩnh và hình ảnh tĩnh là điển hình của một cuốn sách nói chung,
bao gồm cả sách truyền thống và sách điện tử. Nhưng sách điện tử còn thể hiện

Khóa luận

20


Nguyễn Thị Kim Lân

K50 Thông tin – Thư viện

cả hình ảnh động và âm thanh, sách truyền thống không thể có được. Những tệp
tin của sách điện tử có thể được cung cấp như những đơn vị ghi âm (đĩa), hoặc
được tải xuống thiết bị đọc từ các kho chứa tin (kể cả các Website trên mạng).
Chu trình ra đời của một cuốn sách điện tử cũng không giống hoàn toàn chu
trình ra đời của một cuốn sách truyền thống. Chu trình này tuy cũng được bắt
đầu từ khi một tác giả sáng tạo một tác phẩm mới (tác phẩm gốc) và giao nó cho
một nhà xuất bản. Nhà xuất bản sau khi chấp nhận nội dung, tiến hành chuyển
nội dung tác phẩm gốc thành một hoặc nhiều khuôn thức sách điện tử và sử dụng
mã quản lý quyền sử dụng để khoá tệp tin bằng khoá điện tử. Đồng thời nhà xuất
bản cũng phải xây dựng chìa khoá điện tử giải mã. Ban đầu bộ mã này thường là
40 bit. Hiện nay ở Mỹ, Chính Phủ đã cho phép sử dụng bộ mã 128 bit nhằm năng
cao độ an toàn của thông tin, chống đọc trộm. Một nhà phân phối sách điện tử có
thể là một đơn vị độc lập với nhà xuất bản, quản lý các tệp tin đã được bảo vệ, đã
được khoá bằng khoá điện tử. Nhà xuất bản hoặc nhà phân phối sách điện tử
chuyển tác phẩm mới xuất bản tới các nhà bán lẻ sách điện tử. Người mua nối
máy tính của họ với một Website của nhà bán lẻ làm thủ tục mua. Lúc đó người
mua sẽ nhận được chìa khoá điện tử (bộ mã mở khoá) và tải tác phẩm về máy
tính hoặc thiết bị đọc sách điện tử của họ để sở hữu và đọc. Một số giải pháp
quyền đọc thông tin số hiện nay: Adobe PDF, Merchant, WebBuy, Xerox,
ContentGuard, SoftLock, netLibrary...
Vậy ta có thể đưa ra một tổng quát về e-book :

Một cuốn ebook là một cuốn sách điện tử, một cuốn sách ảo, hay cuốn
sách kỹ thuật số. Hay đơn giản đó chỉ là một cuốn sách kỹ thuật số có thể đọc
được trên máy vi tính hoặc thiết bị chuyên đọc ebook.

Khóa luận

21


Nguyễn Thị Kim Lân

K50 Thông tin – Thư viện

E-Book có thể bao gồm các văn bản, hình ảnh minh hoạ, hay có thể chèn
âm thanh và video. Hơn thế nữa ebook còn chứa cả đường "liên kết nóng" (hot
link) giúp cho khách hàng có thể ngay lập tức tới được các website liên quan tới
thông tin mà họ đang xem.
E-Book có thể là các file kỹ thuật số được copy sang đĩa cứng, đĩa mềm
hoặc CD-ROMs...
Một số ví dụ về eBook:


E Book có thể là một cuốn sách dài hàng trăm nghìn trang như HỒ CHÍ
MINH toàn tập bao gồm tranh ảnh minh hoạ sống động miêu tả cuộc đời
và sự nghiệp của người lúc còn sống hay những clip bài hát kèm theo và
cũng có thể là những truyện ngắn, hệ thống bài trích báo tạp chí….



E Book đơn giản cũng có thể là một cuốn từ điển nhỏ, sổ tay nhỏ.




E Book cũng có thể là một CD-ROMs đa năng có đầy đủ âm thanh, hình
ảnh và video clips.

Một số lợi ích của ebook
• Người đọc có thể sử dụng chúng ở bất kỳ nơi nào chỉ cần có một máy tính
xách tay với những công cụ cần thiết đã được cài đặt phục vụ cho việc tra
cứu thông tin mà không cần tới thư viện.
• Họ có thể tìm kiếm những thông tin theo ý thích không bị soi xét như khi
đứng ở các thư viện, hay nhà sách.
• Nếu được sự cho phép của tác giả bạn đọc có thể tải ebook xuống và sao
chép bao nhiêu bản tùy ý
• Truy cập và sử dụng nhanh với những nguồn ebook mở.
Khóa luận

22


Nguyễn Thị Kim Lân

K50 Thông tin – Thư viện

• Bất kỳ ai cũng có thể xuất bản ebook
Kể từ khi xuất hiện lưu giữ tài liệu số trong các băng và đĩa của những năm
60 thế kỷ trước, chúng ta đã chứng kiến một cuộc cách mạng hết sức sôi động.
Trong vòng 40 năm qua, đã ra đời hơn 200 khuôn thức lưu giữ dữ liệu khác
nhau: từ các đĩa cứng có đường kính từ nhỏ tới lớn, tới những loại đĩa mềm
thuộc đủ cỡ kích khác nhau, cho tới các đĩa nén và đĩa video. Trong thời gian

khoảng 40 năm này, các phương tiện truyền thông đã suy giảm kích thước nhưng
lại gia tăng dung lượng tàng trữ dữ liệu từ 1 kilô byte dữ liệu cho tới 40 giga byte
dữ liệu. Trong một tương lai không xa sẽ đạt tới Terabyte. Không một khuôn
thức nào sống lâu hơn một thập kỷ, mặc dù các khuôn thức này là cần thiết để
ghi và tái ghi thông tin trên các phương tiện truyền thông mới để có thể truy cập
theo các hệ thống máy tính mới nhất.
Nhìn chung, hiện nay sách điện tử mới bao gồm các loại sách khoa học kỹ
thuật, sách dạy nghề, nghiên cứu khoa học kỹ thuật và một số tác phẩm văn học
gốc (chỉ được xuất bản ở dạng sách điện tử). Do nhiều tác phẩm chỉ được xuất
bản ở dạng sách điện tử, không có ở dạng in truyền thống nên một vấn đề đang
được đặt ra cho các cơ quan tàng trữ như thư viện, cơ quan bảo quản tài sản số
phải bảo quản, lưu giữ như thế nào thông tin, tri thức số cho các thế hệ tương
lai...
Sự ra đời và phát triển nhanh chóng của sách điện tử đang đặt ra nhiều vấn đề
mới cần phải giải quyết như: mối quan hệ giữa nhà xuất bản và tác giả, cấu trúc
ngành xuất bản truyền thống...
Đây là tài liệu mang tính thực tiễn cao, góp phần cho lĩnh vực công nghệ xuất
bản sách điện tử hình thành và thể hiện xu hướng phát triển, đặc biệt trong giai
đoạn hiện nay, các xuất bản phẩm điện tử ngày càng thể hiện sự ưu việt, tiện ích
Khóa luận

23


Nguyễn Thị Kim Lân

K50 Thông tin – Thư viện

đối với cộng đồng cư dân mạng với thói quen, sở thích sử dụng các E-book trong
việc tra tìm tài liệu và đọc tài liệu từ các nguồn tài nguyên phong phú và đa dạng

trên các cơ sở dữ liệu và mạng Internet.
1.4.3.4.

Cơ sở dữ liệu trực tuyến

Dịch vụ trực tuyến đã được cung cấp rộng rãi cho các thư viện trong nhiều
năm qua, và hơn thập kỷ vừa qua đã trở nên ngày càng được cung cấp trực tiếp
cho các tìm kiếm của người dùng cuối. Các thư mục trước đó nhấn mạnh vào
việc chuyển dịch theo hướng cơ sở dữ liệu đã có đầy đủ chi phí và các cơ sở dữ
liệu toàn văn. Người ta đã thiết lập một chi phí mà thường được giới hạn cho
các chi phí lề (ví dụ, chi phí viễn thông và các chi phí truy cập trực tuyến, và
một số cơ quan hành chính, nhưng chưa bao gồm chi phí nhân viên thư viện mà
thời gian họ tham gia vào việc chuẩn bị và tiến hành các tìm kiếm, thiết bị và các
tổng chi phí), trừ khi một nghiên cứu về giá trị của sản phẩm dịch vụ được cung
cấp. Gần đây, các quốc gia cung cấp thông qua mạng toàn cầu vào cơ sở dữ liệu
trực tuyến được lựa chọn cho một tỷ lệ thuê bao có thể trả được của các cơ sở
giáo dục, học tập các thư viện đã được kích hoạt để cung cấp cho người dùng
miễn phí và không bị giới hạn truy cập.
Song song với sự gia tăng trong sự tìm kiếm của người dùng cuối cùng
(và giới thiệu đĩa CD-ROM của hệ thống) các thư viện hàn lâm đã thấy một sự
giảm xuống đáng kể g nhu cầu về tìm kiếm trung gian trực tuyến. (Các xu hướng
này cũng hiển nhiên trong các thư viện công cộng, nơi tìm kiếm trung gian vẫn
thống trị nhưng đĩa CD-ROM được ưa thích trực tuyến vì nó được dễ dàng hơn
để kiểm soát chi phí.
Trong các thư viện đặc biệt là hệ thư viện các trường đại học ngày nay thì
những cơ sở dữ liệu trực tuyến đang giữ một vai trò then chốt trong việc cung

Khóa luận

24



Nguyễn Thị Kim Lân

K50 Thông tin – Thư viện

cấp thông tin cho người dùng tin, trong việc chia sẻ dữ liệu, cập nhật và làm mới
dữ liệu.
Cơ sở dữ liệu trực tuyến cho phép cho sự tiện lợi của việc có thể có để
truy cập thông tin có giá trị từ bất cứ nơi nào trên thế giới. Điều này cho phép để
mọi người làm việc cùng nhau từ các địa điểm khác nhau. Quản lý cơ sở dữ liệu
trực tuyến đã được cho phép mọi người làm việc từ các văn phòng, từ nhà, và
thậm chí cả từ một phòng khách sạn. Người lao động có thể truy cập và chuẩn bị
các báo cáo và các dữ liệu phân tích tại một bấm vào một nút khác mà có thể đã
được cài đặt sẵn ngày giờ hoặc ngày sản xuất
Trong hầu hết trường hợp, một máy chủ và lưu trữ trực tuyến là bắt buộc
đối với hệ thống quản lý cơ sở dữ liệu trực tuyến.
Bảo mật của hệ thống quản lý cơ sở dữ liệu trực tuyến là một mối quan
tâm thường xuyên. Thông tin có giá trị phải được bảo đảm để thông tin không
thể được cung cấp nếu không có sự cho phép từ phía nhà sản xuất hoặc tác giả.
Bảo mật thông tin thường được kiểm soát bởi giới hạn truy cập vào các hệ thống
quản lý cơ sở dữ liệu riêng của mỗi cơ quan thông tin và thư viện. Việc này
thường được thực hiện bằng cách yêu cầu một người sử dụng để cung cấp một
tên đăng nhập và mật khẩu để truy cập vào các hệ thống quản lý cơ sở dữ liệu
trực tuyến. Các biện pháp an ninh có thể bao gồm việc kiểm tra các bản ghi để có
thể giữ một bản ghi gốc và một bản ghi các thay đổi của những gì đã được thực
hiện và những người đã thực hiện các thay đổi. Nhiều cơ sở dữ liệu thương mại
trực tuyến đã chọn để bao gồm cả các mật mã như là một tính năng bảo mật
được thêm vào.
Ngày nay với các cơ sở dữ liệu trực tuyến trên các trang Web thì với các

vấn đề với nhiệm vụ xử lý cơ sở dữ liệu trên Web được xây dựng tương tác. Một
Khóa luận

25


×