Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

bài chính thức xây dựng đảng(1)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (451 KB, 23 trang )

XÂY DỰNG ĐẢNG VỀ TƯ TƯỞNG LÍ LUẬN THEO QUAN ĐIỂM CHỦ
NGHĨA MÁC – LÊNIN VÀ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
I. Xây dựng Đảng về tư tưởng lí luận theo quan điểm chủ nghĩa MácLênin:
1. Vị trí của công tác xây dựng Đảng về tư tưởng lí luận:
- Là lãnh tụ kiệt xuất của giai cấp vô sản, Lênin hết sức coi trọng và đánh giá

cao vị trí, vai trò của công tác tư tưởng, lý luận trong sự nghiệp cách mạng xã hội
chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ông coi lý luận cách mạng là điều kiện
thiết yếu để hình thành và thúc đẩy phong trào cách mạng cũng như khẳng định vai
trò tiên phong của đảng cách mạng: “Không có lý luận thì xu hướng cách mạng
mất quyền tồn tại và sớm hay muộn, nhất định sẽ rơi vào tình trạng phá sản về
chính trị”( V.I.Lênin. Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, tr8).
- Lênin đã chỉ ra: “ Không thể có một lý luận cách mạng nào ngoài chủ nghĩa Mác
cả, chủ nghĩa Mác là lý luận cách mạng duy nhất của giai cấp vô sản” ( V.I.Lênin.
Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, tr6). Theo Lênin, trước hết là vì đối với
C.Mác, tiêu chuẩn duy nhất của lý luận là phải trung thành với hiện thực, phải diễn
đạt và giải thích về mặt lý luận nguyên nhân của cuộc đấu tranh đang diễn ra giữa
các giai cấp xã hội và giữa những lợi ích kinh tế. Lênin khẳng định rằng: “Những
người cách mạng chân chính hoàn toàn đứng trên cơ sở lý luận cách mạng của chủ
nghĩa Mác” (V.I.Lênin. Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, tr41). Bởi đó là
lý luận đầu tiên biến CNXH từ không tưởng trở thành khoa học, tạo cơ sở vững
chắc cho CNXH khoa học, vạch rõ con đường, cách thức để phát triển và làm
phong phú thêm cho khoa học đó.
- V.I. LêNin cũng chỉ rằng , xây dựng một chính Đảng cách mạng của giai cấp

công nhân là một trong những điều kiện quan trọng nhất để hoàn thành cả công tác
lý luận lẫn công tác tư tưởng. Bởi vì, không có lý luận cách mạng thì không thể có
đảng cách mạng của giai cấp công nhân; ngược lại, nếu không có đảng cách mạng
của giai cấp công nhân thì sẽ không có người tổ chức , lãnh đạo biến lý luận thành
hiện thực.
- Chủ nghĩa Mác – Lê Nin đã khẳng định vai trò quan trọng của tư tưởng lý


luận đối với quá trình vận động cách mạng . Để lật đổ được chế độ xã hội cũ, xây
dựng chế độ xã hội mới, cần có sự lãnh đạo của một Đảng được vũ trang bằng chủ


nghĩa Mác – Lê Nin, học thuyết mang bản chất của khoa học và cách mạng, học
thuyết vừa phản ánh đúng đắn những quy luật khách quan của sự phát triển xã hội,
vừa chỉ ra mục tiêu, con đường, lực lượng, chiến lược, sách lược, phương pháp đấu
tranh cách mạng.

2. Hệ tư tưởng lí luận của Đảng Cộng sản:
- Học thuyết Mác-Lênin về chính Đảng cách mạng của giai cấp công nhân là
một bộ phận cấu thành của chủ nghĩa xã hội khoa học - khoa học về cuộc đấu tranh
của giai cấp công nhân, về cách mạng vô sản, về những quy luật chính trị-xã hội
của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Học thuyết đó chỉ ra những quy luật về
sự ra đời của Đảng, những nguyên tắc về xây dựng tư tưởng, tổ chức và hoạt động
lãnh đạo chính trị của Đảng nhằm cải tạo xã hội cũ, xây dựng thành công chủ nghĩa
xã hội, tiến lên chủ nghĩa cộng sản. Học thuyết gắn liền với tên tuổi của Mác,
Ăngghen, Lênin và đã trải qua một quá trình phát triển lâu dài. Quá trình đó gắn
liền với những điều kiện lịch sử cụ thể của cuộc đấu tranh cách mạng của phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế
- Mác và Ăngghen là những người đầu tiên đã nêu lên những tư tưởng cơ bản
về chính Đảng Cộng sản. Những tư tưởng đó bắt nguồn từ luận điểm khoa học về
vai trò lịch sử thế giới của giai cấp công nhân với tư cách là người đào huyệt chôn
chủ nghĩa tư bản, sáng tạo ra xã hội mới không còn người bóc lột người: xã hội
cộng sản, mà giai đoạn thấp của nó là chủ nghĩa xã hội. Những tư tưởng đó còn
được rút ra từ sự phân tích một cách biện chứng những điều kiện lịch sử cụ thể của
quá trình phát triển của xã hội loài người nói chung và giai cấp công nhân nói
riêng. Mác và Ăngghen thảo ra “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” và sáng lập nên
tổ chức cộng sản đầu tiên trên thế giới mang tên “Đồng minh những người cộng
sản”. Hai ông cũng tổ chức và lãnh đạo Quốc tế I, quốc tế đầu tiên của giai cấp

công nhân. Sau khi Mác mất, Ăngghen đã tiếp tục sự nghiệp của Mác sáng lập và
lãnh đạo Quốc tế II. Hai ông đã chỉ rõ rằng, giai cấp công nhân là giai cấp cách
mạng nhất, tiên tiến nhất trong xã hội. Nhưng giai cấp công nhân chỉ có thể thực
nhiện được sứ mệnh lịch sử của mình khi nó tự tổ chức ra được chính Đảng độc lập
của nó. Ăngghen viết: “Để cho giai cấp công nhân có đủ sức mạnh và có thể chiến
thắng trong giờ phút quyết định thì điều cần thiết là Mác và tôi đã bảo vệ quan
điểm này từ 1847: Phải tổ chức được một Đảng riêng biệt, tách khỏi tất cả các
Đảng khác và đối lập với các Đảng đó, nhận thức rõ mình là Đảng của giai cấp”(


V.I.Lênin. Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, tr35). Khi chứng minh tính tất
yếu của việc cần phải thành lập chính Đảng của giai cấp công nhân, Mác và
Ăngghen đã chỉ ra rằng: đó là điều kiện tiên quyết để bảo đảm cho cách mạng xã
hội thu được thắng lợi và thực hiện được mục đích cuối cùng của nó là tiêu diệt
giai cấp.
- Lê-nin đã xây dựng nên một học thuyết về đảng cộng sản kiểu mới trên cơ
sở kế thừa và phát triển những tư tưởng của C.Mác và Ph. Ăngghen :
+ Chủ nghĩa Mác là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho mọi hoạt động của
Đảng Cộng sản. Người viết: “Chúng ta hoàn toàn đứng trên cơ sở lý luận của Mác;
lý luận đó là lý luận lần đầu tiên biến chủ nghĩa xã hội từ không tưởng trở thành
khoa học; Lý luận đó đã chỉ rõ nhiệm vụ thật sự của đảng xã hội chủ nghĩa cách
mạng”.( V.I.Lênin. Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, tr5).
+ Khi có chính quyền, Đảng là hạt nhân lãnh đạo hệ thống chính trị của chủ
nghĩa xã hội và là một bộ phận của hệ thống đó. Theo V. I. Lê-nin, sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản là điều kiện tiên quyết bảo đảm cho công cuộc đấu tranh giữ vững
chính quyền và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Ông viết : “Chủ nghĩa Mác
giáo dục Đảng công nhân, là giáo dục đội tiên phong của giai cấp vô sản, đội tiên
phong này đủ sức nắm chính quyền và dẫn dắt toàn dân tiến lên chủ nghĩa xã hội,
đủ sức lãnh đạo và tổchức một chế độ mới, đủ sức làm thầy, làm người dẫn đường,
làm lãnh tụ của tất cả những người lao động và những người bị bóc lột để giúp họ

tổ chức đời sống xã hội của họ, mà không cần đến giai cấp tư sản và chống lại giai
cấp tư sản” (V.I.Lênin. Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, tr6).
+ Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong xây dựng tổ chức, sinh hoạt và
hoạt động của Đảng. Tập trung dân chủ là thuộc tính cơ bản của đảng, thể hiện bản
chất và sự sống còn của Đảng; là tiêu chí để phân biệt chính đảng kiểu mới của giai
cấp công nhân - Đảng cách mạng chân chính với các đảng phái khác.
+ Đảng là một khối thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đó là nguồn
gốc sức mạnh chủ yếu, vô địch và vô tận của đảng, là điều kiện để đoàn kết giai
cấp.
+ Đảng phải tích cực kết nạp những đại biểu ưu tú của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động vào Đảng, kịp thời đưa những người không đủ tiêu chuẩn và


những phần tử cơ hội ra khỏi Đảng. Đó là một biện pháp đặc biệt quan trọng nhằm
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
+ Chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân là bản chất của Đảng Cộng sản.
Theo Ông, chủ nghĩa quốc tế không phải là lời nói suông, không phải là lời tỏ tình
đoàn kết, không phải là nghị quyết mà là hành động.Chủ nghĩa quốc tế của giai cấp
công nhân là bản chất của Đảng cộng sản. Bản chất đó bắt nguồn từ vai trò, sứ
mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân. Tính chất quốc tế của Đảng thể
hiện trước hết ở chỗ Đảng được tổ chức và hoạt động theo những nguyên lý của
học thuyết Mác-Lênin về Đảng, ở đường lối chiến lược, sách lược đối nội và đối
ngoại của Đảng, ở chỗ Đảng luôn luôn quan tâm giáo dục đội ngũ Đảng viên và
nhân dân lao động chủ nghĩa quốc tế vô sản. Trong thời đại ngày nay, chủ nghĩa
yêu nước chân chính phải gắn liền với chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng. Đảng
kiên quyết chống mọi khuynh hướng vô vanh nước lớn hoặc chủ nghĩa dân tộc hẹp
hòi.
3. Nội dung của công tác xây dựng Đảng về tư tưởng lý luận theo quan điểm
chủ nghĩa Mác- Lênin:
a. Nâng cao trình độ tư tưởng lý luận cho cán bộ, đảng viên

- Vấn đề đảng viên có vai trò quan trọng trong công tác xây dựng Đảng cầm quyền,
V.I.Lenin khẳng định: “ Đảng là một tổ chức đặc biệt, Đảng cần phải có những con
người giác ngộ, sẵn sàng hy sinh tính mạng” (V.I.Lenin: toàn tập, Sdd, t.42,
tr.315).
-Trong xây dựng đội ngũ đảng viên,V.I.Lenin đấu tranh mạnh mẽ với những biểu
hiện lệch lạc, tiêu cực của đội ngũ đảng viên, ông yêu cầu đảng viên phải là người
trung thực, không kiêu ngạo, hăng hái hành động vì lợi ích chung của Đảng, của
giai cấp không ham danh lợi “ Thà rằng 10 người thật sự làm việc không tự coi
mình là đảng viên (những người làm việc thật sự không chạy theo danh hiệu), còn
hơn để cho một kẻ ba hoa mà lại có quyền và có điều kiện trở thành đảng viên.
Theo tôi đó là nguyên tắc không thể chối cãi được”( V.I.Lenin: toàn tập, Sdd, t.42,
tr.300).
-Trong công tác phát triển đảng viên, V.I.Lenin rất quan tâm đến lực lượng đoàn
viên, thanh niên nhằm trẻ hóa đội ngũ của Đảng. Người yêu cầu những đảng viên
đi trước phải gương mẫu, chú ý giáo dục bồi dưỡng các thế hệ thanh niên giúp họ
được đứng trong hàng ngũ của Đảng: “… là người cộng sản, tức là phải tổ chức và
đoàn kết toàn thể thế hệ thanh niên, phải làm gương mẫu về giáo dục và kỷ luật
trong cuộc đấu tranh này. Lúc đó cac đồng chí mới có thể bắt đầu hoàn thành công


cuộc xây dựng lâu dài của xã hội cộng sản chủ nghĩa” ( V.I.Lenin: Toàn tập
,sdd.t.41,tr.373)
- Điều kiện để kết nạp những thanh niên vào Đảng. Người yêu cầu phải cho họ học
tập nghiêm túc, đặc biệt là phải trải qua thời kỳ thử thách với những công việc
nghiêm túc trên các lĩnh vực: “ Cần phải quy định những điều kiện chặt chẽ hơn và
kiểm tra để xác định là các đoàn viên thanh niên cộng sản được kết nạp vào đảng,
thứ nhất, đã học tập thật sự nghiêm túc và đã học tập được một cái gì đấy, và thứ
hai, đã trải qua thời gian dự bị dài làm những công tác thực tế nghiêm túc ( kinh tế,
văn hóa…)” ( V.I.Lenin: Toàn tập,sdd,t.4,tr.351-352)
-V.I.Lenin cũng nhận thấy trong hàng ngũ của Đảng,có những đảng viên rơi vào

tình trạng say sưa với chiến thắng trở nên kiêu ngạo. Đây sẽ là nguyên nhân làm
cho nhiều tổ chức đảng thất bại trong lãnh đạo phong trào. Người nhắc nhở, đảng
viên là những người ưu tú nhưng so với quần chúng, đảng viên chỉ là một giọt
nước trong đại dương bao la, do đó Đảng cần dựa vào nhân dân, gắn bó với nhân
dân để làm cách mạng: “ chỉ trông vào bàn tay của những người cộng sản để xây
dựng xã hội cộng sản, đó là một tư tưởng hết sức ngây thơ…”
- Đảng viên phải có ý thức tổ chức cao, tham gia và hoạt động trong tổ chức Đảng.
Chỉ tham gia vào tổ chức, hoạt động trong tổ chức và có ý thức tổ chức thì tổ chức
mới có điều kiện lãnh đạo, kiểm tra, kiểm soát đối với thành viên của mình có hiệu
quả. Việc xác định một người nào đó vào đảng vì lòng tin tưởng, vì muốn phấn đấu
theo mục đích, lý tưởng của Đảng với người vào đảng vì lợi ích riêng là rất khó
khăn. V.I.Lenin đề xuất biện pháp quản lý đảng viên là thông qua thẻ đảng, đảng
chỉ nên cấp thẻ cho những đảng viên đã qua thử thách và được rèn luyện : “ Khi
đảng nắm chính quyền thì trước hết người ta buộc phải dành ưu tiên cho đảng viên.
Giả thử có hai ngời cùng đến, một người đưa thẻ đảng ra, nói mình là đảng viên,
còn người kia không có thẻ, và cả hai đều là lạ cả, thì dĩ nhiên ta chọn đảng viên,
chọn người có thẻ. Làm thế nào phân biệt được người vào đảng vì lòng tin tưởng
với người vào đảng vì lợi? Cần ghi vào thẻ đảng ngày vào đảng của người đó, và
không nên cấp thẻ khi người đó chưa qua thử thách, chưa qua rèn luyện”
=> V.I.Lenin đã đề cập tới một loạt các vấn đề thuộc về nhân cách của người đảng
viên của Đảng, từ lập trường tư tưởng, phẩm chất chính trị, năng lực hoạt động,
bản lĩnh cách mạng, trung thành với cách mạng, với Đảng và giai cấp, có mối quan
hệ mật thiết với quần chúng, có tinh thần chịu đựng gian khổ, hy sinh, phấn đấu
cho sự nghiệp cách mạng…Những yêu cầu mà V.I.Lenin đề ra nhằm xây dựng và
rèn luyện cho đảng một đội ngũ đảng viên thật sự tiên phong, tạo cho đảng một lực
lượng hùng hậu đủ sức đảm nhận nhiệm vụ cách mạng và sứ mệnh của mình.
- Cán bộ có vai trò quyết định đến kết quả của cách mạng nhưng không phải đơn
giản có được một đội ngũ cán bộ đông đảo về số lượng, đạt các tiêu chuẩn về chất
lượng. Điều đó khẳng định tầm quan trọng của công tác cán bộ. Công tác cán bộ là
một mảng hoạt động quan trọng của Đảng Cộng sản, nhất là khi Đảng đã giành



được chính quyền, công tác cán bộ không chỉ lo cán bộ cho Đảng mà phải lo cho
cả hệ thống chính trị
-Vai trò lãnh đạo cách mạng của chính đảng cách mạng luôn chịu sự chi phối và
quyết định bởi đội ngũ cán bộ của Đảng. Không có một đội ngũ cán bộ vững
mạnh- những người cách mạng chuyên nghiệp cho phong trào vô sản mà theo
V.I.Lenin là “ những nhà chính trị của giai cấp thực sự của mình” thì chính đảng
cách mạng của giai cấp vô sản không thể duy trì và giữ được sự lãnh đạo của mình.
-Để đào tạo đội ngũ chuyên gia mới có thể đảm đương được nhiệm vụ cách mạng
thay thế những chuyên gia tư sản mà chính quyền Xôviết đang sử dụng, ngoài tăng
cường đào tạo trong nước , V.I.Lenin thấy rằng cần phải mạnh dạn cử cán bộ đi
đào tạo ở các nước tư bản phát triển. Cử cán bộ trẻ có phẩm chất chính trị tốt đi
đào tạo ở nước ngoài, đặc biệt các nước tư bản phát triển nhất là việc làm mạnh
dạn, dám nghĩ, dám làm của người lảnh đạo cao nhất lúc bấy giờ, chỉ có thực hiện
tốt công tác đào tạo cán bộ, chính quyền Xôviet mới nhanh chóng có đủ đội ngũ
chuyên gia mới, không chỉ có phẩm chất chính trị tốt mà còn có hiểu biết sâu về
quản lý Nhà nước, tổ chức và quản lý nền kinh tế, giúp cho nước Nga thoát khỏi
tình trạng nghèo nàn,lạc hậu.
- Cán bộ là người có phẩm chất, năng lực để hoàn thành nhiệm vụ, phẩm chất đạo
đức là yêu cầu đầu tiên đối với họ. Cán bộ phải có lý tưởng cách mạng, lý tưởng
xóa bỏ chế độ người bóc lột người, xây dựng chủ nghĩa cộng sản. Nhiệm vụ của
người cán bộ là giúp đỡ quần chúng lao động đánh đổ được chế độ cũ và xây dựng
chế độ mới không còn giai cấp bóc lột. Người cán bộ phải suốt đời đi theo lý tưởng
và hành động theo lý tưởng đã chọn, phải giữ vững lập trường giai cấp công nhân.
- Cán bộ là người có trách nhiệm, luôn phấn đấu vì sự nghiệp của Đảng, cống hiến
hết sức lực của mình cho phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân, có tinh thần
trách nhiệm cao, biết chịu trách nhiệm về sự lãnh đạo của mình. Theo V.I.Lenin: “
Cần phải có nhiều nhiệt tình hơn nữa trong việc phổ biến trong quần chúng công
nhân cái ý thức ngày càng sáng rõ đã đạt được bằng cách đó và phải củng cố ngày

càng mạnh mẽ tổ chức của Đảng” (V.I.Lenin: Toàn tập,sdd,t.6,tr.34)
- Cán bộ đóng vai trò to lớn trong quá trình cách mạng từ giác ngộ lý tưởng cho
quần chúng đến tổ chức họ tạo nên sự phối hợp nhịp nhàng giữa lực lượng,tổ chức,
sự thống nhất ý chí và hành động. Những phẫm chất, lòng trung thành, trình độ lý
luận, tính đảng, lập trường giai cấp phải được thể hiện ra ngoài bằng hành động.
Cán bộ là người thực sự có tài tổ chức, bộ óc sáng suốt. Họ được rèn luyện thử
thách trong thực tiễn. Cán bộ phải là người có đầy đủ phẫm chất, năng lực, có đầy
đủ đức và tài, một lòng một dạ phục vụ nhân dân, có năng lực phục vụ nhân dân.
V.I.Lenin cho rằng, trong xây dựng đội ngũ cán bộ phải kiên quyết đấu tranh “
không khoan nhượng” với tệ quan liêu, tham nhũng, kiên quyết chống hiện tượng
không dứt khoát, không rành mạch về nhiệm vụ được giao cho mỗi người, và
chống tình trạng hoàn toàn vô trách nhiệm do hiện đó gây ra.


- Đối với bản thân người cán bộ, V.I.Lennin yêu cầu họ phải tự ý thức được nhiệm
vụ học tập để tiếp cận với những tri thức tiên tiến làm tốt nhiệm vụ của mình: “
phải học tập ngày càng nhiều hơn, tất cả các vấn đề lý luận; phải tự giải thoát, ngày
càng nhiều hơn khỏi ảnh hưởng của những câu cổ truyền của thế giới quan cũ”
(V.I.Lenin: Toàn tập,sdd,t.6, tr.34)
-V.I.Lenin cho rằng bên cạnh việc sử dụng tốt đội ngũ cán bộ lớn tuổi, cần tăng
cường đào tạo, bồi dưỡng và mạnh dạn giao việc cho đội ngũ cán bộ trẻ. Có như
vậy họ mới trưởng thành nhanh chóng và xứng đáng là đội ngũ kế cận thực sự.
Trong tác phẩm Nhiệm vụ của đoàn thanh niên. V.I.lenin đánh giá rất cao vai trò
của thanh niên “….có thể nói rằng nhiệm vụ thật sự xây dựng xã hội cộng sản chủ
nghĩa, chính là của thanh niên..” ( V.I.Lenin : Toàn tập,sdd,t.41,tr.354)
- Bên cạnh việc điều động , luân chuyển là cần thiết trong công tác cán bộ, theo
V.I.Lenin việc triển khai thực hiện công tác này cần phải có nguyên tắc, trước hết
không làm ảnh hưởng đến tình hình công tác chung của tổ chức, ảnh hưởng đến
hiệu quả công tác của mỗi cán bộ cần điều động, luân chuyển.
- Những tư tưởng của các nhà kinh điển chủ nghỉa Mác- Lenin về cán bộ và công

tác cán bộ có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn. Những tư tưởng đó trở thành cơ
sở lý luận vững chắc cho các Đảng cộng sản xây dựng chính đảng cách mạng cảu
giai cấp công nhân.
b. Tiến hành công tác tư tưởng trên lĩnh vực tổ chức
- Sau cách mạng Tháng Mười, V.I.Lenin xác định rõ hơn mô hình tổ chức cơ sở
Đảng và tầm quan trọng của nó trong dự thảo Điều lệ của Đảng Công nhân dân chủ
xã hội Nga.
- Sau khi giành được chính quyền, Đàng trở thành Đảng cầm quyền, V.I.Lenin
càng coi trong xây dựng tổ chức cơ sở đảng làm nền tảng và hạt nhân chính trị,
lãnh đạo cách mạng, giữ vững chính quyền, xây dựng đất nước, thực hiện chuyên
chính vô sản. Trong thời kỳ Đảng tập trung lãnh đạo kinh tế, đặc biệt là thực hiện
chính sách kinh tế mới, V.I.Lenin cho rằng vai trò tổ chức cơ sở đảng càng quan
trọng. Theo Người, để giành thắng lợi trong bước chuyển biến chiến lược này, phải
không ngừng nâng cao vai trò tổ chức cơ sở đảng, các tổ chức cơ sở đảng, các tổ
chức Xo6viet phải đem hết lực lượng, đem hết chú ý để tạo ra, để phát huy tính chủ
động rộng lớn hơn ở cơ sở. Nhờ có nhiều biện pháp nâng cao vai trò tổ chức cơ sở
đảng, phát huy tính năng động, sáng tạo ở cơ sở mà nhiều nhiệm vu, mục tiêu của
chính sách kinh tế mới cua Nhà nước Xoviet được thực hiện trong thực tiễn. Đó là
chuyển biến tích cực thể hiện vai trò , tác dung trong quá trình lãnh đạo của Đảng
cầm quyền.
- Tổ chức cơ sở đảng là nơi liên hệ chặt chẽ với quần chúng, nơi giáo dục, dẫn dắt,
định hướng hoạt động của quần chúng theo lý tưởng của Đảng. Sau khi giành được
chính quyền, các tổ chức đảng phải lãnh đạo nhân dân đập tan chính quyền cũ và


giai cấp bóc lột, bắt tay ngay vào xây dựng xã hội mới, xây dựng phát triển kinh tế
đó là nhiệm vụ trọng tâm. Nhưng muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thắng lợi thỉ
Đảng phải giáo dục quần chúng có ý thức tự giác, sáng tạo : “ tất cả các cơ quan
của Đảng đều phải được bầu ra. Các tổ chức cơ sở của Đảng phải hoàn toàn được
mở rộng cửa cho tất cả các đảng viên. Chỉ lúc đó đấu tranh tư tưởng mới không bị

những xích mích về tổ chức làm nhơ bẩn” ( V.I.Lenin: Toàn tập,Sdd, t.13,tr.72-73)
-Tổ chức cơ sở đảng là hạt nhân lãnh đạo các tổ chức, các lĩnh vực của đời sống xã
hội, là nơi kiểm nghiệm đường lối, chính sách của Đảng, V.I.Lenin khẳng định lực
lượng lãnh đạo để xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa Cộng sản là Đảng macxit
chứ không thể là lực lượng nào khác. Vì vậy tất yếu tổ chức cơ sở đảng phải trực
tiếp lãnh đạo chính quyền Xoviet cơ sở, để các Xoviet đủ sức mạnh thực hiện
nhiệm vụ quản lý, xây dựng xã hội mới dưới sự lãnh đạo của Đảng. V.I.Lenin chỉ
ra vấn đề cơ bản là giải quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng với chính quyền, tở chức
cơ sở đảng và các địa phương. Khi giành được chính quyền, bước vào xây dưng
chủ nghĩa xã hội thì việc thành lập các Xoviet nhất là ở nông thôn là nhiệm vụ
hàng đầu của cá tổ chức đảng: “ các đảng cộng sản phải dốc toàn lực của mình để
nhanh chóng thành lập các Xoviet đại biểu ở nông thôn, trước hết gồm những côn
nhân làm thuê và những người nửa vô sản” ( V.I.Lenin: Toàn tập,Sdd,t.41, tr.221”)
- V.I.Lenin cũng nhiều lần nhắc nhở, phải thông qua thực tiễn ở cơ sở mà kiểm
nghiệm chủ trương, đường lối của Đảng, đóng góp những ý kiến để bổ sung, hoàn
thiện và phát triển đường lối, chính sách của Đảng, lấy kết quả thực tế làm thước
đo đánh giá sự lãnh đạo của Đảng và các tổ chức cơ sở Đảng.
- Với những tư tưởng quan điểm như vậy, V.I.Lenin đã lãnh đạo Đảng Bonsovich
Nga thành lập được một hệ thống tổ chức đảng từ trung ương đến cơ sở, các tổ
chức đảng được thành lập ngày càng nhiều, với những quy định về tổ chức cơ cấu
hết sức chặt chẽ, cho nên vị trí, vai trò của tổ chức cơ sở đảng được phát huy cao
độ, phong trào cách mạng phát triển mạnh là điều kiện thuận lợi để Đảng tiến hành
một cuộc đại cách mạng ở nước Nga.
4. Ý nghĩa công tác xây dựng Đảng về tư tưởng lý luận
- Công tác tư tưởng, lý luận có vai trò hết sức quan trọng trong việc tạo nên sức
mạnh, sự đồng thuận trong xã hội để đạt mục tiêu đã được đặt ra. Cơ sở lý luận của
tầm quan trọng này chính là ở sự độc lập tương đối, sự tác động trở lại của nhận
thức, của tư tưởng, lý luận đó với thực tiễn. Đặc biệt, xuất phát từ tầm quan trọng
của tư tưởng, lý luận cách mạng đối với sự nghiệp giải phóng giai cấp, xây dựng
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, đã rất đề cao công tác lý luận, bởi theo

ông, nếu không phát triển được công tác lý luận thì ''sẽ không tiến lên được một
bước nào cả trong công tác tuyên truyền, cổ động”.
- Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã có nhiều luận điểm nổi tiếng về
vị trí, vai trò của tư tưởng, lý luận cũng như của công tác tư tưởng, lý luận. Chẳng
hạn, C. Mác có luận điểm: Lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó


thâm nhập vào quần chúng. V.I. Lênin đưa ra luận điểm: Không có lý luận cách
mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng; chỉ đảng nào được một lý luận
tiền phong dẫn đường thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiền phong.
Những luận điểm nổi tiếng đó không chỉ những người làm công tác tư tưởng, lý
luận của Đảng Cộng sản mới biết đến, mà dường như hầu hết các đảng viên cộng
sản làm công tác lãnh đạo.
- Có thể nói, công tác tư tưởng lý luận có vai trò quan trọng, thiết yếu trong việc
tạo dựng, khởi nguồn ''đầu vào'' và ''đầu ra” của những đường lối, chủ trương của
Đảng. Mặt khác, xét ở góc độ nào đó, bản thân công tác tư tưởng, lý luận cũng là
một mảng, một nội dung trọng yếu của những đường lối, chủ trương đó, nhất là
những đường lối, chủ trương về phát triển công tác tư tưởng, lý luận. Nói cách
khác, công tác tư tưởng, lý luận là một bộ phận cấu thành trong hệ thống tổ chức
và hoạt động của Đảng; có chức năng tham mưu, đề xuất với Đảng những cơ sở,
dữ liệu khoa học về lý luận và thực tiễn để hoạch định đường lối, chủ trương, đồng
thời có nhiệm vụ tuyên truyền, phổ biến những đường lối, chủ trương đó.
- Theo chủ nghĩa Mác - Lênin, thực tiễn luôn luôn vận động, biến đổi, luôn luôn
tự vạch đường đi cho chính mình, song nếu không có tư tưởng, lý luận đúng đắn,
khoa học soi đường, chướng, thì sự vận động, biến đổi hay con đường tự vạch ra
của thực tiễn sẽ dễ bị chệch hướng, tùy tiện, ít tính kế hoạch. Với ý nghĩa đó, có
thể khẳng định, thực tiễn không chỉ là căn cứ, điểm xuất phát của tư tưởng, lý luận
và công tác tư tưởng, lý luận mà còn là phương tiện thể nghiệm của chúng, là nơi
mà chúng sẽ triển khai ý tưởng, mục đích của mình để sao cho thực tiễn ngày càng
đổi mới, hàm chứa nhiều nhân tố tích cực.

II. Xây dựng Đảng về tư tưởng lý luận theo tư tưởng Hồ Chí Minh
1. Vị trí của công tác xây dựng Đảng về tư tưởng lý luận:
- Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng của Người về xây dựng
Đảng Cộng sản Việt Nam trong sạch, vững mạnh, để Đảng xứng đáng “là đạo đức,
là văn minh” chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng. Việc vận dụng tư tưởng của
Người vào công tác xây dựng Đảng hiện nay sẽ góp phần to lớn vào công cuộc xây
dựng đất nước Việt Nam giàu mạnh.
- Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ vai trò của lý luận đối với Đảng
cách mạng: “Đảng không có lý luận thì giống như người không có trí khôn, tàu
không có bàn chỉ nam” ( Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb
Chính trị quốc gia Hà Nội,1998, tr1,tr24). Trong Đảng ai cũng phải hiểu và theo lý


luận ấy. Đảng không có lý luận cũng giống như người nhắm mắt mà đi. Theo
Người, lý luận chân chính có giá trị là tổng kết từ thực tiễn lịch sử và cách mạng.
Phải khắc phục bệnh coi thường lý luận, kinh nghiệm chủ nghĩa, đồng thời chống
biểu hiện lý luận suông, xa rời thực tế. Đồng thời khẳng định, Đảng muốn vững thì
phải lấy chủ nghĩa Mác-Lê-nin làm cốt, đó là bàn chỉ nam cho hành động của
Đảng. Vì vậy công tác xây dựng Đảng về tư tưởng lý luận là vấn đề quan trọng
trước nhất.
Do công tác xây dựng Đảng về tư tưởng là cơ sở hay là tiền đề, cho nên
có tầm quan trọng hàng đầu, phải được đặt trước công tác xây dựng Đảng về chính
trị và các mặt khác của xây dựng Đảng. Bởi lẽ, “Đảng muốn vững thì phải có chủ
nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng
mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ
nam” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 1995, t.2, tr.268)

2. Hệ tư tưởng lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam:
- Trong tác phẩm Đường Kách Mệnh xuất bản năm 1927, Hồ Chí Minh đã chỉ
rõ hệ tư tưởng, lý luận soi đường cho cách mạng Việt Nam cũng như xây dựng nên

Đảng Cộng sản Việt Nam: “Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như
người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa
làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà
không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ
nam.Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất,
chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin ”. Có thể thấy từ lúc mới bắt
đầu xây dựng nền mống ban đầu của Đảng người đã khẳng định lập trường vững
vàng của mình đó chính là xây dựng một chính Đảng dựa trên học thuyết, quan
điểm của chủ nghĩa Mac – Lênin. Việc xác định một chủ nghĩa thống nhất đó là
nền tảng vững chắc hình thành nên hệ tư tưởng, lý luận của một chính Đảng. Chỉ
có xác định tư tưởng đúng đắn, chỉ lối dẫn đường thì mới soi sáng được con đường
cách mạng. Người xác định chủ nghĩa Lênin là chủ nghĩa mà ta cần phải vận dụng,
noi theo.


- Khi Đảng đã được thành lập, Hồ Chí Minh không ngừng chăm lo xây dựng
Đảng ta thành một Đảng Mác – Lênin vững mạnh. Người khẳng định, không chỉ
xây dựng hệ tư tưởng của Đảng ta theo quan diểm chủ nghĩa Mac – Lênin là được,
mà Đảng còn cần phải vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin một cách sáng tạo cho phù
hợp với tình hình đất nước thì mới có thể đưa cách mạng giải phóng dân tộc đến
thắng lợi và cách mạng xã hội chủ nghĩa đến thành công.
- Trong báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương ( khóa VI) về các văn kiện
trình Đại hội VII, một lần nữa Đảng ta khẳng định vai trò của chủ nghĩa Mac –
Lênin: “Đảng lấy chủ nghĩa Mac – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tâp trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức
cơ bản” (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2007, t.51,tr.29). Đảng ta một lần nữa khẳng định tầm quan trọng của
chủ nghĩa Mac - Lênin đối với Đảng Cộng sản Việt Nam - đó chính là hệ tư tưởng
chủ đạo trong việc xây dựng Đảng. Đảng ta vẫn kiên trì chủ nghĩa Mác – Lênin, đó
là nguyên tắc không bao giờ thay đổi và là lập trường kiên định số một của Đảng.

Thêm vào đo, Đảng đã nêu cao tư tưởng Hồ Chí Minh, khẳng định cùng với chủ
nghĩa Mac – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng là nhân tố quan trọng góp phần
hình thành nên hệ tư tưởng, lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam. Khẳng định:
“Tư tưởng Hồ Chí Minh là phù hợp với tình hình thực tế cách mạng nước ta, phù
hợp với tình cảm và nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân ta” (Đảng Cộng sản
Việt Nam, Văn kiện Đảng: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007,
t.51,tr.30).
- Đảng phải: “Phát triển công tác lý luận của Đảng bằng cách tổng kết thực
tiễn, tổng kết những cái mới đang diễn ra hằng ngày hằng giờ, nảy sinh trong đời
sống đất nước và cả thế giới” (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng: Toàn
tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, t.51,tr.31). Làm được như vậy thì trí
tuệ của Đảng sẽ ngày càng giàu mạnh, hơn nữa cần phải nẵm vững và vận dụng
một cách sáng tạo những luận điểm cơ bản và phương pháp lý luận của chủ nghĩa
Mac – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Việc vận tổng kết thục tiễn là hết sức cần
thiết vì chỉ như vậy Đảng mới nhận thấy được những mặt hạn chế, thiếu sót trong
công tác của mình. Từ đó, phát triển công tác lý luận, xây dựng những chủ trương,
chính sách phù hợp hơn đưa đất nước phát triển.


3. Nội dung của công tác xây dựng Đảng về tư tưởng lý luận
a. Công tác giáo dục lý luận chính trị, đạo đức cách mạng
Người nhận thấy "Mọi công việc Đảng đều do đảng viên làm. Mọi nghị quyết
đều do đảng viên chấp hành... Mọi khẩu hiệu, mọi kế hoạch của Đảng đều do đảng
viên cố gắng thực hiện" và " Đảng mạnh là do các chi bộ mạnh. Chi bộ mạnh là do
các đảng viên hăng hái và gương mẫu". Vì vậy, phải tổ chức giáo dục lý luận cho
cán bộ, đảng viên để họ hoàn thành tốt nhiệm vụ; coi việc huấn luyện cán bộ là
công việc gốc của Đảng, việc học tập lý luận chính trị là trách nhiệm và nghĩa vụ
của cán bộ, đảng viên. Người yêu cầu: "Tất cả các đảng viên phải cố gắng học tập,
coi việc học tập lý luận và chính trị là một nhiệm vụ quan trọng của mình"; cán bộ,
đảng viên có học lý luận Mác - Lê-nin mới củng cố được đạo đức cách mạng, giữ

vững lập trường, nâng cao sự hiểu biết và trình độ chính trị mới làm được tốt các
nhiệm vụ mà Đảng giao phó.

* Công tác giáo dục lý luận chính trị

- Hồ Chí Minh nhấn mạnh việc huấn luyện, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và coi
đây là công việc gốc của Đảng và chủ trương cần đẩy mạnh việc này. Đây là
phương thức cơ bản để có đội ngũ cán bộ chính quy cho trước mắt và lâu dài.
Người chỉ rõ mục đích của việc học tập lý luận chính trị là để sửa chữa tư tưởng,
để tu dưỡng đạo đức cách mạng, để tin tưởng vào đoàn thể, tin tưởng vào tương lai
dân tộc và để thực hành trong công tác hằng ngày.
- Hồ Chí Minh xác định cách mạng cũng là một nghề, làm nghề gì cũng phải
học, vậy làm cách mạng thì cần phải học nhiều hơn. Nếu không giáo dục cho đảng
viên làm cách mạng mà yêu cầu họ làm cách mạng thì không thể hoàn thành được
nhiệm vụ. Vì vậy, xây dựng đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội, mỗi cán bộ đảng viên
không chỉ bô lô, bô la mà phải ra sức học tập, học ở nhà ở trường, học ở thực tiễn,
học ở quần chúng nhân dân. Chính vì vậy, Người yêu cầu: "Tất cả các đảng viên
phải cố gắng học tập, coi việc học tập lý luận và chính trị là một nhiệm vụ quan


trọng của mình", đó chính là -những định hướng mà Người nêu ra cho mỗi cán bộ
đảng viên.
- Giáo dục lý luận chính trị là giải thích, tuyên truyền những vấn đề thuộc lý
luận chính trị, bằng việc đi sâu giải thích các sự vật hiện tượng diễn ra trong tự
nhiên, xã hội, trên cơ sở đó xây dựng cơ sở khoa học cho nhận thức và niềm tin
của con người để đi đến hành động đúng đắn. Giáo dục lý luận chính trị đem đến
cho mọi người những hiểu biết về quy luật phát triển của xã hội, về thế giới quan,
nhân sinh quan, đường lối chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, để từ đó
vạch ra cho mình tư tưởng, lối sống, hoài bão, ý chí, nguyện vọng, những nguyên
tắc chuẩn mực đạo đức để gạt bỏ cái cũ, tiếp thu có chọn lọc cái mới... Bên cạnh đó

giáo dục lý luận chính trị là nghiên cứu tổng kết thực tiễn, xây dựng thành hệ thống
quan điểm lý luận chính trị, hình thành và phát triển tư tưởng xã hội, phát triển
những mâu thuẫn xã hội và đưa ra những dự báo để phát triển cho tương lai.
- Công tác giáo dục lý luận chính trị là hoạt động có chủ đích của Đảng Cộng
sản nhằm xác lập thế giới quan khoa học trên cơ sở hệ tư tưởng, lập trường của giai
cấp công nhân, đó là chủ nghĩa Mác - Lênin. Theo Hồ Chí Minh giáo dục lý luận
chính trị là giáo dục chính trị, truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin, nâng cao đạo đức
cách mạng cho các bộ đảng viên và quần chúng nhân dân, nhằm thống nhất về tư
tưởng, ý chí, phẩm chất cách mạng và năng lực hoạt động thực tiễn của họ, hướng
dẫn họ vận dụng những hiểu biết ấy vào cuộc sống. Chính vì vậy nội dung của
công tác giáo dục lý luận chính trị là rất rộng, bao gồm việc giáo dục những
nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối quan điểm của Đảng về các lĩnh
vực của đời sống xã hội, lịch sử Đảng, xây dựng Đảng, những kinh nghiệm thành
công cũng như thất bại của các nước. Công tác giáo dục lý luận chính trị có nhiều
hình thức như các lớp học tập lý luận, những đợt sinh hoạt chính trị, Nghị quyết
của Đảng, những báo cáo chuyên đề lý luận chính trị,... đặc trưng của công tác giáo
dục lý luận chính trị là phương pháp giảng dạy và học tập theo chương trình nhất
định nhằm làm cho nguời học nắm được một cách cơ bản lý luận Mác - Lênin,
đường lối quan điểm, chủ trương, chính sách, Nghị quyết của Đảng và của Nhà
nước.
Từ nội dung của giáo dục lý luận chính trị Người đưa ra mục đích và nhiệm vụ
sau:
“a) Học để sửa chữa tư tưởng: hăng hái theo cách mạng điều đó rất hay. Nhưng
tư tưởng chưa thật đúng là tư tưởng cách mạng, vì thế phải học tập để sửa chữa cho


đúng. Tư tưởng đúng thì hành động cho khỏi sai lạc và mới làm tròn được nhiệm
vụ cách mạng.
b) Học để tu dưỡng đạo đức cách mạng thì mới hy sinh tận tụy với cách mạng,
mới lãnh đạo được quần chúng đưa cách mạng đến thắng lợi hoàn toàn.

c) Học để tin tưởng: tin tưởng vào đoàn thể, tin tưởng vào tương lai dân tộc. Tin
tưởng vào tương lai cách mạng. Có tin tưởng thì lúc ra thực hành mới vững chắc,
hăng hái, lúc gặp khó khăn mới kiên quyết hy sinh.
d) Học để hành: Học với hành phải đi đôi với nhau. Học mà không hành thì
hành không trôi chảy.”
(Trích Hồ Chí Minh toàn tập, NXB GDCT, HN, 2000, t6, tr 50)

* Rèn luyện đạo đức cách mạng

- Trong sáu nguyên tắc xây dựng Đảng của Người, điều năm là xây dựng, rèn
luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt
quan tâm đến việc xây dựng và rèn luyện đạo đức cách mạng cho con người Việt
Nam trong thời đại mới, nhất là người đảng viên và đội ngũ cán bộ. Người ví đạo
đức như nguồn của sông, gốc rễ của cây; sông không có nguồn thì sông cạn, cây
không có rễ thì cây héo; người cách mạng không có đạo đức thì không thể lãnh đạo
được nhân dân.
- Người yêu cầu mỗi đảng viên và cán bộ phải thấm nhuần đạo đức cách
mạng, phải thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; phải là người “lo trước
cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ”, đảng viên phải là người luôn xung
phong đi đầu trong mọi khó khăn, gian khổ. Người nêu cao các phẩm chất đáng
quý như: trung với nước, hiếu với dân, yêu thương con người, tinh thần quốc tế
trong sáng, nhân, nghĩa, trí, dũng,…
- Đối với một đảng cầm quyền, nhất là trong bối cảnh có nhiều nguy cơ sa sút
về đạo đức như hiện nay thì việc xây dựng và rèn luyện đạo đức cho cán bộ, đảng
viên là nhiệm vụ vừa cấp bách vừa lâu dài, bằng nhiều con đường và cách thức đa
dạng như: nêu gương đạo đức, xây dựng đạo đức mới đi đôi với chống những thói
hư tật xấu, chống chủ nghĩa cá nhân, phải kiên trì, bền bỉ, có kế hoạch, chương
trình hành động cụ thể, có đánh giá, sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm. Từ đó hướng



tới mỗi người tự giác trong suy nghĩ, trong hành động của mình sao cho chân
chính, cho phù hợp với lẽ phải và đạo đức, tự có ý thức ăn năn, sửa chữa khi có suy
nghĩ và hành động chưa đúng, chưa tốt.

b. Công tác phê bình và tự phê bình
- Phê bình và tự phê bình là nguyên tắc cơ bản trong sinh hoạt đảng, đối tượng
tự phê bình và phê bình bao gồm từng đảng viên và tổ chức Đảng các cấp. Theo
Hồ Chí Minh, con người không phải là thánh thiền, đảng viên cũng vậy, ai cũng có
cái hay, cái dở, cái tốt, cái xấu, còn làm việc là còn có khuyết điểm, thiếu sót; cho
nên tự phê bình và phê bình nhằm làm cho xái xấu, cái dở mất dần đi, còn cái hay,
cái tốt nảy nở, phát triển và là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết
thống nhất trong Đảng. Tự phê bình và phê bình cần được tiến hành một cách
thành khẩn, tự giác, thương xuyên liên tục. Đối với Đảng ta, Người cho rằng, Đảng
bao gồm nhiều người trong xã hội tụ họp mà thành, trong Đảng không phải người
người đều hay… cho nên Đảng phải thực hiện phê bình và tự phê bình. Người cho
rằng: “một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một đảng hỏng. Một Đảng
có gan thừa nhận khuyết điểm của mình rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết
điểm đó..như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính.”
(Trích PGS.TS Huỳnh Thị Gấm, Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào nhận thức
lý luận và hoạt động thực tiễn, NXB CTQG, 2015).
- Người cũng lưu ý, phê bình là phê bình việc chứ không phải phê bình người;
tránh tình trạng lợi dụng tự phê bình và phê bình để công kích, bôi nhọ, nói xấu
nhau; khắc phục bệnh qua loa, hình thức, e ngại trong tự phê bình và phê bình…

4. Ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác xây dựng Đảng về tư tưởng lý
luận
- Đảng ta đã khẳng định rõ ràng, một đường lối chính trị đúng là phải dựa vào
hai cơ sở cơ bản: tư tưởng (chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh) và thực
tiễn (Việt Nam và thế giới). Nếu xa rời một trong hai cơ sở trên thì nhất định sẽ



dẫn đến sai lầm về đường lối: hoặc giáo điều nếu xa rời thực tiễn; hoặc chệch
hướng nếu xa rời chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Công tác xây dựng Đảng về mặt tư tưởng có ý nghĩa, vai trò to lớn, là một
bộ phận cấu thành đặc biệt trong toàn bộ hoạt động của Đảng, góp phần quan trọng
trong thắng lợi của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, đi lên
chủ nghĩa xã hội.
- Những quan điểm của Hồ Chí Minh nói chung và về tư tưởng lý luận nói
riêng như là những lời dặn dò cũng là yêu cầu, nhiệm vụ Người đặt ra cho toàn
Đảng, cho toàn xã hội. Để xây dựng Đảng vững mạnh về cả ba mặt: chính trị, tư
tưởng, tổ chức, trước hết phải nắm vững hệ tư tưởng lý luận một cách đúng đắn, từ
đó vận dụng phù hợp vào từng hoàn cảnh. Những quan điểm của Người đã được
Đảng ta vận dụng đúng và thực sự đạt hiệu quả.

III. Liên hệ thực tiễn về công tác xây dựng Đảng và tư tưởng lí luận hiện nay
1. Tầm quan trọng của công tác xây dựng Đảng về tư tưởng lí luận hiện
nay
- Công tác xây dựng Đảng về tư tưởng lí luận luôn giữ vị trí đặc biệt quan
trọng, góp phần vào việc tạo nên sự thống nhất cao trong Đảng và toàn thể nhân
dân phấn đấu cho mục tiêu cao cả của cách mạng.
- Phải đến khi bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng ta mới thực sự quan tâm sâu
sắc đến việc xây dựng Đảng về tư tưởng lí luận . Xây dựng Đảng về tư tưởng
không chỉ có tác động tích cực đối với việc xây dựng, phát triển đường lối, nhiệm
vụ chính trị, mà có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ các mặt xây dựng Đảng.
- Từ khi thực hiện đường lối đổi mới, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã
đạt được nhiều kết quả tích cực; năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng
không ngừng được nâng cao; phương thức lãnh đạo của Đảng từng bước được đổi
mới; vai trò lãnh đạo của Đảng được giữ vững, niềm tin của nhân dân với Đảng
được củng cố; đội ngũ cán bộ, lãnh đạo, quản lý các cấp đã có bước trưởng thành
và tiến bộ về nhiều mặt



- Bên cạnh kết quả đạt được, công tác xây dựng Đảng vẫn còn không ít hạn
chế, yếu kém, thậm chí có những yếu kém khuyết điểm kéo dài qua nhiều nhiệm
kỳ chậm được khắc phục, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng; nếu
không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn
vong của chế độ. Nổi lên một số vấn đề cấp bách sau đây:

Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ
vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống
 Đội ngũ cán bộ cấp Trung ương, cấp chiến lược rất quan trọng, nhưng chưa
được xây dựng một cách cơ bản
 Nguyên tắc "tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách" trên thực tế ở nhiều nơi rơi
vào hình thức, do không xác định rõ cơ chế trách nhiệm, mối quan hệ giữa tập thể
và cá nhân
 Các nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình ở nhiều nơi vừa
bị buông lỏng trong thực hiện
 Cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện, giảm sút ý chí chiến đấu, quên
đi trách nhiệm, bổn phận trước Đảng, trước nhân dân. Việc tổ chức thực hiện các
chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, các nghị quyết, chỉ thị, quy định về
xây dựng, chỉnh đốn Đảng ở một số nơi chưa đến nơi đến chốn, kỷ cương, kỷ luật
không nghiêm, nói không đi đôi với làm, hoặc làm chiếu lệ.
 Công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống nhiều
khi còn hình thức, chưa đủ sức động viên và thường xuyên nâng cao ý chí cách
mạng của cán bộ, đảng viên


Để tạo chuyển biến mạnh mẽ về công tác xây dựng Đảng trong thời gian tới,
cần tiếp tục thực hiện tốt 8 nhiệm vụ trong công tác xây dựng Đảng mà Đại hội đại

biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã đề ra, coi đó là những nhiệm vụ vừa cơ bản,
vừa lâu dài và phải thực hiện thường xuyên, có hiệu quả.


2. Thực hiện công tác xây dựng Đảng về tư tưởng lí luận hiện nay.
a. Một số vấn đề cơ bản của xây dựng Đảng về tư tưởng lí luận: Trải qua
hơn 20 năm đổi mới, Đảng ta đã bước đầu hình thành được những nét cơ bản trong
hệ thống quan điển lí luận về công cuộc đổi mới và đi lên chủ nghĩa xã hội, làm cơ


sở khoa học cho đường lối của Đảng, góp phần bổ sung và phát triển quan điển của
chủ nghĩa Mac-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh:
- Về mục tiêu, bản chất của chủ nghĩa xã hội
- Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
- Phát triển kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội
- Phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho văn hóa
thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội
- Giữ vững môi trường hòa bình hữu nghị vì sự phát triển của đất nước
- Xây dựng chủ nghĩa xã hội đi đôi với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa
- Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm thực hiện quyền làm chủ
của nhân dân
- Nâng cao vai trò lãnh đạo và năng lực cầm quyền của Đảng
b. Thực hiện công tác xây dựng Đảng về tư tưởng lí luận hiện nay
- Vấn đề này luôn được Đảng ta quan tâm trong các lần họp đại hội nhưng nổi
bật nhất và có ý nghĩa nhất là Nghị quyết Trung ương 6 lần 2 của khóa VIII, đến
Đại hội IX và các nghị quyết gấn đây, Đảng vẫn tiếp tục nhấn mạnh đến công tác
này. Tinh thần cơ bản của các văn kiện, nghị quyết đều phản ánh rõ nét sự đổi mới
trong tư duy lý luận của Đảng:
 Khẳng định chủ nghĩa Mac-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư
tưởng của Đảng, là kim chỉ nam hành động của cách mạng Việt Nam, của sự

nghiệp đổi mới hiện nay
 Nâng cao bản chất giai cấp công nhân của Đảng, coi đây là điều kiện quan
trọng để Đảng ta thực sự là một Đảng cách mạng chân chính, trung thành với mục
tiêu, lý tưởng của chủ nghĩa xã hội
 Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản của Đảng
 Xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức, lối sống
đòi hỏi phải nâng cao trình độ năng lực của các cơ quan lãnh đạo của Đảng và phát
huy trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân, phải đẩy mạnh các cuộc vận động giáo dục và
thực hành đạo đức cách mạng
 Để xây dựng Đảng thực sự trong sạch vững mạnh phải thực sự dựa vào dân
để xây dựng Đảng, dựa vào dân mà xây dựng nhà nước và hệ thống chính trị đặc
biệt là từ cơ sở
( Trích NQTW 6 lần 2 khóa VIII, NQTW 5 khóa IX)


- Thế nhưng trong Đảng và trong xã hội hiện nay đã xuất hiện những biểu hiện
suy thoái về tư tưởng chính trị. Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI) năm 2011 nhận
định: “ Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên
giữ vị trí lãnh đạo, quản lí, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lí tưởng,
sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỉ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn
cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc,...”( Văn kiện Hội
nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Nxb Chính trị quốc gia Hà
Nội,2012, tr22).
- Sự suy thoái về tư tưởng trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên hiện
nay có các biểu hiện sau:
+ Thứ nhất, không tích cực học tập, nghiên cứu lí luận chính trị, thỏa mãn với
những nhận thức giản đơn, chung chung về chủ nghĩa Mác- Lenin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.
+ Thứ hai, dao động về lí tưởng, mục tiêu và con đường phát triển đi lên chủ

nghĩa xã hội của dân tộc.
+ Thứ ba, thiếu thống nhất với các quan điểm, chủ trương của Đảng, từ đó nói
và làm không theo đúng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, Pháp luật của
nhà nước.
+ Thứ tư, không chấp hành nghiêm túc các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt Đảng.
+ Thứ năm, lơ là không kiên quyết phê phán, đấu tranh với những quan điển sai
trái, những luận điệu xuyên tạc lịch sử.
+ Thứ sáu, phát tán tài liệu, truyền bá các quan điểm trái với Cương lĩnh, Điều
lệ, Nghị quyết của Đảng, vi phạm pháp luật của Nhà nước.
* Nguyên nhân của sự suy thoái: Đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị, nhiều cuộc
vận động nhằm ngăn ngừa, khắc phục đẩy lùi sự suy thoái đó. Nhưng đến nay tình
trạng đó vẫn chưa được đẩy lùi mà càng trở nên nghiêm trọng hơn.
Khách quan:


- Tác động từ các mặt tiêu cực của quá trình toàn cầu hóa, sự lợi dụng các
phương tiện truyề thông hiện đại của cac thế lực thù địch xuyên tạc, bóp méo tình
hình thực tế nước ta, cổ động co lối sống hưởng lạc, ích kỉ, cá nhân.
- Tác động tiêu cực từ cơ chế kinh tế thị trường.
Chủ quan : Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ tư – Một số vấn đề cấp
bách về xây dựng Đảng hiện nay, nêu rõ:
- “Cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện, giảm sút ý chí chiến đấu, quên
đi trách nhiệm, bổn phận trước Đảng, trước nhân dân.
- Các nguyên tắc tắc tập trung dân chủ, phê bình và tự phê bình ở nhiều nơi vừa
bị buông lỏng thực hiện, vừa chưa được quy định cụ thể làm cơ sở cho công tác
kiểm tra, giám sát.
- Công tác tuyên truyền giáo dục tư tưởng, đạo đức lối sống nhiều khi còn hình
thức chưa đủ sức động viên và thường xuyên nâng cao ý chí cách mạng của cán bộ,
đảng viên...” (Văn kiện Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương khóa XI,
Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội,2012, tr 23-24).

- “Công tác nghiên cứu lí luận còn bất cập, lạc hậu, chưa giải đáp được nhiều
vấn đề lí luận – thực tiễn” (Phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội
nghị cán bộquán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) của
Đảng).
* Giải pháp: Chính vì vậy nghị quyết số 12-NQ/TW - Nghị quyết Hội nghị lần
thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) nêu lên một số vấn đề xây dựng
Đảng về tư tưởng lí luận như sau:
- Một là, tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh theo tinh thần Chỉ thị 03-CT/TW, ngày 14-5-2011 của Bộ Chính trị; tập
trung lãnh đạo, chỉ đạo việc làm theo gương Bác một cách thiết thực, hiệu quả.
- Hai là, đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức,
lối sống cho cán bộ, đảng viên gắn với việc kiểm điểm, đánh giá và biện pháp giải
quyết vấn đề cấp bách trong công tác xây dựng Đảng của các cấp theo tinh thần
Nghị quyết này, tạo niềm tin trong Đảng và nhân dân.
- Ba là, đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn. Đưa vào
nền nếp việc bồi dưỡng lý luận, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên, nhất
là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, đặc biệt là cấp trung ương.


- Bốn là, chấn chỉnh hoạt động thông tin, tuyên truyền; quản lý có hiệu quả
hoạt động báo chí theo đúng định hướng của Đảng và Nhà nước. Chú trọng làm tốt
hơn việc nêu gương những người tốt, việc tốt; lấy nhân tố tích cực để đẩy lùi tiêu
cực; đồng thời phê phán, đấu tranh với những biểu hiện sa sút về tư tưởng chính
trị, vô trách nhiệm, vụ lợi cá nhân, vi phạm những chuẩn mực đạo đức, lối sống...
Tập trung chấn chỉnh, quản lý thông tin trên mạng Internet, các mạng xã hội và
blog cá nhân.
- Năm là, cán bộ chủ chốt và cán bộ dân cử các cấp phải thường xuyên tiếp
xúc, đối thoại trực tiếp với nhân dân, chủ động nắm bắt tâm tư, đánh giá, dự báo
diễn biến tư tưởng của cán bộ, đảng viên và có biện pháp giải quyết kịp thời. Kiên
quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” của

các thế lực thù địch. Chủ động phòng ngừa, đấu tranh, phê phán những biểu hiện
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng. Giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất
trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội.
IV.
Kết luận
- Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta rất quan tâm đến việc
không ngừng nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng lí luận. Công tác
tư tưởng lí luận là một bộ phận cấu thành rất quan trọng trong toàn bộ hoạt động
cách mạng của Đảng. Công tác này góp phần xây dựng Đảng thành đội tiên phong,
bộ tham mưu chiến đấu của giai câp công nhân và nhân dân lao động. Nó có nhiệm
vụ giáo dục chủ nghĩa Mác – Lenin, chủ trương, đường lối của Đảng cho cán bộ,
Đảng viên và quần chúng, nhằm nâng cao tính tự giác, chủ động, sáng tạo của họ
trong việc thực hiện những nhiệm vụ chính trị cụ thể do Đảng đề ra. Đồng thời, nó
cũng góp phần vòa việc hình thành chủ trương, đường lối của Đảng – một nhiệm
vụ không thể thiếu được của công tác tư tưởng.
- Từ khi thực hiện đường lối đổi mới, Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng,
Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư các khóa đã ban hành nhiều
chủ trương, nghị quyết về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Trên cơ sở đó, công tác xây
dựng, chỉnh đốn Đảng đã đạt được nhiều kết quả tích cực, vai trò lãnh đạo của
Đảng được giữ vững, niềm tin của nhân dân với Đảng được củng cố.
- Nhưng đứng trước yêu cầu mới ngày càng cao của công cuộc đổi mới, trước
sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, phản động, với những âm mưu,
thủ đoạn thâm độc, tinh vi, hòng xóa bỏ Chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ
Chí Minh, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta và xóa bỏ sự lãnh đạo của
Đảng. Đảng phải luôn giữ vững bản chất cách mạng của mình, thật vững vàng về


chính trị, tư tưởng, thống nhất cao về ý chí và hành động, không trong sạch về đạo
đức, lối sống, không chặt chẽ về tổ chức và phải luôn tăng cường giữ vững lập
trường lý luận, tư tưởng.

- Đảng ta đã quán triệt những tư tưởng lí luận vĩ đại của chủ nghĩa MácLenin và tư tưởng Hồ Chí Minh để xây dựng nên một hệ tư tưởng lí luận đẩy mạnh
sự nghiệp đổi mới, quyết tâm phấn đấu xây dựng nước ta thành một nước xã hội
chủ nghĩa phồn vinh, giàu mạnh.

V. Tài liệu tham khảo:
1. Huỳnh Thị Gấm, Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào nhận thức lý luận và
hoạt động thực tiễn, NXB CTQG, 2015.
2. Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, HN, 1996, tập 9.
3. Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, HN, 2000.
4. V.I.Lênin. Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1977.
5. C.Mác – Ăngghen. Toàn tập, tập 4, nhà xuất bản Chính trị, Matxcova 1978.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội,
2007.
7. Đặng Xuân Kỳ, Một số vấn đề về xây dựng Đảng hiện nay, Nxb Chính trị
quốc gia Hà Nội, 2005.
8. Phạm Tất Tháng, Một số vấn đề lí luận và thực tiễn của công tác tư tưởng, lí
luận, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 2010.
9. Đào Duy Tùng, Một số vấn đề về công tác tư tưởng,(xuất bản lần thứ hai),
Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 1999.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006
11. Đảng Cộng sản Việt Nam,Văn kiện Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành
Trung ương khóa XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật Hà Nội,2012.
12. Nguyễn Trọng Phúc, Đổi mới ở Việt Nam thực tiễn và nhận thức lí luận,
Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 2007.


13. Nguyễn Phú Trọng, Xây dựng chỉnh đốn Đảng một số vấ đề lí luận và thực
tiễn, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 2005.
14. Nguyễn Duy Quý, Đổi mới tư duy và công cuộc đổi mới ở Việt Nam, Nxb

khoa học xã hội Hà Nội, 2008.



×